You are on page 1of 215

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ HỒNG DUNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO


TRANH THỦ THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HÒA BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945-1954)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ HỒNG DUNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO


TRANH THỦ THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HÒA BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945-1954)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Mã số: 62.22.03.15

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà


2. PGS, TS Hoàng Thị Kim Thanh

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả công trình nghiên cứu
của riêng tôi, không trùng lắp, sao chép của bất cứ ai. Các số
liệu, kết luận trong luận án đảm bảo tính khách quan, trung
thực, có nguồn rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Vũ Thị Hồng Dung


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ............................................................................................7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ..............................................7
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã giới thiệu và
những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết ............................................................31
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TRANH THỦ THỰC HIỆN KHẢ NĂNG
HOÀ BÌNH TỪ THÁNG 9 - 1945 ĐẾN HẾT NĂM 1949 .................34
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo tranh thủ thực hiện khả năng hoà
bình của Đảng .....................................................................................................34
2.2. Chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình của Đảng từ tháng 9
- 1945 đến hết năm 1949 ....................................................................................42
2.3. Đảng chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình từ tháng 9 - 1945
đến hết năm 1949 ................................................................................................59
Chương 3: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TRANH THỦ
THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH TỪ NĂM 1950
ĐẾN NĂM 1954 .....................................................................................80
3.1. Chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình của Đảng từ năm
1950 đến năm 1954.............................................................................................80
3.2. Đảng chỉ đạo tranh thủ tạo khả năng hoà bình từ năm 1950 đến năm 1954 ......94
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ................................................... 119
4.1. Nhận xét .......................................................................................................... 119
4.2. Một số kinh nghiệm ........................................................................................ 145
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ ............................................................................................................... 163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 166
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 179
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Lẽ tự nhiên, con người sinh ra luôn mong muốn được sống hoà bình, tự do,
tránh xa chiến tranh. Bởi dù bất kể lý do gì, chiến tranh luôn phản ánh mối quan hệ,
mâu thuẫn không thể điều hoà được giữa các bên, là giải pháp cuối cùng, hình thức
cao nhất, tàn khốc nhất để giải quyết mâu thuẫn và hy vọng xác lập nên trật tự quan
hệ mới mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Trong mỗi cuộc chiến tranh, đều tiềm ẩn
các khả năng kết thúc cuộc chiến và việc kết thúc nhanh hay chậm, bằng giải pháp
chính trị hay quân sự, tùy thuộc vào ý chí, khả năng đánh giá, nhận định tình hình của
các bên tham chiến. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
của nhân dân Việt Nam là một ví dụ.
Xuyên suốt cuộc kháng chiến là nỗ lực của Việt Nam tranh thủ thực hiện các
khả năng hòa bình nhằm đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và nhanh chóng kết thúc chiến
tranh. Chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình của Đảng, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược chính là cố
gắng tận dụng, thực hiện một cách hiệu quả các khả năng có lợi đối với cuộc kháng
chiến, được xét trên hai bình diện: một là tranh thủ thực hiện các khả năng do khách
quan đem lại; hai là chủ động làm xuất hiện các khả năng để nhanh chóng đi đến kết
thúc chiến tranh. Bởi khả năng là cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện
nhất định, nó khác với cơ hội là cái nhìn thấy rõ ràng, là dịp thuận lợi xảy ra đúng lúc
để có thể thực hiện mục đích thành công. Còn tranh thủ nghĩa là cố gắng tận dụng
một cách tích cực cái bình thường có thể không sử dụng đến và thực hiện chính là
làm cho thành sự thật bằng việc làm, hành động cụ thể. Vì thế, nhận định được các
khả năng sẽ xảy ra để có chủ trương, sách lược cụ thể, phù hợp là một trong những
yếu tố có vai trò quyết định đưa đến thắng lợi cuối cùng. Có nhiều nguyên nhân làm
nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong đó chủ
trương tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình là một trong những nguyên nhân có
vai trò quyết định quan trọng.
Dù dưới hình thức đấu tranh nào thì tìm kiếm hòa bình luôn là đích hướng
tới của nhân loại, cũng là mục đích của mỗi quốc gia - dân tộc trên con đường đấu
2

tranh chống lại chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và hòa bình cho nhân dân.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Trên thế giới, hiếm có
quốc gia nào trong mấy nghìn năm lịch sử lại phải thường xuyên, liên tục chống lại
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, đô hộ của ngoại bang có sức mạnh hơn gấp nhiều
lần như Việt Nam. Bởi thế, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu rõ sự khốc liệt, tàn
phá của chiến tranh và giá trị của hòa bình, độc lập. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: nước được độc lập mà dân không được tự do, đồng bào không có cơm ăn,
áo mặc thì độc lập không có ý nghĩa gì. Thế nên, xét đến cùng, mục tiêu của độc lập
chính là hòa bình. Hòa bình vừa là mục tiêu cần đạt tới, vừa là chủ trương, sách
lược mềm dẻo, linh hoạt để giành độc lập dân tộc. Độc lập là tiền đề, điều kiện tiên
quyết để có hòa bình. Hòa bình, độc lập trở thành mục tiêu hướng tới, khát vọng
cháy bỏng của nhân dân Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945-1954), Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chủ
trương tranh thủ mọi khả năng hòa bình dù là nhỏ nhất, cũng như tìm mọi cách, làm
hết sức mình, để làm xuất hiện khả năng hòa bình có thể tranh thủ nhằm đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, đem lại độc lập, hòa bình và thực tế điều đó đã được thực hiện trong
suốt cuộc kháng chiến. Đây là một hoạt động quan trọng của Đảng, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, diễn ra trong bối cảnh thực dân Pháp quyết tâm dùng mọi thủ đoạn áp đặt
trở lại sự thống trị lên Việt Nam. Xuyên suốt cuộc kháng chiến, Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh không ngừng nhận thức, phát hiện, lãnh đạo thực hiện các khả năng hòa
bình với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, đề cao chủ quyền dân tộc, nhân
nhượng có nguyên tắc và đã đạt được những kết quả cụ thể, có ý nghĩa to lớn.
Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954) là một nội dung quan trọng trong sự lãnh đạo của
Đảng, nhưng còn ít được nghiên cứu và chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập
một cách hệ thống, chuyên sâu. Nghiên cứu vấn đề Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện
các khả năng hòa bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp sẽ góp phần làm rõ sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tập trung vào đấu tranh
quân sự kết hợp với đấu tranh ngoại giao, đó là tranh thủ những khả năng hòa bình do
3

thực tế khách quan đem lại và cả quá trình chủ động tìm cách thúc đẩy, tác động để
tạo ra các khả năng hòa bình có thể tranh thủ nhằm đưa thắng lợi đến sớm nhất; bối
cảnh quan hệ quốc tế liên quan đến vấn đề đó; rút ra những nhận xét, kinh nghiệm về
sự lãnh đạo đó của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; làm cơ sở tham khảo,
gợi mở cho hoạt động đối ngoại hiện nay; góp phần đấu tranh chống lại các quan
điểm xuyên tạc, bóp méo lịch sử, cho rằng Việt Nam hiếu chiến, chỉ muốn chiến
tranh; khẳng định rõ chủ trương, mong muốn, khát vọng hòa bình của Việt Nam.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Đảng lãnh đạo
tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình ng h ng h n h ng hự n
h - )”, làm đề tài Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành ịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mụ đí h ngh ên ứu
àm rõ quá trình Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), từ đó, rút ra
những kinh nghiệm để vận dụng vào hiện tại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Hệ thống hóa, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về tranh thủ thực
hiện khả năng hòa bình trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954).
- Nhận xét và đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh
đạo tranh thủ thực hiện khả năng hòa bình trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945 -1954).
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3. . Đ ượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu chủ trương, quá trình Đảng chỉ đạo tranh thủ thực hiện
các khả năng hòa bình trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 - 1954).
4

3.2. Phạm vi nghiên cứu


- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ các nội dung chủ yếu về
chủ trương, quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà
bình ở một số thời điểm 1945-1946, 1950, 1954 trên hai phương diện: tranh thủ
thực hiện khả năng hòa bình do điều kiện khách quan thuận lợi đem đến và tìm cách
tác động, thúc đẩy nhằm tạo ra các khả năng hòa bình để tranh thủ; những nhận xét,
kinh nghiệm về sự lãnh đạo đó của Đảng.
- Về không gian: Chủ yếu ở Việt Nam và một số nước có liên quan
- ề th i gian: từ khi thực dân Pháp quay trở lại nổ súng đánh chiếm Nam
Bộ ngày 23-9-1945 đến khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào,
Campuchia được ký kết tại Hội nghị Giơnevơ ngày 21-7-1954, kết thúc cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
4. Cơ ận ng ồn tư iệ và hương h nghi n cứ
. . l l n
uận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế, về chiến tranh cách mạng, về độc lập dân
tộc và hòa bình.
. . hư ng h ngh ên ứ
Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp lịch sử và lôgíc.
Phương pháp lịch sử nhằm trình bày quá trình Đảng, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, tập trung vào các mốc lịch sử chủ yếu: 1945-1946;
1950 và 1954.
Phương pháp lôgíc: Từ thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện
các khả năng hòa bình, khái quát lại những kết quả chủ yếu, rút ra một số nhận xét
và kinh nghiệm về quá trình lãnh đạo đó của Đảng.
Ngoài việc sử dụng độc lập và kết hợp khoa học hai phương pháp lịch sử và
lôgíc, nghiên cứu sinh còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác như:
thống kê, so sánh; khảo sát tư liệu; phân tích và tổng hợp; các phương pháp phê
phán sử liệu và phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học lịch sử Đảng là căn
5

cứ vào các văn bản nghị quyết, chỉ thị của Đảng, soi chiếu vào thực tiễn diễn ra của
những sự kiện, nhân vật lịch sử hoặc ngược lại... để phân tích, đánh giá, tổng hợp và
rút ra những nhận xét, kinh nghiệm.
4.3. Nguồn ư l ệu, tài liệu tham khảo
- Các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Trung ương Đảng, đã được công bố
trong ăn kiện Đảng Toàn tập.
- Các bài viết, phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố trong Hồ Chí
Minh Toàn tập.
- Các tư liệu, tài liệu của các bộ, ngành liên quan được lưu giữ tại Cục ưu
trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại
giao, Thư viện Quốc gia, Thư viện Trung ương Quân đội, Phòng Tư liệu - Phương
pháp Viện Lịch sử Đảng...
- Các công trình nghiên cứu, tổng kết, các sách, bài viết đăng trên các tạp chí
khoa học; các luận án, luận văn có nội dung liên quan đến đề tài luận án của các cơ
quan, nhà khoa học của Việt Nam và quốc tế.
- Hồi ký của các nhà lãnh đạo, tướng lĩnh, chính khách, nhân chứng lịch sử ở
trong nước và quốc tế trực tiếp, gián tiếp tham gia vào sự kiện lịch sử trong giai
đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954.
5. Đ ng g ới về khoa học và thực tiễn của ận n
5.1. Đóng góp về khoa học
- Góp phần hệ thống hóa tư liệu, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh về tranh thủ thực hiện khả năng hòa bình trong
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
- Bước đầu nêu lên các nhận xét và đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình
Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện khả năng hòa bình trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Qua đó, làm rõ một trong những vấn đề quan trọng quyết định đến
thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến là biết tranh thủ thực hiện khả năng hòa
bình và thúc đẩy làm xuất hiện các khả năng hòa bình để sớm kết thúc chiến tranh.
Khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, sự độc lập, kiên định, mềm dẻo của Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
6

xâm lược (1945-1954). Nêu lên ý nghĩa lý luận, thực tiễn của những kinh nghiệm đó
đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt am xã hội chủ nghĩa ngày nay.
- Cung cấp những cứ liệu khoa học góp phần làm sáng tỏ hơn vị trí, vai trò
và những đóng góp to lớn của chủ trương đối ngoại hòa bình, mặt trận ngoại giao
do Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đối với thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).
. . Đóng gó về thực tiễn
Luận án là tài liệu tham khảo để các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách
phát triển đất nước nói chung, chính sách đối ngoại nói riêng nhằm tranh thủ mọi
khả năng, thời gian hòa bình tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới đất nước.
- à tài liệu tham khảo đối với việc nghiên cứu, giảng dạy về cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt am và một số môn học lý luận chính trị khác.
6. ết cấ của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được kết cấu gồm 4 chương, 9 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện khả năng hoà bình từ tháng 9-
1945 đến hết năm 1949
Chương 3: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng tranh thủ thực hiện các khả
năng hoà bình từ năm 1950 đến năm 1954
Chương 4: hận xét và kinh nghiệm
7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung về cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của cơ quan, tổ chức, các cá
nhân, ở cả trong nước và ngoài nước về các nội dung liên quan đến cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và
bài học [4], có kết cấu gồm: Phần mở đầu, trình bày bối cảnh lịch sử, nguồn gốc
chiến tranh và tính chất, đặc điểm của cuộc chiến tranh; Phần thứ nhất, viết về quá
trình phát triển của cuộc kháng chiến qua từng giai đoạn và sự lãnh đạo, chỉ đạo
chiến tranh của Đảng; Phần thứ hai, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Công trình đã kế thừa những kết quả của
các công trình tổng kết trước, đồng thời thể hiện quá trình hoàn thiện nhận thức,
bước phát triển về tư duy chính trị, quân sự của Đảng đối với cuộc kháng chiến.
Công trình tổng kết, phân tích, đánh giá về những nguyên nhân thắng lợi và nêu lên
6 bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến. Trong đó,
dành nhiều trang đề cập tới chủ trương, đường lối đối ngoại hòa bình của Đảng và
những hoạt động ngoại giao cụ thể tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, nỗ lực tìm
các giải pháp đàm phán, thương lượng với Pháp, nhằm đẩy lùi nguy cơ chiến tranh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là những năm 1945-1946.
Cuốn sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975, thắng lợi và bài học
[5] là công trình tổng kết cơ bản nhất về sự lãnh đạo của Đảng đối với hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược trong suốt 30
năm. goài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, công trình gồm hai phần chính. Phần
thứ nhất: Cuộc đụng đầu lịch sử mang tính th i đại; Phần thứ hai: Những bài học
chủ yếu về lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng, bằng phương pháp trình bày
khoa học, logic, không tách biệt mà lồng ghép hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
8

chống Mỹ trong khoảng thời gian liên tục từ năm 1945 đến năm 1975 với những sự
kiện lịch sử sinh động, tập thể tác giả đã trình bày khái quát bối cảnh tình hình thế
giới, nguyên nhân cơ bản, những diễn biến chính và sự lãnh đạo của Đảng trong
suốt 30 năm chiến tranh cách mạng và rút ra sáu bài học kinh nghiệm Đảng lãnh
đạo cuộc chiến tranh cách mạng từ 1945 đến 1975. Trong đó, bài học kinh nghiệm
đầu tiên là: Nắm vững đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh cách mạng đúng
đắn và sáng tạo theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. “... giương
cao ngọn cờ hòa bình, tranh thủ các khả năng hòa bình trên cơ sở kiên định con
đường cách mạng và các mục tiêu cơ bản của cách mạng” [5, tr.204]. Đây là một
công trình tổng kết cơ bản, đã đúc rút ra một bài học quan trọng đề cập tới vấn đề
hòa bình và tranh thủ các khả năng hòa bình mà luận án cần nghiên cứu, làm rõ. Là
tài liệu hữu ích cho nghiên cứu sinh tham khảo trong quá trình triển khai luận án.
Bộ sách: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), do
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng biên soạn, xuất bản gồm 7 tập,
trong đó: Tập I [165], Chuẩn bị toàn quốc kháng chiến, tập trung trình bày những
nội dung chủ yếu của cuộc kháng chiến từ sau Cách mạng Tháng Tám đến ngày
Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) trong bối cảnh đất nước khó khăn mọi bề và
miền Bắc tạm thời có hòa bình, miền Nam phải tiến hành kháng chiến chống thực
dân Pháp quay trở lại xâm lược. Phân tích âm mưu, thủ đoạn, quyết tâm xâm lược
Việt Nam của thực dân Pháp, quá trình dẫn đến sự kiện ngày 19-12-1946. Đồng
thời phân tích, làm rõ chủ trương, quá trình thực hiện sách lược ngoại giao hòa
hoãn, tránh chiến tranh của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, và nguyện vọng hòa bình,
độc lập của Việt Nam; Tập II [167] viết về cuộc kháng chiến từ 19-12-1946 đến hết
năm 1947, trình bày quá trình chuyển cả đất nước vào thời chiến, những cố gắng
ngoại giao với phía Pháp nhằm chấm dứt xung đột nhưng không mang lại kết quả;
Tập III [168] với tựa đề Triển khai kháng chiến toàn diện, trong đó, chương 10 viết
về quá trình đoàn kết chiến đấu với cách mạng Lào, Campuchia, Trung Quốc và
tăng cường các hoạt động đối ngoại với phương châm thêm bạn, bớt thù, từng bước
cô lập kẻ thù, phá vây, tạo chuyển biến có lợi cho cuộc kháng chiến; Tập IV [170]
Bước ngoặt của cuộc kháng chiến, tập trung làm rõ những nỗ lực ngoại giao nhằm
9

tìm kiếm, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
làm cho bạn bè quốc tế biết, hiểu rõ và ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của Việt
Nam; Tập VI [174], Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 kháng chiến
kết thúc thắng lợi, viết từ sự kiện mở đầu là Kế hoạch Na-va đến sự kiện kết thúc là
Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954). Trong đó, chương 23, trình bày quá
trình kết hợp giữa đấu tranh quân sự và ngoại giao với thắng lợi cuối cùng là việc ký
kết Hiệp định Giơnevơ. Qua đó thể hiện rõ xu thế hòa hoãn, toan tính của các nước
lớn, thái độ của Pháp... và thiện chí, nỗ lực kết thúc chiến tranh bằng giải pháp hòa
bình của Việt Nam trong suốt quá trình đàm phán. Kết quả Hội nghị Giơnevơ thể
hiện chủ trương nhất quán, xuyên suốt giải quyết chiến tranh bằng giải pháp thương
lượng hoà bình của Việt Nam.
Tuy bộ sách không đưa ra những phân tích, đánh giá cụ thể hay chỉ rõ về các
khả năng hòa bình, quá trình Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng đó,
song, ở tập I và VI đã trình bày về chính sách đối ngoại thêm bạn bớt thù, những nỗ
lực không ngừng mong tìm kiếm giải pháp hòa bình, tránh chiến tranh của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ sách có giá trị tham khảo quan trọng về
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cung cấp các cứ liệu khoa học để nghiên
cứu sinh làm rõ hơn các vấn đề liên quan tới luận án.
Cuốn sách Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 10 [172] do Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, Bộ Quốc phòng biên soạn, xuất bản, tựa đề Cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954), nêu lên những nét khái quát nhất về bối cảnh lịch sử
và những chặng đường phát triển của cuộc kháng chiến. Phần chủ yếu của tập sách
thể hiện các nội dung của lịch sử quân sự như nghệ thuật quân sự, tổ chức quân sự,
tư tưởng quân sự, hậu cần, kỹ thuật quân sự... Tuy là một công trình nghiên cứu
chuyên sâu về lịch sử quân sự, nhưng cũng đã phân tích về nguồn gốc của cuộc
chiến tranh mà thực dân Pháp cố tình gây ra, đồng thời nêu lên những minh chứng
xác thực khẳng định một “Sự thật lịch sử là Chính phủ và nhân dân Việt am đã
làm hết mọi việc có thể để tránh chiến tranh” [172, tr.104].
Hai tập sách Lịch sử Việt Nam, tập 10 [162] và tập 11 [163], do Viện Sử học
thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam biên soạn, xuất bản nằm trong bộ
10

sách Lịch sử Việt Nam 15 tập, trình bày toàn bộ nội dung lịch sử cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến năm 1954 trên tất cả các mặt trận chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hoá-xã hội… Cả hai tập 10 và 11 đều đề cập tới các chủ
trương, hoạt động ngoại giao của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc
kháng chiến, nhất là giai đoạn 1945-1946, vừa kiên quyết đấu tranh không khoan
nhượng bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, vừa vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt “hòa để tiến” nhằm tranh thủ mọi
thời gian, cơ hội hòa hoãn để chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến.
Sách Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu [157] của tác giả Trần Trọng
Trung, với những tư liệu sưu tầm được từ cả hai phía, trong đó có nhiều tư liệu nước
ngoài, đặc biệt là từ phía Pháp, tác giả công trình dựng lại quá trình thực dân Pháp
tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt am từ 1945 đến 1954. Trong đó, tập
trung làm rõ các nội dung: lý do Pháp vội vã đem quân quay trở lại xâm lược Đông
Dương; tại sao giới cầm quyền Pháp lại khước từ thiện chí hòa bình, hợp tác của nhân
dân Việt am và tại sao Pháp lại thua Việt am? tại sao chỉ khi thất bại ở Điện Biên
Phủ, thực dân Pháp mới chịu từ bỏ ý chí xâm lược Việt am, ký Hiệp định Giơnevơ,
rút quân về nước?… Qua đó, thể hiện sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tính chính nghĩa, sự chiến đấu kiên cường, nguyên nhân thắng lợi của nhân dân
Việt am và thất bại tất yếu của Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa ở
Việt am mà không ít chính khách và tướng lĩnh Pháp đã phải cay đắng thú nhận
rằng nước Pháp đã chọn lầm đối tượng, thực thi một đường lối chính trị lỗi thời, cố
tình theo đuổi một “cuộc chiến tranh bẩn thỉu”. Cuốn sách là nguồn tài liệu tham
khảo bổ ích cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án.
Cuốn sách Chính sách chính trị, quân sự của Pháp ở Việt Nam giai đoạn
1945-1954 và nguyên nhân thất bại [67] của tác giả Nguyễn Mạnh Hà, đã đi sâu
phân tích chính sách chính trị, quân sự của thực dân Pháp nhằm nhanh chóng áp đặt
trở lại chế độ thống trị thực dân đối với Việt Nam, chỉ ra những nguyên nhân thất
bại của chính sách chính trị, quân sự của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Với phương pháp trình bày khoa học, lồng ghép các sự kiện chính trị,
quân sự theo tiến trình thời gian của cả hai phía Pháp và Việt Nam, cuốn sách đưa
11

ra bức tranh tổng thể, khái quát và liên tục về toàn bộ cuộc chiến tranh. Trong đó, từ
trang 24 đến trang 58, tác giả phân tích quá trình thực dân Pháp từng bước mở rộng
chiến tranh xâm lược ra toàn Việt Nam và mục tiêu, kết quả các cuộc đàm phán
giữa Pháp với các lực lượng liên quan đến Việt Nam, Chính phủ Hồ Chí Minh. Từ
đó, lý giải nguyên nhân bùng nổ cuộc chiến tranh là “… bộ ba D’Argenlieu, Valluy
và Pignon đã thực hiện được âm mưu đề ra, đặt chính phủ Blum trước việc đã rồi ở
Đông Dương. Họ đã thành công trong việc lái chính sách của Chính phủ từ chủ
trương đàm phán sang sử dụng sức mạnh, bằng cách đổ lỗi cho phía Việt am đã
gây ra chiến tranh” [67, tr.57]. Tác giả chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc, thực dân, vì lợi ích
của mình, không bao giờ tự nguyện trao trả độc lập cho các nước thuộc địa. Vì thế,
để giành được hòa bình, độc lập là điều vô cùng khó khăn, phải mềm dẻo, linh hoạt
trong sách lược và kiên định mục tiêu đã lựa chọn. Đây là tài liệu tham khảo có giá
trị khi nghiên cứu về chủ trương, chính sách của Pháp đối với cuộc chiến tranh ở
Việt Nam (1945 - 1954).
Là một người nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tác giả
Nguyễn Mạnh Hà có nhiều bài viết xoay quanh các vấn đề của cuộc kháng chiến
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Một số bài tiêu biểu là: Pháp trở lại Đông
Dương như thế nào [52], tác giả phân tích lý do khiến Pháp quyết tâm quay trở lại
xâm lược Việt Nam, chỉ rõ chính sách của De Gaulle về Đông Dương và mối quan
hệ Pháp - Nhật, quan điểm của Mỹ, Anh về việc Pháp trở lại Đông Dương, Việt
Nam và những chuẩn bị về mặt quân sự, chính trị của Pháp cho việc trở lại đó trong
khoảng thời gian từ năm 1943 đến tháng 8-1945; Về sự bất đồng giữa Cao uỷ với
Tổng chỉ huy quân Pháp trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954) [55], tác giả
điểm lại các cặp Cao ủy, Tổng chỉ huy qua các thời kỳ và chỉ ra điểm mâu thuẫn cơ
bản giữa các cặp đó là việc chỉ đạo, điều hành hoạt động quân sự và theo đuổi giải
pháp chính trị ở Việt Nam. Qua đó, bài viết cho thấy Chính phủ Pháp không có một
đường lối cụ thể, nhất quán và xuyên suốt, không có sự phối hợp giữa đường lối
chính trị và chiến lược quân sự đối với vấn đề Việt Nam, đó cũng là điều Việt Nam
có thể lợi dụng, tranh thủ để tạo ra những khả năng thuận lợi cho cuộc kháng chiến.
Ngoài ra, còn có các bài: Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng đánh
12

thắng chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp [61]; Những nhân
tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ
[64]... đã đề cập tới chủ trương, sách lược cụ thể của Đảng để lãnh đạo kháng chiến
giành thắng lợi cuối cùng.
Bên cạnh đó, các bài viết: Hà Nội tháng 12-1946, những toan tính từ phía bên
kia [128] của tác giả Vũ Dương inh; Quá trình dẫn đến cuộc chiến tranh Pháp -
Việt (1945-1954) [100] của tác giả Vũ hư Khôi; Vai trò của Anh trong quá trình
Pháp tái chiếm Đông Dương (9-1945 đến 3-1946) [122] của tác giả Nguyễn Thị Trà
My… đã khái quát quá trình, những toan tính chính trị, quân sự của Pháp để trở lại
Việt am, đồng thời phân tích các nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của Pháp và
thắng lợi của Việt Nam ở những mức độ và cách tiếp cận khác nhau. Đây là nguồn tài
liệu tham khảo có giá trị khoa học, hữu ích đối với việc nghiên cứu cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp nói chung và đề cập đến các khả năng, cơ hội hòa bình.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam (các học giả nước ngoài
gọi là chiến tranh Đông Dương hay cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất) cũng
là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn của nhiều nhà khoa học, phóng viên chiến trường,
tướng lĩnh Pháp, Mỹ theo các thế giới quan, phương pháp luận khác nhau.
Cuốn sách Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương [50] dày hơn 1000 trang của
tác giả Yves Gra, trong đó: Phần thứ nhất, Cuộc chiến tranh đang hình thành (tháng
9-1945 đến tháng 12-1946), tác giả tập trung trình bày chủ trương của Việt Nam từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến trước ngày 19-12-1946; tình hình nước Pháp,
thái độ của các nước Đồng minh, Liên Xô, Trung Quốc... xung quanh vấn đề Pháp
quay trở lại Đông Dương, diễn tiến các cuộc đàm phán thương lượng giữa Pháp với
các lực lượng ở Việt am, đặc biệt với Chính phủ Hồ Chí Minh. Bằng các sự kiện
lịch sử cụ thể, tác giả đề cập trách nhiệm của cả Pháp và Việt Nam trong sự kiện ngày
19-12-1946; Phần thứ hai: Cuộc chiến tranh thuộc địa (tháng 1-1947 đến 6-1950);
Phần thứ ba: Cuộc chiến tranh nhằm chống chủ nghĩa cộng sản, tác giả khẳng định
Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh giành độc lập với “lòng kiên nhẫn vô biên và
một quyết tâm thầm lặng, họ theo đuổi việc thực hiện một kế hoạch chiến tranh, trong
đó mọi phương tiện, mọi năng lực của một chính quyền chuyên chính, với một sự cố
13

gắng mãnh liệt, đều hướng về mục tiêu giành thắng lợi mà họ tin tưởng là chắc chắn”
[50, tr.555-556]; Phần thứ tư: Cuộc đụng đầu cuối cùng, tác giả đề cập đến các vấn
đề liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ (1954), phân tích rõ
quan điểm, thái độ của các bên trực tiếp tham chiến và liên quan đến cuộc chiến
(Anh, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc...), và khái quát toàn bộ tiến trình, diễn biến, kết quả
ở Điện Biên Phủ, Giơnevơ, thiện chí đàm phán của Việt Nam. Lịch sử cuộc chiến
tranh Đông Dương là một công trình khoa học đồ sộ. Bằng những sự kiện lịch sử cụ
thể theo tiến trình thời gian, toàn bộ cuộc chiến được tái hiện lại tương đối khách
quan, trong đó có những nhìn nhận, đánh giá độc lập của tác giả, có những phân tích
cụ thể về bối cảnh tình hình, nguồn gốc thực chất của cuộc chiến, nguyên nhân thất
bại của Pháp và thắng lợi của Việt am. Đây là nguồn tư liệu có giá trị để nghiên cứu
về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Cuốn sách Sự mù quáng của tướng Đ Gôn đối với cuộc chiến ở Đông
Dương [144] của tác giả Pierre Quatrepoint, luận giải vì sao sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, nước Pháp ở trong tình trạng suy sụp, kiệt quệ, nhưng lại tiến hành
cuộc chiến suốt chín năm ròng với Việt Nam - một dân tộc có truyền thống yêu độc
lập, yêu tự do, hòa bình, hữu nghị, có sức sống mãnh liệt, có tinh thần đấu tranh liên
tục giành quyền sống của mình. Với nguồn tư liệu phong phú từ kho tư liệu của
nước Pháp, từ lời kể lại của những người trong cuộc, cách trình bày khoa học, trích
dẫn có chọn lọc, lô gích các sự kiện lịch sử của cả hai phía, tập trung ở thời điểm
những năm 1945-1946, tác giả đã chỉ ra, phê phán những quyết định sai lầm của De
Gaulle - người từng một thời là cứu tinh, một thần tượng của cả nước Pháp. Tác giả
cho rằng: “ hững sai lầm ngoài sức tưởng tượng của ông là nguồn gốc của những
chết chóc vô nghĩa đối với hàng ngàn đồng bào ta (người Pháp), cũng như những
đau thương vô bờ bến của các dân tộc Đông Dương...” [144, tr.188).
Với những luận chứng phong phú, sát thực, tác giả đã không ngần ngại buộc
tội, quy kết De Gaulle đã để xảy ra chiến tranh cùng những hậu quả nặng nề của nó,
trách nhiệm làm bùng nổ cuộc chiến thuộc về những người Pháp. Cuốn sách đã góp
phần luận giải khách quan nguồn gốc cuộc chiến tranh, bác bỏ luận điệu cho rằng
cuộc chiến là do phía Việt Nam gây ra và có thể tránh được cuộc chiến tranh này.
14

Cuốn Việt Nam 1946, chiến tranh bắt đầu như thế nào? [148] của tác giả
Stein Tonnesson người Na Uy, đi sâu phân tích, làm rõ các vấn đề dẫn đến sự kiện
ngày 19-12-1946, dựng lại bức tranh khởi đầu cuộc chiến tranh đầy phức tạp và
kịch tính. Trong đó:
Chương 1: Sự va chạm giữa các nền Cộng hòa, tác giả Tonnesson lý giải
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt
Nam; giới thiệu về nước Pháp mới, thái độ, quan điểm của giới thực dân về Việt
Nam, mà De Gaulle là người đóng vai trò chi phối quyết định kiến tạo nên cơ chế,
chính sách của Pháp tại Việt Nam sau Chiến tranh thế giới hai. Tác gỉả đặt ra câu
hỏi liệu Pháp có đủ mạnh để áp đặt trở lại sự thống trị lên Việt Nam khi mà phong
trào cách mạng ở đây đang phát triển mạnh mẽ, Pháp vừa phải tìm cách đàm phán
với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với Trung Hoa Dân quốc vừa phải chuẩn bị và
tiến hành các hoạt động quân sự;
Chương 2, 3 và 5, tác giả tập trung phân tích xoay quanh các cuộc đàm phán,
thương lượng giữa Việt Nam với Trung Hoa Dân quốc, Việt Nam với Pháp, Pháp
với Trung Hoa Dân quốc và đi đến khẳng định chính Trung Hoa Dân quốc là nhân
tố tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ Việt - Pháp, còn thái độ của Pháp là “Pháp
luôn không chịu sử dụng từ “độc lập” hay trao cho Chính phủ Việt Nam chủ quyền
dưới bất kỳ hình thức nào ở Nam Kỳ [148, tr.117], trong đó, thái độ của Việt Nam
cho đến trước ngày 19-12-1946 vẫn là “rõ ràng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi
lý do để trì hoãn cuộc tiến công đã được chuẩn bị, để gười có thời gian xác định ý
đồ của Blum như thế nào” [148, tr.375].
Chương 6: Ai đưa ra chân lý, từ những nguồn tư liệu, trong đó dẫn ra bức thư
Hồ Chí Minh gửi Sainteny, Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở miền Bắc Đông Dương,
Tonnesson đặt vấn đề liệu đây có phải là “cách mà Hồ Chí Minh trì hoãn tấn công để
chờ câu trả lời của Blum liên quan đến những yêu cầu của gười [148, tr.389]. Tiếp
đó, xoay quanh sự kiện ngày 19-12, tác giả đi đến nhận định “ hững người đánh bẫy
ở Sài Gòn (Pignon và d’Argenlieu) không chỉ chống lại Việt Nam, họ còn tìm cách
đánh bẫy chính phủ của họ tại Pari. Đây là một cuộc đua chống lại thời gian để ngăn
chặn Thủ tướng mới của Pháp cản trở tiến trình dẫn tới chiến tranh” [148, tr.424];
15

Chương 7, với tựa đề Giá như..., tác giả đặt ra các giả thiết và câu hỏi từ các
sự kiện đã diễn ra: liệu có tránh được cuộc chiến tranh này hay không và những con
người nào có thể thay đổi được lịch sử? Phần kết của chương, tác giả kể lại lần cuối
cùng được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp (10-2005), trong đó, Đại tướng cho rằng:
“đã có những người trong Chính phủ Pháp nhìn thấy trước viễn cảnh một cuộc chiến
tranh tăm tối chống Việt am, nhưng lời của họ chỉ như nước đổ lá khoai: “Chủ
nghĩa đế quốc đinh ninh rằng họ dễ dàng đánh bại các quốc gia nhỏ yếu bằng vũ lực”
[148, tr.474] và “sau ngày 19 tháng Mười hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không từ bỏ
hy vọng vãn hồi hòa bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ bỏ lỡ bất kỳ cơ hội
nào có thể giúp lập lại hòa bình, vì lợi ích của hai dân tộc” [148, tr.475].
Đây là công trình khảo cứu công phu của một học giả nước ngoài về cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt am, đã góp phần lý giải tại sao
chiến tranh toàn quốc bùng nổ tháng 12-1946, làm rõ trách nhiệm của Pháp, lột tả bản
chất, thái độ, quyết tâm của quan chức Pháp tại Đông Dương và cung cấp nhiều tư
liệu quý khi nghiên cứu về sự bùng nổ chiến tranh Đông Dương 1945-1954.
Ngoài ra, các công trình: “Tại sao Việt Nam” (Why Vietnam?) [136]; Ghi
chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp
[32]; Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung
[152]; Th i điểm của những sự thật [124]; Đông Dương hấp hối [125]..., đã tái hiện
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt am dưới nhiều chiều cạnh, góc độ
tiếp cận khác nhau. Đó là những nguồn tư liệu tham khảo quan trọng để tác giả luận
án có được sự nhận thức, luận giải đa chiều về cuộc chiến tranh Đông Dương nói
chung, những khả năng hoà bình của cuộc chiến mà Đảng có thể tranh thủ để tránh
chiến tranh nói riêng.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến nội dung
luận án
Cuốn Tổng kết 50 năm đấu tranh trên mặt trận ngoại giao của Đảng và Nhà
nước Việt Nam 1945-1995, tập I (1945-1975) [81] của Học viện Quan hệ quốc tế, là
công trình mang tính chất tổng kết, đánh giá và rút ra những bài học của đấu tranh
ngoại giao. Công trình gồm hai phần: Phần I, Ngoại giao trong th i kỳ giữ vững và
16

củng cố chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954,
trực tiếp liên quan đến luận án. Phần I, có hai chương: Chương 1, Ngoại giao trong
th i kỳ giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng: tháng 8-1945 - tháng 12-1946,
trình bày khái quát bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc” của Việt am, Đảng chủ trương chỉ đạo và thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, theo phương châm
“thêm bạn bớt thù”, tranh thủ thời cơ thuận lợi để tăng cường quan hệ với bên
ngoài, lợi dụng mâu thuẫn giữa các lực lượng đế quốc, phe phái để tăng cường sức
mạnh cho cách mạng. Cơ sở, mục tiêu của chính sách đối ngoại, hoạt động ngoại
giao là vì độc lập dân tộc, tự do của nhân dân; Chương 2, Ngoại giao trong th i kỳ
toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, phân tích khái quát đặc
điểm tình hình quốc tế, tính chất cách mạng Việt Nam, từ đó Đảng chủ trương phát
huy tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đẩy mạnh vận động quốc tế, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và bạn bè quốc tế, triệt để lợi dụng mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ thù để phân hóa, ngăn chặn âm mưu tăng cường, mở rộng chiến
tranh, thực hiện phương châm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai”. Cuốn sách không đi sâu phân tích từng sự kiện cụ thể hay quá
trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, mà chủ yếu tổng hợp các sự kiện, rút
ra nhận xét, đánh giá. Đây là công trình tổng kết, đánh giá chuyên biệt về hoạt động
ngoại giao, là cơ sở tốt cho nghiên cứu sinh tham khảo trong quá trình viết luận án.
Cuốn Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
(1945-1954) [83] của Học viện Quan hệ quốc tế, gồm hai phần, trong đó, từ trang
137 đến trang 296, trình bày chi tiết quan điểm, chủ trương, hoạt động đấu tranh
ngoại giao của Đảng nhằm tìm kiếm cơ hội hoà bình, tránh chiến tranh xảy ra. Liên
quan đến luận án, công trình phân tích quá trình đấu tranh duy trì và kéo dài khả
năng hòa hoãn với Pháp, nhằm giành thời gian tích cực chuẩn bị cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược, thể hiện rõ sự nỗ lực, thiện chí đàm phán,
nhân nhượng của Việt Nam nhằm đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; Phần thứ hai, khái
quát giai đoạn 1947-1954, trong đó, có nội dung đề cập tới các vấn đề tranh thủ khả
năng hòa bình như: chương 1, phân tích rõ chủ trương, đường lối ngoại giao của
17

Đảng, khẳng định: “Tiến công ngoại giao tỏ rõ thiện chí đàm phán hòa bình giải
quyết xung đột Việt - Pháp, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ Pháp”
[83, tr.373-387], chương 2, trình bày quan điểm, lập trường của Việt Nam, các nội
dung liên quan đến Hội nghị Giơnevơ… và phần đánh giá về vấn đề chuyển hướng
chiến lược cách mạng từ chiến tranh sang hòa bình. hư vậy, công trình đã phân
tích khá khách quan, tỉ mỉ và hệ thống các sự kiện lịch sử liên quan đến hoạt động
ngoại giao, nhất là các cuộc đàm phán, thái độ, quan điểm của các bên liên quan và
rút ra những đánh giá, kết luận về chủ trương, đường lối của Đảng trong từng giai
đoạn cách mạng cụ thể. Công trình đã chỉ ra nỗ lực vãn hồi hoà bình của Việt Nam,
âm mưu, bản chất của thực dân Pháp… Đó là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích
cho việc luận giải các vấn đề mà luận án cần giải quyết.
Cuốn Hồ Chí Minh chiến sĩ cách mạng quốc tế [106] của tác giả Phan Ngọc
Liên, Trịnh Vương Hồng trình bày bao quát về cuộc đời, tư tưởng, hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh, trong đó, làm bật lên khát vọng và nỗ lực không mệt mỏi vì
hòa bình của Hồ Chí Minh không chỉ đối với Việt Nam mà còn với thế giới. Đặc
biệt, ở mục V, các tiểu tiết: 3, Kiên trì đư ng lối hoà bình trong giải quyết nguy cơ
bùng nổ chiến tranh với Pháp; 4, Đấu tranh ngoại giao nhằm tìm kiếm hoà bình
trong chiến tranh; 5, Mở rộng quan hệ quốc tế trong th i kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp (từ trang 300 đến 335), trình bày, đánh giá những hoạt động của Hồ
Chí Minh nhằm tranh thủ mọi khả năng có thể để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây
là những nội dung trực tiếp đề cập tới vấn đề tranh thủ, tận dụng các khả năng hoà
bình mà luận án đặt ra. Tuy nhiên, vì là công trình nghiên cứu về cuộc đời, hoạt
động của Hồ Chí Minh nên vấn đề tranh thủ các khả năng hoà bình chỉ được đề cập
một cách khái quát, không chuyên sâu.
Cuốn Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh [127] của Nguyễn Dy Niên trình
bày một cách hệ thống nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện tư
tưởng về ngoại giao của Hồ Chí Minh, các nguyên lý, luận điểm, quan niệm của
gười về các vấn đề thế giới, thời đại, quan hệ quốc tế, đường lối, chính sách đối
ngoại Việt am. Qua đó, nêu bật những nét đặc sắc trong hoạt động quốc tế và
phong cách ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công trình không đi sâu phân
18

tích quá trình tranh thủ và thực hiện các khả năng hoà bình trong giai đoạn 1945-
1954, song trong tiểu mục “Hoà bình và chống chiến tranh xâm lược”, từ trang 129
đến 138, tác giả đã đề cập và khẳng định nỗ lực phấn đấu cho hoà bình ở Việt Nam,
ngăn chặn chiến tranh xảy ra là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Xuyên suốt
quá trình trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao ngọn cờ hoà
bình, kiên quyết đấu tranh vì độc lập, tự do, tận dụng mọi thời cơ để có hoà bình và
giành lấy hoà bình thật sự cho dân tộc.
Cuốn Ngoại giao Việt Nam từ Việt Bắc đến Hiệp định Giơnevơ [110] của tác
giả Nguyễn Phúc Luân, đã góp phần làm rõ hơn các hoạt động ngoại giao giai đoạn
1945-1954 nhằm phá vây quốc tế, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi, xoay
chuyển cục diện cuộc chiến, tạo lợi thế cho cách mạng, thêm bạn bớt thù, tranh thủ
sự đồng tình giúp đỡ, chi viện cho cuộc kháng chiến. Từ những sự kiện lịch sử cụ
thể, với cách trình bày hệ thống, khoa học, tác giả thể hiện rõ thiện chí ngoại giao
của Việt Nam ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đã mong
muốn thực lòng hợp tác thân thiện với Pháp, chủ trương không để bỏ lỡ cơ hội nào
có thể hoà giải với nước Pháp, nếu Pháp công nhận Việt am độc lập và thống
nhất. Trong suốt cuộc kháng chiến, hoạt động ngoại giao đã tạo những tiền đề làm
cơ sở “… buộc đối phương phải đi vào xu hướng kết thúc chiến tranh trên thế yếu
bằng biện pháp thương lượng hòa bình chấp nhận thua trận, rút quân về nước và
công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn của dân tộc ta” [110, tr.187].
Ngoại giao Việt Nam phương sách và nghệ thuật đàm phán [95] của tác giả
Nguyễn Khắc Huỳnh đi sâu phân tích những sự kiện, thành tựu, nét đặc sắc, bản
lĩnh, trí tuệ và từng chặng đường của ngoại giao Việt Nam với yếu tố cơ sở cốt lõi
là tính chính nghĩa, thiện chí hòa bình. Trong đó dành nhiều trang viết phân tích
quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh: “ uôn nắm vững mục tiêu hòa bình, lấy thiện
chí hòa bình làm vũ khí mạnh mẽ chống lại hành động và tội ác chiến tranh của kẻ
thù xâm lược. gười không bỏ lỡ cơ hội nào để mưu tìm hòa bình…” [95, tr.27]. Đặc
biệt các trang từ 61 đến 174, đã trình bày các nội dung cơ bản, điển hình liên quan
đến hoạt động ngoại giao trong kháng chiến chống Pháp như quá trình đàm phán Việt
- Pháp 1945-1946: Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946; Hội nghị trù bị Đà ạt (17-4 - 12-5-
19

1946); chuyến thăm Pháp năm 1946 của Hồ Chí Minh và Tạm ước 14-9; ngoại giao
phá vây giai đoạn 1947-1949; Hiệp định Giơnevơ… qua đó thể hiện những nỗ lực
của Đảng, Hồ Chí Minh trong tận dụng, tranh thủ tìm kiếm giải pháp hòa bình, tránh
chiến tranh. Đó là những gợi mở quan trọng của công trình mà luận án có thể tiếp thu,
kế thừa.
Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010) [131] của tác giả Vũ
Dương inh là một trong những công trình nghiên cứu công phu, có giá trị, trình
bày có hệ thống, sinh động bức tranh toàn cảnh về lịch sử đối ngoại Việt Nam giai
đoạn 1940-2010. Cuốn sách tập trung làm rõ các nội dung về đường lối, chính sách
đối ngoại của Đảng, hà nước ở từng thời điểm, bối cảnh quốc tế, trong nước dẫn
đến các sự kiện, diễn biến trong quan hệ đối ngoại, qua đó rút ra những nhận định,
đánh giá và bài học kinh nghiệm. Trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến nội dung
luận án. Chương II: Quan hệ đối ngoại trong năm đầu của nền Cộng hòa dân chủ
(tháng 9-1945 - 12-1946) và Chương III: Quan hệ đối ngoại trong th i kỳ toàn quốc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) đề cập đến cuộc đấu tranh ngoại
giao với đặc điểm nổi bật là luôn “cố gắng vãn hồi hòa bình” [131, tr.108] bằng mọi
hoạt động ngoại giao có thể, kể cả khi chiến tranh đã nổ ra, đều nhằm mục đích
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, nêu cao ngọn cờ chính nghĩa của cách mạng Việt
Nam, khẳng định lập trường của Việt am là “đòi độc lập và thống nhất quốc gia
trong Liên hiệp Pháp, mong muốn hòa bình thực sự để xây dựng đất nước, sẵn sàng
cộng tác và tôn trọng quyền lợi kinh tế, văn hóa của người Pháp tại Việt am”
[128, tr.109], làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới hiểu rõ mong muốn, khát
vọng chính đáng của Việt Nam và Việt Nam quyết tâm thực hiện khát vọng đó.
Cách mạng Việt Nam trên bàn c quốc tế - lịch sử và vấn đề [134] của tác
giả Vũ Dương inh tập trung trình bày một số vấn đề về quan hệ đối ngoại của Việt
Nam xuyên suốt thời gian từ năm 1945 đến 2015, mối liên hệ giữa Việt Nam và thế
giới, giữa cách mạng Việt Nam với các lực lượng liên quan. Phần thứ nhất, tác giả
đề cập đến các vấn đề đối ngoại trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chỉ
rõ mưu đồ, thủ đoạn nhằm tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp từ năm 1940-
1946, quan điểm của Việt am. Đặc biệt, tác giả đã trình bày khá cụ thể, chi tiết về
20

quan hệ Việt - Pháp và với tiêu đề “Quan hệ Việt - Pháp: hành trình tìm kiếm hoà
bình đi qua chiến tranh (1945-1954)” (từ trang 39-91), miêu tả toàn bộ hành trình tìm
kiếm hoà bình trong suốt cuộc kháng chiến của Hồ Chí Minh, của Chính phủ Việt
am, quan điểm, thái độ của các lực lượng tham gia Hội nghị Giơnevơ bàn về vấn đề
Đông Dương. Cuốn sách đã đề cập đến những nỗ lực của lãnh đạo Việt Nam, của Hồ
Chí Minh để vãn hồi hoà bình, tránh chiến tranh. Đồng thời gợi mở một hướng tiếp
cận, tư duy trong chiến tranh có hoà bình, tìm kiếm hoà bình ngay trong chiến tranh
và mục tiêu của chiến tranh là để có hoà bình. Công trình là một nguồn tài liệu tham
khảo quan trọng của luận án, cũng là sự gợi mở, một sự tương đồng về tư duy và cơ
sở thực tiễn đối với cách tiếp cận, giải quyết vấn đề của luận án.
Ngoài ra, còn nhiều các bài viết phân tích các khía cạnh cụ thể, khác nhau của
hoạt động đối ngoại, nỗ lực mở ra và tranh thủ các khả năng hoà bình trong kháng
chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 được đăng tải trên các tạp chí:
Với những cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau, loạt bài viết của tác giả
Nguyễn Mạnh Hà: Pháp với giải pháp Bảo Đại [53]; Từ Hiệp định Sơ bộ, Hội nghị
trù bị, Tạm ước… đến chiến tranh [51]; Bàn thêm về kết quả Hội nghị Giơne vơ
[60]; Bàn thêm về ứng xử của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
Trung Hoa Dân quốc những năm 1945-1946 [65]… tập trung phân tích, làm rõ chủ
trương, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại tránh chiến tranh của Việt Nam, thái
độ của thực dân Pháp trước mọi nỗ lực, thiện chí hòa bình của Việt Nam. Đặc biệt,
các bài:
Về nguyên nhân nổ ra chiến tranh Đông Dương [54], bằng cách phân tích
tổng hợp, lôgíc và khoa học, tác giả bài viết thông qua việc dẫn ra những sự kiện
lịch sử thực tiễn, các văn bản gốc của Pháp, những lý giải nguyên nhân sự kiện
ngày 19-12-1946 của Tonnesson, P.Đevillers, J.Sainteny, dần đưa độc giả tới những
luận giải rõ ràng về nguyên nhân, trách nhiệm để xảy ra cuộc chiến tranh thuộc về
phía Pháp, bởi Pháp đã khước từ mọi nỗ lực đàm phán, tránh chiến tranh của Việt
Nam, đặc biệt là bộ ba D’Argenlieu, Valluy và Pignon ở thời điểm 1945-1946. “Với
chủ trương tái lập chủ quyền ở Đông Dương, Pháp đã thi hành chính sách lấn dần
từng bước, kết hợp hành động chính trị, ngoại giao với tiến công quân sự để đạt
21

mục đích” [54, tr.135], sau hàng loạt các hành động phá hoại các cuộc đàm phán, đi
ngược lại các điều đã thỏa thuận, tướng lĩnh thực dân ở Đông Dương đã đặt chính
phủ mới ở Paris trước “một việc đã rồi ở Đông Dương bằng việc cố tình khiêu
khích quân sự, tàn sát dân thường, hạ tối hậu thư… buộc quân và dân ta phải đứng
lên tiến hành kháng chiến, tạo cớ cho cuộc tiến công rộng khắp của Pháp ở miền
Bắc” [54, tr.135-136].
Điện Biên Phủ - động lực của mối quan hệ Việt - Pháp [58] - cách đặt vấn đề có
vẻ khác lạ của tác giả Nguyễn Mạnh Hà đã gây nên sự lôi cuốn người đọc. Những nội
dung tác giả thể hiện ở trong bài viết cho thấy một hướng tiếp cận mới và có cơ sở.
Bằng những minh chứng khá tiêu biểu, luận giải cho quá trình dẫn đến chiến tranh
Pháp - Việt, thực tế cuộc chiến ấy đã đưa đến tình trạng ngày càng khốn khó, bế tắc của
Pháp cả về kinh tế lẫn tinh thần, một sự tranh cãi triền miên, bất đồng của nội các
Pháp..., những thiện chí đàm phán, giải pháp hòa bình của Việt Nam, và các chuyến
thăm lẫn nhau, cử chỉ, hành động, những lời tuyên bố của nguyên thủ hai nước sau
chiến tranh, tác giả chỉ ra những cơ sở giải thích cho sự kiện Điện Biên Phủ, ở một góc
độ nào đó, nó thực sự trở thành “cầu nối giữa quá khứ với hiện tại và tương lai, là một
trong những xuất phát điểm của mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp thời kỳ hiện đại”,
[58, tr.505]. Bài viết gợi mở hướng tiếp cận mới cho luận án, cung cấp các cứ liệu khoa
học góp phần giúp nghiên cứu sinh có những minh chứng lịch sử để luận giải thuyết
phục hơn trong việc khẳng định cơ sở của Đảng khi đề ra và thực hiện chủ trương tranh
thủ các khả năng hòa bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chiến tranh Việt Nam- những cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ [56] tại Hội thảo
khoa học quốc tế (9-2000) về chủ đề Việt Nam trong thế kỷ XX, tác giả Nguyễn
Mạnh Hà đưa ra những phân tích, chỉ rõ các cơ hội hoà bình cụ thể đã bị bỏ lỡ trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Với cuộc kháng chiến
chống Pháp, đó là những cơ hội ở thời điểm 1945-1946; 1954 với hàng loạt các nỗ
lực, thiện chí đàm phán và những nhân nhượng của Việt Nam qua việc ký kết Hiệp
định Sơ bộ 6-3-1946; Hồ Chí Minh đi thăm Pháp hơn 4 tháng năm 1946; ký Tạm
ước Pháp - Việt ngày 14-9-1946, thực tâm đàm phán ký kết Hiệp định Giơnevơ của
Việt am… trước những mưu toan phá hoại từ các nước lớn… Cùng với việc phân
22

tích những cơ hội, nỗ lực của Việt Nam trong tìm kiếm giải pháp đàm phán kết thúc
chiến tranh đối với Mỹ, bài viết đã làm bật lên khát vọng, thiện chí hòa bình của
Việt am và thái độ, sự khước từ thiện chí ấy của Pháp, Mỹ.
Nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao và quan hệ quốc tế Nguyễn Khắc Huỳnh
cũng có nhiều bài viết đề cập đến nỗ lực đàm phán mong đẩy lùi nguy cơ chiến tranh
của Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Đó là:
Hiệp định Giơnevơ sau 50 năm nhìn lại và suy ngẫm [88] và Từ trận Điện
Biên Phủ đến Hội nghị Giơnevơ, những cuộc vận động ngoại giao rộng lớn ở hậu
trư ng [96], tác giả đã phân tích khá rõ tương quan lực lượng, bối cảnh quốc tế,
quan điểm, thái độ, toan tính của các nước Trung Quốc, Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp
đối với Giơnevơ, luận bàn lợi, hại đối với việc Việt Nam ký hay không ký Hiệp
định Giơnevơ…Từ đó làm bật lên sự nhận định tình hình, tranh thủ khả năng thuận
lợi, nỗ lực đàm phán của Việt am để đi đến ký kết Hiệp định, kết thúc chiến tranh
bằng giải pháp hòa bình để đạt được mục tiêu hòa bình độc lập nhất định, tạo cơ sở
vững chắc để tiến tới hòa bình thống nhất đất nước trọn vẹn. Đây chính là một nội
dung mà luận án cần phải nghiên cứu và làm rõ.
Cùng với đó, tác giả Nguyễn Khắc Huỳnh còn có các bài: Hồ Chí Minh và
cuộc đột phá về ngoại giao mùa Xuân 1950 [90], đề cập tới nỗ lực thiết lập quan hệ
ngoại giao, kiên trì tìm bạn đồng minh, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, sự ủng
hộ quốc tế, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược của Việt Nam; Ngoại giao Hồ Chí Minh th i kỳ giữ vững và củng
cố chính quyền cách mạng (1945-1946) [91]; Đi vào cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp xâm lược nêu cao thiện chí, nỗ lực vãn hồi hòa bình [93]; Đàm
phán Việt - Pháp 1945-1946 và hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 [92]; Hồ Chí Minh với
chuyến thăm Pháp và Tạm ước 14-9-1946, những nỗ lực tột bậc để trì hoãn chiến
tranh toàn quốc [94]; Vai trò chiến lược của ngoại giao trong sự nghiệp bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ [98]… có nhiều nội dung đề cập, phân tích tới những nỗ lực
của Việt Nam, hoạt động trực tiếp của Hồ Chí Minh kiên trì đàm phán, nhân nhượng,
kéo dài hòa hoãn, mong tránh chiến tranh. Qua đó, khẳng định rõ thiện chí hòa bình
và quyết tâm bảo vệ, giành lấy hòa bình, độc lập thực sự của Việt Nam.
23

Cùng đề cập đến vấn đề đàm phán, tranh thủ các khả năng, cơ hội hòa bình
trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, tác giả Vũ Dương inh có các
bài viết: Từ Điện Biên Phủ đến Giơnevơ trên bàn c quốc tế [130]; Hội nghị Giơnevơ
về Đông Dương năm 1954 đôi điều cần bàn thêm cho rõ [129]. Tác giả Trần Trọng
Trung có các bài: Hội nghị Phôngtenblô [150]; Cuộc đối thoại trước ngày nổ súng
[155]; Chặng đư ng dẫn đến Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 [158]; Hồ Chí Minh từ thiện
chí cứu vãn hòa bình đến quyết tâm phát động kháng chiến [159]… Ở các khía cạnh,
góc độ khác nhau, các bài viết đã phân tích, chỉ rõ những nỗ lực, thiện chí đàm phán,
hòa bình của Việt Nam, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến.
Bài viết: Liệu có thể tránh được cuộc chiến này không? [132] của tác giả Vũ
Dương inh, với ba thời điểm: trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945; từ Cách
mạng Tháng Tám đến Hiệp định Sơ bộ (từ 19-8-1945 đến 6-3-1946); từ sau Hiệp
định Sơ bộ đến kháng chiến toàn quốc (từ 6-3 đến 19-12-1946), tác giả đã lần lượt
đưa ra các minh chứng lịch sử thể hiện quan điểm, sự lựa chọn của cả hai bên Việt
Nam, Pháp xoay quanh vấn đề xác lập vị trí của Pháp tại Việt Nam, từ đó trả lời câu
hỏi liệu có tránh được cuộc chiến tranh Pháp - Việt kéo dài suốt 9 năm không?. Bài
viết chỉ ra những hành động thể hiện thiện chí mong muốn hòa bình, thành thật hợp
tác với Pháp của Việt Nam. Tác giả thống kê chỉ trong hơn 6 tháng (tính từ sau 6-3-
1946), đã có 6 sự kiện ghi nhận sự tiếp xúc giữa hai bên Pháp - Việt, những cuộc
tiếp xúc ấy “chính là cơ hội để giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam nếu phía Pháp
thực sự có thiện chí” [132, tr.31]. Sau hàng loạt các dẫn chứng cụ thể cùng sự luận
giải khoa học, tác giả đi đến nhận xét: “ hững giải pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đưa ra trước và sau Cách mạng Tháng Tám vừa đem lại hòa bình cho Việt Nam,
vừa bảo đảm quyền lợi của nước Pháp” [132, tr.33] và “… Cuộc chiến đã có thể
tránh được nhưng do sự ngoan cố của phía Pháp, đã trở nên không thể tránh
được…” [132, tr.33]. Bài viết có nhiều nội dung đề cập tới vấn đề tranh thủ thực
hiện khả năng hòa bình liên quan đến nội dung của luận án.
Ngoài ra, còn hàng loạt các bài viết: Về công tác ngoại giao trong kháng
chiến chống thực dân Pháp [147]; Hồ Chí Minh với vấn đề chiến tranh và hoà bình
của các dân tộc [7]; Những hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trong những
24

năm 1945-1946 [135]; Quan hệ cách mạng Việt Nam- Trung Quốc trong những
năm 1947-1950 [73]; Hiệp định Giơnevơ một giải pháp chiến lược của cách mạng
Việt Nam [30]; Đàm và đánh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954) [121]; Hồ Chí Minh hành trình Hà Nội - Pari - Hải Phòng năm 1946
[180]; Paris - Bắc Kinh - Hà Nội ba cuộc gặp với Hồ Chí Minh để tìm kiếm hoà
bình [3]; Những nỗ lực vãn hồi hoà bình của Việt Nam trước mùa Đông năm 1947
[76]; Về một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman
(1-1946) [62]… của nhiều tác giả, với các phương pháp tiếp cận khác nhau, ở từng
mức độ, đã chỉ rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn khước từ mọi thương lượng, đàm
phán của thực dân Pháp và khẳng định thiện chí, sự nhân nhượng tối đa, chủ trương
nhất quán xuyên suốt của Việt Nam là mong muốn thành thật hợp tác với Pháp,
tránh chiến tranh, tận dụng mọi khả năng có thể để cứu vãn hoà bình khi chiến tranh
chưa xảy ra và trong suốt cuộc kháng chiến. Đồng thời, lý giải về nguồn gốc,
nguyên nhân dẫn đến chiến tranh, quyết tâm của Việt Nam sẵn sàng kháng chiến
đến cùng để giành lấy hoà bình, độc lập thực sự khi cơ hội đàm phán không còn.
Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng và có giá trị đối với luận án.
Các nhà nghiên cứu, học giả nước ngoài cũng có những đề cập, nghiên cứu
liên quan đến quá trình đấu tranh ngoại giao, những nỗ lực tranh thủ các khả năng
hòa bình để tránh chiến tranh và nhanh chóng kết thúc chiến tranh của Việt Nam.
Cuốn sách Câu chuyện về một nền hoà bình bị bỏ lỡ [145] của Jean
Sainteny - thiếu tá tình báo Pháp, người đã chứng kiến và trực tiếp tham gia vào
nhiều sự kiện xảy ra ở Việt Nam trong suốt giai đoạn lịch sử 1945-1947, là người
đại diện cho phía Chính phủ Pháp ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946. Jean Sainteny
hiểu rõ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt am đã bùng nổ như thế
nào, thiện chí, nỗ lực vì hoà bình của Chính phủ Hồ Chí Minh, quan điểm, thái độ
của chính quyền Pháp. Chính vì thế, với một sự tiếc nuối về những gì đã xảy ra,
năm 1954, ông cho xuất bản cuốn sách này, tái hiện lại những sự kiện chính, cảm
nghĩ của ông những năm 1945-1947. Với dung lượng hơn 300 trang, gồm 14
phần, trong đó từ phần XI đến phần XIV (trang 218 đến 307) có nội dung liên
quan đến các nội dung của luận án.
25

à người trong cuộc ở thời điểm Pháp đang tìm cách quay trở lại Việt Nam
và nhiều lần tiếp xúc, đàm phán thương lượng với Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo
khác của Việt am, Jean Santeny đã nhận xét về Hồ Chí Minh: “ hững lời nói của
ông, những cử chỉ của ông, thái độ của ông, con người thật của ông, tất cả đều
khẳng định ông không muốn giải quyết vấn đề bằng biện pháp bạo lực” [145,
tr.225]; “Ông muốn giành độc lập cho đất nước của mình và cũng muốn chính nước
Pháp tự trao nền độc lập cho Việt am” [145, tr.227]; “… cũng phải khẳng định
không chút hoài nghi là Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích thật sự, một mục đích
cuối cùng, đó là: Độc lập của Việt am” [145, tr.225]; và “Ông không ngần ngại
cho Pháp những nhượng bộ vì thành thật nghĩ rằng, thương lượng vẫn ít thiệt hại
hơn xung đột đẫm máu” [145, tr.229].
Tác giả cũng đưa ra những phân tích về thái độ của các nước Đồng minh đối
với Pháp và Việt Nam, với mối quan hệ Việt - Pháp, bối cảnh tình hình quốc tế và
thực tiễn ở Việt Nam và Pháp để lý giải tại sao Hồ Chí Minh muốn thành thật hợp
tác với Pháp, tại sao cuối cùng Pháp lại khước từ thiện chí hòa bình, sử dụng giải
pháp quân sự, dấn thân vào cuộc chiến không lối thoát ở Việt Nam suốt 9 năm với
những tổn thất nặng nề. Nếu như công trình cho thấy sức mạnh của sự nhất quán,
thống nhất, đoàn kết trong chủ trương đường lối, thiện chí hòa bình, mục tiêu vì độc
lập của Việt am, thì cũng khắc họa sâu sắc sự bất đồng, mâu thuẫn, thiếu thống
nhất và luôn tranh cãi của Pháp đối với chiến lược, chính sách ở Việt am, Đông
Dương, cũng như chỉ ra rất rõ trong suốt cuộc chiến, ở Pháp vẫn có những tướng
lĩnh, chính khách, kể cả người đứng đầu chính phủ, ủng hộ giải pháp đàm phán,
thiện chí hòa bình, hợp tác của Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Từ sự trân trọng một tình bạn, tấm lòng tôn kính, cảm phục Hồ Chí Minh -
một con người đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho nền độc lập của Việt am, năm
1970, Jean Sainteny cho ấn hành tiếp cuốn “Đối diện với Hồ Chí Minh”, tái hiện
những cuộc tiếp xúc, đối thoại giữa Jean Santeny - Hồ Chí Minh trong khoảng thời
gian từ 1945-1947. Cuốn sách gồm 13 phần: được mở đầu bằng sự kiện Jean
Sainteny dự lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969); những hiểu biết của Sainteny
về cuộc đời, quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh trong phần III, IV, V; đến những
26

cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa Sainteny - Hồ Chí Minh được trình bày ở những phần kế
tiếp của cuốn sách nhằm tìm giải pháp giải quyết xung đột Việt - Pháp. Đặc biệt,
trong Phần IX với nhan đề Hoà bình bị bỏ lỡ, tác giả đã trình bày khá rõ những nỗ
lực của Hồ Chí Minh nhằm vãn hồi hoà bình cũng như thái độ thiếu thiện chí hợp tác
của Pháp. Với tư cách là người trong cuộc, có vai trò trong cuộc chiến tranh Đông
Dương, tác giả đã có những nhận xét, đánh giá thể hiện sự hiểu biết lập trường, quan
điểm của Hồ Chí Minh, của Việt Nam là muốn thành thật hợp tác với Pháp, muốn tìm
một giải pháp chính trị cho quan hệ Việt - Pháp. Đúng như trong thư Hồ Chí Minh
gửi Uỷ viên Cộng hoà Xanhtơny ngày 24-2-1947 “tôi sẵn sàng cộng tác vì hoà bình,
một nền hoà bình chính đáng và danh dự cho hai nước chúng ta”.
Dù rằng cuốn sách vẫn còn có những đánh giá chưa thật xác đáng và không
tránh khỏi có những nhận định chủ quan do quan điểm, hệ tư tưởng khác nhau, song
Câu chuyện về một nền hoà bình bị bỏ lỡ và Đối diện với Hồ Chí Minh là một tài liệu
tham khảo có giá trị, minh chứng thiện chí và những nỗ lực vãn hồi hoà bình của Hồ
Chí Minh, là một nguồn tài liệu tham khảo quan trọng và có giá trị đối với luận án.
Cuốn sách Paris - Saigon - Hanoi, tài liệu lưu trữ về cuộc chiến tranh 1944-
1947 [138] của tác giả Phillipe Devillers, tập hợp một khối lượng lớn các tư liệu gốc
khai thác từ các trung tâm lưu trữ của Pháp liên quan đến cuộc chiến tranh Đông
Dương giai đoạn 1944-1947. Từ các tài liệu lưu trữ được tập hợp lại, kết hợp với sự
hiểu biết sâu rộng các sự kiện lịch sử, tư duy khoa học, lô gích, tác giả là nhà sử học,
nhà báo, một chuyên gia của Pháp về lịch sử hiện đại Việt Nam, từng được tiếp xúc
trực tiếp với những sự việc trước và sau chiến tranh Pháp - Việt, đã luận giải chi tiết,
khách quan về nguồn gốc, mục đích cuộc chiến tranh Pháp - Việt kéo dài suốt 9 năm.
Những phân tích, đánh giá của tác giả cùng sự minh chứng từ các tư liệu được trích
dẫn và thực tiễn của các sự kiện lịch sử, đã đưa đến sự khẳng định nguồn gốc bùng
nổ cuộc chiến tranh Pháp - Việt Nam, trách nhiệm làm xảy ra sự kiện ngày 19-12-
1946 thuộc về phía Pháp. Phillipe Devillers nhấn mạnh chiến tranh Đông Dương xảy
ra “không phải do ngẫu nhiên, mà do tội lỗi, do sự “vụng về” hoặc “tính toán sai lầm”
của một vài người mà sự xảo trá hai mặt và cái nhãn quan “cận thị” chưa từng có
trong lịch sử nước Pháp. Một cánh nhỏ những quan chức và nhà quân sự cấp cao
27

Pháp đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh giữa nước Việt am và nước Pháp” [138, tr
.5]. Nhận xét này được khẳng định rõ ràng hơn khi ngay phần nội dung đầu tiên của
công trình, tác giả trích dẫn nội dung bức thư của Charles de Gaulle gửi Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngày 8-2-1966 rằng: “Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt
am và người Pháp ngay sau đại chiến thế giới thì đã có thể tránh được những sự
biến tai ác đang giằng xé đất nước gài hôm nay” [138 , tr.25].
Với dung lượng gần 500 trang, ngoài phần giới thiệu chung về công trình,
phần chú dẫn, phụ lục nguồn tư liệu, nội dung cuốn sách gồm 14 phần, lần lượt có tựa
đề: 1, Việt Nam một nồi hơi không có Xu - páp (cho đến 1930); 2, Một chính quyền
mong manh, những kẻ kế thừa sốt ruột (2-1930 - 9-3-1945); 3, Nước Việt Nam giành
lại quyền độc lập; 4, Đối đầu và đề nghị; 5, Hà Nội và Sài Gòn bị dồn vào thế phải
lựa chọn (8-10-1945 - 13-2-1946); 6, Một sự uốn nắn diệu kỳ: Hiệp định 6-3-1946
(14-2 - 18-3-1946); 7, Sài Gòn, điểm thắt nút của vấn đề (7-3 - 19-6-1946); 8,
Fontainebleau hay là cuộc trư ng kỳ thương lượng (22-6 - 19-9-1946); 9, Làm sao
vô hiệu hóa được Hà Nội? (21-9 - 13-11-1946); 10, Hải Phòng: một khúc nhạc dạo
đầu (8-30-11-1946); 11, Hồ Chí Minh ch th i (30-11 - 12-12-1946); 12, Đảo chính
hụt tại Hà Nội (10 - 25-12-1946); 13, Cuộc đoạn giao và huyền thoại của nó (20-12-
1946 - 16-1-1947); 14, Việt Nam - từ cấm (4-1 - 23-3-1947). Đây là công trình:
Ngoài sự phong phú và chính xác về tư liệu, cuốn sách được trình bày rõ
ràng, lôgích và gọn, phản ánh một mức độ hiểu biết sâu rộng, một ý thức
tích cực bảo vệ sự công bằng, chân lý lịch sử, đồng thời sự trung thực
thắng thắn trong những mối bang giao quốc tế Việt - Pháp. Cuốn sách
còn thể hiện một tinh thần nhân đạo, sáng suốt đấu tranh chống chiến
tranh, củng cố hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Pháp và Việt
Nam [138, tr.5-6].
Tuy rằng kết quả nghiên cứu và nguồn tư liệu liên quan thể hiện trong công
trình chưa bao quát hết quãng thời gian chiến tranh (1945-1954), nhưng đây là công
trình khoa học có nhiều nội dung, nguồn tư liệu quý của những năm 1944-1947 liên
quan trực tiếp đến vấn đề tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình mà luận án tìm
hiểu. Đây là tài liệu quan trọng hỗ trợ cho nghiên cứu sinh có thêm những tư liệu tin
28

cậy, cơ sở khoa học, khách quan để mạnh dạn đưa ra, khẳng định những đánh giá,
nhận xét về chủ trương, sự chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình của
Việt am giai đoạn 1945-1954. Công trình cũng góp phần phản bác luận điệu cho
rằng cuộc chiến tranh là do phía Việt Nam hiếu chiến, cực đoan, và Việt Nam là
“thủ phạm” của sự kiện ngày 19-12-1946…
Cuốn sách Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần
thứ nhất (Giơ-ne-vơ 1954) [139] của tác giả Francoise Joyaux, cung cấp cho người
đọc nhiều thông tin, tài liệu phong phú, có giá trị, luận giải về chủ trương, sách lược
của Trung Quốc đối với Việt am, Đông Dương trước, trong và sau Hội nghị
Giơnevơ. goài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, công trình gồm 4 phần: Phần thứ
nhất có tựa đề Tự khẳng định vị trí của mình trên trư ng quốc tế, (gồm 3 chương),
tác giả chủ yếu phân tích những nhân tố quyết định thái độ của Trung Quốc đối với
vấn đề kết thúc chiến tranh Đông Dương; Phần thứ hai và thứ ba (gồm 6 chương)
từ trang 187 đến trang 486, tập trung trình bày diễn biến Hội nghị Giơnevơ và thái
độ Bắc Kinh đến Hội nghị “không phải để ủng hộ quan điểm của Việt Minh mà để
cố gắng lập lại hòa bình”; Phần thứ tư với tựa đề Ý nghĩa một giải pháp, trình bày
thái độ của Bắc Kinh đối với việc thi hành Hiệp định Giơnevơ, nhất là về vấn đề
thống nhất Việt Nam và chính sách của Trung Quốc đối với vấn đề Đông Dương.
Đây là công trình có giá trị khoa học, đã chỉ rõ bản chất, quan điểm của Trung Quốc
trong mối quan hệ với Việt am, Đông Dương và các nước lớn. Qua đó, giúp luận
án có thêm cơ sở luận giải về nội dung liên quan đến sự tranh thủ khả năng hoà bình
của cả Việt Nam, Pháp tại Hội nghị Giơnevơ để đi đến giải pháp thương lượng
quyết định kết thúc chiến tranh, đồng thời làm bật lên thiện chí, quan điểm nhất
quán trước sau như một của Việt Nam muốn hòa bình, độc lập, tránh chiến tranh.
Cuốn sách Đồng chí Hồ Chí Minh [45] của tác giả F.Côbêlép có cách viết
nhẹ nhàng, nhưng thể hiện một tình cảm vô cùng tôn kính của tác giả E. Côbêlép
với Hồ Chí Minh, đồng thời cũng cung cấp cho người đọc những tư liệu chính xác,
sự hiểu biết về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Với dung lượng hơn
500 trang, tác giả đã truyền tải một cách sinh động cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh
gắn bó mật thiết với lịch sử dân tộc Việt am, trong đó dành nhiều trang viết tái
29

hiện bức tranh cuộc kháng chiến chống thực dân của nhân dân Việt Nam 1945-1954
mà ở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực không ngừng, không từ bỏ hy vọng trong
bất cứ hoàn cảnh nào, bằng mọi cách và những hoạt động thực tiễn để có thể ngăn
cản, hạn chế chiến tranh xảy ra. Đặc biệt, cuốn sách có những trang viết (trang 400 -
405), phân tích, liên hệ, so sánh về những nhân nhượng, nỗ lực vãn hồi hoà bình
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những thời điểm khó khăn của cách mạng như
1945-1946 với sách lược nhân nhượng, hoà hoãn của Lênin ở nước Nga Xô viết
trong thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Mười ga năm 1917. Từ đó đánh giá,
nhận xét về chủ trương, sách lược, nỗ lực không mệt mỏi vì hoà bình của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Cuốn sách cung cấp thêm cho nghiên cứu sinh những luận cứ khoa
học, lý luận về cơ sở hoạch định chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà
bình của Đảng và cho thấy Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo sách lược nhân
nhượng, hoà bình của Lênin, nước ga vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Cuốn sách De Gaulle và Việt Nam (1945-1969) [99] của tác giả Pierre
Journoud với độ dày hơn 500 trang, cùng nguồn tư liệu phong phú khai thác từ tài
liệu lưu trữ trong các văn khố của Pháp, Mỹ, Canada, Việt Nam, tài liệu điền dã... là
kết quả nghiên cứu khoa học công phu của tác giả Pierre Journoud - Giáo sư chuyên
ngành Lịch sử thế giới đương đại tại Trung tâm Nghiên cứu liên ngành Khoa học
Xã hội và hân văn (CRISES), Đại học Paul - Valéry Montpellier III.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, cuốn sách có kết cấu 7 chương, với sự hiểu biết
sâu rộng, cách xử lý tư liệu khoa học, lôgíc, sử dụng kết hợp phương pháp sử học với
phân tích chính trị quốc tế, tác giả đã dựng lại một thời kỳ lịch sử phức tạp, quan
trọng của Việt Nam (1945 - 1969). Qua việc phân tích quan điểm và đường lối của
Charles de Gaulle, tác giả đã khắc họa toàn bộ cuộc đời sự nghiệp chính trị của De
Gaulle liên quan đến Việt am. Đồng thời góp phần lý giải nguồn gốc của cuộc chiến
tranh Pháp - Việt (1945-1954), nêu lên những xu hướng, quan điểm khác nhau của
De Gaulle và các cộng sự về con đường, giải pháp để Pháp trở lại Đông Dương.
Liên quan tới cuộc chiến tranh Đông Dương và các vấn đề luận án cần luận
giải, Chương I với tựa đề Sự hiểu lầm khởi thủy (1945-1957), tác giả tập trung phân
tích chủ trương, chính sách của De Gaulle đối với Việt Nam từ năm 1945 đến 1957,
30

trong đó chỉ rõ quan điểm, chủ trương, lựa chọn con đường quay trở lại Việt Nam của
De Gaulle. De Gaulle đã không nhận ra Việt Nam là một quốc gia và thậm chí là một
quốc gia hùng mạnh; không để tâm đến những lời cảnh báo của các cộng sự như Paul
Mus (Giáo sư xã hội học, cố vấn chính trị của Cao ủy Bollaert), Jean Cédile (Ủy viên
Cộng hòa Pháp tại miền Nam Đông Dương) hay Jean Sainteny... rằng “Chỉ có một
hiệp định với Việt Minh về vấn đề độc lập mới giúp chúng ta giữ được thể diện... sẽ
có đụng độ lớn nếu Pháp muốn tái thiết lập chủ quyền của mình bằng vũ lực” [99,
tr.50-51], và chủ trương “điều đình bằng mọi giá” [99, tr.62] của Leclerc (Tổng chỉ
huy đầu tiên của đạo quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương), De Gaulle quyết tâm
chọn giải pháp chiến tranh, dùng “chính sách vũ lực mù quáng” [99, tr.56] áp đặt trở
lại sự thống trị của Pháp lên Việt Nam khi cho rằng “chẳng có gì để ký kết với dân
bản xứ, chừng nào chúng ta không có sức mạnh” [99, tr.50], “chúng ta trở lại Đông
Dương vì chúng ta là người mạnh nhất” [99, tr.56]. De Gaulle phản đối việc trao độc
lập cho Việt Nam, nghi ngờ, nhìn nhận Hồ Chí Minh là một người “cộng sản cứng
đầu” và hi vọng sẽ đàm phán với Việt Nam trên thế mạnh. Với hơn 50 trang, chương
I đã phân tích quan điểm, chính sách, vai trò, trách nhiệm của De Gaulle đối với việc
bùng nổ cuộc chiến tranh, mối quan hệ Pháp - Việt những năm 1945-1957...
Đây không phải là một công trình thông sử, trình bày chuyên sâu về cuộc
chiến tranh Đông Dương, không phân tích chi tiết, tỉ mỉ về các bên tham chiến,
nhưng qua việc phân tích quan điểm, đường lối của De Gaulle, tác giả đã lý giải
nguồn gốc xảy ra chiến tranh, minh chứng rằng ở thời điểm năm 1945-1946 nói
riêng, suốt 9 năm chiến tranh nói chung, trong nội các Pháp, hàng ngũ các tướng
lĩnh, các cộng sự của De Gaulle, có nhiều người thực sự hiểu khát vọng hòa bình,
độc lập, thiện chí của Việt Nam, khẳng định vai trò của Pháp ở Việt Nam bằng con
đường đàm phán hòa bình. Việc De Gaulle thay đổi tư duy từ sử dụng biện pháp
cứng rắn, vũ lực sang dần chấp nhận các giải pháp đàm phán, thậm chí lên án, phản
đối chính sách của Mỹ đối với Việt Nam - thể hiện một sự thừa nhận ngầm rằng
“ông đã nhầm khi không hoàn toàn ủng hộ những nỗ lực đàm phán của Hồ Chí
Minh” [99, tr.69]... Pierre Journoud mong muốn công trình của mình mang dấu ấn
của một hi vọng “hi vọng hòa bình được tìm kiếm trong những giờ phút đen tối nhất
của chiến tranh” [99, tr.529].
31

Ngoài ra, các công trình: Tam giác Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam
[24]; Hồ Chí Minh một cuộc đ i [27]; Hồ Chí Minh - dịp may cuối cùng [72]; Nước
Mỹ và Đông Dương, từ Roosevelt đến Nixon [143]; Việt Minh địch thủ của tôi và
Một đế chế cáo chung [146]… ở các mức độ khác nhau đều đề cập tới những vấn đề
của cuộc kháng chiến, thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo, cách nhìn nhận, đánh giá cuộc
chiến tranh của chính quyền thực dân Pháp, quan điểm và thái độ của Việt Nam, Hồ
Chí Minh. Đây là những nguồn tư liệu tham khảo quan trọng của luận án.
1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA
HỌC ĐÃ GIỚI THIỆU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT
1.2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, hoạt động, chủ trương đối
ngoại vì hoà bình, tránh chiến tranh của Việt am giai đoạn 1945-1954 nói riêng,
đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả, các tướng lĩnh, phóng viên
chiến trường… trong và ngoài nước. Bởi thế, khối lượng công trình liên quan rất
phong phú, đa dạng, với nhiều cách tiếp cận với các lập trường, quan điểm khác
nhau. Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát các nguồn tư liệu sưu tầm được từ nhiều
phía, tác giả luận án nhận thấy các công trình khoa học đó đã phân tích, đề cập tới
một số nội dung cơ bản như:
+ Về các vấn đề liên quan đến quan điểm, chủ trương, âm mưu, thủ đoạn của
thực dân Pháp trong quá trình quay trở lại xâm lược Việt Nam. Nguồn gốc sự kiện
ngày 19-12-1946. Diễn biến, kết quả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Đặc điểm, tình hình và sự bất ổn, mâu thuẫn ngay trong nội bộ Chính phủ
Pháp. Sự thiếu thống nhất giữa Chính phủ Pháp ở Pari với những người đứng đầu
chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam, giữa các tướng lĩnh Pháp với nhau.
+ Các nội dung xoay quanh Hội nghị Giơnevơ, trong đó nhấn mạnh quan
điểm, thái độ các nước, lực lượng như Anh, iên Xô, Trung Hoa Dân quốc, Trung
Quốc, Mỹ… đối với cuộc chiến tranh Đông Dương, Việt Nam.
+ Chủ trương kháng chiến kiến quốc và sách lược đối ngoại mềm dẻo, linh
hoạt theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” nhằm tranh thủ mọi khả năng có
thể để ngăn chặn chiến tranh của Việt Nam.
32

+ Vai trò cá nhân Hồ Chí Minh, và những khả năng, cơ hội có thể tránh được
chiến tranh từ phía Pháp.
Tuy nhiên, đây là những công trình, bài viết đề cập đến từng nội dung và
toàn bộ cuộc kháng chiến, hoạt động đối ngoại của Việt Nam, hoạt động của Hồ Chí
Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chưa phải là công trình nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vì thế, ở những mức độ khác nhau,
các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích của luận án và luận án có thể
kế thừa nhiều nội dung lịch sử từ đó.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
Trên cơ sở khảo cứu các công trình, bài viết liên quan, những nội dung đã
được đề cập và có thể kế thừa, nghiên cứu sinh xác định luận án sẽ tập trung giải
quyết làm rõ các vấn đề cơ bản sau:
+ Kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 là cuộc chiến Việt Nam buộc
phải tiến hành để giành lấy hoà bình, độc lập dù rằng cả phía Việt am và Pháp đều
có những yếu tố không muốn chiến tranh xảy ra.
+ Khẳng định rõ thiện chí, khát vọng hoà bình của Việt Nam, luôn mong
muốn giải quyết mọi xung đột bằng đàm phán hoà bình, chỉ ra bản chất hiếu chiến
của thực dân Pháp, đã khước từ mọi thiện chí thương lượng từ phía Việt Nam.
+ Chứng minh việc Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là một chủ trương đúng đắn, có
cơ sở lý luận, thực tiễn và đã diễn ra trên thực tế. Hệ thống hoá các Chỉ thị, Nghị quyết,
văn kiện… của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan tới vấn đề đó.
+ Làm rõ các khả năng hoà bình trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và
chủ trương, sách lược của Đảng, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong từng thời
điểm cụ thể. Trong đó, vấn đề tranh thủ khả năng hoà bình được xét trên hai bình diện:
tranh thủ các khả năng có sẵn do các điều kiện thuận lợi đem tới và chủ động thúc đẩy,
tạo ra, làm xuất hiện các khả năng hoà bình có thể tranh thủ để nhanh chóng kết thúc
chiến tranh.
+ Rút ra một số nhận xét, kinh nhiệm về quá trình Đảng lãnh đạo tranh thủ thực
hiện các khả năng hoà bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954.
33

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1


Đến nay, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam
(hay còn gọi chiến tranh Đông Dương), vẫn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều
cơ quan, đơn vị, nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Đã có nhiều cuộc
hội thảo trong nước, quốc tế, các công trình nghiên cứu, tổng kết, các luận văn, luận
án, bài viết có giá trị đề cập tới nhiều chiều cạnh, từ các vấn đề chung, đến các vấn
đề cụ thể của cuộc chiến tranh đối với cả hai phía Pháp và Việt Nam. Với nguồn tư
liệu phong phú, qua nhiều cách tiếp cận khác nhau, nghiên cứu sinh cố gắng giới
thiệu một cách khách quan nhằm thể hiện một cái nhìn đa chiều về nguyên nhân,
bản chất, kết cục, vai trò, trách nhiệm của Pháp và sự kiên cường, chính nghĩa, thiện
chí hoà bình của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh.
Những công trình, bài viết, nguồn tư liệu nêu trên là nguồn tài liệu tham
khảo rất quan trọng của luận án. Có nhiều nội dung, vấn đề luận án có thể kế thừa.
Từ đó, tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn những vấn đề luận án đặt ra
về chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình trong
kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 và rút ra những nhận xét, kinh nghiệm
về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề này.
34

Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO TRANH THỦ THỰC HIỆN KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH TỪ
THÁNG 9 - 1945 ĐẾN HẾT NĂM 1949

2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO TRANH THỦ
THỰC HIỆN KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH CỦA ĐẢNG
2.1.1. Bối cảnh tình hình
T ng nước
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn, thử thách to lớn. Kinh tế trì trệ, kiệt quệ. Chính sách vơ vét, bóc lột nặng
nề của Pháp - Nhật cùng sự đình trệ trong sản xuất nông nghiệp, lũ lụt, hạn hán, mất
mùa liên tiếp xảy ra, đã gây ra nạn đói cướp đi sinh mạng của gần 2 triệu người dân
miền Bắc, khiến nguồn nhân lực bị thiếu hụt nghiêm trọng. Sản xuất công nghiệp bị
đình đốn do bị chiến tranh tàn phá, thiếu nguyên liệu… Hàng hoá tiêu dùng khan
hiếm, giá cả tăng vọt, công nhân thất nghiệp, đời sống người dân khổ cực. Tài chính
khó khăn. gân khố Trung ương chỉ có 1.200.000 đồng, trong đó có 586.000 là tiền
rách nát không dùng được. gân hàng Đông Dương vẫn do người Pháp quản lý. Hậu
quả xã hội mà chế độ thực dân để lại rất nặng nề. Hơn 90% dân số không biết chữ, tệ
nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan phổ biến và trầm trọng. Thực trạng
ấy chính là trở ngại lớn nhất đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng chính quyền, nhà nước dân chủ nhân dân và xây dựng đời sống mới.
hà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, chưa được một quốc gia, tổ
chức quốc tế nào công nhận hoặc đặt quan hệ ngoại giao, nên không có được sự
giúp đỡ ủng hộ về vật chất, tinh thần từ bên ngoài. Đặc biệt, chưa bao giờ trên đất
nước Việt Nam lại có nhiều kẻ thù đến thế, cả nước có tới 4 lực lượng quân đội
nước ngoài: quân Trung Hoa Dân quốc, quân Anh, quân Nhật, quân Pháp, chưa kể
lực lượng nội phản luôn tìm cơ hội ngóc đầu dậy chống phá cách mạng. hà nước
Việt am độc lập phải đối mặt với những thách thức tồn vong, ở vào thế không
đồng minh, không tiền và hầu như không có vũ khí, vận mệnh đất nước “ngàn cân
treo sợi tóc”.
35

Tuy nhiên, từ trong những khó khăn đó, Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhìn thấy khát vọng hòa bình, độc lập và ý chí quyết tâm thực hiện khát
vọng đó của nhân dân. Đó là: khí thế toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
những ngày tháng Tám năm 1945; niềm vui mừng háo hức, thiêng liêng của đồng
bào đón nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945), trịnh
trọng tuyên bố với thế giới nền hòa bình, độc lập của Việt Nam, sự thoát ly hoàn
toàn khỏi những ràng buộc của Việt Nam với thực dân Pháp, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa; nhân dân một lòng tin tưởng, đoàn kết, sẵn sàng hy sinh,
vượt qua mọi khó khăn gian khổ, nghe theo sự lãnh đạo của Đảng, sát cánh cùng
hà nước non trẻ kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, nền độc lập
mới giành được…
Khát vọng, mong muốn hòa bình, độc lập đó của nhân dân chính là sự tiếp
nối truyền thống lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu được nỗi thống khổ, mất mát, hậu quả
nặng nề của chiến tranh và giá trị của hòa bình, độc lập. Khát vọng của họ cũng là
mong muốn, đích hướng tới cao nhất của toàn nhân loại tiến bộ. Trong muôn vàn
khó khăn, thử thách, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt nhìn ra, khát khao
cháy bỏng, quyết tâm mãnh liệt của nhân dân, mục đích cao cả, cuối cùng, duy nhất
của cách mạng cần đạt tới và lực lượng, động lực, nhân tố cốt lõi, quan trọng là
nhân dân để làm nên thắng lợi cuối cùng. Thực tế lịch sử đã chứng minh sự nhận
định, đánh giá đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính khát vọng hòa
bình, độc lập và ý chí quyết tâm thực hiện khát vọng đó của nhân dân đã trở thành
một trong những cơ sở quan trọng tác động đến chủ trương tranh thủ thực hiện các
khả năng hoà bình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
Tình hình th giới
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quá trình giải quyết các vấn đề lớn như quét
sạch tàn dư của chủ nghĩa phát xít; thiết lập một cơ chế quốc tế để bảo vệ hòa bình,
an ninh thế giới; giải quyết vấn đề lãnh thổ của các nước bại trận theo quyết định
của Hội nghị Yalta và Potsdam, đã chi phối mọi hoạt động trong quan hệ quốc tế và
36

làm thay đổi căn bản bức tranh toàn cảnh thế giới về tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội. Thế giới hình thành hai hệ thống chính trị - xã hội mâu thuẫn, đối lập nhau, đó
là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và hệ thống các nước tư bản, đế quốc chủ
nghĩa. iên Xô và Mỹ trở thành hai cường quốc có vai trò ảnh hưởng, chi phối thế
giới. Sự tiến công mạnh mẽ của các lực lượng dân chủ, hoà bình trên thế giới, của
các dân tộc thuộc địa vào chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Các thế lực phản cách mạng,
các lực lượng đế quốc cũng tìm mọi cách chống lại để duy trì, phát triển địa vị của
chúng. Chủ nghĩa đế quốc vừa thống nhất với nhau trong mục tiêu chống Liên Xô
và phong trào cách mạng thế giới, vừa mâu thuẫn gay gắt trong việc tranh giành
quyền lợi, ảnh hưởng. Bối cảnh đó là khởi điểm cho chiến tranh lạnh diễn ra, đồng
thời tác động mạnh mẽ đến cơ cấu quyền lực quốc tế của Liên Xô, Mỹ và quan hệ
quốc tế của từng nước, từng khu vực.
Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù tiềm lực kinh tế, quốc
phòng còn kém Mỹ, song uy tín, vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, trở
thành trụ cột của cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới
và là một trong những cường quốc đóng vai trò quyết định trong các công việc của
Liên hợp quốc cũng như tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực. Liên Xô
tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để khắc phục hậu quả chiến tranh, phát
triển đất nước về mọi mặt, củng cố địa vị cường quốc, thành trì hòa bình thế giới
của mình.
ước Mỹ giàu lên từ chiến tranh do buôn bán vũ khí và ở xa địa bàn xảy ra
chiến sự, nhanh chóng trở thành quốc gia giàu mạnh nhất hành tinh, giữ độc quyền
về vũ khí hạt nhân, có sức mạnh kinh tế, quân sự hơn hẳn các nước đế quốc khác,
duy trì vị trí đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa. Mỹ lôi kéo, viện trợ, tập hợp lực
lượng phản động ở các nước chống lại Liên Xô và các lực lượng cách mạng trên
thế giới nhằm thực hiện tham vọng lãnh đạo, bá chủ thế giới.
Chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, ngày càng có vai trò, tác
động tích cực đến phong trào cách mạng thế giới, hạn chế sự chi phối của hệ thống tư
bản chủ nghĩa. Nguyện vọng hòa bình của Việt am là chính đáng, phù hợp với xu
thế, mục tiêu hướng tới của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hai cường quốc
37

Liên Xô và Mỹ đang chuyển từ đối thoại sang đối đầu, biến mâu thuẫn của hai cường
quốc thành mâu thuẫn giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Phong trào đấu tranh đòi độc lập, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa,
phụ thuộc, phong trào công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản, do các
đảng cộng sản lãnh đạo, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống… diễn ra
mạnh mẽ ở khắp các châu Á, Phi, Mỹ - Latinh. Nhiều nước như Ấn Độ, Mianma,
Ai Cập, Inđônêxia, Xiri… giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành
độc lập dân tộc, phát triển đất nước theo con đường trung lập và thực hiện chủ
trương đối ngoại hòa bình, trung lập. Nội bộ các nước tư bản chia rẽ sâu sắc. Hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từng mảng lớn, đứng trước nguy
cơ sụp đổ.
Các nước Đức, Italia, Nhật, Pháp, Anh… bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
kinh tế kiệt quệ, tiềm lực kinh tế quốc phòng bị suy giảm, chính trị - xã hội khủng
hoảng, đời sống nhân dân khó khăn, vị thế giảm sút trên trường quốc tế. Các nước
này phải dựa vào Mỹ để khôi phục, phát triển đất nước nên lệ thuộc Mỹ, câu kết với
Mỹ chống phá Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới.
Đặc biệt, nước Pháp ra khỏi chiến tranh với những khó khăn, tổn thất nặng
nề trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và đời sống xã hội. Hơn 3 triệu
người chết, bị thương và bị bắt; 500 nghìn nhà cửa, công trình kiến trúc bị phá huỷ
hoàn toàn, 1,5 triệu công trình khác bị hư hại nặng, hàng triệu hécta đất trồng trọt bị
bỏ hoang; ngân sách năm 1945 bị thiếu hụt tới 55%; hơn 6 triệu người không có nhà
ở; 400 nghìn người thất nghiệp hoàn toàn; 1,2 triệu thất nghiệp từng phần; đồng
Phrăng mất giá. Thực lực kinh tế, quân sự, vị thế chính trị quốc tế suy giảm nghiêm
trọng. Cùng với đó là sự bất ổn về tình hình chính trị và không có một chủ trương,
chính sách thống nhất về vấn đề Việt am, Đông Dương. Biểu hiện là: các chính
phủ liên tục thay nhau đổ, thiếu thống nhất trong chỉ đạo vấn đề Việt Nam giữa
Chính phủ Pháp ở Pari với những người cầm đầu chính quyền thực dân ở Việt Nam,
giữa các Tổng chỉ huy và các Cao uỷ Pháp ở Đông Dương; Đảng Cộng sản Pháp có
tiếng nói quan trọng trong chính trường nước Pháp; Một số chính khách ở Pari
trước đó đã từng tham gia chống phát xít Đức, hiểu cái giá phải trả của chiến tranh
38

là rất nặng nề và cũng phần nào hiểu được cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân
dân các nước thuộc địa… Đó là những khó khăn, trở ngại rất lớn khi Pháp muốn
thực hiện tham vọng khôi phục lại địa vị cường quốc thế giới, quay trở lại xâm lược
Việt Nam, giành lại thuộc địa đã mất. Mặc dù thế, thực dân Pháp vẫn thể hiện rõ
quyết tâm muốn áp đặt trở lại sự thống trị lên Việt Nam qua hàng loạt các hoạt động
như: Tuyên bố ngày 24-3-1945 của Chính phủ lâm thời Pháp, do De Gaulle đứng
đầu, xác lập những chính sách cơ bản nhằm duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế,
quân sự, ngoại giao của Pháp ở Đông Dương; thành lập Đạo quân viễn chinh; ngày
22-8-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Pháp thăm Mỹ, sau đó thăm Anh để tìm
kiếm sự ủng hộ Pháp trở lại Việt am, Đông Dương…
hư vậy, đối với vấn đề Pháp khôi phục lại địa vị thống trị ở Việt Nam, nội
bộ Đồng minh không có sự thống nhất trong ủng hộ Pháp. Anh xuất phát từ lợi ích
của mình ở các thuộc địa nên quyết tâm ủng hộ Pháp, lôi kéo Pháp chống lại âm
mưu của Mỹ muốn phi thực dân hoá. Trung Hoa Dân quốc tỏ ra không mặn mà với
kế hoạch của Pháp nhưng lại muốn dùng Việt Nam làm sức ép để buộc Pháp phải
có những nhân nhượng về kinh tế. Hai cường quốc Liên Xô, Mỹ tuy có mâu thuẫn
nhau, nhưng trong Hội nghị Têhêran (11-1943) cũng từng đồng quan điểm “Đồng
minh không nên giúp Pháp để nắm lại quyền kiểm soát ở Đông Dương… Đồng
minh không nên đổ máu để đem lại sự thống trị của Pháp ở Đông Dương” [143,
tr.17], thống nhất nên đặt Đông Dương dưới một chế độ ủy trị quốc tế. Sau đó, thái
độ của Mỹ, Liên Xô dần thay đổi trước sự kiên quyết ủng hộ Pháp của Anh và sau
chuyến thăm Mỹ (22-8-1945) của De Gaulle cùng những tính toán chiến lược cho vị
thế cường quốc. Còn Chính phủ Pháp đang phải đối mặt với hàng loạt những khó
khăn, thách thức như: sự lớn mạnh của Liên Xô, hệ thống xã hội chủ nghĩa và
phong trào đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ
thuộc, của phong trào của công nhân, sự phát triển của các đảng Cộng sản ở các
nước tư bản, đế quốc; các nước dù thắng trận hay bại trận đều có mong muốn đất
nước hòa bình; nhân loại trải qua và chứng kiến sự thảm khốc của chiến tranh,
muốn duy trì nền hòa bình, an ninh thế giới đã thành lập tổ chức Liên hợp quốc;
khát vọng hòa bình, độc lập của Việt Nam phù hợp với xu thế thời đại, tiến trình
39

phát triển của nhân loại; nước Pháp với những khó khăn, bất ổn… khi Pháp muốn
khôi phục lại địa vị thống trị ở Việt Nam.
Bối cảnh đó đưa đến những khó khăn, thuận lợi và là cơ sở thực tiễn quan
trọng để Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạch định chủ trương tranh thủ
thực hiện các khả năng hòa bình, đẩy lùi chiến tranh.
2.1.2. Nhận thức của Đảng về tranh thủ khả năng hòa bình để giành độc
lập trước Cách mạng tháng Tám nă 1945
Suốt 15 năm từ 1930 đến 1945, là thời kỳ Đảng vừa nhận thức, tìm tòi, xác
định con đường đi cho dân tộc, vừa lãnh đạo nhân dân tranh thủ mọi cơ hội, điều
kiện thuận lợi, từng bước đấu tranh giành độc lập dân tộc. Thực tiễn quá trình lãnh
đạo đó là kinh nghiệm, yếu tố tác động quan trọng đến quá trình lãnh đạo tranh thủ
thực hiện các khả năng hòa bình của Đảng ở giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Trước hết là Đảng nhận thức về nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Ngay từ
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo (2-1930), xác định rõ
nhiệm vụ cách mạng Việt am là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”, theo đó, ưu tiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải
quyết vấn đề dân tộc độc lập rồi mới giải quyết vấn đề giai cấp. Bởi trên 90% dân
số Việt Nam là nông dân nên thực chất của vấn đề dân chủ giai cấp cũng chính là
vấn đề dân tộc và ngược lại.
Từ nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng, Đảng nhận thức các điều kiện, khả
năng và phương sách có thể tranh thủ thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Đó là
“cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới”, phải có sự liên hệ
với cách mạng thế giới, nắm bắt được tình hình, xu thế phát triển của thế giới, khu
vực mới có sách lược phù hợp để tranh thủ được các khả năng, cơ hội thuận lợi đưa
cách mạng nhanh tới thắng lợi cuối cùng. Vì thế, những năm 1936-1939, trong điều
kiện Mặt trận Bình dân nắm chính quyền ở Pháp, nới lỏng một số quyền tự do, dân
chủ ở thuộc địa, Đảng nhận thức đây là thời kỳ có điều kiện, cơ hội để người dân
đấu tranh giành các quyền tự do dân chủ, được sống trong hòa bình, không có các
xung đột quân sự, nên đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh từ biểu
dương lực lượng, bãi thị, bãi khoá đến các hình thức đấu tranh nghị trường (tranh
40

cử vào Viện Dân biểu, Hội đồng Quản hạt, đón Godard đưa kiến nghị, tổ chức
Phong trào Đông Dương Đại hội, các hoạt động báo chí…), đòi các quyền lợi kinh
tế, dân sinh, dân chủ, thả tù chính trị…
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1-9-1939) đến khi phát xít
Đức tấn công Liên Xô (22-6-1941) và Liên Xô tham chiến, làm cho tính chất, lực
lượng, cục diện cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi có tính bước ngoặt,
Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dự đoán các khả năng có thể đem đến những thuận
lợi cho cách mạng, từ đó kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Trung ương
Đảng, Nguyễn Ái Quốc chủ trương phải tìm cách liên kết, hợp tác với phong trào
cộng sản, cách mạng thế giới và các lực lượng dân chủ để tăng cường sức mạnh và
khả năng thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách liên
lạc với Đồng minh, đứng về phe Đồng minh để chống phát xít. Tháng 8-1942, Hồ
Chí Minh (sau bức thư Kính cáo đồng bào, ngày 6-6-1942 ký tên Nguyễn Ái Quốc,
đã chuyển sang sử dụng tên là Hồ Chí Minh) đi Trung Quốc để tìm kiếm sự hợp tác,
giúp đỡ quốc tế. Hồ Chí Minh đã chủ động nắm bắt cơ hội, tạo dựng mối liên hệ,
hợp tác, giúp đỡ từ lực lượng Đồng minh là Mỹ cho cách mạng Việt Nam. Trong
khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7-1945, phía Việt am đã cố gắng cung cấp
các tin tức liên quan đến quân Nhật đang đóng quân ở miền Bắc Việt Nam cho phía
Mỹ. Sau đó, Mỹ đã có hàng chục chuyến bay của không quân Mỹ thả dù hàng, hạ
cánh xuống khu căn cứ Tân Trào, mang đến một khối lượng vũ khí, trang bị điện
đài, thuốc men cần thiết cho lực lượng vũ trang cách mạng. Không những thế, phía
Mỹ còn cho một nhóm sĩ quan tình báo ( hóm Con ai) thuộc Cơ quan Dịch vụ
chiến lược (OSS), tiền thân của Cục tình báo Trung ương (CIA), nhảy dù xuống
Tân Trào tham gia huấn luyện quân sự cho các đơn vị của Việt Minh. Kết quả sự
hợp tác với Mỹ là việc thành lập đơn vị hỗn hợp Việt - Mỹ (còn gọi là đại đội Việt
Mỹ) gồm khoảng 200 người, do Đàm Quang Trung làm Đại đội trưởng, Thiếu tá
Mỹ Thomas tham gia ban chỉ huy, làm Tham mưu trưởng. Đơn vị Việt Mỹ đã cùng
tác chiến đánh quân hật giải phóng thị xã Thái Nguyên trong Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945.
Khi Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương (9-3-1945), quân Pháp
nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương
41

Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", trong đó nhận
định điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi nhưng hiện đang có những cơ hội
tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi, nên chủ trương
phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa và dự kiến những thời cơ thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa.
Tiếp đó, trong suốt nửa đầu tháng Tám năm 1945, một loạt các sự kiện dồn
dập diễn ra: Chính phủ Mỹ quyết định ném hai quả bom nguyên tử xuống
Hiroshima (6-8) và Nagasaki (9-8) của Nhật Bản làm chết hơn 140.000 người dân,
nhằm răn đe cả thế giới và đánh sụp ý chí chiến tranh của Nhật. Liên Xô tuyên
chiến với phát xít Nhật (9-8), nhanh chóng đánh bại đạo quân chủ lực Quan Đông,
dẫn tới việc Nhật Hoàng phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh (15-8). Từ diễn biến
tình hình trên trường quốc tế và sự phát triển của phong trào cách mạng trong nước,
nhận thấy thời cơ chiến lược của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã xuất
hiện, Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định cần nhanh chóng nắm bắt, đón lấy và
lãnh đạo thực hiện. Trên cơ sở nắm bắt, nhận định tình hình, lãnh tụ Hồ Chí Minh
đã nói với cộng sự là Võ Nguyên Giáp: Bây gi th i cơ thuận lợi đang tới, dù phải
hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trư ng Sơn cũng kiên quyết giành cho
được độc lập. Điều đó thể hiện quyết tâm sắt đá, dù phải hy sinh lớn lao, nhưng
phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc, vì độc lập dân tộc là điều trân quý
nhất, là mục tiêu đấu tranh của cả dân tộc Việt Nam. Tranh thủ thời cơ khởi nghĩa
giành độc lập dân tộc lúc này trở thành quyết tâm không gì lay chuyển được của
Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đây là thời cơ ngàn năm có một, nếu không chớp lấy
và tận dụng được, sẽ bỏ lỡ cơ hội giành độc lập cho dân tộc khi mà thực dân Pháp
đã bị Nhật lật đổ, chủ nghĩa phát xít đã bị đánh bại, đã đầu hàng, chính phủ thân
Nhật rệu rã, suy sụp, triều đình nhà guyễn bất lực, khí thế quần chúng cách mạng
đang lên cao.
Chủ trương tận dụng thời cơ của Đảng thể hiện rõ ở chỗ nhân khi quân Đồng
minh làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật chưa kéo vào Việt Nam, cần phải nhanh
chóng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập Chính phủ dân chủ cộng hoà,
tuyên bố độc lập để lấy tư cách là chủ nhân một nước độc lập đón tiếp và giao thiệp
42

với quân Đồng minh. Cuộc Tổng khởi nghĩa toàn quốc, do Đảng, đứng đầu là lãnh
tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã làm được điều đó, giành được thắng lợi nhanh chóng.
Thực tế cách mạng những năm 1939-1945, giúp cho Đảng, Hồ Chí Minh
nhận thức rõ ràng rằng một khi điều kiện quốc tế thay đổi, mở ra các khả năng
giành độc lập hòa bình, thì cần có chủ trương, sách lược đấu tranh phù hợp để chủ
động nắm lấy, kể cả thúc đẩy để tạo ra các khả năng thuận lợi để tranh thủ để sớm
giành lấy thắng lợi cuối cùng. Thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
minh chứng điển hình về chủ trương lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thể hiện rõ quá
trình Đảng nhận thức, dự báo các khả năng, đánh giá tình hình, đề ra chủ trương và
tranh thủ tận dụng các khả năng thuận lợi thực hiện thành công mục tiêu giành độc
lập dân tộc. Thực tiễn đó chính là cơ sở quan trọng để Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề ra và lãnh đạo thực hiện chủ trương tranh thủ các khả năng hoà bình trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2.2. CHỦ TRƯƠNG TRANH THỦ THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HOÀ
BÌNH CỦA ĐẢNG TỪ THÁNG 9 - 1945 ĐẾN HẾT NĂM 1949
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy rõ âm mưu, quyết tâm
quay trở lại thôn tính Việt Nam lần thứ hai của thực dân Pháp, bản chất của lực
lượng Đồng minh kéo vào Việt Nam; thấy rõ nguy cơ xảy ra chiến tranh giữa Việt
Nam và Pháp là khó tránh khỏi. Song, Đảng cũng nhận thấy trên thực tế có một số
tướng lĩnh cấp cao, quan chức trong Chính phủ Pháp có tư tưởng thức thời, những
khó khăn mà Pháp đang gặp phải nếu quay lại xâm lược Việt Nam, nhân dân Pháp
không muốn chiến tranh xảy ra. Quốc tế cũng có những yếu tố đưa đến khả năng có
thể kéo dài thời gian hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tạo ra được những
khoảng thời gian hoà bình tạm thời để tranh thủ chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng
chiến nếu buộc phải nổ ra, dùng giải pháp chiến tranh để giành lấy hòa bình. Chính
vì thế, Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở thực tiễn, đã đánh giá,
nhận định các khả năng có thể xảy ra, chủ động đề ra chủ trương đúng đắn, phù
hợp, tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu cuối cùng là hoà bình, độc lập
dân tộc thật sự.
43

2.2.1. Từ sau ngày 2-9-1945 đến ngày 19-12-1946


Ngày 2-9-1945, Việt am đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới nền độc lập
của mình. Song, trên thực tế, nền độc lập ấy chưa được thực thi trọn vẹn và ngày
23-9-1945, đã bị thực dân Pháp chính thức xâm phạm khi chúng nổ súng đánh
chiếm Nam Bộ. Từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946, là thời gian
miền Bắc có hòa bình, tranh thủ từng giây, từng phút khắc phục hậu quả của chế độ
thực dân, phong kiến, xây dựng hà nước Dân chủ nhân dân và sát cánh cùng miền
Nam kháng chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược. Đất nước trong tình thế vừa
kháng chiến ở miền Nam, vừa kiến quốc ở miền Bắc. Tuy là hai nhiệm vụ, hai sách
lược khác nhau, nhưng cùng chung một mục tiêu cuối cùng là giành lại và bảo vệ
nền độc lập, hòa bình thực sự cho Tổ quốc. Trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn,
để đạt được mục tiêu, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực hết mình, làm mọi
cách để tránh chiến tranh.
Chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình của Đảng, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn này chính là từ các điều kiện, khả năng khách
quan, trên cơ sở thực lực cách mạng, đã hoạch định được một đường lối phù hợp,
hiệu quả nhằm tranh thủ tận dụng mọi khả năng, cơ hội có lợi để đạt được mục tiêu
là tránh chiến tranh, giữ vững thành quả cách mạng, nền hoà bình, độc lập mới
giành được, nhanh chóng xây dựng thực lực mạnh về mọi mặt, tiến tới đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh. Chủ trương đó của Đảng được thể hiện qua việc xác định đúng kẻ
thù chính, hiểu rõ toan tính của từng đối tượng, của lực lượng Đồng minh ở Việt
am để đề ra sách lược ngoại giao phù hợp nhằm phân hóa, triệt để khai thác mâu
thuẫn giữa các tập đoàn đế quốc, lực lượng tay sai, tránh cùng lúc phải đối phó với
nhiều kẻ thù… tìm cách kéo dài thời gian hòa bình, thực hiện kháng chiến và kiến
quốc thắng lợi.
Chính vì thế, nắm bắt được tinh thần của Hội nghị Potsdam (17-7 đến 02-8-
1945) và những diễn biến mau lẹ của tình hình thế giới những ngày cuối của cuộc
Chiến tranh thế giới thứ hai, Hội nghị toàn quốc của Đảng ngày 14, 15-8-1945 tại
Tân Trào, Tuyên Quang nhận định chiến thắng phát xít của Đồng minh là điều kiện
thuận lợi để xây dựng nền hòa bình và “mở rộng chế độ dân chủ trên hoàn cầu… cơ
44

hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới và phải kịp thời - kịp thời hành động,
không bỏ lỡ cơ hội ” [35, tr.423-424-425], đồng thời phân tích rõ bản chất, âm mưu
hành động của từng lực lượng, khả năng có thể xảy ra trong tình thế cách mạng mới.
Từ đó, Đảng chủ trương tranh thủ thời cơ giành độc lập, làm chủ đất nước trước khi
quân Đồng minh kéo vào, đề ra chính sách ngoại giao khôn khéo vừa lợi dụng được
mâu thuẫn trong vấn đề Đông Dương của hai nhóm trong phe Đồng minh là Anh,
Pháp và Mỹ, Trung Hoa Dân quốc, vừa chủ động xử lý mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ,
Pháp và Liên Xô, có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp, để Pháp trở lại
Đông Dương, và tránh được “trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng
Đồng minh (Tàu, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt chính phủ của Pháp Đờ
Gôn hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc” [35, tr.427].
hư vậy, Đảng cho rằng cần tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, Mỹ
và nhân dân tiến bộ các nước. Đối với lực lượng Đồng minh vào tước khí giới quân
Nhật, Đảng chủ trương tránh xung đột quân sự, giao thiệp thân thiện nhưng kiên
quyết đấu tranh bảo vệ quyền lợi dân tộc nếu họ có hành động xâm phạm. Tuy nhiên,
yếu tố cơ bản quyết định thắng lợi của Việt Nam lúc này vẫn phải là sức mạnh nội
lực, dựa vào thực lực của mình là chính. Đảng đã đánh giá xác thực âm mưu, hành
động của từng lực lượng, từ hiện thực để dự báo khả năng sẽ xảy ra, có chủ trương
phù hợp đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi, bảo vệ được thành quả cách mạng
và đặt cơ sở cho chính sách đối ngoại của Đảng những năm tiếp theo.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố “thoát ly hẳn
quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt
Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt am” [116, tr.3],
khẳng định: “ ước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [116, tr.3]. Đó
là ý chí, quyết tâm và nguyện vọng chính đáng của cả dân tộc Việt Nam. Chủ
trương, chính sách của Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Tuyên ngôn
Độc lập đồng thời cũng là tuyên ngôn về đường lối đối ngoại của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Trong L i kêu gọi quốc dân ngày 5-9-1945, Hồ Chí Minh
45

khẳng định rõ thái độ “hoan nghênh quân Đồng minh kéo vào Việt am để tước khí
giới quân Nhật, nhưng kiên quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục
đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa” [116, tr.10].
Thư gửi những ngư i Pháp ở Đông Dương của Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Tôi
trịnh trọng cam đoan rằng những người Pháp làm ăn lương thiện và sống yên ổn sẽ
mãi mãi được chúng tôi trọng đãi như bạn bè, như anh em. Chúng tôi là một dân tộc
ưa hòa bình, trọng quyền lợi và tự do của người khác” [116, tr .77].
Xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhiệm vụ cách mạng cụ thể Đảng đề ra là
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, có thêm thời gian hòa bình kiến thiết đất nước, thực
hiện mục tiêu bất di bất dịch “đưa nước nhà đến sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn”
[101, tr.1]. Muốn có độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn thì phải có hòa bình, không còn
chiến tranh. Hiện tại, đất nước vừa có chiến tranh, vừa có hòa bình, nên mục đích
cốt yếu của ngoại giao là “giúp cho sự tranh đấu ấy được thắng lợi bằng mọi
phương pháp êm dịu hay cương quyết tùy theo thái độ của các liệt quốc, nhưng bao
giờ cũng lấy nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương” [101, tr.1]. Ngoại giao
phải từng bước xác lập được các mối quan hệ với bên ngoài, đặt quan hệ chính thức
với các quốc gia, tìm kiếm sự ủng hộ, công nhận của quốc tế. Trên cơ sở đó, Thông
cáo về chính sách ngoại giao ngày 3-10-1945 của Chính phủ Lâm th i nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, xác định rõ đối sách với từng đối tượng, lực lượng cụ thể:
“Với các nước Đồng minh, Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực cộng tác trên
lập trường bình đẳng tương ái để xây lắp lại nền hòa bình thế giới” [101, tr.1]. Với
Trung Hoa thì thắt chặt tình thân ái để hai dân tộc cùng tương trợ mà tiến lên. Với
Pháp thì sẽ đảm bảo sinh mạng, tài sản cho kiều dân Pháp theo luật quốc tế nếu họ
tôn trọng độc lập của Việt Nam, còn chính phủ De Gaulle, chủ trương thống trị Việt
Nam, không chịu thừa nhận độc lập của Việt Nam thì Việt Nam kiên quyết chống
lại. Với các nước khác, Việt am “sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên nguyên
tắc bình đẳng, để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và giữ vững nền độc lập” [101,
tr.1]. Với Cao Miên và Ai Lao thì quan hệ trên cơ sở nền tảng là quyền dân tộc tự
quyết, cùng tương trợ để thực hiện và củng cố độc lập, giúp đỡ nhau để kiến thiết và
sánh vai ngang hàng để cùng phát triển.
46

Trong điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch Liên Xô là Stalin đề
ngày 21-10-1945, viết: “ hân dân Việt Nam mong muốn hợp tác với Liên hợp quốc
vì sự nghiệp tạo ra nền hòa bình lâu dài trên toàn thế giới, và vì họ đã phải khổ cực
bởi sự thông đồng của người Nhật và người Pháp vào năm 1941, nên họ hết sức
cương quyết không để cho người Pháp trở lại Đông Dương” [116, tr.79]. Khi trả lời
các nhà báo Trung Hoa và Pháp ngày 23-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
giữa “Trung Hoa và Việt Nam có quan hệ như răng với môi vậy”, và chính sách của
Việt am đối với Trung Hoa là phải thân thiện, còn với Pháp:
Chúng ta không chống tất cả nước Pháp. Nếu có những người Pháp
muốn qua đây điều đình một cách hòa bình (từ trước tới nay chưa có một
cuộc điều đình như vậy, nhưng giả sử có, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ hoan
nghênh) thì điều kiện căn bản của cuộc điều đình ấy là người Pháp phải
thừa nhận nền độc lập của Việt Nam [116, tr.85].
Chính sách ngoại giao của Chính phủ được công bố thể hiện tầm nhìn chiến
lược, tư tưởng ngoại giao rộng mở của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế quốc tế, khẳng định vị thế của hà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, chủ trương tranh thủ khả năng hòa bình của Đảng giai đoạn này
còn thể hiện qua hàng loạt văn kiện quan trọng xác định các nhiệm vụ cụ thể như:
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945) của Ban Chấp hành Trung ương.
Sau khi cuộc chiến đấu ở Nam Bộ diễn ra được hai tháng, Trung ương Đảng
ra một bản chỉ thị quan trọng, có tiêu đề là Kháng chiến, kiến quốc. Đây cũng chính
là hai nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này. Từ tình hình thực tế,
Đảng nhận định: “Pháp rất có thể thừa nhận cho Đông Dương độc lập và ký với
Đông Dương một bản hiệp ước thân thiện, đặng giữ thể diện với quốc tế và cứu vãn
quyền lợi của Pháp ở Đông Dương” [36, tr.25], và chủ trương: “Cuộc tranh đấu của
nhân loại cần lao và tiến bộ trên thế giới hiện nay là tranh đấu cho hòa bình, tự do,
hạnh phúc” [36, tr.26]. Chỉ thị khẳng định tính chất cách mạng Đông Dương lúc
này vẫn là cách mạng dân tộc giải phóng, kẻ thù chính của Việt Nam lúc này là
“thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” [36, tr.26],
47

cần mở rộng Mặt trận Việt Minh gồm mọi tầng lớp nhân dân có tinh thần dân tộc,
yêu nước và thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp, “kiên quyết giành
độc lập - tự do - hạnh phúc dân tộc. Độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ
cộng hòa; cải thiện đời sống cho nhân dân…” [36, tr.26]
Xét đến cùng, độc lập, tự do, hạnh phúc với mục tiêu “Dân tộc trên hết. Tổ
quốc trên hết” [36, tr.26] mà Chỉ thị xác định, hướng tới chính là một nền hòa bình
thực sự, một đất nước độc lập trong tự do, không còn chiến tranh. Vì thế, Chỉ thị chỉ
ra những nhiệm vụ cần kíp phải tranh thủ tập trung xây dựng, kiến thiết miền Bắc
trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, hoàn thiện Chính phủ,
thể chế hà nước... và kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc
“bình đẳng và tương trợ”, làm cho đất nước ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn
hết, “với Tàu, vẫn chủ trương Hoa - Việt thân thiện, coi Hoa kiều như dân tối huệ
quốc. Đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” [36, tr.27].
Chỉ thị đã xác định những vấn đề cơ bản của đường lối đối nội, đối ngoại,
kháng chiến, kiến quốc của Đảng trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu cách mạng
trong những năm tiếp theo.
Chỉ thị “Tình hình và chủ trương” ngày 3-3-1946
Trước việc thực dân Pháp thỏa thuận với Trung Hoa Dân quốc, ký Hiệp ước
với Pháp - Hoa (28-2-1946), đặt Việt Nam vào tình thế phải có chủ trương, giải
pháp để ứng phó nhằm vừa tránh được xung đột, vừa tiếp tục xây dựng thực lực,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Trong bối cảnh đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương. Chỉ thị nhận định vì lợi ích chung của đế quốc
và mưu toan muốn chống phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa,
bao vây iên Xô, các nước Anh, Pháp và Mỹ-Tàu đã tạm dẹp bỏ mâu thuẫn bộ phận
ở Đông Dương, đồng ý nhân nhượng với Pháp về vấn đề Đông Dương. Khi Pháp ký
với Trung Hoa Dân quốc Hiệp ước Pháp - Hoa (28-2-1946), thì đây không còn là
chuyện “riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai
của chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định
chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy” [36, tr.41].
48

Do những khó khăn nội bộ của Trung Hoa Dân quốc và Pháp, Hiệp ước Pháp
- Hoa là sự thỏa hiệp của cả đôi bên, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, độc lập của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tạo điều kiện cho Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt
Nam, thực hiện âm mưu tái chiếm Đông Dương. Tuy Hiệp ước này giúp cách mạng
Việt Nam loại bỏ một kẻ thù là quân Trung Hoa Dân quốc nhưng lại phải đối phó
với kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Đảng đánh giá tình hình, xác định kẻ thù chính, trực tiếp của dân tộc trước sau
vẫn là thực dân Pháp và khả năng cuộc chiến tranh xảy ra là khó tránh khỏi. Song,
vấn đề đặt ra lúc này là nên đánh hay nên hoà hoãn với thực dân Pháp khi hạm đội
của Pháp đang trên đường từ miền Nam ra miền Bắc, làm thế nào để có lợi nhất cho
cách mạng?; có tránh được chiến tranh với Pháp hay không?; đánh hay hoà lúc này
có lợi, có hại gì? v.v… Đảng chủ trương:
Nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn
ngày 24-3-1945, thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du
kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa, hòa
để phá tan thâm thù của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn
phát xít còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải
đánh với nhiều kẻ thù một lúc để làm thực lực của ta tiêu hao [36, tr.43].
Vấn đề lúc này là cần hiểu rõ tình hình địch - ta để có chủ trương đúng. Với
thực lực hiện tại, hòa để: “Phá được mưu mô bọn Tàu trắng, của bọn phát xít, và
của bọn Việt gian, bảo toàn được thực lực. Dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa
soạn cuộc chiến đấu mới phối hợp với các cuộc chiến đấu của nhân dân Pháp, tiến
tới giành độc lập hoàn toàn” [36, tr.45].
Chỉ thị chỉ rõ cần tranh thủ thực hiện các công việc cụ thể trong thời gian hoà
hoãn với Pháp: diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu trắng; liên lạc mật
thiết với Đảng Cộng sản Pháp để cùng đấu tranh; tích cực mở rộng tuyên truyền
quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ; tập trung giải quyết vấn đề dân sinh… Mặt khác,
phải thận trọng tránh “bị mắc hợm bọn thực dân Pháp”, phải luôn cảnh giác, sẵn
sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu… Mục tiêu cuối cùng là hoà bình, độc lập
dân tộc, lập trường của ta đối với Pháp là “độc lập nhưng liên minh với Pháp. Pháp
49

phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân ta “Chính phủ, quân đội, nghị viện,
tài chính, ngoại giao, v.v... và “sự thống nhất quốc gia của ta” [36, tr.46].
Chỉ thị Tình hình và chủ trương khẳng định lập trường, mục tiêu độc lập dân
tộc trước sau không thay đổi, nhưng để có hòa bình, độc lập hoàn toàn là một quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, phải tranh thủ điều kiện hòa bình hiện tại để chuẩn
bị thực lực cho cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ nếu khả năng hòa bình khép lại.
Chỉ thị “Hoà để tiến” của Ban Thư ng vụ Trung ương ngày 9/3/1946
Ngay sau Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), ngày 5-3-1946, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, nhất trí chủ trương Hòa để tiến, quyết
định tạm hòa hoãn với thực dân Pháp, nhất trí ký với Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-
1946 (giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là Hồ Chí Minh và đại
diện Chính phủ Pháp là Jean Sainteny. Đảng xác định hòa với Pháp để:
1. Tránh tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng lúc với nhiều lực
lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong
nước), chúng sẽ đúc thành một khối và được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp
sức để đánh ta trong khi các lực lượng hòa bình, tự do và tiến bộ trên thế
giới (như iên Xô, phong trào cộng sản ở Tàu và Pháp, cách mạng thuộc
địa) chưa thể trực tiếp giúp ta được.
2. Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới
đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi
dưỡng và củng cố phong trào. Tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội
tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới [36, tr.49].
Đảng chủ trương thay các khẩu hiệu “kháng chiến” bằng “kiến quốc”;
“chống thực dân Pháp xâm lược” bằng “liên hiệp bình đẳng với nước Pháp mới” và
“hai dân tộc Việt - Pháp liên hiệp lại chống bọn phản động Pháp”… và cuộc đấu
tranh về quân sự phải chuyển thành cuộc đấu tranh về chính trị, kinh tế và văn hóa
nhưng vẫn đề phòng việc thực dân Pháp bội ước, kín đáo chuẩn bị thực lực để
không bị động khi chiến tranh xảy ra.
Sau khi Hội nghị đàm phán Fontainebleau tan vỡ (10-9-1946), Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Tạm ước 14-9-1946 với đại diện chính phủ Pháp, tiếp tục nhân
50

nhượng Pháp. Song, tình hình trong nước vẫn ngày càng căng thẳng. Trước dã tâm
của thực dân Pháp, thể hiện qua các tuyên bố và hành động sau khi đã có Tạm ước,
Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng (19-10-1946), nhận định: “nhất định không
sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp” [36,
tr.133]. Tuy nhiên, với khát vọng hòa bình, muốn tránh chiến tranh, Việt Nam vẫn
chấp nhận nhân nhượng, tỏ rõ thiện chí sẵn sàng, thành thật muốn hợp tác, nhưng
không ảo tưởng vào sự hòa hoãn, mà chủ động mọi mặt, kiên quyết bảo vệ hòa
bình, độc lập dân tộc. Ngày 5-11-1946, trong văn kiện Công việc khẩn cấp bây gi ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn xác định rõ hai nhiệm vụ là kháng chiến và kiến quốc,
đó là cuộc kháng chiến để bảo vệ quyền độc lập, tự do của Tổ quốc, nhân dân, dù
lâu dài, gian khổ, nhưng có niềm tin chắc thắng với sự đồng lòng, quyết tâm của
toàn dân “cố rán sức qua khỏi mùa đông lạnh lẽo, thì sẽ gặp mùa xuân…”. Trong
L i kêu gọi Liên Hợp quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ hân
dân chúng tôi thành thật muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết
chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho
Tổ quốc và độc lập cho đất nước [116, tr.522]. Ngày 12-12-1946, Hồ Chí Minh
tuyên bố với đại biểu các báo Việt am “Việt Nam quyết lòng thật thà cộng tác với
nhân dân Pháp như anh em, trên nền tảng độc lập, bình đẳng, quyết lòng tôn trọng
lợi ích văn hóa và vật chất của nước Pháp ở đây. hưng Việt am cũng quyết lòng
không để cho ai chinh phục bằng âm mưu hoặc bằng vũ lực” [116, tr.525]. Trả lời
phóng viên báo Pari - Sài Gòn (13-12 -1946), Hồ Chí Minh nói: “Đồng bào tôi và
tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân
dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng
đủ mọi cách. Chúng tôi tha thiết muốn nền độc lập, nhưng nước Việt am độc lập ở
khối Liên hiệp Pháp” [116, tr.526].
Chủ trương tranh thủ khả năng hòa bình của Đảng những năm 1945-1946 thể
hiện rõ khi xác định thực dân Pháp là kẻ thù chủ yếu, nguy hiểm nhất; khẳng định
giành độc lập hoàn toàn để tiến tới một nền hòa bình thực sự là mục tiêu nhất quán,
xuyên suốt; tranh thủ các khả năng khách quan và thúc đẩy tạo ra khả năng có lợi,
chủ động trong mọi tình huống; sách lược chính là thực hiện chính sách ngoại giao
51

thêm bạn bớt thù, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, cứng rắn và nhất quán về
nguyên tắc để kéo dài thời gian hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tranh thủ kiến
quốc, chuẩn bị thực lực cho cuộc chiến đấu nếu xảy ra. Điều đó thể hiện rõ thiện chí
mong muốn hòa bình, độc lập, tránh chiến tranh của Việt Nam. Vì hòa bình, Việt
Nam sẵn sàng nhân nhượng, thành thật hợp tác với Pháp, ủng hộ Đồng minh.
hưng cũng vì hòa bình, để có hòa bình, Việt Nam kiên quyết chiến đấu đến cùng.
Được sự tiếp tay, hậu thuẫn của các đế quốc Anh, Mỹ, sau hơn một năm
quay trở lại xâm lược Nam Bộ, Việt Nam, bằng mọi thủ đoạn từ quân sự, chính trị,
đến “đổi chác”, thỏa thuận với Trung Hoa Dân quốc, thương lượng với Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực dân Pháp đã đưa được quân ra Bắc và không
ngừng thực hiện kế hoạch mở rộng chiến tranh khắp Việt Nam. Bất chấp mọi thiện
chí hòa bình của Chính phủ Việt Nam, thực dân Pháp liên tiếp vi phạm các điều
khoản trong các Hiệp định, Tạm ước đã ký kết. Những ngày tháng 12 năm 1946,
khả năng hòa bình để Việt Nam tranh thủ không còn nữa, nguy cơ chiến tranh ngày
càng đến gần.
Sau khi Pháp đánh chiếm Hải Phòng (23-11-1946), Thường vụ Trung ương
Đảng nhận định “nhất định địch sẽ gây hấn ở Thủ đô, chiến tranh trên cả nước là
không thể tránh khỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhấn
mạnh: “ ếu quân Pháp tái diễn ở Hà Nội việc chúng đã làm ở Hải Phòng thì cả nước
sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược” [49, tr.387] . Ngày 12 - 12 -
1946, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ:
Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập...
Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết
với hai dân tộc Mên, Lào và các dân tộc bị áp bức trong khối Liên hiệp
Pháp. Thân thiện với các dân tộc Tàu, Xiêm, Diến Điện, Ấn Độ, Nam
Dương và các dân tộc yêu chuộng dân chủ, hòa bình trên thế giới…
Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc
[36, tr.150-151].
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: “Quân Pháp chỉ chờ có cơ hội là lập tức đánh ta.
Ta cần tìm mọi cách để tránh nổ ra chiến tranh. Trong khi hết sức tích cực, khẩn
52

trương chuẩn bị kháng chiến, tuyệt đối không sa vào âm mưu khiêu khích để địch lợi
dụng đánh ta sớm” [49, tr.387]. Đặc biệt, hai ngày 18, 19-12-1946, thực dân Pháp
liên tục gửi tới Chính phủ Việt Nam ba tối hậu thư, nội dung lên án Việt Nam không
đảm bảo việc an ninh trật tự và đe dọa phía Pháp sẽ tự đảm bảo việc trị an Hà Nội,
yêu cầu tước vũ khí của tự vệ Hà Nội. Nếu các yêu cầu của phía Pháp không được
đáp ứng, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động. hư vậy, mọi thiện chí để đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh của Chính phủ Hồ Chí Minh đã không được phía Pháp đáp lại.
Trước thực tế trên, mục tiêu giành độc lập, tự do hoàn toàn không thay đổi,
nhưng cách thức, sách lược cần phải thay đổi phù hợp với thực tiễn. Thực dân Pháp
đã buộc Việt Nam phải tiến hành kháng chiến. Tối 19-12-1946, kháng chiến toàn
quốc bùng nổ, từ đây Việt am không còn hòa bình để tiếp tục sự nghiệp kiến quốc
nữa. Chủ trương tranh thủ các khả năng hòa bình lúc này chính là phải khẩn trương
chuẩn bị mọi mặt để chuyển cả nước vào thời chiến, chủ động bước vào cuộc kháng
chiến. Đảng chủ trương tìm cách mở rộng liên lạc với bạn bè để tìm kiếm và tranh
thủ sự ủng hộ quốc tế, tiếp tục nỗ lực tìm cách nối lại đàm phán với Pháp, tranh thủ
mọi cơ hội dù là nhỏ nhất có thể mở ra khả năng chấm dứt chiến tranh.
Khi tất cả thiện chí chân thành, tha thiết hợp tác, nguyện vọng chính đáng
của Việt am không được Pháp đáp lại, chiến tranh đã nổ ra. gười dân Việt Nam
buộc phải đứng lên cầm súng chiến đấu để bảo vệ quyền dân tộc thiêng liêng, dùng
chiến tranh để giành lấy hòa bình, độc lập. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh,
viết trong L i kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946:
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. hưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
… Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ
gìn đất nước.
53

Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh,
thắng lợi nhất định về dân tộc ta! [116, tr.534].
L i kêu gọi Toàn quốc kháng chiến thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của
Việt Nam, là sự cụ thể hóa đường lối cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, khẳng định ý chí, niềm tin, quyết tâm chiến đấu vì hòa
bình, độc lập tự do của cả dân tộc, là lời hiệu triệu toàn dân đứng lên kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược.
2.2.2. Từ sau ngày 19 - 12 - 1946 đến hết nă 1949
Ngay khi cuộc chiến tranh bùng nổ trên phạm vi cả nước, ngày 21-12-1946,
Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định với toàn dân Việt am, nhân dân Pháp, các nước
Đồng minh: “Chúng tôi, Chính phủ và dân chúng Việt Nam nhất định đấu tranh
giành độc lập và thống nhất toàn quốc, nhưng sẵn sàng hợp tác thân thiện với dân
chúng Pháp” [116, tr.535].
Những hành động của thực dân Pháp định chiếm lấy nước chúng tôi thực
rõ rệt, không thể chối cãi được.
Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: Một là khoanh tay, cúi
đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập.
Không! Dân tộc Việt am không để cho người ta trở lại thống trị nữa.
Không! Dân tộc Việt Nam không bao giờ muốn trở lại nô lệ nữa. Dân tộc
Việt Nam thà chết chứ không chịu mất độc lập và tự do.
Dân chúng Pháp!
Chúng tôi yêu chuộng các bạn, và muốn hợp tác thành thực với các bạn
trong khối Liên hiệp Pháp, vì chúng ta có một lý tưởng chung: tự do,
bình đẳng và độc lập.
Chính bọn thực dân phản động Pháp đã làm ô danh nước Pháp, và tìm
cách chia rẽ chúng ta bằng cách khiêu chiến. Chừng nào nước Pháp hiểu
rõ nền độc lập và thống nhất của chúng tôi, và gọi trở lại những kẻ thực
dân hiếu chiến Pháp về, thì tình giao hảo và sự hợp tác giữa hai dân tộc
Pháp - Việt sẽ trở lại ngay [116, tr.536].
Ngày 23-12-1946, Hồ Chí Minh gửi Điện trả lời Thủ tướng Pháp Léon Blum:
54

Chúng tôi cũng như gài, rất mong muốn giữ vững hòa bình và thi hành
thành thực những thỏa hiệp đã ký kết, như tôi đã từng nói rõ trong nhiều
lời kêu gọi gửi đến Ngài. Chúng tôi mong sẽ nhận được lệnh các nhà chức
trách Pháp ở Hà Nội phải rút quân đội về những vị trí trước ngày 17-12 và
phải đình chỉ các cuộc hành binh mệnh danh là tảo thanh, để cho cuộc
xung đột chấm dứt ngay [116, tr.541].
Trong thư gửi các tù binh Pháp, kiều dân Pháp trong ngày lễ Nôen 24-12-
1946, Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi mong một ngày gần đây, dân chúng Pháp và
dân chúng Việt Nam sẽ có thể cùng hợp tác với nhau trong vòng hòa bình và thân ái
để mưu hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc” [116, tr.543].
Ngày 01-01-1947, trong thư gửi tướng Leclerc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chúng tôi đã nhất quyết ở trong khối Liên hiệp Pháp, cộng tác thành thực với
nước Pháp và tôn trọng quyền lợi kinh tế, văn hóa Pháp trong nước chúng tôi.
hưng chúng tôi cũng nhất quyết chiến đấu đến cùng cho độc lập và thống nhất
quốc gia” [117, tr.6]. Ngày 02-01-1947, gười trả lời các nhà báo: “Dân Việt Nam
muốn hòa bình, nhưng vì vận mệnh của Tổ quốc, của giống nòi, thì sẽ kháng chiến
đến cùng, kháng chiến đến thắng lợi [117, tr.10].
Đặc biệt, ngày 07-01-1947, Hồ Chí Minh gửi thư tới Chính phủ, Quốc hội và
nhân dân Pháp tuyên bố rõ quan điểm, chủ trương, thiện chí thành thật muốn hợp
tác, đàm phán với Pháp để kết thúc tình trạng căng thẳng hiện tại:
Nhân dân Việt am không tranh đấu chống nước Pháp và nhân dân
Pháp. Đối với nước Pháp và nhân dân Pháp, nhân dân Việt Nam vẫn thân
thiện, tin cậy và khâm phục.
Nhân dân Việt Nam thành thực muốn cộng tác với nhân dân Pháp như
anh em trên một căn bản tín nghĩa và bình đẳng.
Nhân dân Việt Nam chỉ đòi độc lập và thống nhất quốc gia trong khối Liên
hiệp Pháp, một khối liên hiệp do sự tự do thỏa thuận tạo nên.
Nhân dân Việt Nam chỉ muốn có hòa bình, một nền hòa bình thực sự, để
kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người bạn Pháp chân chính.
… Muốn lập lại hòa bình chỉ cần:
55

Trở lại tình trạng trước ngày 20-11 và 17-12-1946, đình chỉ ngay và đình
chỉ thực sự những cuộc xung đột trong toàn cõi Việt Nam (Nam Kỳ,
Trung Kỳ và Bắc Kỳ).
… Chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập
và thống nhất của nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này;
hòa bình và trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc. Dân tộc Việt am đang chờ
đợi cử chỉ đó [117, tr.14-15].
Thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp đề ngày 18-2-1947, Hồ Chí Minh tiếp
tục khẳng định: “Chúng tôi muốn độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp;
chúng tôi muốn hòa bình, một nền hòa bình hợp công lý làm vinh dự cho cả nước
Pháp và nước Việt am” [117, tr.66]. Trong Thư gửi Quốc hội và nhân dân Pháp,
Hồ Chí Minh nói rõ:
Chúng tôi muốn độc lập và thống nhất.
Chúng tôi muốn cộng tác với dân tộc Pháp trong khối Liên hiệp Pháp.
Chúng tôi muốn hòa bình để kiến thiết lại nước chúng tôi. Quốc hội và
nhân dân Pháp cần phải làm cho cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn
này chấm dứt, cần phải giải quyết vấn đề Việt - Pháp một cách xứng
đáng với nước Pháp mới.
… Chúng tôi sẵn sàng lập lại hòa bình. Chỉ cần Quốc hội và nhân dân
Pháp có một cử chỉ thân thiện” [117, tr.100-101].
gay trước cuộc gặp Hồ Chí Minh - Paul Mus, Hội nghị cán bộ Trung ương,
từ 3/4 đến 6/4/1947 ra Nghị quyết nêu rõ: “Tuy phải lợi dụng hết khả năng ngoại
giao, làm cho cuộc đổ máu Việt - Pháp rút ngắn lại, nhưng không thể có thái độ chủ
quan đối với những cuộc đàm phán và nhất là không được sơ hở để quân địch lợi
dụng đàm phán hay đình chiến mà đánh úp ta” [36, tr.186]. Tháng 5-1947, trong bối
cảnh cuộc chiến tranh ngày càng mở rộng và quyết liệt, tại Thái Nguyên, Chủ tịch
Hồ Chí Minh gặp Paul Mus, cố vấn chính trị của Cao ủy Bollaert, nêu rõ quan điểm
của Việt am: “Yêu chuộng hòa bình, muốn có quan hệ tốt với nhân dân Pháp,
nhưng kiên quyết kháng chiến để bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc mình…
Chúng tôi muốn hòa bình, nhưng không phải là hòa bình với bất cứ giá nào! Mà
phải là hòa bình trong độc lập, tự do” [49, tr.438].
56

Sau cuộc gặp Paul Mus, ngày 22 - 5 - 1947, Trung ương Đảng ra Chỉ thị
khẳng định thái độ của Việt Nam:
Kiên quyết giành cho được độc lập và thống nhất. Nếu Pháp không
công nhận ta độc lập và thống nhất thì ta tiếp tục kháng chiến đến
toàn thắng mới thôi… Pháp muốn giải quyết vấn đề Việt Nam thì chỉ
có một cách là thẳng thắn mở cuộc đàm phán với Chính phủ Hồ Chí
Minh và công nhận Việt Nam thống nhất và độc lập thực sự trong
khối Liên hiệp Pháp… [36, tr.209].
Ngày 15 - 9 - 1947, sau sự kiện Bollaert đọc bài diễn văn (10 - 9 - 1947) tại
Hà Đông, Trung ương Đảng ra chỉ thị Bôla nói gì? Ta phải làm gì? chỉ rõ hai nội
dung trong bài diễn văn thể hiện lập trường, thái độ của thực dân Pháp: “Một là
thực dân Pháp không công nhận Việt am độc lập và thống nhất. Hai là thực dân
Pháp không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh thay mặt chính thức cho nước Việt
am” [36, tr.289]. Vì thế, Việt Nam muốn tự do, độc lập, phải kháng chiến và kiên
quyết kháng chiến “…không dùng bạo lực mà đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân
Pháp thì không thể có độc lập và thống nhất thực sự” [36, tr.294]. Lập trường của
Việt am đó là:
1. Độc lập và thống nhất thật sự. Nếu thực dân Pháp không công nhận
Việt am độc lập và thống nhất thật sự thì dân tộc Việt am còn đánh,
mà đánh mạnh. Không thể có hòa bình nếu Pháp chưa nhận Việt Nam
độc lập và thống nhất…
2. ước Việt Nam nhận đứng trong khối Liên hiệp Pháp, nhưng phải có
quân đội riêng để tự phòng thủ, có quyền ngoại giao với các nước, ký kết
thẳng với các nước những hiệp ước không hại đến sự hợp tác thân thiện
giữa hai dân tộc Việt - Pháp… [36, tr.295].
Thực tiễn cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt trên tất cả các mặt trận, lĩnh vực
với thực dân Pháp đã cung cấp cho Việt Nam những cơ sở để không ngừng hoàn
thiện chủ trương, đường lối kháng chiến. Trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng
lợi, Tổng Bí thư Trường Chinh giải thích, phân tích một cách có căn cứ khoa học
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính,
57

trong đó có các vấn đề cụ thể: “Chúng ta đánh ai”?; “Đánh để làm gì”?; “Tính chất
cuộc kháng chiến của ta”; “ hững khó khăn của ta và Pháp”; “So sánh hơn thua”…
Kháng chiến nhất định thắng lợi xác định rõ cuộc kháng chiến của Việt am là một
cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh tự vệ của dân tộc, là chiến
tranh hợp chính nghĩa, chiến tranh tiến bộ.
Ngày 12-12-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo nêu rõ
quan điểm, chủ trương của Việt Nam:
Muốn chống phản động Pháp, lập Mặt trận dân tộc thống nhất chưa đủ.
Phải tìm bạn bên ngoài nữa. Mục đích của ta lúc này là tự do, độc lập. Ý
chí của ta lúc này là dân chủ, hoà bình. Là bạn của ta trong giai đoạn này
tất cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán
thành mục đích ấy, cùng ta chung một ý chí ấy… [36, tr.437].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng ngày 15, 16, 17-1-1948 nhận định
tình hình thế giới, phân tích âm mưu của địch, đề ra những nhiệm vụ cụ thể đối với
cuộc kháng chiến, chủ trương:
Phải theo dõi thật sát tình hình chính trị thế giới, đặc biệt là tình hình
Pháp, Trung Hoa và các nước Đông am châu Á và các chính sách thủ
đọan của phản động Mỹ, để có thể thấy trước các biến cố. Liên lạc chặt
chẽ với các đảng anh em để thi hành những phương sách giúp đỡ nhau
một cách thiết thực, tích cực chuẩn bị về quân sự, chính trị để lâm thời
có thể hành động một cách táo bạo và mau lẹ, xoay chuyển tình thế, để
thu thật nhiều thắng lợi cho cuộc kháng chiến, giành lấy vinh quang cho
dân tộc [37, tr.44]
Tiếp đó, Báo cáo tại Hội nghị cán bộ lần thứ V (từ 8-8 đến 16-8-1948) đã
khẳng định ý nghĩa, mối quan hệ quốc tế của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do mà
các dân tộc Đông Dương, Việt am đang tiến hành:
Các nước dân tộc Đông Dương đứng trong hàng ngũ phe dân chủ chống đế
quốc là một đoàn quân xung trận của phe dân chủ. Cuộc chiến đấu của các
dân tộc Đông Dương thật là vì tự do độc lập của mình mà cũng vì hòa bình
và dân chủ trên thế giới. Nó không bị lẻ loi. Nó có một sức hậu thuẫn rộng
lớn của phe dân chủ chống đế quốc trên thế giới giúp đỡ [37, tr.177].
58

Bước sang năm 1949, cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân Trung
Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, liên tiếp giành được
những thắng lợi to lớn, mở ra triển vọng giành thắng lợi hoàn toàn. Trước bối cảnh
tích cực đó Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu (14-18-1-1949) ra Nghị quyết
xác định mục tiêu dùng ngoại giao để tranh thủ đưa đến cơ hội hoà bình cho Việt
Nam thể hiện rõ qua việc Đảng chủ trương “Phối hợp với quân giải phóng Tàu”:
Phong trào cách mạng nước láng giềng ta là bạn đồng minh trực tiếp
của ta. Mỗi một thắng lợi của cách mạng Tàu là một thắng lợi của bản
thân ta và ngược lại, mỗi thắng lợi của ta là một thắng lợi của nhân dân
Tàu. Vì sao?, vì hai bên có thể giúp đỡ lẫn nhau, bù đắp cho nhau, để
chiến thắng bọn thực dân đế quốc và bọn bù nhìn, tay sai của chúng,
đang cùng nhau thiết lập chế độ dân chủ mới [38, tr.34-35].
Nghị quyết cũng chỉ rõ quan điểm Việt am không được ỷ lại vào Quân giải
phóng Tàu, phải chống lại khuynh hướng “lạc quan và há miệng chờ sung”, khẳng
định sự chủ động, tích cực trong chiến đấu và phối hợp chiến đấu; phân tích rõ
những thuận lợi, khó khăn đối với cách mạng Việt Nam khi Quân giải phóng Tàu
giành thắng lợi.
hư vậy, cho đến giữa năm 1947, sau cuộc gặp của Hồ Chí Minh với Paul
Mus thất bại, mọi khả năng thương thuyết, đàm phán hòa bình khép lại. Chủ trương
tranh thủ khả năng hòa bình lúc này chính là phải quyết chiến đấu và chiến thắng.
Phải tiến hành kháng chiến, chiến tranh trở thành giải pháp hiện thời để Tổ quốc có
thể giành được hòa bình độc lập, mở ra khả năng có thể tranh thủ được mọi sự ủng
hộ, giúp đỡ quốc tế, tăng cường thêm sức mạnh, giúp kháng chiến sớm đến thắng lợi.
Một trong những hoạt động quan trọng của Đảng từ sau ngày 19-12-1946
đến hết năm 1949 nhằm tranh thủ các khả năng hòa bình là triển khai tích cực chính
sách đối ngoại vì hoà bình, tìm kiếm đồng minh, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
nhân dân Pháp, dư luận thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa mà nhân dân
Việt Nam buộc phải tiến hành chống lại thực dân Pháp để thực hiện mục tiêu hoà
bình, độc lập dân tộc. Đảng đã nhận định, phân tích âm mưu từng đối tượng, lực
lượng kẻ thù, nhận định tình hình sát đúng, từ đó đề ra chính sách phù hợp làm cơ
sở để thực hiện chủ trương tranh thủ khả năng hòa bình một cách hiệu quả.
59

Những chủ trương đó vừa phản ánh mục tiêu cuộc đấu tranh chính nghĩa của
Việt Nam, vừa khẳng định với nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thiện chí của Việt
Nam muốn thúc đẩy quan hệ với các lực lượng hoà bình, dân chủ trên thế giới nhằm
tranh thủ sự đồng tình, công nhận, ủng hộ của các nước trên thế giới, sự đồng thuận,
ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong nước nhằm thực hiện mục tiêu hòa bình,
độc lập dân tộc.
2.3. ĐẢNG CHỈ ĐẠO TRANH THỦ THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HOÀ
BÌNH TỪ THÁNG 9 - 1945 ĐẾN HẾT NĂM 1949
Ngay từ năm 1941, trong Thông cáo của Trung ương gửi các cấp bộ Đảng
ngày 21-12-1941, Đảng đã xác định: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”.
Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác…” và một trong những nội
dung cơ bản của đường lối kháng chiến được xác định ngay từ đầu cuộc kháng
chiến là toàn diện, dựa vào sức mình là chính. Điều đó cho thấy Đảng ý thức rất rõ
tầm quan trọng, sức mạnh của nội lực cũng như nhân tố quan trọng quyết định đến
thắng lợi cuối cùng. Chính vì thế, trước thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, thực hiện
chủ trương tranh thủ khả năng hòa bình từ 1945 - 1949 chính là thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Từ đó, có thể kìm chế, ngăn chặn chiến tranh
sớm mở rộng ra toàn quốc, tranh thủ xây dựng thực lực về mọi mặt, sẵn sàng, chủ
động trong mọi tình huống. Trong đó, một trong những chỉ đạo quan trọng để kháng
chiến, kiến quốc thắng lợi là thực hiện chính sách đối ngoại thể hiện thiện chí, khát
vọng hòa bình, tránh chiến tranh, phù hợp với từng đối tượng, lực lượng, tranh thủ
mọi sự ủng hộ và thời gian hòa bình nhiều nhất có thể. Tuy nhiên, khi mọi khả năng
đàm phán hòa bình không còn nữa, Đảng kiên quyết chỉ đạo tiến hành kháng chiến,
dùng sức mạnh quân sự, dùng con đường chiến tranh để kết thúc chiến tranh, giành
lấy hòa bình, độc lập.
2.3.1. Thực hiện kháng chiến miền Nam, kiến quốc miền Bắc, hạn
chế ng y cơ chiến tranh lan rộng ra cả nước.
Nhiệm vụ kháng chiến ở Nam Bộ được thể hiện qua các hoạt động cụ thể của
Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, của quân và dân cả nước. Đó là quyết tâm
“bảo vệ nền độc lập của Việt am đến cùng”. gày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ
60

súng ở Sài Gòn, thì ngày 24-9-1945, Hội đồng Chính phủ họp bàn, thống nhất biện
pháp đối phó với thực dân Pháp, đồng thời ra thông báo cho toàn dân “cương quyết
đấu tranh chống xâm lăng, nhưng nên bảo vệ tính mạng và tài sản cho dân Pháp, để
tỏ ra rằng ta là một dân tộc văn minh, rộng lượng” [153, tr.8-9]. Thông báo khẳng
định quyết tâm chống thực dân Pháp và thiện chí với nhân dân Pháp. Ngày 26-9-
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào Nam Bộ khẳng định quyết tâm
kháng chiến của Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước: “Tôi chắc và đồng bào cả
nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ. Chúng ta nên
nhớ lời nói oanh liệt của nhà đại cách mạng Pháp: “Thà chết tự do hơn sống nô lệ”.
Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện
đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà” [116, tr.29]. Ngày 5-
11-1945, nhân dân Hà Nội tổ chức Ngày kháng chiến ủng hộ đồng bào Nam Bộ.
Ngày 6-11-1945, báo Cứu quốc đăng tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ
Nguyên Giáp: Tôi xin thay mặt Chính phủ nói cho quốc dân biết, sự tiếp viện Nam
Bộ là một trong những công việc quan trọng bậc nhất của Chính phủ, nó bao quát cả
mọi mặt, người và vật, chính trị và quân sự, và ngay từ ngày đầu 23-9, Chính phủ
đã có những chỉ thị rõ ràng về chính trị và quân sự cho Ủy ban Nam Bộ, rồi từ đó
đến giờ, sự liên lạc ngày càng mật thiết, sự tiếp viện càng tăng gia. Ủy ban ủng hộ
Nam Bộ được thành lập ở khắp các tỉnh. Các đoàn quân am tiến được tổ chức và
gấp rút vào Nam chiến đấu. Tính đến đầu năm 1946, “Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã
chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ 12 chi đội tương đương với 12 trung đoàn
và 6 đại đội tương đương 6 tiểu đoàn ngày nay” [19, tr.19]. Cùng với các đoàn quân
Nam tiến, nhân dân còn tích cực ủng hộ, quyên góp tiền của, vật chất cho Nam Bộ,
giúp đỡ những gia đình có chiến sĩ ra trận. Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến
trở thành một phong trào thường xuyên, ngày càng phát triển sôi nổi khắp miền
Bắc, miền Trung.
Với công cuộc kiến thiết nước nhà, Đảng, Chính phủ đã ra sức tìm mọi biện
pháp đẩy lùi “giặc đói, giặc dốt”, khắc phục khó khăn về tài chính, ngân quỹ quốc
gia, xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, trấn áp, trừng trị nội phản…
Các phong trào và khẩu hiệu hành động từ Tuần lễ vàng, Như ng cơm sẻ áo, Ngày
61

đồng tâm, Hũ gạo cứu đói, Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia
sản xuất nữa!, Không một tấc đất bỏ hoang… đến ra báo Tấc đất, lập Ủy ban Trung
ương phụ trách vấn đề sản xuất… đã dần đẩy lùi, giải quyết được nạn đói.
Để giải quyết khó khăn tài chính, khắc phục tình trạng ngân quỹ quốc gia cạn
kiệt, xây dựng nền tài chính độc lập, cùng với việc xóa bỏ các thứ thuế vô lý, Nhà
nước phát động, kêu gọi sự góp sức của nhân dân bằng các hình thức: xây dựng
Quỹ Độc lập, Quỹ Đảm phụ quốc phòng, Tuần lễ vàng, Quỹ Nam Bộ, Quỹ kháng
chiến… Ngày 23-11-1945, Quốc hội chính thức thông qua cho lưu hành tiền Việt
Nam trên khắp cả nước. Ngày 31-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
18B/SL, phát hành giấy bạc Việt Nam. Kết quả, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân
dân đã tự nguyện đóng góp được 370kg vàng, 20 triệu đồng vào Quỹ Độc lập và 40
triệu đồng vào Quỹ Đảm phụ quốc phòng. Đến trước ngày toàn quốc kháng chiến
(19-12-1946), về cơ bản đồng tiền Việt am đã thay thế giấy bạc của ngân hàng
Đông Dương ở các vùng tự do của Việt Nam.
Việc xóa bỏ tàn tích của nền văn hóa ngu dân, nô dịch, khắc phục tình trạng
trên 90% dân số không biết chữ, xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại
chúng, nền giáo dục dân tộc, dân chủ, nhân dân được khẩn trương thực hiện và thu
được những thắng lợi to lớn. Chính phủ ban hành hàng loạt các sắc lệnh vào ngày
8-9-1945: Sắc lệnh số 16 về đặt ngạch “Thanh tra học vụ”; Sắc lệnh số 17 về Bình
dân học vụ; Sắc lệnh số 19 về lập các lớp học bình dân buổi tối cho nông dân, thợ
thuyền; Sắc lệnh số 20 quy định việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc với tất cả mọi
ngư i và không mất tiền… thành lập Nha Bình dân học vụ để phụ trách việc chống
nạn mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài đăng trên báo Cứu quốc kêu gọi toàn
dân tham gia chống “giặc dốt”. Cùng với đó là hàng loạt các chỉ thị, sắc lệnh về văn
hóa được ban hành: tháng 9-1945 có Sắc lệnh sáp nhập Trường Viễn đông Bác cổ,
nhà Bảo tàng, Thư viện và các Học viện vào Bộ Quốc gia Giáo dục; Thông cáo của
Chính phủ gửi các thành phố, các Ủy ban nhân dân cả nước yêu cầu đổi tên ngay
các đường phố, công viên… bằng tên các anh hùng hào kiệt, danh nhân… có công
với nước. Những kết quả ban đầu đó đã tạo cơ sở thuận lợi cho việc xây dựng nhà
nước dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo nền móng vững chắc cho
sự nghiệp văn hóa, giáo dục cách mạng tiếp tục phát triển.
62

Bên cạnh việc Chính phủ lâm thời, hệ thống chính quyền từ trung ương đến
địa phương không ngừng được củng cố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội,
và xây dựng Hiến pháp cũng được quan tâm đặc biệt. Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải để hạn chế, đẩy lùi sự chống phá của
các đảng phái đối lập, tập trung sự đoàn kết, sức mạnh cho công cuộc kiến thiết đất
nước, bảo vệ độc lập dân tộc. Ngày 23-10-1945, Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần,
đại diện cho Việt Nam Cách mệnh đồngminh Hội (Việt Cách), ký thỏa ước chấp
nhận hợp tác và đoàn kết. Ngày 24-12-1946, đại biểu của Việt Minh, Việt Nam
Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Cách gặp nhau cùng ký bản Biện pháp đoàn kết
gồm 14 điều chính và 4 điều phụ với mục tiêu độc lập trên hết, kêu gọi đoàn kết,
đình chỉ sự công kích lẫn nhau, nhất trí mở rộng Chính phủ lâm thời có đại diện của
Việt Quốc, Việt Cách, thừa nhận dành 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt
Cách không qua bầu cử. Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời mở rộng thành Chính
phủ liên hiệp lâm thời. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 diễn ra sôi nổi. Cả nước
đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác
nhau, 43% đại biểu không đảng phái, 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến
sĩ cách mạng, 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu thuộc các dân tộc ít người. Thắng lợi
của Tổng tuyển cử đánh dấu sự trưởng thành, phát triển của quá trình xây dựng thể
chế dân chủ, cách mạng, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước. Tổng tuyển cử
thắng lợi đưa đến sự ra đời của Quốc hội, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, thông
qua Hiến pháp đầu tiên (9-11-1946) thể hiện sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
toàn dân, sách lược đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh khó
khăn chất chồng, tạo cơ sở, điều kiện thuận lợi cho công cuộc kháng chiến, kiến
quốc giành thắng lợi.
Xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và an ninh quốc gia cũng
được Đảng, Chính phủ đặc biệt coi trọng. Ngày 22-5-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh
số 71/SL về việc đổi Vệ quốc quân thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Sắc lệnh ban
hành cùng với bản quy tắc kèm theo, quy định về tổ chức biên chế thống nhất từ
tiểu đội, trung đội… đến các liên đoàn, tập đoàn của bộ binh và các đơn vị chuyên
môn… Quân đội quốc gia Việt Nam do Bộ Tổng tham mưu, cơ quan tham mưu
63

quân sự cơ mật, đầu não của quân đội chỉ huy thống nhất. Chính phủ chú trọng xây
dựng quân đội toàn diện về quân sự, chính trị, trang bị, hậu cần, tư tưởng, tinh
thần… trên nguyên tắc cơ bản nhất là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, và phải “trung
với nước, hiếu với dân”. Tháng 1-1946, Quân ủy Trung ương được thành lập do Võ
guyên Giáp làm Bí thư. gày 30-11-1946, Võ guyên Giáp được Chính phủ cử
làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy quân đội toàn quốc.
Lực lượng an ninh quốc gia cũng được củng cố, phát triển từ trung ương đến
địa phương. gày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL về thành
lập Việt Nam công an vụ. Nhiệm vụ của công an là tìm hiểu, thu thập thông tin liên
quan đến an toàn quốc gia, đề xuất, thực thi những biện pháp để đề phòng và đảm
bảo an ninh trong nước… gày 8-4-1946, Bộ Nội vụ ban hành Nghị định 131/BNV
quy định cơ cấu tổ chức, quyền hạn, nhiệm vụ của Công an vụ. Bên cạnh đó, Ban
Thanh tra đặc biệt, hệ thống tổ chức tòa án cũng lần lượt được thành lập, hoàn
thiện. Đó là những tổ chức, công cụ quan trọng nhất đảm bảo cho quá trình xây
dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực thi chế độ dân chủ rộng rãi và sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập, hòa bình giành thắng lợi.
Những thắng lợi trên đã minh chứng cho sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng,
Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; khẳng định khát vọng, ý chí quyết
tâm vượt mọi khó khăn, kiên quyết đấu tranh cho hòa bình, độc lập và niềm tin
tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi
đó là cơ sở vững chắc, quan trọng đưa đất nước dần thoát khỏi khó khăn, tiếp tục
giành được thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc muôn
vàn gian nan tiếp theo.
2.3.2. Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ của Đảng, của dân tộc, đã cùng với Đảng,
Chính phủ đề ra chủ trương, đường lối đối ngoại nhằm tranh thủ các khả năng, cơ
hội hoà bình và chính Hồ Chí Minh đã chủ động hiện thực hoá chủ trương đó. Sự
chỉ đạo của Đảng tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình từ 1945 đến 1949 được
thể hiện ở những nội dung cụ thể sau:
64

Với Pháp
Gần hai mươi năm sau sự kiện ngày 19-12-1946, Charles de Gaulle - người
đứng đầu Chính phủ Pháp gửi tới Chủ tịch Hồ Chí Minh bức thư đề ngày 8-2-1966
với nội dung: “Giá như có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và
người Pháp ngay sau đại chiến thế giới thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác
đang giằng xé đất nước gài hôm nay” [138, tr.25]. Đó là một sự hối hận, suy nghĩ
nuối tiếc của một người trong cuộc có đủ quyền uy quyết định nên hay không nên
để xảy ra chiến tranh?
Đối với nước Pháp, Đảng, Chính phủ Việt am, đứng đầu là Hồ Chí Minh
cũng nhìn thấy từ phía Pháp có những nhân vật và yếu tố không muốn chiến tranh
xảy ra. Bởi thế, trong khi Việt Nam tỏ rõ muốn thật thà hợp tác với Pháp, cùng
dựng xây mối quan hệ tốt đẹp, chân thành giữa hai dân tộc, kiến thiết đất nước
trong môi trường hòa bình của khối Liên hiệp Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đã không bỏ lỡ bất kỳ một khả năng nào dù là nhỏ nhất có thể tranh thủ để tránh
chiến tranh.
Mặc dù thực dân Pháp đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, nhưng ngày 26-9-
1945, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp vẫn ra thông cáo kêu gọi kiều dân Pháp
tại Hà Nội hãy tránh mọi khiêu khích nguy hiểm. Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh với
những kiều dân Pháp về thiện chí của Việt Nam muốn hợp tác với những người
Pháp thật sự tôn trọng độc lập của Việt Nam. Ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng Hoàng Minh Giám tiếp đại diện của Pháp là Alessandri và Pignon. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói rõ quan điểm rằng Pháp và Việt Nam cần tìm cách thỏa thuận
với nhau. Việt Nam bảo đảm sẽ thỏa thuận về các lợi ích kinh tế, văn hóa, quân sự
của Pháp trên đất Việt Nam.
Thiện chí của Việt Nam còn thể hiện chính trong lúc nhân dân Sài Gòn - Chợ
Lớn đang bao vây chặt quân Pháp, khiến chúng bị cô lập trong tình trạng thiếu thức
ăn, nước uống, mặc dù biết quân Pháp đề nghị ngừng bắn để chờ viện binh, Đảng vẫn
chủ trương chấp nhận đề nghị của Pháp. Cuộc điều đình bắt đầu từ ngày 2-10-1945
đến 8-10-1945 với ba lần hai bên Việt Nam - Pháp gặp nhau nhưng không đi đến kết
quả do phía Pháp không chịu thừa nhận các điều kiện của phía Việt am đưa ra. úc
65

này, quân Pháp thực sự chỉ hoãn binh và vẫn chủ trương sử dụng vũ lực. Ngày 13-10-
1945, Tổng chỉ huy Leclerc viết thư gửi De Gaulle: “Sẽ là một điều sai lầm tuyệt đối
nếu chúng ta điều đình với đại diện Việt Minh trước khi chỉ cho họ thấy sức mạnh
của chúng ta” [138, tr.121]. Ngày 27-10-1945, De Gaulle trả lời eclerc: “Bạn thân
mến, chúng ta chẳng có gì để ký kết với người dân bản xứ, chừng nào chúng ta không
có sức mạnh. Cho đến lúc đó, chúng ta có thể, thận trọng và tùy thời cơ thuận lợi mà
có vài cuộc tiếp xúc với họ, nhưng chỉ vậy thôi” [138, tr.122].
Trong khi đó, phía Việt Nam vẫn tìm cách đàm phán. Trong bản giác thư gửi
cho phía Pháp ngày 12-11-1945, Việt Nam khẳng định: “Chính phủ Việt Nam sẽ
thực thi những biện pháp nhằm bảo vệ uy tín nước Pháp và sẽ có những nhượng bộ
với Pháp về phương diện kinh tế và văn hóa” [138, tr.132]. Ngày 20-10-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi những người Pháp ở Đông Dương: “Sự chiến đấu
của chúng tôi không nhằm đánh vào nước Pháp, cũng không nhằm đánh vào những
người Pháp lương thiện, mà chỉ chống lại sự thống trị tàn bạo ở Đông Dương của
chủ nghĩa thực dân Pháp” [116, tr.75], đồng thời tìm cách liên lạc với Đảng Cộng
sản Pháp, các chính khách, các tầng lớp nhân dân Pháp có thiện chí hòa bình. Ngày
1-12-1945, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Võ Nguyên Giáp gặp Sainteny,
Pignon và Caput (Bí thư khu Bắc Kỳ của Đảng Xã hội Pháp) bàn về ngừng bắn ở
Nam Bộ và nền độc lập của Việt Nam. Nhà sử học Pháp Devillers đã mô tả thiện
chí của Việt Nam trong cuộc gặp: “chính phủ Việt Nam không muốn đoạn tuyệt với
Pháp mà họ còn mong có sự giúp đỡ. Ông Hồ còn nói ông mong muốn sẽ sớm được
gặp đô đốc D’Argenlieu” [145, tr.133]. Tuy vậy, thái độ của Pháp là từ chối công
nhận độc lập của Việt Nam.
Để tránh xung đột với quân Pháp ở miền Bắc, Hồ Chí Minh đã “không ngần
ngại cho Pháp những nhượng bộ vì thành thật nghĩ rằng, thương lượng vẫn ít thiệt
hại hơn xung đột đẫm máu” [145, tr.229]. Những nhân nhượng cụ thể gồm: 1. Ký
Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Pháp mặc dù biết giữa Pháp và Trung Hoa Dân quốc
đã xảy ra xung đột tại Hải Phòng vào sáng 6-3-1946, biết Trùng Khánh chỉ cho
Pháp thay quân khi Pháp đạt được một thỏa thuận với Chính phủ Việt Nam. Với
Hiệp định sơ bộ, Việt Nam chấp nhận hoà hoãn với Pháp và bản thân Hồ Chí Minh
66

đã phải giải thích với quốc dân đồng bào về lý do, mục đích và quan điểm của
Chính phủ khi ký Hiệp định. Việt Nam nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định và kiên trì
đấu tranh đòi phía Pháp phải mở cuộc đàm phán chính thức tại Pari vào hạ tuần
tháng 5-1946; 2. Chấp nhận tổ chức Hội nghị Trù bị tại Đà ạt (19-4 đến 11-5-
1946) theo đề nghị của Pháp; 3. Ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội Việt am đi
thăm thiện chí Quốc hội và nhân dân Pháp mang theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Phái đoàn có ba việc phải làm là đoàn kết, cẩn thận, làm cho người
Pháp hiểu ta, để gây tình đoàn kết giữa hai dân tộc” [36, tr.424]; 4. Thiện chí đàm
phán tại Fontainebleau (khai mạc 6-7-1946) nhằm thiết lập quan hệ hữu nghị với
Pháp. Tuy nhiên, cuộc đàm phán thất bại do phía Pháp thiếu thiện chí, vẫn muốn áp
đặt sự thống trị của họ tại Việt Nam. Phái đoàn Việt am rời Pari với tuyên bố:
Chúng tôi rất ân hận là cuộc Hội đàm Pháp - Việt tại Fontainebleau không
đạt kết quả mong muốn. Chúng tôi vẫn giữ lòng tin nó sẽ được nối lại
trong những điều kiện tốt hơn để đi đến kết quả. Trong lúc chờ đợi, chúng
tôi trở về Việt am với ý chí quyết tâm sẽ ký kết tại chỗ với đại diện các
nhà đương cục Pháp những hiệp định bộ phận về các vấn đề nhất định và
chứng minh bằng hành động ý chí hiểu biết nhau và cộng tác với nước
Pháp của chúng tôi. Đó cũng là phương pháp tốt nhất để tạo ra bầu không
khí thuận lợi cho sự nối lại cuộc Hội đàm Fontainebleau [138, tr.261].
Chuyến thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 31-5-1946 đến 20-10-1946
và việc ký Tạm ước Việt - Pháp 14-9-1946 trong một hoàn cảnh đặc biệt (lúc 0h30
phút rạng sáng ngày 15-9-1946 tại nhà riêng của Bộ trưởng Bộ Pháp quốc ở hải
ngoại Marius Moutet), với 11 điều khoản cơ bản về các mặt kinh tế, chính trị, quân
sự, thể hiện sự nhân nhượng cuối cùng và lớn nhất của Việt Nam đối với Pháp,
khẳng định sự nỗ lực hết mình, thiện chí hoà bình, ý muốn thành thực hợp tác với
Pháp, vì hoà bình, lợi ích của hai dân tộc…
Khước từ mọi thiện chí của Việt Nam, phái hiếu chiến trong Chính phủ Pháp
và chính quyền thực dân ở Việt Nam, Đông Dương vẫn ráo riết tìm cách giải quyết
vấn đề Việt Nam bằng giải pháp quân sự. Ngày 20-11-1946, thực dân Pháp kiếm cớ
đánh chiếm Hải Phòng - một hành động mà tướng Morlìere, chỉ huy quân Pháp ở
67

miền Bắc Đông Dương, cho rằng nó chứng tỏ một cách cụ thể nước Pháp “đã chọn
chính sách dùng bạo lực” và chiếm Lạng Sơn, đồng thời đổ bộ hàng nghìn quân
Pháp lên Đà Nẵng. Ngày 16-12-1946, D’Argenlieu tuyên bố khôi phục các điều ước
do triều đình nhà Nguyễn ký với Pháp, coi Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là lãnh thổ
của nước Pháp. Các chỉ huy quân sự, chính trị của Pháp họp tại Hải Phòng quyết
định đẩy tới các hành động quân sự, nhằm gây ra “một sự đã rồi” đối với Chính phủ
Pháp ở Pari. Ngày 17-12-1946, quân Pháp khiêu khích và gây hấn ở Hà Nội. Ngày
18-12-1946, quân Pháp chiếm hai công sở của Việt Nam thuộc Bộ Tài chính và Bộ
Giao thông công chính, đồng thời gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam phải
tước khí giới của tự vệ và giao quyền kiểm soát an ninh ở thủ đô cho Pháp v.v…
Trước tình thế đó, sáng 19-12, Hồ Chí Minh vẫn cử Hoàng Minh Giám đi gặp
Sainteny tìm cách giải quyết tình trạng căng thẳng, song bị khước từ. Đến lúc này,
khi khả năng hoà bình không còn nữa, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định
chủ động phát động kháng chiến trên phạm vi toàn quốc vào tối ngày 19-12-1946
để bảo vệ nền hoà bình, độc lập thực sự cho Tổ quốc.
Nhìn nhận một cách khách quan, kể cả đến sau khi sự kiện ngày 19-12-1946
xảy ra, phía Pháp thực sự muốn áp đặt trở lại vị trí của mình ở Việt Nam, nhưng
không phải ngay từ đầu Pháp đã đồng thuận, nhất trí sử dụng giải pháp chiến tranh.
Điều này thể hiện qua hàng loạt các hành động của Chính phủ Pháp tại Pari và một
số tướng lĩnh thức thời của Pháp đang làm nhiệm vụ ngay tại Việt Nam. Đó là: việc
thương lượng để ký kết Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946; Chính phủ, Đảng Cộng sản Pháp
nồng nhiệt tiếp đón Phái đoàn Quốc hội Việt Nam, đón Chủ tịch Hồ Chí Minh (5-
1946); thái độ của Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet và Thủ tướng
Bidault “chất vấn” Đô đốc D’Argenlieu liên quan đến vấn đề Hội nghị Đà Lạt ngày
1-8-1946 về phương án Liên Bang diễn ra khi hội nghị Fontainebleau còn đang tiếp
diễn; Moutet ký với Hồ Chí Minh bản Tạm ước 14-9 trong hoàn cảnh hết sức đặc
biệt; Thủ tướng Blum tự tay viết thông điệp gửi Hồ Chí Minh (bức điện đánh dấu
“khẩn” và “ưu tiên số 1” đề ngày 18-12, vào hồi 22 giờ), thông báo đến Chủ tịch Hồ
Chí Minh việc Moutet, d’Argenlieu sẽ đến Đông Dương nhằm khai thông mọi sự
hiểu lầm trên con đường thực thi Tạm ước 14-9, lập lại sự tin cậy lẫn nhau và đình
68

chỉ chiến sự; Chiều ngày 20-12-1946, Thủ tướng Blum điện gửi Chủ tịch Hồ Chí
Minh (qua tướng Valluy, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương), “khẩn thiết yêu
cầu Ngài (Hồ Chí Minh-VTHD) ra lệnh tức khắc để ngăn chặn ngay chiến sự” [138,
tr.348] và tướng Valluy cùng tướng Morlière đã khẩn trương bằng mọi cách nhanh
nhất chuyển bức điện tới Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 21-12-1946; Sau đó, ngày
22-12-1946, Leclerc - nguyên Tổng chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông,
nhận lệnh của Thủ tướng lập tức sang Đông Dương làm “nhiệm vụ thanh tra” với tư
cách là đại diện cá nhân của Thủ tướng…; rồi chỉ trong năm 1946, Chính phủ Pháp
ba lần đổ mà lý do chủ yếu liên quan đến cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam.
Đó là những cơ sở, khả năng khách quan để Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh nỗ lực thực hiện thiện chí hòa bình. Khi biết tin Chính phủ Pháp cử các
phái đoàn điều tra sang Đông Dương do Bộ trưởng Moutet và là tướng Leclerc dẫn
đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động liên hệ để tiếp xúc nhằm trình bày rõ thực
tế tình hình ở Việt Nam, mong muốn đưa tình hình trở lại như trước ngày 19-12-
1946. Tuy nhiên, nỗ lực của Hồ Chí Minh không có kết quả do những kẻ hiếu chiến
Pháp ở Đông Dương tìm mọi cách ngăn cản. Không từ bỏ hy vọng, từ ngày 23-12-
1946, đài phát thanh của Việt am đã liên tục phát đi lời kêu gọi nối lại đàm phán;
các bức thư, điện, thông điệp của Hồ Chí Minh ngày 31-12-1946, 3-1-1947, 19-4-
1947... gửi cho Marius Moutet, eclerc, Chính phủ Pháp…, động thái cải tổ Chính
phủ (19-4-1947), trả lời phỏng vấn báo L’ Humanite (Nhân đạo, 10-5-1947), Hồ
Chí Minh quyết định trực tiếp gặp Paul Mus ngày 12-5-1947… đã thể hiện rõ thiện
chí của Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhân dân Pháp cũng ngày càng phản đối mạnh mẽ việc Chính
phủ Pháp tiếp tục cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” ở Việt am. ăm 1949, tại Pari diễn ra
nhiều cuộc biểu tình của quần chúng với các khẩu hiệu “Hoà bình ở Việt am”,
“Điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh” và “Chúng tôi là nạn nhân chiến tranh ở
Việt am” của các thương binh từ chiến trường trở về, cả các bà mẹ có con tử nạn tại
Việt Nam mặc tang phục đến Bộ Quốc phòng với biểu ngữ “Hãy trả con cho chúng
tôi”…, công nhân đường sắt, bến cảng Marseille, Dunkerque, Brest… từ chối bốc dỡ
69

vũ khí xuống tàu để đưa sang Đông Dương, nhiều nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp
(Jacques Duclos, éo Figuère…) dẫn đầu các đoàn tuần hành của quần chúng…
Đó là những minh chứng cho việc Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức
được sự thiếu thống nhất, mâu thuẫn trong nội bộ Pháp về vấn Việt Nam, từ đó triệt
để khai thác, tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình nhằm tránh chiến tranh.
Sau này, Sainteny - Ủy viên Cộng hòa Pháp tại miền Bắc Đông Dương, đã
viết trong cuốn sách Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ:
Đáng lẽ, chúng ta (nước Pháp - VTHD) đã tiết kiệm được cuộc chiến
tranh này, đã có thể không phải phơi bày và làm thoái hóa tinh thần quân
đội, và có thể chúng ta vẫn giữ được một vị trí nào đó ở Việt Nam, nếu
không phải là kinh tế thì ít nhất cũng trong lĩnh vực văn hóa và tinh thần.
Tôi có thể tin chắc điều này, bởi vì, như chúng ta đã thấy, ngay cả sau
cuộc chiến tranh thảm khốc này, những sợi dây liên hệ cùng dệt với Việt
Nam suốt 80 năm chung sống vẫn không hề bị đứt [145, tr.398-399].
Nhà sử học Pháp Philippe Devillers quả quyết:
Một cánh nhỏ những quan chức và nhà quân sự cấp cao Pháp đã châm
ngòi cho cuộc chiến tranh giữa nước Việt am và nước Pháp chỉ đơn
giản vì họ không đồng tình với chính sách của chính phủ họ, và đặc biệt
vì họ muốn đặt ông Léon Blum và Đảng Xã hội trước “một việc đã rồi”
trước khi bắt đầu nền Đệ tứ Cộng hòa [138, tr.28-29].
Với lực ượng Đồng inh và c c nước khác
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn cứ vào chủ trương đối ngoại “thêm bạn bớt
thù”, đã thực hiện những sách lược ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt đối với từng đối
tượng, lực lượng cụ thể.
Đối với quân Trung Hoa Dân quốc
Trong số lực lượng Đồng minh kéo vào Việt Nam, quân Trung Hoa Dân
quốc là đối tượng cần vô hiệu hoá trước nhất, bởi đằng sau chúng còn có các tổ
chức tay sai Việt Quốc, Việt Cách luôn tìm cách chống phá thành quả cách mạng.
Biết rõ âm mưu, thủ đoạn của chúng và những mâu thuẫn của Trung Hoa Dân quốc
với Pháp, Đảng chủ trương thực hiện Hoa - Việt thân thiện, nhân nhượng, tránh
70

xung đột, với phương châm hành xử: nếu xảy ra xung đột lớn (đại sự) thì tìm cách
biến thành trung sự, xảy ra xung đột vừa (trung sự) thì biến thành tiểu sự, xảy ra
xung đột nhỏ (tiểu sự) thì biến thành vô sự, nhân nhượng tối đa các yêu cầu của
quân Trung Hoa Dân quốc về kinh tế, về việc giải tán quân đội, về giải tán Đảng, về
thành phần Quốc hội, về thành phần Chính phủ liên hiệp, nhưng với nguyên tắc cao
nhất là không làm mất độc lập, chủ quyền.
Để tranh thủ thời gian, biến thời gian thành lực lượng, tránh phải đối đầu
cùng lúc với nhiều kẻ thù, Chính phủ Việt Nam luôn xúc tiến các cuộc tiếp xúc với
đại diện của quân Trung Hoa Dân quốc ở Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
động gặp gỡ các tướng ư Hán, Tiêu Văn để thương lượng, giải quyết các yêu sách
kinh tế, chính trị của họ, tạo nên mối quan hệ hòa dịu, hạn chế đến mức thấp nhất
các xung đột căng thẳng. Trong các cuộc tiếp xúc, thái độ ôn hòa, chủ động phối
hợp với quân Trung Hoa Dân quốc nhanh chóng giải quyết các xung đột, bất đồng
giữa hai bên của Việt am đã tranh thủ được cảm tình của ư Hán, chỉ huy quân
đội Trung Hoa Dân quốc ở miền Bắc. ư Hán từng tuyên bố: “… Cứ ý riêng tôi, tôi
rất biểu đồng tình với sự phản kháng oanh liệt của nhân dân Việt Nam trong Nam
Bộ” [116, tr.149]. Việt am đã từng bước vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn chống
phá của Trung Hoa Dân quốc cùng các lực lượng tay sai, hiện thực hóa chủ trương
triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa các lực lượng, phe phái để phân hóa chúng, tạo
điều kiện thuận lợi cho cách mạng. Hiệp định Hoa-Pháp ngày 28-2-1946 được ký
kết; hợp tác giữa Trung Hoa Dân quốc với Đảng Cộng sản Trung Quốc (Quốc - Cộng
hợp tác) lần thứ ba bị tan vỡ, cuộc nội chiến ở Trung Quốc tiếp diễn… là cơ hội đẩy
nhanh quân Trung Hoa Dân quốc về nước. Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, nhân nhượng và hoà hoãn với
Pháp để hạn chế tối đa sự câu kết của Pháp và Trung Hoa Dân quốc; Cố gắng hết
mức giúp cách mạng Trung Quốc ngay từ những ngày đầu cuộc nội chiến trong lúc
bản thân Việt Nam còn rất khó khăn; Tiếp tục tránh xung đột, nhân nhượng, giao
thiệp thân thiện với quân Trung Hoa Dân quốc trong giới hạn cho phép, không phạm
đến quyền lợi độc lập của Tổ quốc; Tuyên truyền, vận động nhân dân, dư luận hiểu
và lên án những hành động trái phép của quân Trung Hoa Dân quốc.
71

Vậy là bằng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, Việt am đã đẩy được gần 20
vạn quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi đất nước. Cách mạng Việt Nam dần thoát
khỏi tình thế phải đương đầu với nhiều kẻ thù cùng lúc, tranh thủ những khả năng
hoà bình quý giá cho cách mạng.
G ú đỡ cách mạng Trung Qu để tạo ra khả nảng thu n lợi cho mình
Trong giai đoạn 1946-1949, cách mạng Trung Quốc đang gặp khó khăn do
cuộc nội chiến Quốc - Cộng lại nổ ra từ đầu năm 1946. Với quan điểm, nhận thức
về vai trò của cách mạng Trung Quốc, giúp cách mạng nước bạn cũng là mình tự
giúp mình, nên Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần quốc tế, hết lòng
giúp đỡ với khả năng hiện có, khi cách mạng Trung Quốc yêu cầu. Mặt khác, Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức Trung Quốc chính là địa bàn có thể giúp Việt
Nam liên lạc được với bên ngoài, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Giúp Trung Quốc cũng là để tạo ra cơ hội cho Việt Nam có thể tranh thủ thực hiện
các khả năng hoà bình.
Dù phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, Đảng vẫn xác định phối hợp chiến
đấu với Quân Giải phóng Trung Quốc, góp phần giúp cho cách mạng Trung Quốc
mau đến thắng lợi cuối cùng.
Từ nửa đầu năm 1946, Việt am đã giúp bố trí ăn, ở cho 600 người nguyên
là đội du kích kháng hật - Trung đoàn 1 cũ, do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh
đạo, bị quân Quốc dân Đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch truy kích, phải chạy
sang Việt am, sau đó trở về Trung Quốc hoạt động ở khu Điền - Quế - Kiềm (Vân
Nam - Quảng Tây - Quý Châu). Tháng 2-1946, tại Việt am, Uỷ ban công tác biên
giới lâm thời Quế - Việt của Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập. goài ra,
tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc ở khu vực biên giới Quảng Tây còn mở các lớp
huấn luyện bồi dưỡng cán bộ cách mạng và quần chúng người Trung Quốc ở bên
đất Việt am.
Mùa Xuân 1947, hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt am đã thiết lập
mối liên lạc bằng vô tuyến điện do Chu Ân ai và Hồ Chí Minh phụ trách. Tháng 6-
1947, Việt am đã tổ chức, sắp xếp, giúp đỡ cho hơn 1000 người dân địa phương,
bộ đội vùng Xuân Tú - ong Châu bị quân Quốc dân Đảng càn quét, sơ tán sang và
72

lưu lại gần 4 tháng. ăm 1949, Việt am giúp Trung Quốc nhiều lương thực, thực
phẩm: muối, gạo, in tiền… Vào giữa năm 1949, nhà máy in tiền ở Bản Thi (Tuyên
Quang) đã in hơn 500 triệu đồng tiền Giải phóng gửi sang cho Giải phóng quân
Trung Quốc kịp thời giải quyết những vấn đề về quân nhu. Mặt khác, Việt am còn
cử nhiều lực lượng sang trực tiếp chiến đấu cùng Giải phóng quân Trung Quốc
trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn và giành nhiều thắng lợi (từ tháng 6 đến tháng
10-1949).
Cuối năm 1949, cách mạng Trung Quốc tiếp tục giành được thắng lợi, Trung
ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định sự kiện đó có những thuận lợi, khó
khăn nhất định đối với cách mạng Việt am, kịp thời đưa ra chủ trương phù hợp,
ngăn chặn tư tưởng ỷ lại, trông chờ trong một số cán bộ, đảng viên, củng cố tinh
thần, quyết tâm chiến đấu.
Ngày 01-10-1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa ra đời, mở ra bước ngoặt quan trọng trong quan hệ hai nước Việt -
Trung. Việt am coi đây là một khả năng thuận lợi để mở ra mối liên hệ giữa Việt
am với quốc tế, tạo cơ sở để phá thế bị bao vây cho cuộc kháng chiến. Thực tế
quan hệ Việt am - Trung Quốc nói riêng, Việt am với thế giới nói chung thời
gian này đã chứng minh chủ trương đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tranh thủ sự ủng hộ, g ú đỡ của Liên Xô
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi iên Xô là nước đứng đầu, người bạn
lớn trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình thế giới, vì độc lập của Việt Nam. Vì thế,
ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, trong hai tháng 9 và 10, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã liên tục gửi các điện, công hàm đến Tổng Bí thư Stalin, Chính
phủ, Bộ Ngoại giao Liên Xô, thông báo về tình hình Việt Nam và việc Pháp tấn
công Sài Gòn ngày 23-9-1945, đề nghị Liên Xô công nhận và giúp đỡ. hưng iên
Xô đã không hồi âm. Có một số lý do giải thích thái độ của Liên Xô như sau: sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô bị tàn phá nặng nề, nên cần ổn định để khôi
phục đất nước, trọng tâm đối ngoại của iên Xô lúc này là Đông Âu và Viễn Đông
để xây dựng vành đai an ninh của Liên Xô; tháng 12-1944, Liên Xô ký với Pháp
Hiệp ước Xô - Pháp. Trong đó, điều 5 quy định hai bên không can dự vào công việc
73

nội bộ của nhau, không tham gia một liên minh nào chống lại nước kia. Điều này đã
ràng buộc phản ứng của iên Xô đối với chính sách thuộc địa của Pháp; Liên Xô tin
tưởng Đảng Cộng sản Pháp có thể giúp các nước Đông Dương giải quyết vấn đề
dân tộc độc lập; Liên Xô có sự hiểu lầm về Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Đảng Cộng sản Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một số vấn đề đối
nội, đối ngoại của Việt Nam từ năm 1930 đến 1945.
Song, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì tìm kiếm liên lạc, yêu cầu Liên Xô can thiệp
với tư cách là một cường quốc, Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc; gười tiếp tục gửi nhiều công hàm tới Chính phủ, Bộ Ngoại giao và người
đại diện Liên Xô tại Liên hợp quốc trong các ngày 21-10-1945, 14-1-1946, 18-2-
1946, 9-11-1946, 12-1946. Trong đó, Hồ Chí Minh đề nghị iên Xô đưa vấn đề
Việt Nam ra bàn tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và ủng hộ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà.
Tháng 2-1947, Việt am đã liên lạc với người đại diện của Liên Xô tại Thái
Lan. Tháng 4-1947, trong dịp dự Hội nghị Liên Á tại iu Đêli (Ấn Độ), đại diện
Chính phủ Việt am đã gặp đại diện Chính phủ Liên Xô và thống nhất hai bên sẽ
họp kín ở Châu Âu vào mùa thu năm 1947. Đến tháng 9-1947, Hồ Chí Minh cử bác
sỹ Phạm Ngọc Thạch đi Thuỵ Sỹ làm việc với đại diện Chính phủ Liên Xô. Tại
cuộc gặp, Việt am đã thông báo cho iên Xô về tình hình hoạt động của Đảng
Cộng sản Đông Dương, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chính thức đề
nghị iên Xô giúp đỡ về tài chính, quân sự, đồng thời đưa vấn đề xung đột Pháp -
Việt ra Liên hợp quốc. Song ở thời điểm đó, iên Xô chưa muốn công khai can
thiệp vào vấn đề Đông Dương. Vì thế, cuộc gặp chỉ được nhìn nhận, như nhà sử học
Pháp Benoit De Treglogé nhận xét rằng Liên Xô chỉ thấy ở cuộc gặp này một cơ hội
để tìm hiểu về tình hình thuộc địa của Pháp vào thời điểm mà Đảng Cộng sản Pháp
còn giữ một vai trò trung tâm trong đời sống chính trị của chính quốc. Mặt khác, do
thiếu thông tin, hoặc những báo cáo sai lệch nên trong một thời gian khá dài, Liên
Xô đã có những đánh giá không đúng về Đảng Cộng sản Đông Dương, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và về Hồ Chí Minh.
74

Tuy những yêu cầu của Chính phủ Việt Nam chỉ được Liên Xô tiếp nhận
một cách “dè dặt” và không trả lời, nhưng cũng đã tác động phần nào đến dư luận
Liên Xô. Từ năm 1949 trở đi, báo chí iên Xô tỏ ra có thiện chí với Việt Nam,
không tán thành Hiệp ước Élysée và việc Pháp trao độc lập cho Chính phủ Bảo Đại.
Đồng thời lên tiếng phản đối chế độ thực dân, chống chiến tranh xâm lược và yêu
cầu Liên hợp quốc can thiệp giải quyết vấn đề độc lập cho các dân tộc vốn là thuộc
địa của đế quốc, thực dân.
Chủ động tranh thủ h độ trung l p của Mỹ để tìm ki m sự ủng hộ
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” (25-11-1945), Trung ương Đảng nhận định:
Tuy Mỹ nói đối với Đông Dương giữ thái độ trung lập, song Mỹ đã ngầm
giúp Pháp bằng cách cho Pháp mượn tàu chở quân sang Đông Dương.
Một mặt Mỹ muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và
Đông am châu Á, nhưng một mặt nữa, Mỹ lại muốn hoà hoãn với Anh,
Pháp để cùng lập mặt trận bao vây Liên Xô và chính vì mục đích ấy, Mỹ
có thể hy sinh quyền lợi bộ phận ở Đông am châu Á [36, tr.24].
Điều đó chứng tỏ Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấu đáo
toan tính của Mỹ trong vấn đề Đông Dương, cũng như thái độ trung lập, nửa vời
của Mỹ với Pháp, khả năng có thể tranh thủ được. Mặc dù đồng ý cho Pháp mượn
tàu chở quân sang Đông Dương nhưng những năm đầu của cuộc chiến tranh, Mỹ
không ủng hộ Pháp dùng vũ lực để quay lại Đông Dương. Với chủ trương “thêm
bạn bớt thù”, “tránh tình trạng phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc”, Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệt để tranh thủ thái độ trung lập, nước đôi của Mỹ, nỗ
lực duy trì quan hệ với Mỹ, tích cực khai thác, lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ-Trung
Hoa Dân quốc và Anh - Pháp để hạn chế âm mưu xâm lược của Pháp và sự chống
phá của quân Trung Hoa Dân quốc. Trong năm cuối của Chiến tranh thế giới thứ
hai và những ngày tháng Tám năm 1945, Việt am đã có những quan hệ với quân
đội Mỹ. Khi nhóm “Mercey” của tổ chức tình báo Mỹ OSS (Office Strategic
Service), do thiếu tá A.Patti chỉ huy đến Sài Gòn; tướng Ph.E.Gallagher với tư cách
chỉ huy đoàn cố vấn viện trợ Mỹ, cố vấn cho Tư lệnh quân đội Trung Quốc ở Đông
Dương, đến Hà Nội, phía Việt am đã có nhiều hoạt động tiếp xúc thể hiện thiện
75

chí, hoan nghênh sự có mặt của họ ở Việt am đồng thời thông báo tình hình, thể
hiện mong muốn Mỹ tham gia làm trung gian giải quyết vấn đề Pháp - Việt.
Bên cạnh đó, từ tháng 9-1945 đến tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhiều lần gửi thư, điện, công hàm cho Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu
về dân tộc Việt am, đề nghị Mỹ công nhận nền độc lập của Việt Nam, tố cáo sự
quay trở lại xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, các hành động không đúng của
lực lượng Đồng minh ở Việt am. Trong thư gửi Tổng thống Truman, (24-9-1945),
Hồ Chí Minh đã thể hiện sự phản đối mạnh mẽ và yêu cầu Tổng thống Mỹ can
thiệp, thuyết phục người Anh đứng trên cơ sở các nguyên tắc tự do và tự quyết do
Hiến chương Đại Tây Dương đề ra để không vi phạm đến những quyền tự nhiên của
nhân dân Việt am, đe doạ trực tiếp nền an ninh trong nước và là nhân tố làm mất
ổn định và hoà bình ở Đông am Á. gày 18-1-1946, Hồ Chí Minh tiếp tục viết
thư gửi Tổng thống Mỹ Truman, nêu rõ hành động chiến tranh xâm lược của Pháp,
đề nghị Mỹ hãy sớm can thiệp và đưa ra một giải pháp để giúp nhân dân Việt Nam
thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đẫm máu đó. Đến 16-2-1946, Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục gửi thư lên án gay gắt hành động xâm lược của
thực dân Pháp, khẳng định đó là “một sự thách thức đối với thái độ đáng kính trọng
mà Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã bày tỏ trước, trong và sau chiến tranh” [116,
tr.203]. Qua đó, Hồ Chí Minh kêu gọi Mỹ và các cường quốc nhanh chóng công
nhận nền độc lập của Việt Nam và ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc.
Tuy những nỗ lực của Việt am đã không được Mỹ đáp lại, nhưng trên thực
tế, rõ ràng thái độ của Mỹ đối với vấn đề Pháp trở lại Đông Dương những năm
1945-1949, xa hơn nữa là từ thời Tổng thống Roosevelt, có những khả năng thuận
lợi để Việt Nam có thể tranh thủ. Tổng thống Roosevelt cho rằng “gần một thế kỷ
thống trị của Pháp ở Đông Dương đã làm cho người dân bản xứ ngày càng tồi tệ
hơn so với trước khi người Pháp đến” [143, tr.10]. Roosevelt không những không
muốn giúp Pháp quay trở lại Đông Dương, mà ông còn “thúc giục những người
lãnh đạo, đồng minh cùng với ông thiết lập sự uỷ trị quốc tế để thay thế cho chính
quyền Pháp” [143, tr.10]. Tại Hội nghị Tehran (11-1943), Roosevelt đã nêu quan
điểm “đồng minh không nên giúp Pháp để nắm lại quyền kiểm soát ở Đông Dương”
76

[143, tr.17]. Đến Hội nghị Yanta (2-1945), Roosevelt vẫn tiếp tục đề xuất kế hoạch
thiết lập chế độ uỷ trị ở Đông Dương, đó là “thiết lập một Hội đồng quản trị gồm
một đại biểu của Pháp, một hoặc hai đại biểu người Đông Dương, một đại biểu
Philippines, một đại biểu Trung Quốc và một đại biểu iên Xô” [143, tr.19-20].
ăm 1947, Mỹ vẫn lưu ý Pháp “nếu bất cứ nước nào nêu vấn đề Việt Nam ra
Liên hợp quốc thì Mỹ sẽ khó có thể chống lại một cuộc điều tra về vấn đề Đông
Dương, “trừ phi các cuộc đàm phán giữa các bên đang được tiến hành” vào lúc đó”
[142, tr.60-61]. Ngày 13-5-1947, Mỹ bày tỏ ý kiến với phía Pháp rằng cuộc chiến
tranh ở Việt Nam là do cả hai bên Pháp và Việt am gây ra và “Mỹ mong Pháp có
cố gắng rộng lượng để sớm có một giải pháp hòa bình bằng việc công nhận các
nguyện vọng chính đáng của Việt am” [142, tr.63]. Tình hình Việt Nam từ 1946-
1949 khiến người Mỹ luôn nghi ngờ rằng “mấu chốt của vấn đề là Chính phủ Pháp
đã không chịu đáp ứng nguyện vọng giành độc lập của nhân dân Việt am” [143,
tr.28]. Cho đến mùa Xuân 1950, Mỹ mới xem xét đến kế hoạch viện trợ cho Đông
Dương: “việc viện trợ sẽ giới hạn về kinh tế và đồ dùng quân sự, và dừng lại không
dẫn tới việc can thiệp về quân sự của chính chúng ta (Mỹ-VTHD) [143, tr.32] và
viện trợ đó phần lớn là cho các Quốc gia liên kết.
hư vậy, các nỗ lực thiện chí của Việt Nam với Mỹ đã thể hiện rõ chủ
trương của Đảng muốn “thêm bạn bớt thù”, chủ động tận dụng mọi khả năng có
thể để ngăn chặn chiến tranh, vãn hồi hòa bình ở Việt am. Thái độ của Mỹ đối
với nỗ lực, thiện chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề Pháp quay trở lại Việt
am giúp Đảng hiểu rõ hơn âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc để có đối
sách phù hợp, củng cố thêm nhận thức về con đường đấu tranh cho hoà bình, độc
lập của Việt Nam.
Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên hợp qu c và các lự lượng hoà
bình dân chủ trên th giớ đ i với cách mạng Việt Nam
Với Liên hợp quốc, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho các
nhân vật có trọng trách của Liên hợp quốc: tháng 11-1945, gửi thư cho Tổng Giám
đốc Chương trình viện trợ nông thôn của Liên hợp quốc; tháng 1-1946, gửi thư cho
Chủ tịch Hội đồng Liên hợp quốc; Lời kêu gọi Liên hợp quốc (1-1946 và 12-1946),
77

cùng nhiều công hàm tới đại diện các nước là Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an
(Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Hoa Dân quốc), yêu cầu Liên hợp quốc can thiệp để các
nước có liên quan cùng với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giải quyết
vấn đề Việt Nam trên tinh thần của Hiến chương iên hợp quốc và ủng hộ Việt Nam
ra nhập Liên hợp quốc. Khi Liên hợp quốc họp ở uân Đôn (14-1-1946), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã gửi điện văn cho các đại diện Liên Xô, Mỹ, Trung Hoa Dân quốc,
bày tỏ nguyện vọng của Việt Nam, đề nghị Liên hợp quốc can thiệp chấm dứt cuộc
xung đột Việt - Pháp… Do những lý do khác nhau, những nỗ lực của Việt Nam
không được Liên hợp quốc hồi đáp, nhưng đã trở thành cơ sở cho những hoạt động
đối ngoại những năm tiếp sau của Việt Nam.
Tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng hoà bình dân chủ trên thế giới cũng là
một trong những hoạt động mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng thực hiện.
Với các nước Châu Á và các nước thuộc địa của Pháp, Hồ Chí Minh đã
nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu các nước mới giành được độc lập (Inđônêxia,
Miến Điện, Ấn Độ), lãnh tụ các phong trào giải phóng dân tộc. Trong Thư kêu gọi
gửi các vị lãnh tụ và toàn thể nhân dân Trung Hoa, Miến Điện, nhân dân các thuộc
địa Pháp… ngày 13-1-1947, Hồ Chí Minh viết: “Vì Tổ quốc, vì tự do, nhân dân
Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng. Vì nhân đạo, chính nghĩa, vì hoà bình
chung và lợi ích chung, nhân dân Việt Nam mong các vị giúp đỡ mọi phương diện”
[117, tr.31].
Việt am cũng mở rộng quan hệ với các nước Tây Nam Á, thiết lập quan hệ
trực tiếp với một số nước Đông am Á, từ đó mở rộng tiếp xúc quốc tế, tranh thủ
sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Tháng 2-1948, Việt Nam lập được
cơ quan đại diện tại Miến Điện. Tháng 8-1946, cơ quan đại diện của Chính phủ Việt
am được đặt ở Băng Cốc (Thái an), thông qua cơ quan này, các Việt kiều ở Nam
Mỹ, Mỹ, Tân Đảo, Tân Thế giới… gửi tiền về ủng hộ cách mạng. Từng bước, Băng
Cốc trở thành đầu mối quốc tế chủ yếu để Việt Nam mở rộng hoạt động ở hải ngoại.
Thái an, Malaixia đã giúp đỡ Việt Nam thời kỳ đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam còn cử nhiều đoàn đại biểu đi tham dự các
hội nghị: Thanh niên Châu Á ở Cancuta, Ấn Độ (2-1948); Hội nghị Thanh niên
78

tương trợ Châu Á ở Ấn Độ (7-1948); Hội nghị Thanh niên dân chủ thế giới ở Tiệp
Khắc (2-1948), Đại hội hoà bình thế giới lần đầu tiên ở Pari (4-1949); Hội nghị
Liên hiệp công đoàn thế giới ở Milan, Ý (6-1949)… Các đại biểu Việt am đã
mang tiếng nói hoà bình, lập trường chính nghĩa của Việt am đến bạn bè quốc tế,
góp phần thiết thực nâng cao vị thế quốc tế của Chính phủ Việt Nam, làm cho nhân
dân thế giới hiểu, đồng tình ủng hộ cuộc kháng chiến vì hoà bình, độc lập của Việt
Nam thắng lợi.
79

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình là một chủ trương
đúng đắn, có cơ sở lý luận, thực tiễn và diễn ra trong thực tế cuộc kháng chiến. Ở
từng thời điểm lịch sử cụ thể, chủ trương đó được thực hiện một cách linh hoạt, hiệu
quả. Mong muốn giải quyết các xung đột bằng thương lượng hoà bình, tránh chiến
tranh của Việt am được thể hiện rõ trong những năm 1945-1949, đó là quá trình
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.
Đây là giai đoạn mà bối cảnh tình hình thế giới, trong nước, thực tế mối quan
hệ Việt - Pháp đem đến những khả năng hoà bình, Đảng đã lãnh đạo tranh thủ thực
hiện các khả năng thuận lợi có sẵn, đặc biệt là những năm 1945-1946. Vì thế, chủ
trương lúc này của Đảng là phải hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của từng kẻ thù, thực
hiện sách lược ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt trên nguyên tắc dĩ bất biến, ứng vạn
biến, triệt để tranh thủ điều kiện hoà bình ở miền Bắc, tập trung củng cố, xây dựng
thực lực cách mạng và chi viện cho miền Nam kháng chiến nhằm ngăn chặn chiến
tranh mở rộng, từng bước đưa đất nước thoát khỏi thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Từ sau ngày 19-12-1946 đến hết năm 1949 là thời điểm cuộc kháng chiến đã
lan ra toàn quốc, khả năng tìm kiếm hoà bình ngày càng khó khăn, mọi nỗ lực vãn
hồi hoà bình không còn nữa, tranh thủ các khả năng hoà bình lúc này chính là vừa
kiên trì thực hiện sách lược ngoại giao làm bạn với tất cả các nước dân chủ để tìm
kiếm sự công nhận, ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, vừa kiên quyết kháng chiến và
tìm cách tiếp tục đàm phán với Pháp, chủ động tạo ra khả năng, cơ hội thuận lợi để
tranh thủ hoà bình.
Thực tế cuộc kháng chiến chứng minh thiện chí, khát vọng hoà bình của Việt
Nam. Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nỗ lực, không bỏ qua bất cứ
khả năng nào dù là nhỏ nhất để vãn hồi hoà bình, tránh chiến tranh và đã ngăn chặn
được chiến tranh sớm nổ ra.
80

Chương 3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TRANH THỦ THỰC HIỆN
CÁC KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1954

3.1. CHỦ TRƯƠNG TRANH THỦ THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HOÀ
BÌNH CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1954
3.1.1. Những yếu tố mới t c động đến quá trình hoạch định chủ trương
tranh thủ thực hiện khả năng hòa bình của Đảng giai đoạn 1950-1954
Tình hình qu c t
Từ cuối năm 1949, tình hình thế giới, châu Á có nhiều biến đổi to lớn, tác động
đến chủ trương của Đảng, sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Việt Nam.
ăm 1949, iên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc
quyền bom nguyên tử của Mỹ, đồng thời tuyên bố cấm sử dụng vũ khí nguyên tử
một cách vô điều kiện và quyết định sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích
hoà bình. Liên Xô tích cực giúp đỡ các nước dân chủ nhân dân đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa cả về vật chất, tinh thần, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Liên Xô trở thành nước đi đầu kiên quyết đấu tranh
cho nền hoà bình, an ninh thế giới, chống lại chính sách gây chiến, xâm lược của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc, các lực lượng phản động; là thành trì, chỗ dựa vững
chắc cho hoà bình và phong trào cách mạng thế giới.
Ngày 1-10-1949, Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa ra đời. Trung Quốc thực hiện chính sách đối ngoại đoàn kết với tất
cả các nước và các dân tộc yêu chuộng hoà bình, tự do trên thế giới, trước tiên là
iên Xô, các nước dân chủ nhân dân và các dân tộc bị áp bức, đồng thời đứng vào
hàng ngũ các nước dân chủ thế giới, cùng các dân tộc chống chiến tranh xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc để giữ gìn nền hoà bình lâu dài. Trung Quốc tuyên bố đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ hợp tác với iên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa và Việt Nam. Từ đây, cán cân so sánh lực lượng nghiêng mạnh về phe
dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện khách quan thuận lợi giúp Việt Nam tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ, chi viện vật chất từ bên ngoài. Nhân dịp nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa ra đời, ngày 5-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng
81

tới Chủ tịch Mao Trạch Đông, khẳng định: “Hai dân tộc Việt-Hoa có mối quan hệ
anh em trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy ngày càng mật thiết để
phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, để bảo vệ dân chủ thế giới và hòa
bình lâu dài” [118, tr.254]. ước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời là một cơ sở
quan trọng, là chỗ dựa, cổ vũ cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Đến năm 1950, hệ thống xã hội chủ nghĩa được mở rộng, nối liền từ châu Âu
sang châu Á và trở thành một hệ thống thế giới đối trọng với chủ nghĩa tư bản.
Chiến tranh lạnh lan rộng và ảnh hưởng tới nhiều nước: Ở khu vực Đông
am Á và Đông Bắc Á đang xảy ra các cuộc chiến tranh ở bán đảo Đông Dương và
bán đảo Triều Tiên. Cuộc chiến tranh Triều Tiên nhanh chóng chuyển thành cuộc
đối đầu căng thẳng giữa Mỹ (trợ giúp cho Nam Triều Tiên) và Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa (trợ giúp cho Bắc Triều Tiên), làm cho Mỹ và Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa mâu thuẫn gay gắt. Mỹ muốn biến bán đảo Triều Tiên thành bàn đạp để chống
phá Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trong khu vực, ngăn cản ảnh hưởng
ngày càng lớn của iên Xô đối với Đông Bắc Á và Đông am Á. Suốt ba năm
chiến tranh (1950-1953) không phân thắng bại, chiến trường Triều Tiên ở thế giằng
co, ngày 27-7-1953, cuộc chiến tranh Triều Tiên kết thúc với Thỏa thuận Bàn Môn
Điếm, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới phân chia hai miền Nam và Bắc Triều Tiên. Kết
quả đó phần nào phản ánh thực lực của hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa, chưa phe nào thực sự chiếm ưu thế trên chiến trường. Tại Châu Âu, tiếp tục
diễn ra căng thẳng giữa Đông Âu và Tây Âu, Đông Đức và Tây Đức, đặc biệt là
Đông Berlin và Tây Berlin, mà thực chất là giữa Liên Xô và Mỹ. Tại Đông Dương,
từ 6-1950, Mỹ bắt đầu tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự cho thực dân Pháp ở
Đông Dương và viện trợ cho quân đội chính quyền Quốc gia Việt Nam, Lào,
Campuchia. Nếu ngày 17-6-1947, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố:
“Mỹ mong có giải pháp hòa bình cho vấn đề Đông Dương”; ngày 8-1-1947, Đại sứ
Mỹ tại Pari thông báo với Chính phủ Pháp rằng Chính phủ Mỹ sẵn sàng làm trung
gian để giải quyết cuộc xung đột Pháp - Việt, thì đến đầu năm 1950, Mỹ lại chính
thức can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương, trở thành kẻ thù cụ thể của cách
82

mạng Việt Nam. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương và Việt am đã bị quốc tế hóa.
Thỏa thuận Bàn Môn Điếm kết thúc chiến tranh Triều Tiên được coi là giải pháp
kiểu mẫu cho các cuộc chiến tranh khác mà cả hai phe đều muốn thực hiện, vì thế,
ngày 4-8-1953, Liên Xô lần đầu tiên đưa ra gợi ý triệu tập Hội nghị 5 nước lớn (cả
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) để giải quyết vấn đề Viễn Đông.
Về phía Pháp, tại chiến trường Đông Dương, thực dân Pháp ngày càng sa
lầy. Để giải quyết tình trạng bế tắc ở Đông Dương, tháng 5-1949, Chính phủ Pháp
cử Đại tướng Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, cầm đầu phái đoàn
sang nghiên cứu tình hình Đông Dương và vạch kế hoạch đối phó. Sau hơn một
tháng khảo sát, Revers đưa ra nhận xét tổng quát “không thể có một giải pháp quân
sự và cũng không còn hy vọng lật lại tình thế để đạt những điều kiện có lợi trong
một cuộc điều đình. Chiến thắng của Quân Giải phóng Trung Quốc đã làm thay đổi
cán cân lực lượng ở Viễn Đông, tạo ra một tình hình nghiêm trọng cho quân đội
Pháp” [49, tr.568]. Lối thoát khỏi tình thế khó khăn của nước Pháp lúc này là đưa
chiến tranh Đông Dương vào kế hoạch chiến lược của Mỹ, cũng có nghĩa là bước
đầu chuyển giao cuộc chiến tranh cho Mỹ. Sau 5 năm theo đuổi cuộc chiến tranh
xâm lược Đông Dương, nước Pháp đã không thể gánh chịu nổi những chi phí to
lớn, nội bộ tướng lĩnh Pháp ở Đông Dương bất đồng, mâu thuẫn. Chiến tranh đã
làm cho nước Pháp thêm khó khăn trầm trọng về kinh tế, xã hội, dẫn đến những
cuộc khủng hoảng nội các liên miên. Tình hình rối ren đó buộc Pháp phải tìm viện
trợ từ phía Mỹ.
Ở nước Pháp, phong trào phản chiến ngày càng dâng cao trong quần chúng
nhân dân Pháp, họ lên án cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” Pháp đang tiến hành ở Đông
Dương. Đặc biệt, nội các Pháp chia rẽ sâu sắc, tại điện Bourbon, ngày 9-10-1950,
trong chính giới Pháp diễn ra sự tranh luận gay gắt về vấn đề Đông Dương. hiều
nghị sĩ Quốc hội chất vấn, lên án, công kích các chính phủ kế tiếp nhau theo đuổi
cuộc chiến tranh hao người, tốn của ở Việt am, Đông Dương. hiều quan chức
chính trị, quân sự của Pháp ở cả Việt Nam và tại Pari công khai bày tỏ sự thất vọng,
hoài nghi về cuộc chiến tranh Đông Dương. Mendès France (Đảng Cấp tiến), đại
diện xu hướng thức thời cho rằng nước Pháp đã đặt mình vào trong tình trạng tiến
83

thoái lưỡng nan và kiến nghị: “cần phải thương lượng, phải “tìm kiếm một sự thỏa
hiệp về chính trị” với những người đang kháng chiến ở Đông Dương” [164, tr.15]
Song, những kẻ thực dân hiếu chiến và những kẻ có quyền lợi ở Đông
Dương vẫn ngoan cố thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược. Trong phiên họp ngày
22-11-1950, Quốc hội Pháp đã thông qua quyết định uỷ quyền cho chính phủ tăng
cường tối đa các biện pháp chiến tranh xâm lược Đông Dương. Thủ tướng Pháp
René Pléven tuyên bố “cứ tiến lên bằng đại bác”. Mặc dù thất bại nặng nề ở biên
giới Đông Bắc Bắc Bộ Thu Đông 1950, ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp vẫn cử
Tướng De Lattre de Tassigny làm Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp
ở Đông Dương nhằm giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Thực dân Pháp
bắt đầu thực hiện hàng loạt các thay đổi trong chính sách quân sự, chính trị nhằm
đối phó với cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Cuộc kháng chiến của Việt am ngày càng được bạn bè quốc tế biết đến, dư
luận thế giới tiếp tục lên án gay gắt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực
dân Pháp, can thiệp Mỹ. Khắp nơi, nhất là ở châu Âu, phong trào đấu tranh bảo vệ
hoà bình thế giới phát triển rộng khắp với nhiều hình thức phong phú, tập trung mũi
nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ, các thế lực hiếu chiến phá hoại hoà bình. Tháng 4-
1949, Hội đồng hoà bình thế giới được thành lập, sau đó, nhiều đại hội, hội nghị
hoà bình đã được tổ chức với nhiều nước tham gia. Tháng 11-1950, tại Vacsava (Ba
Lan), Hội nghị của Hội đồng hoà bình thế giới lần thứ hai đã thông qua nghị quyết
đòi thế lực đế quốc chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Triều Tiên và Việt Nam.
Tháng 10-1952, Hội nghị hoà bình châu Á - Thái Bình Dương họp ở Bắc Kinh lên
án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược ở Triều Tiên, Việt am, ào, Miên….
Ngày 10-9-1953, Uỷ ban thường trực Hội đồng hoà bình thế giới thông qua nghị
quyết kêu gọi nhân dân các nước đẩy mạnh đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, giải
quyết hoà bình vấn đề Đông Dương. Đặc biệt, tháng 10-1953, Đại hội Công đoàn
thế giới lần thứ 3 họp ở Viên (Áo) đã quyết định lấy Ngày kỷ niệm toàn quốc kháng
chiến của Việt Nam (19-12-1953) làm gày lao động thế giới đoàn kết với nhân
dân Việt am, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào đấu tranh vì hoà bình thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ
84

trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình của Việt am, để đẩy mạnh
kháng chiến, tạo ra cơ hội sớm kết thúc chiến tranh chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ bằng một giải giáp hoà bình.
Tình hình ng nước
Từ cuối năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt am đã có bước
phát triển mạnh mẽ. Chiến tranh du kích ngày càng phát triển, chuyển mạnh từ du
kích chiến lên vận động chiến, từng bước thực hiện chiến tranh chính quy, biến hậu
phương địch thành tiền phương ta. ực lượng vũ trang ba thứ quân từng bước được
xây dựng lớn mạnh. Đại đoàn chủ lực đầu tiên (Đại đoàn 308) của Quân đội nhân
dân Việt am được thành lập (8-1949). Bộ đội chủ lực đã phối hợp với bộ đội địa
phương và dân quân du kích chủ động mở hàng chục chiến dịch, đợt hoạt động vừa
và nhỏ, trên khắp các chiến trường, đặc biệt là trên chiến trường chính Bắc Bộ. Việt
Nam chủ động mở và giành thắng lợi trong chiến dịch Biên Giới Thu Đông năm
1950 đã khai thông được biên giới, mở ra con đường liên lạc quốc tế, nhận viện trợ
từ Trung Quốc, Liên Xô, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và củng cố căn cứ địa Việt
Bắc, thực lực cuộc kháng chiến được tăng cường.
Công cuộc kiến quốc, đẩy mạnh kháng chiến toàn diện đạt được những kết
quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục,
quân sự, ngoại giao… Căn cứ địa Việt Bắc được giữ vững và mở rộng. Cuộc kháng
chiến của Việt Nam có sự phối hợp chiến đấu, giúp đỡ lẫn nhau với cách mạng Lào,
Campuchia và Trung Quốc. Đặc biệt, từ đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và
một số nước dân chủ nhân dân chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
hà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc kháng chiến đã được sự công nhận,
ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nhân dân tiến bộ thế giới. Một vùng biên giới
rộng lớn của phía Bắc Việt Nam giáp với Trung Quốc được khai thông là cơ sở,
điều kiện thuận lợi nối liền cách mạng Việt Nam với thế giới. Việt Nam tích cực,
chủ động tham gia các hoạt động, diễn đàn quốc tế để tranh thủ sự công nhận, ủng
hộ. Từ năm 1953, trong bối cảnh thế giới có những biến chuyển quan trọng, xu thế
hoà hoãn ngày càng xuất hiện rõ, nhất là từ sau giải pháp kết thúc cuộc chiến tranh
Triều Tiên, đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Thế và lực của cách
mạng có bước phát triển, mở ra những khả năng mới cho cuộc kháng chiến.
85

Đó là những yếu tố tác động trực tiếp đến chủ trương tranh thủ thực hiện khả
năng hoà bình của Đảng giai đoạn 1950-1954.
3.1.2. Chủ trương của Đảng tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình
từ nă 1950 đến nă 1954
Với bất kỳ lý do gì, chiến tranh luôn phản ánh mối quan hệ không thể điều
hoà, là giải pháp cao nhất và cuối cùng để giải quyết mâu thuẫn giữa các bên, nhằm
tìm kiếm và xác lập mối quan hệ, trật tự mới mà các bên có thể chấp nhận được.
Giáo sư, nhà giáo nhân dân Vũ Dương inh cho rằng quan hệ Việt - Pháp (1945-
1954) chính là “Hành trình tìm kiếm hoà bình đi qua chiến tranh”, có nghĩa là tiến
hành chiến tranh, dùng chiến tranh để giành lấy hoà bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng từng nói “muốn đi tới hoà bình có khi phải chiến tranh” [116, tr.146]. Cuộc
kháng chiến chống Pháp 1945-1954 của nhân dân Việt am, đặc biệt là giai đoạn từ
1950 đến 1954 thể hiện sinh động điều đó. Trước những biến động to lớn của tình
hình thế giới, khu vực và trong nước, Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình chính là tranh thủ sự
công nhận, ủng hộ quốc tế, chủ động đẩy mạnh các hoạt động quân sự, dùng thắng
lợi quân sự để mở ra khả năng kết thúc chiến tranh bằng giải pháp hoà bình, giành
lấy hoà bình…
Ngay từ tháng 1-1950, trong Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương về việc
tuyên truyền gây thiện cảm với nước Trung Hoa Dân chủ nhân dân và Quân giải
phóng, đã chỉ rõ cần:
Lập những phái đoàn đại biểu bộ đội và nhân dân ta sang thăm Trung Hoa
và Quân Giải phóng: mời các phái đoàn Trung Hoa và Quân Giải phóng
sang thăm ta (phải tổ chức đón tiếp chu đáo). Các đài phát thanh, các báo,
các buổi phát thanh tin tức ở xã đều phải luôn luôn nói tới Trung Hoa. Mấy
tờ báo chính như Sự thật, Cứu quốc nên có mục về Trung Hoa [39, tr.5].
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc làm cho tinh thần quân Pháp, quân của
Quốc gia Việt Nam hoang mang, kế hoạch của Pháp bao vây biên giới bị đe dọa
thất bại. Đây là một cơ hội lớn đối với cách mạng Việt Nam, mở ra khả năng khai
thông liên lạc giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để Việt
86

Nam thiết lập các mối quan hệ trực tiếp với Liên Xô, Trung Quốc, phá vỡ thế bao
vây của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam. Trung Quốc trở thành cầu
nối giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Chủ trương của Đảng tuyên truyền, gây dựng
thiện chí, tình cảm tốt đẹp với Quân Giải phóng Trung Quốc là điều cần thiết và
đúng đắn.
Tháng 1-1950, Chính phủ ban hành hàng loạt các Chỉ thị, Tuyên bố về chính
sách ngoại giao: Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố với các chính phủ và nhân dân thế giới,
khẳng định Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất
của toàn thể nhân dân Việt am. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng
quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt am, để
cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới. Đồng thời, Bộ Ngoại giao
tuyên bố (15-1-1950) công nhận Chính phủ nhân dân Trung Quốc và quyết định đặt
quan quan hệ ngoại giao chính thức, trao đổi đại sứ với Trung Quốc; ngày 18-1-1950,
Chỉ thị về Tuyên truyền chính sách ngoại giao của Chính phủ tiếp tục khẳng định và
tuyên truyền, nhấn mạnh quan điểm đối ngoại của Chỉnh phủ Việt am. Đây là một
hoạt động ngoại giao tích cực, chủ động nhằm tranh thủ mọi điều kiện, khả năng
thuận lợi để tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài cho cuộc kháng chiến.
Trước tính chất ngày càng cam go, phức tạp của cuộc kháng chiến, Mỹ ngày
càng can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của
Đảng (từ 21-1 đến 3-2-1950), xác định rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Đông
Dương “phải cần có sự giúp đỡ của các lực lượng hoà bình, của dân chủ thế giới
mới có thể giành được thắng lợi cuối cùng. Vấn đề tuyên truyền quốc tế và vấn đề
ngoại giao với các nước phải được đặt ra cấp thiết hơn lúc nào hết” [39, tr.85]. Căn
cứ vào đặc điểm, tình hình, tính chất, vị trí của cách mạng Đông Dương hiện nay là:
Đối với phe dân chủ chống đế quốc, Đông Dương là một tiền đồn, một
pháo đài trên phòng tuyến chống đế quốc ở Đông am châu Á. goài
mục đích giành độc lập, dân chủ cho mình, trong cuộc kháng chiến này,
nhân dân Đông Dương còn có mục đích bảo vệ hòa bình thế giới.
87

Thành công hay thất bại của nhân dân Đông Dương trong cuộc kháng
chiến chống Pháp này không thể không liên quan đến hòa bình dân chủ
thế giới… hân dân Đông Dương cần phải có sự giúp đỡ của các lực
lượng hòa bình, của dân chủ thế giới mới có thể giành được thắng lợi
cuối cùng [39, tr.84-85].
Đảng đề ra nhiệm vụ cụ thể:
a) Tố cáo bằng đủ mọi cách mưu mô gây chiến của bọn đế quốc do Mỹ
cầm đầu
b) Tố cáo chính sách can thiệp của Mỹ-Anh giúp thực dân Pháp và bọn
bù nhìn ở Đông Dương.
c) Ra sức tuyên truyền ủng hộ iên Xô và các nước dân chủ nhân dân,
củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương và nhân dân các
nước đó.
d) Liên kết chặt chẽ cuộc chiến đấu của ta với phong trào tranh đấu cho
hoà bình và dân chủ thế giới, hưởng ứng phong trào đó bằng mọi cách
gây phong trào các chiến sỹ bảo vệ hoà bình thế giới
e) Liên kết cuộc kháng chiến của ta với phong trào phản chiến của nhân
dân Pháp; thống nhất hành động với Đảng Cộng sản Pháp
f) Thực hiện sự giúp đỡ giữa iên Xô, cùng các nước dân chủ nhân dân Đông
Âu và Việt Nam về mọi mặt, làm cho các nước đó thiết thực giúp đỡ cuộc
kháng chiến của Việt Nam, Cao Miên, Lào [39, tr.212].
hư vậy, trong bối cảnh tình hình mới, Đảng chủ trương tranh thủ sự giúp
đỡ, ủng hộ của quốc tế qua việc xác định rõ mục tiêu, tính chất, nhiệm vụ của cách
mạng Đông Dương, Việt Nam và mối liên hệ của cách mạng Việt Nam với thế giới.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là một bộ phận quan trọng, không thể
tách rời cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc,
bảo vệ hoà bình thế giới của các lực lượng dân chủ, tiến bộ. Đảng chủ trương dùng
nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng để mọi tầng lớp nhân dân hiểu
được bối cảnh tình hình, ý nghĩa, tính chất quốc tế của cuộc kháng chiến và mối
quan hệ, tầm quan trọng, sự cần thiết phải có sự giúp đỡ của các bạn đồng minh,
88

cần tranh thủ tối đa bạn đồng minh ngay trên nước Pháp là nhân dân tiến bộ Pháp
đang lên án, phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Chính phủ
Pháp. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động ủng hộ Trung Quốc,
Liên Xô, các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Cuộc kháng chiến lâu dài,
gian khổ của Việt Nam cần tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, các lực
lượng dân chủ tiến bộ mới có thể nhanh đi đến thắng lợi cuối cùng.
Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Đại hội
đại biểu lần thứ II tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Sau khi phân tích tình hình quốc
tế, trong nước, Đại hội khẳng định:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào hoà bình, dân chủ
và xã hội chủ nghĩa thế giới. Cuộc kháng chiến của Việt am được nhân
dân thế giới ủng hộ nhiệt liệt và dân tộc Việt Nam có nhiệm vụ rất lớn
đối với thế giới: trong khi bảo vệ tự do, độc lập của mình, dân tộc Việt
Nam bảo vệ hoà bình thế giới và phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở
Đông am Á. Thuận chiều tiến của trào lưu thế giới và phát triển trong
những điều kiện thuận lợi của thế giới, kháng chiến Việt Nam tuy còn
gian khổ, nhưng nhất định sẽ thành công” [40, tr.58-59].
Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ thế giới, là một đồn luỹ chống đế
quốc, chống phe phản dân chủ do Mỹ cầm đầu. Vì thế, thắng lợi của phe dân chủ
cũng là thắng lợi của Việt Nam, mà Việt Nam thắng lợi cũng là phe dân chủ thắng
lợi. Cuộc kháng chiến của Việt am được nhân dân thế giới ủng hộ nhiệt liệt.
“Phong trào bảo vệ hoà bình và cuộc vận động phản chiến của nhân dân Pháp và
phong trào chống thực dân ở các thuộc địa của Pháp, là những lực lượng viện trợ
đối với cuộc kháng chiến của Việt am” [40, tr.57]. Chính vì thế, Việt Nam phải:
Đứng vào hàng ngũ các lực lượng hòa bình dân chủ và xã hội chủ nghĩa
thế giới do iên Xô lãnh đạo, chống bọn đế quốc gây chiến; đoàn kết với
tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ, nhất là mật thiết liên lạc
với Liên Xô và Trung Quốc, phối hợp đấu tranh với nhân dân Pháp và
ủng hộ các dân tộc bị áp bức giành độc lập. [40, tr.104].
89

Chủ trương tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế mà Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ hai của Đảng đề ra hoàn toàn đúng đắn, phù hợp thực tiễn. Chủ trương
đó mở ra điều kiện và cơ hội để cuộc kháng chiến của Việt Nam nhận được sự ủng
hộ về tinh thần, vật chất của bạn bè quốc tế, tăng cường thế, lực cho cách mạng, góp
phần giành những thắng lợi quân sự quyết định, từ đó mở ra khả năng kết thúc
chiến tranh bằng một giải pháp hoà bình để giành lấy hoà bình, độc lập thực sự.
Đến mùa Hè 1953, dù được Mỹ tích cực viện trợ, nhưng thực dân Pháp vẫn
không giành lại được thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, ngày
càng lún sâu vào thế phòng ngự, bị động đối phó với các cuộc tiến công của bộ đội
chủ lực Việt am. Tướng Henri Navarre được Chính phủ Pháp điều sang làm Tổng
chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tướng Salan. avarre đã xây
dựng bản Kế hoạch tổng thể về chính trị, quân sự nhằm giành thắng lợi quân sự, tìm
lối thoát kết thúc cuộc chiến trong danh dự.
Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết ngày 27-7-1953, đã trực tiếp
tác động đến phái chủ chiến và chủ hoà trong chính giới Pháp. Chủ tịch Liên minh
dân chủ và xã hội Ph.Mitterand tuyên bố: Cuộc đình chiến ở Triều Tiên phải dẫn
đến đàm phán ở Đông Dương. Bộ trưởng phụ trách các quốc gia liên kết Mac
Jacques nói: Dư luận Pháp hoan nghênh những khả năng hoà bình do cuộc đình
chiến ở Triều Tiên mở ra và hy vọng sẽ tiến đến đàm phán quốc tế về Đông Dương.
Trong phiên họp của Quốc hội Pháp bàn về vấn đề Đông Dương từ ngày 23 đến 27-
10-1953, nhiều nghị sĩ lên tiếng đòi phải thương lượng với phía Việt am để kết
thúc chiến tranh. Đảng Cộng sản Pháp cũng kiến nghị mở ngay cuộc đàm phán để
chấm dứt chiến tranh. Song phái chủ chiến, đại diện là Thủ tướng Laniel, Bộ
trưởng Quốc phòng Pléven và Ngoại trưởng Bidault vẫn ngoan cố theo đuổi chiến
tranh. Ngày 12-11-1953, Laniel, tuyên bố: Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện
trong khung cảnh địa phương hoặc trong khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui
lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc tranh chấp. Ngày 22-11-1953,
đại diện các tổ chức và lực lượng phản đối chiến tranh của Pháp mở hội nghị toàn
quốc đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương. Quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc
cũng muốn tiến tới một giải pháp hoà bình cho vấn đề Đông Dương nhằm ngăn
90

chặn ảnh hưởng và sự mở rộng chiến tranh của Mỹ ở bán đảo Đông Dương và đe
doạ đến an ninh khu vực.
Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải làm thất bại Kế hoạch Nava, từ đó
mở cuộc tấn công trên mặt trận ngoại giao, kết hợp đấu tranh quân sự với ngoại giao,
dùng thắng lợi quân sự quyết định trên chiến trường để mở ra khả năng đàm phán.
Ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Đảng, Chính phủ, đại
diện cho nhân dân Việt am đã thẳng thắn thể hiện quan điểm, thiện chí, chủ
trương thương lượng hoà bình khi trả lời báo Expressen, Thuỵ Điển.
Hỏi: Cuộc thảo luận ở Quốc hội Pháp đã chứng tỏ rằng một số lớn nhà
chính trị Pháp muốn dàn xếp một cách hoà bình vấn đề xung đột ở Việt
Nam bằng cách thương lượng trực tiếp với Chính phủ Việt Nam. Ý
nguyện ấy càng rộng khắp trong nhân dân Pháp. Thế thì Cụ và quý
Chính phủ hoan nghênh ý nguyện ấy hay không?
Trả l i: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra.
Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm
nay chống kẻ xâm lược để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống
hoà bình. Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược
thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến
thắng lợi cuối cùng. hưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học
trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt
Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà
bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng
tiếp ý muốn đó.
Hỏi: Một sự ngừng bắn hoặc một cuộc đình chiến có thể có được không?
Và trên căn bản nào?
Trả l i: Miễn là Chính phủ Pháp đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược thì
cuộc đình chiến ở Việt Nam thực hiện. Cơ sở của việc đình chiến ở Việt
Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước
Việt Nam [114, tr.168].
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói rõ quan điểm thương lượng
đình chiến là việc chủ yếu giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Chính
91

phủ Pháp, nhưng cũng hoan nghênh tất cả những nước trung lập nào muốn xúc tiến
việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam bằng cách thương lượng. Cuộc chiến tranh
đã gây ra nhiều mất mát đau khổ cho đất nước Việt Nam và nhân dân Pháp. Hồ Chí
Minh luôn tỏ lòng đồng tình, quý mến nhân dân và những chiến sỹ hoà bình Pháp.
Việc nhân dân Pháp đấu tranh cho độc lập, dân chủ, hoà bình và đòi đình chỉ chiến
tranh ở Việt Nam là nhân tố quan trọng để giải quyết vấn đề hoà bình ở Việt Nam.
hư vậy, dù đang có lợi thế và giành quyền chủ động chiến lược trên chiến
trường chính Bắc Bộ, Việt Nam vẫn thể hiện rõ thiện chí sẵn sàng thương lượng
chấm dứt chiến tranh nếu Pháp có thiện chí. Điều kiện để Việt am đồng ý thương
lượng là những yêu cầu chính đáng, đương nhiên được hưởng của mỗi con người,
dân tộc, quốc gia, phù hợp xu thế thời đại.
Tiếp theo, ngày 2-12-1953, Đảng ra Chỉ thị, giải thích L i tuyên bố của phái
đoàn iệt Nam ở Hội nghị Hội đồng hoà bình thế giới (11-1953), khẳng định lập
trường của phái đoàn Việt Nam phát biểu tại Hội nghị Hội đồng hoà bình thế giới ở
Viên (Áo) là: Chủ trương của nhân dân Việt am đối với chủ trương của Mặt trận dân
chủ hoà bình thế giới hiện nay là giải quyết mọi xung đột quốc tế bằng phương pháp
hoà bình và giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam.
Việc tất cả những người trung thực ở khắp nơi đang cấp bách đòi phải
chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam là một việc hết sức hợp lý. Chấm
dứt cuộc chiến tranh này trên cơ sở thương lượng hoà bình là một việc
hoàn toàn cần thiết và có thể thực hiện được.
Nhân dân Việt Nam từ trước đến nay vẫn chủ trương chấm dứt cuộc
chiến tranh Việt Nam và giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam bằng
phương sách thương lượng hoà bình. Bởi vì chủ trương đó cũng là
nguyện vọng chung của nhân dân toàn thế giới và cũng phù hợp với
quyền lợi của nhân dân hai nước Việt - Pháp…
Nếu đế quốc Pháp-Mỹ cứ đi theo con đường cũ của chúng và tiếp tục
chiến tranh xâm lược Việt am thì, cũng như từ trước đến nay, nhân dân
Việt am dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
và Hồ Chủ tịch, sẽ kiên quyết tiếp tục chiến đấu để bảo vệ độc lập và tự
92

do của mình và nhân dân Việt Nam luôn luôn vững lòng tin tưởng vào
thắng lợi cuối cùng [42, tr.520-521].
Từ lập trường, quan điểm đó, phái đoàn Việt am đề nghị với Hội đồng:
1. Hội đồng hoà bình thế giới sẽ kêu gọi nhân dân toàn thế giới lên án
âm mưu độc ác của đế quốc Pháp-Mỹ tiếp tục và mở rộng cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam.
2. Hội đồng hoà bình thế giới sẽ kêu gọi nhân dân toàn thế giới phát động
một phong trào mạnh mẽ đòi chấm dứt chiến tranh Việt am và đòi giải
quyết hoà bình vấn đề Việt Nam bằng cách thương lượng [42, tr.521].
Đây là quan điểm nhất quán, rõ ràng của Việt Nam, vì hoà bình Việt Nam
sẵn sàng thương lượng, đàm phán, nhưng cũng vì hoà bình, Việt Nam quyết tâm
chiến đấu đến cùng. Mục tiêu xuyên suốt của Việt am là giành được nền hoà bình,
độc lập thực sự, giành lại quyền đương nhiên được hưởng. Phái đoàn Việt Nam
công khai tuyên bố quan điểm nhằm tranh thủ được cao nhất sự ủng hộ quốc tế.
Quan điểm đó là nhân tố mở ra, thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới
bảo vệ hoà bình, lên án đế quốc Pháp-Mỹ, ủng hộ Việt am và phong trào đấu
tranh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm cho
cuộc kháng chiến của Việt Nam nhận được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân
dân Pháp, nhân dân thế giới và mở ra cơ hội giành được độc lập, tự do và nền hoà
bình chân chính.
Cùng với đó, ngày 27-12-1953, Thông tri của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về L i Tuyên bố của Chủ tịch với nhà báo Thuỵ Điển trong đó khẳng định rõ:
Chủ trương của Đảng và Chính Phủ ta muốn kết thúc cuộc chiến tranh
bằng đàm phán hoà bình không phải chỉ là để tuyên truyền đối ngoại. Chủ
trương đó xuất phát từ bối cảnh quốc tế, đường lối hiện tại của phe xã hội
chủ nghĩa là hoà hoãn quốc tế và trong tiền lệ, đã có nhiều cuộc chiến tranh
do thương lượng hoà bình mà đi đến đình chiến. Mặc dù còn phức tạp,
nhưng vấn đề Việt Nam vẫn có thể giải quyết bằng cách thương lượng hoà
bình. Chủ trương của ta là “ gọn cờ hoà bình phải do tay ta nắm lấy và
dương cao lên”. ếu thực dân Pháp không thực tâm, mặt nạ hoà bình giả
hiệu của chúng sẽ bị bóc trần [42, tr.553].
93

Đó chính là thiện chí, mong muốn, quan điểm, chủ trương nhất quán, xuyên
suốt của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chủ ư ng đ i với Hội nghị G nev
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ hoà bình, độc lập hòan toàn phải
đấu tranh gian khổ mới giành được. Vì thế, tháng 12-1953, Đảng nhận định: “căn
cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch lúc này, điều kiện thương lượng hoà bình
chưa chín muồi. Ta phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực
địch hơn nữa thì địch mới chịu nhận thương lượng để giải quyết hoà bình vấn đề
Việt Nam, tôn trọng quyền tự do, độc lập của dân tộc ta” [42, tr.556]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ và hiểu rõ vấn đề ngoại
giao trên thế mạnh. Vì thế, đề cập đến Hội nghị Giơnevơ, ngày 27-2-1954, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nhận định: Hội nghị Giơnevơ là một bước tiến
tới làm cho tình hình thế giới và Viễn Đông bớt căng thẳng, việc đấu tranh để khôi
phục hoà bình ở Việt Nam là ý nguyện của nhân dân, nhưng cần phải biết rằng chỉ
có chiến thắng địch mới có thể thực hiện được hoà bình chân chính.
Ngày 2-5-1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhận định: “Ta không đánh
giá cao Hội nghị Giơnevơ nhưng không bỏ lỡ cơ hội tranh thủ dư luận và tranh thủ
Hội nghị Giơnevơ có thể bắt đầu đi đến các cuộc gặp sau” [81, tr.55]. Bên cạnh đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị đề ra phương châm hành động là một mặt
mở mặt trận đấu tranh trên bàn hội nghị để đi đến một giải pháp hoàn chỉnh đình chỉ
chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương, đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn
đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, một mặt tích cực chỉnh đốn
lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh quân sự hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao. Vì:
Ta kháng chiến, ta đàm phán cũng đều nhằm một mục đích giành độc
lập, thống nhất thật sự cho dân tộc. Hiện nay, súng ở trên ba mặt trận bắn
càng nhiều, càng trúng đích chừng nào thì trên bàn họp Giơnevơ ta càng
thêm lợi thế chính trị chừng ấy. Giải quyết vấn đề theo nguyên tắc có lợi
cho ta và địch có thể thừa nhận nhưng trước hết là có lợi cho ta. Giải
quyết vấn đề phải có quan điểm toàn cục. Trong Hội nghị Giơnevơ ít
nhất phải tranh thủ được thắng lợi chính trị [177, tr.158].
94

Trong khi Hội nghị Giơnevơ đang diễn ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 6, từ ngày 15 đến 17-7-1954, phân tích tình hình và nhiệm vụ
mới, nêu rõ chủ trương:
Tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh
trường kỳ, gian khổ, phức tạp, nó có những điều kiện thuận lợi cho ta là:
các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta, nhân dân ta
hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Những điều khó khăn
là: Mỹ ra sức phá hoại việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, phe chủ hoà
Pháp thì vẫn chưa dứt khỏi ảnh hưởng của Mỹ [114, tr.317].
Với Hội nghị Giơvevơ, Đảng chủ trương: “Phải tranh thủ một thời gian ngắn
đi đến ký kết Hiệp định đình chiến với Chính phủ Mendès France. Không bỏ lỡ cơ
hội tốt. Không để cho đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp lợi dụng chỗ kéo dài của Hội
nghị Giơnevơ mà gây tâm lý bi quan, thất vọng và phá hoại đàm phán” [81, tr.61].
Tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình là chủ trương xuyên suốt, nhất quán
của Việt Nam. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn tìm mọi cách có thể để tránh chiến tranh. Ngay cả khi buộc phải tiến hành
chiến tranh, thì quyết tâm chiến đấu đến cùng để giành thắng lợi quân sự cũng là nhằm
mở ra cánh cửa thương lượng, đàm phán nếu có cơ hội, sẵn sàng nói lên thiện chí,
mong muốn hòa bình với bạn bè quốc tế, nhân dân Pháp và cả với Chính phủ Pháp.
Các văn kiện của Đảng nêu trên chứng tỏ sự nhận thức sắc sảo, sát thực tiễn của Đảng,
sự đúng đắn trong chủ trương tranh thủ thực hiện khả năng hoà bình ở từng thời điểm
cụ thể với từng sách lược, phương châm linh hoạt, phù hợp và hiệu quả.
3.2. ĐẢNG CHỈ ĐẠO TRANH THỦ TẠO KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH TỪ NĂM
1950 ĐẾN NĂM 1954
3.2.1. Tranh thủ sự công nhận, ủng hộ của quốc tế
* Tranh thủ sự công nhận, ủng hộ của Trung Quốc, Liên Xô
Ngay sau khi Cách mạng Trung Quốc thành công, Đảng chú trọng đẩy mạnh
các hoạt động ngoại giao nhân dân. Các tổ chức, đoàn thể, lao động, thanh niên, phụ
nữ… đã tổ chức mít tinh, gửi điện chúc mừng nhân dân và Chính phủ Trung Quốc.
Ngày 5-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chủ tịch Mao Trạch Đông
95

chúc mừng sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Tuyên bố ngày 14-1-
1950, khẳng định tính hợp pháp và chính sách đối ngoại của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Công
hoà tuyên bố công nhận nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và tỏ ý sẵn sàng đặt
quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. gay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động,
bí mật đi Trung Quốc, Liên Xô nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ, tranh thủ sự viện
trợ của nước bạn cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Ngày 21-1-1950, Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh. Trong cuộc hội đàm với Thủ
tướng Chu Ân ai và các lãnh đạo Đảng, hà nước Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thông báo tình hình cách mạng Việt am, đường lối, chủ trương của Đảng và
đề nghị Trung Quốc giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt am. ãnh đạo Trung
Quốc hoàn toàn đồng tình, ủng hộ và hứa sẽ tích cực giúp đỡ cách mạng Việt Nam
cả về vật chất và tinh thần.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bày tỏ ý muốn đi iên Xô gặp Stalin để thông
báo cho Chính phủ Liên Xô biết về tình hình cách mạng Việt am, đề nghị ưu
Thiếu Kỳ - Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển
đề nghị đó tới Stalin. ưu Thiếu Kỳ đã chuyển đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tới Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đang ở thăm iên Xô, để chuyển tới
Stalin, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
Ngày 1-2-1950, Stalin đã gửi điện cho Hồ Chí Minh qua Đại sứ Liên Xô ở
Bắc Kinh A.I Shibaev, và yêu cầu (qua ưu Thiếu Kỳ) chuyển tới Hồ Chí Minh,
với nội dung:
Đồng chí Hồ Chí Minh.
Vài ngày trước, đồng chí Mao Trạch Đông báo cho tôi biết rằng đồng chí
có ý định đến thăm Mátxcơva một cách bí mật. úc đó tôi đã trả lời rằng
tôi không phản đối việc thăm của đồng chí. Nếu như sau khi iên Xô đã
công nhận Việt am, đồng chí không thay đổi kế hoạch đến Mátxcơva,
tôi sẽ rất vui gặp đồng chí tại Mátxcơva.
Filipov (Bí danh của Stalin).
96

Sau đó, bức điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đề ngày 7-2-1950, từ Chita,
(một địa điểm ở Liên Xô, trên tuyến đường sắt Xibiri đi Mátxcơva) gửi Xtalin đã
giải thích rõ lý do vì sao Hồ Chí Minh đi iên Xô một cách bí mật.
Ngày 3-2-1950, Hồ Chí Minh từ Bắc Kinh đi tàu hoả đến Mátxcơva. Tại
cuộc hội đàm với Stalin, có sự tham dự của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh giải
thích tình hình Việt Nam, Đông Dương, lý do giải tán Đảng vào cuối năm 1945,
tình hình khó khăn của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời
của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà… buộc Việt Nam phải tự tìm
cách để tồn tại và đi lên. Hồ Chí Minh cũng thông báo về tình hình cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt am và đề nghị Liên Xô cùng phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế giúp đỡ.
Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, Stalin và các nhà lãnh đạo
Liên Xô hiểu rõ về tình hình khó khăn của cách mạng Việt am, đồng tình với
đường lối, chủ trương của cách mạng Việt Nam, hứa sẽ tích cực viện trợ mọi mặt
cho cách mạng Việt am, giúp đào tạo cán bộ trên mọi lĩnh vực phục vụ cho công
cuộc kháng chiến, kiến quốc sau này. Stalin khẳng định:
Liên Xô sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tất cả những gì có thể. Từ nay trở đi,
đồng chí có thể tin tưởng ở sự giúp đỡ của chúng tôi… chúng tôi có nhiều
hàng hoá, chúng tôi sẽ chuyển tới cho các đồng chí qua Trung Quốc.
hưng vì điều kiện tự nhiên trở ngại, chủ yếu Trung Quốc sẽ giúp đỡ các
đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu, chúng tôi sẽ cung cấp [38, tr.286].
Cuộc tiếp xúc của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Stalin tháng 2-1950 là
cuộc tiếp xúc đầu tiên và cũng là cuối cùng của lãnh đạo cấp cao ba nước Xô-
Trung-Việt. Đây là một cuộc gặp có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam, mở
ra bước ngoặt mới, tăng cường sức mạnh vật chất, tinh thần đối với cuộc kháng
chiến của Việt Nam, nâng cao, khẳng định vị thế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 9-2-1950 nhấn
mạnh: “Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân sốt sắng thừa
nhận và đặt bang giao với Việt Nam chứng tỏ phe dân chủ thế giới do Liên Xô lãnh
đạo quyết tâm giúp đỡ Việt Nam một cách công khai và chính thức trong hàng ngũ
97

các nước dân chủ thế giới” và… “Việc thừa nhận ấy… là cú đau đánh vào thực dân
Pháp và phe lũ bù nhìn… và cũng là một cú đánh vào bọn phản động Mỹ, Anh
đương mưu tính trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt - Pháp”. Thái độ của Liên
Xô đối với Việt am có tác động to lớn đến các Đảng Cộng sản và công nhân ở
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là đối với Đảng Cộng sản Pháp.
hư vậy, ngay sau Tuyên bố ngày 14-1-1950 của Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, ngày 18-1-1950, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; ngày 31-1-1950, Liên Xô tuyên bố công
nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trao đổi công sứ. Tiếp sau Trung
Quốc, Liên Xô là hàng loạt các nước dân chủ nhân dân tuyên bố công nhận và đặt
ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên
(31-1-1950); Cộng hoà Tiệp Khắc và Cộng hoà dân chủ Đức (2-2-1950); Cộng hoà
nhân dân Rumani (3-2-1950); Cộng hoà nhân dân Ba Lan và Cộng hoà Hunggari (5-
2-1950); Cộng hoà Bungari (8-2-1950); Cộng hoà nhân dân Anbani (18-2-1950). Đây
là thắng lợi ngoại giao to lớn của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá về sự
kiện này như sau:
Mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất
trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn trên thế giới Liên Xô và
Trung Quốc dân chủ và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước ngang hàng trong đại gia đình dân
chủ thế giới. ghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối
800 triệu nhân dân chống đế quốc. Chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy
sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này [118, tr.423-424].
Đây là thắng lợi ngoại giao, khích lệ tinh thần, tăng cường niềm tin trong
quân và dân, làm cho thế, lực cách mạng ngày thêm vững mạnh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam từ đây đã trở thành một bộ phận
trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân chủ của phe xã hội chủ nghĩa. Việt
Nam không còn phải chiến đấu đơn độc, đã phá được thế bị bao vây, cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam bắt đầu nhận được sự viện trợ vật chất, tinh thần ngày
càng to lớn của các nước đồng minh, bè bạn. Đó là thành công trong thực hiện chủ
trương tranh thủ khả năng hoà bình của Đảng.
98

Kể từ khi cách mạng Trung Quốc chưa giành được thắng lợi cuối cùng, cho
đến lúc Trung Quốc giành được thắng lợi, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã luôn nhận định, nhìn thấy khả năng hiện thực là Trung Quốc sẽ là cánh cửa mở
ra cơ hội, là cầu nối cho Việt Nam mở rộng quan hệ với bạn bè thế giới. Vì thế, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã luôn nỗ lực, không từ bỏ một cơ hội nào dù là nhỏ nhất để biến
cơ hội đó thành hiện thực, tạo ra các cơ hội mới xây đắp mối quan hệ đồng minh,
láng giềng tốt đẹp với Trung Quốc, Liên Xô và bạn bè thế giới.
Sau chuyến thăm bí mật Trung Quốc, iên Xô đầu năm 1950 của Hồ Chí
Minh, để tạo điều kiện thuận lợi nối liền cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới, tiếp nhận viện trợ của các nước, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tiến
công giải phóng Cao Bằng nhằm mở rộng và kiểm soát đường biên giới phía Bắc
giáp Trung Quốc. Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô ngày một gắn
bó. Từ giữa năm 1950, Việt am đã phối hợp với Quân Giải phóng Trung Quốc
tiêu diệt, truy quét tàn quân Tưởng ở biên giới hai nước; lập Hội Hữu nghị Việt -
Trung; Việt Nam lập sứ quán và cử Đại sứ sang Bắc Kinh (4-1951), đồng thời lập
cơ quan tổng lãnh sự ở Hoa Nam và tiếp nhận Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam…
Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam trên tinh thần quốc tế vô sản, coi cách mạng
Việt am cũng là một bộ phận của cách mạng thế giới, coi việc giúp Việt Nam
cũng chính là giúp Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông nói:
Chúng ta lại căn cứ vào tình hình của Việt Nam quyết định tiếp tục viện
trợ Việt Nam chống Pháp, bí mật cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài
chính kinh tế cho Việt Nam, còn cử cố vấn giúp Việt Nam tác chiến và
công tác. Dù là chống Mỹ viện Triều hay là viện Việt chống Pháp đều là
chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa yêu nước, ý nghĩa trọng đại như nhau, vẻ
vang như nhau, chỉ có phương thức viện trợ mỗi nơi có khác nhau...
... Bọn xâm lược thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt am, cũng
là kẻ thù của nhân dân Trung Quốc; Trung Quốc giúp Việt am đánh bại
quân xâm lược thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Việt am, đó là Trung
Quốc giúp Việt Nam. Còn Việt am đánh bại bọn xâm lược thực dân
Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt am, biên cương phía am của Trung
99

Quốc cũng giải tỏa khỏi mối đe dọa của bọn xâm lược thực dân Pháp, đó
lại là Việt Nam giúp Trung Quốc. Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp
Việt Nam, phải nói rằng Việt am cũng giúp Trung Quốc, là sự giúp đỡ
lẫn nhau [32, tr.4-7].
Từ năm 1950, Trung Quốc đã cử đoàn cố vấn gồm 79 người sang giúp Việt
Nam. Trung Quốc nhận huấn luyện, trang bị vũ khí cho một số đơn vị bộ binh và
một đơn vị pháo binh, vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt am. Đặc
biệt, Trung Quốc đồng ý cho Việt am đưa Trường Lục quân sang Vân am để
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Mối quan hệ hai quốc gia có bước phát triển mới trên
cơ sở hữu nghị, tin cậy lẫn nhau.
iên Xô đã viện trợ cho Việt Nam một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, một số
xe vận tải Môlôtôva và thuốc quân y, trong đó có 5 tạ thuốc ký ninh. Ngoài ra, Liên
Xô cũng chủ động phối hợp với Việt Nam trong tuyên truyền, vận động quốc tế, đề
cao cuộc kháng chiến của Việt Nam: phủ quyết đề nghị của chính quyền Bảo Đại
gia nhập Liên hợp quốc (9-1952), tỏ ý ủng hộ Việt Nam muốn ra nhập Liên hợp
Quốc; khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đại diện hợp pháp duy nhất của
nhân dân Việt am; iên Xô cũng cử nhiều phóng viên, nhà báo, quay phim… vào
Việt am để thúc đẩy công tác tuyên truyền quốc tế về cuộc kháng chiến chống
xâm lược của Việt Nam.
Tháng 5-1952, Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô đi vào hoạt động. Tại Đại
hội lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô (10-1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi thư chúc mừng Đại hội và đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Adecbaizan
đã đọc bức thư trước Đại hội. Sự kiện đó góp phần làm cho đại biểu của các Đảng
Cộng sản biết thêm về Việt Nam, về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
* Tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới
Đầu năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ nhân dân, xã hội
chủ nghĩa đã lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, tạo điều kiện thuận lợi, tăng thêm sức mạnh cho cách mạng Việt
Nam. Việt Nam trở thành một bộ phận của phe dân chủ, chống lại lực lượng phản
động, đế quốc, tích cực tham gia nhiều hoạt động quốc tế bảo vệ hoà bình, tranh thủ
100

các diễn đàn quốc tế để tuyên truyền, vận động sự ủng hộ quốc tế đối với nguyện
vọng hoà bình, độc lập và cuộc kháng chiến chính nghĩa mà nhân dân Việt Nam
đang tiến hành.
Ngày 4-4-1950, Việt Nam tổ chức ngày hữu nghị giữa Việt Nam với các
nước dân chủ nhân dân để biểu dương, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, cổ vũ
tinh thần chiến đấu của quân, dân cả nước. Ban trù bị của Uỷ ban bảo vệ hoà bình
thế giới của Việt Nam thành lập (6-1950) để chuẩn bị tổ chức Đại hội bảo vệ hoà
bình thế giới ở Việt Nam. Ngày 16-11-1950, Việt am đã cử đoàn đại biểu đi dự
Đại hội hoà bình thế giới lần thứ II ở Vácsava. Đại hội đã ra nghị quyết đòi chủ
nghĩa đế quốc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Triều Tiên, Việt Nam; Tích cực
chuẩn bị tham dự Hội nghị Hội đồng hoà bình thế giới lần thứ 2 ở Viên, Áo (11-
1951), tuyên truyền rộng rãi quan điểm của phái đoàn dự Hội nghị trên các phương
tiện báo, đài phát thanh để nhân dân hiểu chủ trương của Đảng, Chính phủ, tình
hình thế giới tác động tới Việt Nam, tuyệt đối không ảo tưởng hoà bình vì đây
không phải là một việc dễ dàng, mà phải do đấu tranh gian khổ mới giành được.
Nhân dân Việt Nam phải vượt mọi khó khăn, tự lực cánh sinh để kháng chiến,
nhưng cũng cần sự ủng hộ mạnh mẽ của bạn bè thế giới, nhân dân Pháp, các nước
xã hội chủ nghĩa ( iên Xô, Trung Quốc) nhiệt tình giúp đỡ để kháng chiến mau đến
thắng lợi cuối cùng. Hội nghị đã thông qua nghị quyết đòi chấm dứt chiến tranh
xâm lược, rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam và mở ngay các cuộc đàm
phán để giải quyết vấn đề Việt Nam; Tham dự Hội nghị Châu Á- Thái Bình Dương
vì hoà bình (10-1952) tại Bắc Kinh, đoàn đại biểu Việt am đã đóng góp tích cực
vào phương hướng đấu tranh mới, khẳng định đấu tranh cho độc lập dân tộc là một
nội dung quan trọng của sự nghiệp gìn giữ, củng cố nền hoà bình thế giới. Hội nghị
lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc, đòi chấm dứt ngay chiến
tranh xâm lược ở Triều Tiên và ba nước Đông Dương…
Bên cạnh đó, Việt am cũng năng động, tích cực tham gia các hoạt động của
các tổ chức dân chủ thế giới, trong phong trào thanh niên, phụ nữ dân chủ, tổ chức
Liên hiệp công đoàn thế giới: Đại hội liên hoan thanh niên ở Béc lin (Đức, 1951),
Hội nghị Liên hiệp công đoàn thế giới ở Vacsava (Ba an, 1951), Đại hội Liên hoan
101

thanh niên ở Bucarét (Rumani, 1953) …; cổ vũ, ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân
dân Triều Tiên, lên án hành động xâm lược của đế quốc Mỹ…
Việc tiếp xúc, trao đổi, tích cực tham gia vào phong trào vì hoà bình, độc lập,
dân chủ, tiến bộ trên thế giới đã làm cho vị trí quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được đề cao, làm rõ tính chính nghĩa cuộc kháng chiến, tranh thủ được sự ủng hộ,
giúp đỡ của bạn bè quốc tế, các tầng lớp nhân dân ở nhiều quốc gia khác nhau trong
và ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tăng cường sức mạnh, thực lực của
cách mạng. Đó là kết quả của việc Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức đúng xu
thế phát triển của thời đại, biết tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi, phát huy tính
chính nghĩa, gắn cuộc kháng chiến của Việt Nam với quốc tế. Sự ủng hộ rộng rãi,
mạnh mẽ của nhân dân các nước đối với Việt Nam là thành công trong thực hiện chủ
trương tranh thủ các khả năng hoà bình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Pháp
Đảng, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc phối hợp đấu tranh với nhân
dân Pháp, coi sự đấu tranh của nhân dân Pháp vì hoà bình, dân chủ, phản đối chính
quyền Pháp gây chiến tranh ở Việt am, Đông Dương, đòi Pháp rút quân về nước
là nhân tố quan trọng thúc đẩy việc thương lượng đình chiến, mở ra khả năng hoà
bình ở Đông Dương. Việt am đã không ngừng nỗ lực để khơi dậy và duy trì phong
trào phản chiến của nhân dân Pháp nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của họ.
Ngày 27-1-1950, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp ra Nghị quyết khẳng
định Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là
người đại diện hợp pháp và chân chính của nhân dân Việt Nam; tố cáo thực dân
Pháp dựng lên một chế độ bù nhìn. Đồng thời, Đảng Cộng sản Pháp cũng ra tuyên
bố hoan nghênh Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân công nhận
Việt am, coi đó là sự thể hiện chính sách tôn trọng nguyện vọng chính đáng của
các dân tộc đòi tự do và độc lập.
Tháng 7-1950, Đảng Cộng sản Pháp cử Léo Figuerre, Uỷ viên Trung ương
Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Thư ký Đoàn thanh niên Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc
hội Pháp, Phó Chủ tịch iên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới, thay mặt phong trào
đấu tranh vì hoà bình ở Việt Nam của Pháp sang thăm, tìm hiểu tình hình Việt Nam.
102

Việt am đã tổ chức tiếp đón chu đáo, thân tình. éo Figuerre đã thăm vùng giải
phóng Việt Bắc, gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, đi thăm nhiều cơ sở kháng chiến, hậu
cần, thăm các trại tù binh Âu-Phi, gặp gỡ, chuyện trò với nhiều lính Pháp bị bắt giữ…
Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời cám ơn tới nhân dân Pháp đã
ủng hộ Việt am, đồng thời nêu ra điều kiện chủ yếu để lập lại hoà bình ở Việt
am: “quân đội Pháp rút hết quân về nước, mối bang giao hai nước Việt - Pháp sau
này sẽ phát triển trên cơ sở “hợp tác trên lập trường bình đẳng”. Bên cạnh đó, Việt
Nam còn thể hiện thiện chí hoà bình qua việc chủ động đề ra chính sách đối với tù
binh Pháp, thả 228 tù binh Pháp (gồm cả lính Bắc Phi và một số thường dân Pháp
đang bị giam giữ, toàn bộ danh sách giao cho Léo Figuerre mang về Pháp) [110,
tr.176-177]. Ngày 20-8-1950, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đàm phán với Hội Hồng
thập tự Pháp để trao đổi tù binh và thường dân bị bắt. Chuyến thăm của Léo
Figuerre tới Việt am có ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi
chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam của nhân dân Pháp. Đặc biệt, cuốn sách ông viết
với tựa đề “Tôi từ nước Việt Nam tự do trở về” đã góp phần làm cho nhân dân và
một bộ phận chính giới Pháp hiểu hơn về bản chất cuộc chiến tranh phi nghĩa mà
thực dân Pháp, can thiệp Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam, hiểu về sự nghiệp chính
nghĩa, mong muốn, thiện chí hoà bình của nhân dân Việt Nam.
Tiếp theo, ngày 11-11-1950, Tổng iên đoàn ao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Hội Liên hiệp thanh niên Pháp ra thông cáo chung khẳng định các đoàn thể Pháp sẵn
sàng làm trung gian cho cuộc đàm phán hoà bình kết thúc chiến tranh giữa Pháp và
Việt am và “Chính phủ Pháp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đổ máu nếu
cứ khăng khăng tiếp tục cuộc chiến tranh vô nhân đạo chống lại quyền lợi của nước
Pháp” [110, tr.179]. Cùng với đó, chính giới Pháp cũng phân hoá ngày càng mạnh mẽ
trong việc lựa chọn giải pháp đối với cuộc chiến ở Việt Nam, những người trong phái
dân chủ xã hội Pháp liên kết, phối hợp chặt chẽ hơn với phái cộng sản trong Quốc hội
Pháp đòi chấm dứt chiến tranh. Từ 1951 đến 1954, phong trào phản đối chiến tranh
của các tầng lớp nhân dân Pháp ngày càng rộng rãi và quyết liệt.
Tờ “Thế giới” (Le Monde) của Pháp, ngày 15-3-1952 khẳng định: “Cuộc
chiến tranh Đông Dương đã làm kiệt sức lực chúng ta… liều thuốc chữa bệnh là
103

ngừng cuộc chiến tranh ở Đông Dương để cứu nước Pháp” [110, tr.180]. Ngày 23-
11-1952, Đảng Cộng sản Pháp ra tuyên bố: “chính sách duy nhất phù hợp với quyền
lợi của nước Pháp là lập lại hoà bình bằng cách công nhận nguyện vọng chính đáng
đòi tự do, độc lập của nhân dân Việt am đang đoàn kết xung quanh Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [110, tr.181]. Ngày 27, 28-6-1953, tại Pari đã diễn ra Đại hội đại biểu
toàn quốc nước Pháp gồm 1.870 đại biểu của các tầng lớp nhân dân thuộc 80 quận
tham dự đấu tranh cho hoà bình ở Việt Nam - Đông Dương, đòi đàm phán để chấm
dứt chiến tranh. Các hoạt động họp mặt, mít tinh, hội thảo… ủng hộ Việt Nam,
phản đối chiến tranh liên tục diễn ra ở khắp nơi trên đất Pháp. Những hành động
phản đối chiến tranh của Henri Martin, Raymond Dien là những minh chứng tiêu
biểu của phong trào nhân dân Pháp đấu tranh đòi chấm dứt “cuộc chiến tranh bẩn
thỉu” ở Việt Nam.
Từ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực thúc đẩy, tranh thủ tình
cảm, sự ủng hộ của nhân dân Pháp: Trong Thư gửi các bà mẹ và vợ có con và
chồng chết trận ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm ơn các bà mẹ, vợ Pháp đã
hăng hái đấu tranh trong hàng ngũ các bà mẹ và vợ Pháp đòi hồi hương đạo quân
viễn chinh và chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa, tội lỗi do thực dân Pháp gây
ra. Chủ tịch hứa với các bà mẹ Pháp, nhân dân Việt Nam sẽ giữ gìn nguyên vẹn
mồ mả của các binh sĩ đã phải bỏ mình trong chiến tranh Việt am, để khi chiến
tranh chấm dứt, các bà mẹ có thể mang hài cốt của chồng, con mình về. Trong
Thư gửi những ngư i bạn Pháp là những binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan Pháp ở
Đông Dương về nước đã thành lập tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình, đòi hồi
hương các bạn đồng ngũ đang buộc phải tham gia cuộc chiến ở Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết:
Nhân dân Việt Nam rất biết ơn những cố gắng của các bạn, cũng như biết
ơn sự cố gắng của những bà mẹ và những người lao động Pháp. Nhìn vào
hành động của các bạn, nhân dân Việt Nam thấy rằng mình có hàng triệu
người bạn trung thành ở ngay nước Pháp. Họ đã không bao giờ nhầm lẫn
bọn đế quốc Pháp với nhân dân Pháp mà họ muốn thắt chặt mãi thêm mối
dây thân hữu [118, tr.471].
104

Sự chân thành, ý chí kiên cường đấu tranh vì chính nghĩa, nỗ lực không
ngừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu
tranh đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam trong nhân dân, chính giới Pháp. Đầu
năm 1954, phong trào phản chiến trong nhân dân Pháp phát triển mạnh mẽ. Ngày
27-1-1954, Báo Nhân đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp nhận định:
“Ý muốn chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương đã trở thành một yêu sách
của toàn dân”. “ hiều “Uỷ ban đoàn kết và hành động” đòi giải quyết cuộc chiến
tranh tại Việt Nam bằng phương pháp hoà bình đã thu hút đông đảo trí thức, nhân sĩ
và nghị sĩ các đảng phái (Cộng hào, Xã hội, Xã hội cấp tiến…), tham gia hoạt động
dưới nhiều hình thức” [134, tr.87]. Phong trào đó đã gây sức ép mạnh đến chính
sách của Chính phủ Pháp trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam.
3.2.2. Chỉ đạo tiến công quân sự để m ra khả năng hoà bình
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong L i kêu gọi toàn quốc kháng chiến
ngày 19-12-1946: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng…” và
trong Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Nhận rõ bản chất kẻ thù, không thể nhân nhượng được hơn nữa, không thể có giải
pháp hoà bình nếu không có thắng lợi quân sự trên chiến trường hỗ trợ, thậm chí
đóng vai trò quyết định, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định tình hình,
phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, từ đó đề ra chủ trương, sách lược cụ thể,
phù hợp. Chủ động tạo ra khả năng, cơ hội đàm phán bằng việc mở hàng loạt các
chiến dịch quân sự ở các cấp độ khác nhau, nhằm “tìm kiếm thắng lợi quân sự để
đàm phán hoà bình” [134, tr.49], kết thúc chiến tranh. Chiến dịch Biên Giới Thu -
Đông năm 1950 và Điện Biên Phủ là hai thắng lợi quân sự điển hình có tính chất
bước ngoặt của cuộc kháng chiến, tạo ra khả năng thuận lợi đưa đến các điều kiện
kết thúc cuộc chiến bằng giải pháp hòa bình.
* Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông năm 1950
Đầu năm 1950, bạn bè quốc tế công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức việc tranh
thủ khả năng hoà bình lúc này chính là khả năng Trung Quốc trở thành nơi đứng chân
105

và chiếc cầu nối để từ đó Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, nhận sự ủng hộ vật chất,
tinh thần của bạn bè. Vì thế, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến
dịch Biên Giới Thu-Đông năm 1950 nhằm: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, giải phóng một phần biên giới, mở thông đường giao thông với các nước xã hội
chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Chiến dịch diễn ra trong bối cảnh
Mỹ tăng cường viện trợ cho thực dân Pháp, kế hoạch Revers đã phần nào được thực
hiện và gây khó khăn cho cuộc kháng chiến, căn cứ địa Việt Bắc vẫn bị bao vây.
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 16-9-1950, bộ đội nổ súng tấn công cụm cứ
điểm Đông Khê, mở màn chiến dịch. Sau 54 giờ chiến đấu quyết liệt, anh dũng, bộ
đội làm chủ hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê, buộc địch phải rút bỏ Cao Bằng.
Các đơn vị tham gia chiến dịch tiếp tục bao vây, tiến công tiêu diệt và bắt sống toàn
bộ hai binh đoàn epage và Charton ở khu vực Cốc Xá - điểm cao 477, uy hiếp các
cứ điểm dọc theo đường số 4, giải phóng thị trấn Thất Khê, thị xã Lạng Sơn… Sau
gần một tháng chiến đấu, đến 14-10-1950, chiến dịch kết thúc thắng lợi.
Với thắng lợi của chiến dịch Biên Giới Thu - Đông năm 1950, các lực lượng
chủ lực của Việt am đã nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính
Bắc Bộ, đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn chủ động tiến công về chiến lược.
Biên giới được khai thông, cuộc kháng chiến đã phá được thế bị bao vây, cô lập với
bên ngoài, củng cố, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện thuận lợi đẩy cuộc
kháng chiến tiến tới.
Sau thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, cách mạng Việt Nam có những điều
kiện thuận lợi để mở rộng, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Tiếp sau thắng lợi ở biên
giới, Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở các
chiến dịch tiến công liên tiếp vào trung du và đồng bằng Bắc Bộ trong nửa đầu năm
1951. Đó là các chiến dịch Trung Du, Đường số 18 và Hà Nam Ninh. Mặc dù các
chiến dịch này không đạt được hết các mục tiêu đề ra, trái lại còn bị tổn thất lớn,
nhưng đã cho thấy thế chủ động về chiến lược và sự lớn mạnh của cuộc kháng
chiến. Tiếp theo, trong Đông Xuân 1951-1952, Trung ương Đảng quyết định mở
chiến dịch tiến công Hoà Bình, đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện ở Hoà
Bình, sông Đà, Đường số 6 và vùng địch chiếm đóng ở Bắc Ninh, Bắc Giang và
106

khu vực am Định, Thái Bình, giành thắng lợi lớn. Đến Thu Đông 1952, Trung
ương Đảng quyết định mở chiến dịch tiến công địch ở Tây Bắc, giải phóng phần lớn
địa bàn Tây Bắc (trừ thị xã Lai Châu và thị trấn Nà Sản (Sơn a)). Vùng giải phóng
được nối liền từ Tây Bắc sang Việt Bắc. Gần như toàn bộ khu vực rừng núi Bắc Bộ
đã do lực lượng kháng chiến kiểm soát. Xuân Hè 1953, bộ đội Việt Nam phối hợp
với lực lượng Pathét Lào mở chiến dịch Thượng Lào, giải phóng khu vực Cánh
đồng Chum - Xiêng Khoảng, Sầm ưa. Đến đây, quyền chủ động chiến lược của
quân và dân hai nước đã mở rộng ra toàn khu vực Bắc Đông Dương, đẩy quân Pháp
lún sâu vào thế phòng ngự về chiến lược, bị động đối phó với cuộc tiến công liên
tiếp về quân sự của Việt Nam.
* Chiến dịch Điện Biên Phủ
Chiến tranh Triều Tiên kết thúc bằng việc ký hiệp định đình chiến ngày 27-
7-1953. Cục diện thế giới, khu vực có nhiều thay đổi, xu thế hoà bình, độc lập phát
triển, mở ra khả năng có thể kết thúc chiến tranh bằng thương lượng hoà bình. Bên
cạnh đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, can thiệp Mỹ của nhân dân Việt
Nam tiếp tục phát triển thuận lợi. Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp avarre đánh
giá về cuộc chiến tranh ở Đông Dương vào thời điểm giữa năm 1953 như sau:
Đối với tất cả các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự, cuộc chiến Đông
Dương bây giờ chỉ còn là một việc phải thanh toán đi cho rồi. gười ta
muốn “thoát ra”, nhưng người ta lại bất đồng với nhau cả về đường lối
chính trị, cả về chiến lược cần phải áp dụng. Tôi phải công nhận rằng nếu
gặp khó khăn nghiêm trọng, tôi hoàn toàn không có được hậu phương
vững chắc ở nước Pháp để trông cậy… Đánh giá về đối phương, avarre
viết: Về chính trị, Việt Minh bây giờ là một hà nước thực sự. Họ kiểm
soát hoàn toàn hơn một nửa nước Việt Nam và ngoài ra, bằng một chính
quyền bí mật, họ còn nắm được cả những vùng về lý thuyết là dưới quyền
kiểm soát của chúng ta đã bị họ vô hiệu hoá. Ở đấy, họ còn thu được thuế,
tuyển mộ được một số lớn quân, lấy được một phần quan trọng những gì
cần thiết cho nỗ lực chiến tranh của họ… Vậy là, đương đầu với một địch
thủ thống nhất về chính trị, năng động và kiên quyết bằng mọi cách để đạt
107

những mục tiêu được xác định rõ ràng, chúng ta chỉ là một khối rời rạc,
nhiều xu hướng khác nhau và hoàn toàn do dự [124, tr.49-50-51-52].
Từ những phân tích, nhận định thẳng thắn, khá khách quan đó, avarre đã
xây dựng một kế hoạch tổng quát về chính trị và quân sự để đối phó với lực lượng
kháng chiến, nhằm đạt được kết quả có lợi nhất đi đến kết thúc chiến tranh bằng
đàm phán trên thế mạnh.
Nhận định đúng âm mưu của kẻ thù, khả năng tiến triển của cuộc kháng
chiến, Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định chỉ có giành được thắng
lợi quyết định về mặt quân sự, đánh bại hoàn toàn Kế hoạch Navarre mới mở ra
điều kiện thuận lợi để kết thúc chiến tranh bằng đàm phán.
Những dién biến liên tiếp trên chiến trường cuối năm 1953 đã đưa đến việc
Điện Biên Phủ được cả hai bên chọn làm trận quyết chiến chiến lược. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ thị:
Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân
sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà còn đối với
quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành
cho kỳ được… Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng
mới đánh, không chắc thắng, không đánh [49, tr.900].
Với tinh thần quyết tâm cao nhất, tất cả để chiến thắng, sau gần 50 ngày
chuẩn bị mọi mặt, tính từ khi Đảng uỷ và Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định thay đổi
phương châm tác chiến từ đánh nhanh giải quyết nhanh sang đánh chắc, tiến chắc
(26-1-1954), chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn vào chiều ngày 13-3-1954. Chiến
dịch diễn ra qua 3 đợt: Đợt 1, từ 13 đến 17-3-1954, đã giành được thắng lợi to lớn.
17 giờ ngày 13-3-1954, các đơn vị thuộc Đại đoàn 312 tiến công cụm cứ điểm Him
Lam, nằm ở phía Bắc khu trung tâm Mường Thanh. Đây là cụm cứ điểm được bố trí
thành 3 cứ điểm, nằm trên 3 quả đồi thấp liền kề nhau ở bên đường số 41, do Tiểu
đoàn 3 thuộc Bán lữ đoàn ê dương 13 (3/13 DB E) đóng giữ. Trận Him Lam kết
thúc thắng lợi. Tiếp đó, bộ đội tiến công cụm cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo, xoá sổ
Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
108

Hệ thống phòng ngự then chốt phía Bắc tập đoàn cứ điểm bị tiêu diệt, cánh
cửa tiến xuống khu trung tâm Mường Thanh từ hướng Bắc đã rộng mở. Đợt tiến công
thứ hai bắt đầu chiều ngày 30-3-1954, pháo binh chiến dịch bắn cấp tập vào Sở chỉ
huy của De Castries và các điểm cao C1, D1, E1, các trận địa pháo… Các đơn vị
đồng loạt tiến công 5 cứ điểm quân địch. Đợt tiến công thứ 3 bắt đầu lúc 17 giờ chiều
ngày 1-5-1954, bằng màn bắn khai hoả bắn cấp tập của pháo binh vào các mục tiêu
đã định, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh xung phong đánh chiếm cứ điểm C1,
505, 505A, kết thúc số phận của toàn bộ cụm cứ điểm- Trung tâm đề kháng
Dominich. Cứ điểm 311A - Hughette 5 và cứ điểm đồi A1 cũng bị tiêu diệt.
Chiều ngày 7-5-1954, quân ta đánh chiếm Sở Chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ, bắt sống tướng De Castries cùng toàn bộ ban tham mưu, kết thúc thắng
lợi chiến dịch lịch sử, có ý nghĩa quyết định đến số phận của cuộc chiến tranh, sau
56 ngày đêm chiến đấu gian khổ, quyết liệt.
Đánh giá về sự thất thủ của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhà sử học
quân sự Pháp là Yves Gras viết:
Không thành trì nào là không bị đánh chiếm… Tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ cuối cùng đã chịu thất bại vì không được giải vây từ bên
ngoài… Sự sụp đổ của Điện Biên Phủ đã tác động đến mức, dù muốn
hay không, nó vẫn trở thành một trận quyết chiến không những đối với
chiến cuộc mà còn đối với toàn bộ cuộc chiến tranh [50, tr.996-997].
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Đây là thắng lợi to lớn của
quân và dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ và ở các chiến trường khác trong toàn
quốc. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt am đã phát triển lên một bước quan
trọng, tác động trực tiếp đến chiều hướng của cuộc chiến tranh. Chiến thắng Điện
Biên Phủ diễn ra một ngày trước khi Hội nghị Giơnevơ bàn về giải quyết cuộc
chiến tranh Đông Dương khai mạc, tạo lợi thế lớn cho Đoàn đàm phán của Việt
Nam tại Giơnevơ.
Đó là những hoạt động quân sự, những chiến dịch tiến công liên tiếp có quy
mô ngày càng lớn của các lực lượng vũ trang Việt Nam. Thắng lợi của các chiến
dịch quân sự có ý nghĩa quan trọng, tạo ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến, minh
109

chứng cho khả năng nhận định, đánh giá tình hình sát thực, chính xác của Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiện thực hóa chủ trương dùng đòn tấn công quân sự quyết
định để tạo ra cơ hội thương lượng, đàm phán giành lấy hoà bình, độc lập thực sự.
Bên cạnh việc tranh thủ mọi sự ủng hộ quốc tế và chỉ đạo chủ động mở các
chiến dịch quân sự để tạo khả năng hòa bình có thể tranh thủ, Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến kiến quốc trên mọi phương diện, nhất là
xây dựng hậu phương chiến tranh nhân dân, phát triển kinh tế để tạo thực lực cho
cách mạng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ nhất xác định:
Phải ra sức mở mang kinh tế tài chính để bồi dưỡng sức dân và cung cấp
cho nhu cầu quân đội. Hiện nay, nhiệm vụ đó đã trở thành một nhiệm vụ
rất quan trọng, vì có giải quyết được những nhiệm vụ khó khăn trước
mắt về kinh tế tài chính, ta mới có thể làm cho cuộc kháng chiến thuận
chiều tiến tới thắng lợi [40, tr.511-512].
Để phát triển nền kinh tế kháng chiến, các cấp đều tăng cường lãnh đạo kinh
tế, đề ra và thực hiện các nhiệm vụ trên từng lĩnh vực kinh tế cụ thể như nông nghiệp,
tăng gia sản xuất, tài chính thì tăng thu, giảm chi, tích cự giúp đỡ tư sản dân tộc kinh
doanh, kêu gọi vốn tư nhân để phát triển công thương nghiệp, mở mang mậu dịch với
các nước bạn, vừa tiến hành mặt trận đấu tranh kinh tế, tài chính với địch, vừa vận
động nhân dân thi đua sản xuất… Kết quả, ngay trong năm 1951, ngành thuế, các chi
sở thuế được thành lập và tiến hành hiệu quả đối với việc thu thuế nông nhiệp, thuế
công thương nghiệp, thuế hàng hoá, thuế xuất nhập khẩu… Ngân hàng quốc gia Việt
am được thành lập và ngày 10-6-1951 đã phát hành giấy bạc “ gân hàng Việt
am”, khẳng định nền tài chính của một quốc gia độc lập. Các hoạt động mậu dịch,
ngoại thương, công nghiệp quốc phòng cũng được chú trọng phát triển và đạt những
kết quả quan trọng. Sản xuất lương thực ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích năm
1953, chỉ tính từ Liên khu IV trở ra, “đã đạt hơn 2.757.000 tấn thóc và hơn 650.000
tấn hoa màu” [4, tr.356]. Công nghiệp quốc phòng trong chín năm đã “tự sản xuất
hơn 7.000 tấn vũ khí và hơn 5000 tấn nguyên liệu…” [4, tr.356].
Sự phát triển hậu phương kháng chiến và những thành tựu kinh tế đã cơ bản
đáp ứng được nhu cầu về người, về của cho cuộc kháng chiến, hỗ trợ đắc lực cho
110

đấu tranh quân sự, là một trong những yếu tố quan trọng góp phần đưa kháng chiến
nhanh tới thắng lợi hoàn toàn. Đó cũng là sự chỉ đạo quan trọng của Đảng trong chủ
động tạo ra khả năng nhanh chóng kết thúc chiến tranh bằng giải pháp đàm phán
hoà bình.
3.2.3. Tranh thủ khả năng hoà bình tại Hội nghị Giơnevơ (8-5 - 21-7-1954)
Đến cuối năm 1953, cuộc chiến tranh ở Đông Dương đã bước sang năm thứ
8. Quân đội viễn chinh Pháp ngày càng sa lầy. Dư luận nước Pháp, kể cả trong
chính quyền, Quốc hội và các đảng phái chính trị lớn, ngày càng lên tiếng mạnh mẽ
đòi chấm dứt cuộc chiến tranh hao người, tổn của và mất lòng dân ở Việt Nam và
Đông Dương. Trước sức ép ở trong nước Pháp đòi phải có một giải pháp đàm phán
để kết thúc chiến tranh, cộng với những thất bại quân sự ở chiến trường Việt Nam,
Chính phủ Pháp buộc phải tuyên bố chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc
xung đột, có thể tham khảo cách thức giải quyết cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Về phía Mỹ, nước đang trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, Việt
Nam, lại không muốn giải quyết cuộc chiến tranh bằng thương lượng. Hội đồng an
ninh quốc gia Mỹ họp tháng 8-1953 cho rằng: “Trong điều kiện hiện nay, mọi giải
pháp thương lượng đều có nghĩa là cuối cùng, không những để mất Đông Dương vào
tay cộng sản, mà còn để mất Đông am Á. Mất Đông Dương sẽ làm nguy kịch cho
nền an ninh của Mỹ” [164, tr.445]. Đồng thời, trong chuyến thị sát Đông Dương ngày
23-11-1953, Phó Tổng thống Mỹ Ních-xơn tuyên bố “trong bất kỳ trường hợp nào
cũng không thể tiến hành đàm phán với Việt Minh” [164, tr.445].
Liên Xô chủ trương sớm đi tới giải pháp hòa bình cho vấn đề chiến tranh
Đông Dương nhằm ngăn chặn Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh nóng tại khu vực này,
duy trì và đẩy mạnh xu thế hoà hoãn từ sau khi có Hiệp định đình chiến ở Triều
Tiên. Ngày 4-8-1953, Liên Xô gửi Công hàm cho các nước phương Tây đề nghị
triệu tập Hội nghị 5 nước lớn là Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc để đưa ra các
giải pháp làm giảm tình hình căng thẳng ở Viễn Đông.
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cũng bày tỏ quan điểm cần sớm giải quyết hoà
bình. Ngày 24-8-1953, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: Cuộc đình chiến
ở Triều Tiên có thể làm mẫu mực cho các cuộc xung đột khác.
111

ước Anh, một quốc gia có nhiều ảnh hưởng đến các vấn đề chính trị, ngoại
giao trên thế giới và có quyền lợi liên quan đến khu vực Đông am Á, cũng chủ
trương giải quyết vấn đề Đông Dương bằng đàm phán. gày 18-8-1953, đại diện
của Anh ở Liên hợp quốc tuyên bố: nước Anh tin rằng sự tiến bộ trong vấn đề Triều
Tiên ở bàn Hội nghị sẽ dẫn đến việc đàm phán về những vấn đề rộng lớn hơn liên
quan đến Viễn Đông, trong đó có vấn đề Đông Dương.
Dư luận thế giới cũng bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ cuộc kháng chiến chính
nghĩa chống thực dân, đế quốc xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam, góp phần bảo vệ hoà bình ở khu vực và thế giới, yêu cầu mở hội nghị để bàn
về việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi cho việc giải quyết cuộc chiến
tranh bằng đàm phán, Đảng, hà nước Việt Nam chủ trương mở cuộc tiến công trên
mặt trận ngoại giao để phối hợp với kế hoạch tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954,
làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của Mỹ và Pháp. Ngày 19-12-
1953, kỷ niệm 7 năm ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu
gọi gửi đồng bào, chiến sĩ cả nước, gười khẳng định lại lập trường của Việt Nam:
“ ếu Chính phủ Pháp muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng
và muốn giải quyết Việt Nam theo lối hoà bình, thì nhân dân và Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà cũng sẵn sàng nói chuyện” [114, tr.192].
Ngày 27-12-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ao động Việt Nam ra
Thông tri gửi Trung ương Cục Miền Nam, các Liên khu uỷ và thành uỷ, giải thích
rõ thêm tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhà báo Thuỵ Điển “… hân dân
ta chiến đấu chống bọn đế quốc xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng vì hoà
bình thế giới… Hồ Chủ tịch nói hoà bình, không phải để tuyên truyền đối ngoại
mà chính vì vấn đề Việt am cũng như các vấn đề tranh chấp khác trên thế giới có
thể giải quyết bằng cách thương lượng hoà bình [42, tr.555].
Những tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sẵn sàng đàm phán hoà bình đã
gây tiếng vang lớn. Nhân dân Pháp và nhân dân thế giới bày tỏ thái độ đồng tình quan
điểm của Việt am, đòi Chính phủ Pháp phải nghiêm túc xem xét, đáp ứng. Ngày 5-3-
112

1954, Thủ tướng Laniel khẳng định trước Quốc hội Pháp “dàn xếp cuộc xung đột bằng
con đường thương lượng” [50, tr.962].
Ngày 10-3, Quốc hội Pháp đã ra nghị quyết hoan nghênh việc triệu tập Hội
nghị Giơnevơ để tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, đảm
bảo hoà bình, an ninh của các quốc gia liên kết trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp.
Vấn đề tham gia Hội nghị chính phủ ba nước Đông Dương (thân Pháp) và của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng được các bên thoả thuận sau đó. hư
vậy, “Hội nghị Giơnevơ xuất hiện như một lối thoát danh dự duy nhất để ra khỏi
cuộc chiến tranh” [50, tr.963].
Hội nghị Giơnevơ giải quyết vấn đề Triều Tiên, Đông Dương có sự tham gia
của 9 đoàn: iên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Việt am Dân
chủ cộng hòa và 3 quốc gia liên kết thân Pháp (Vương quốc ào, Vương quốc
Campuchia, Quốc gia Việt am của Bảo Đại). goại trưởng của Liên Xô, Anh làm
đồng Chủ tịch Hội nghị. Ngày 26-4-1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu họp về vấn đề
Triều Tiên. Ngày 08-5-1954, một ngày sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thất
thủ, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương khai mạc. Đoàn đại biểu Việt Nam do Phó
Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu, bước vào bàn đàm phán với tư thế của người
chiến thắng. Trên bình diện ngoại giao, vấn đề Việt am, Đông Dương đã được quốc
tế hóa, không còn đàm phán song phương Việt Nam - Pháp như năm 1946 nữa.
Với tư cách Trưởng đoàn đàm phán của Việt am, Phó Thủ tướng Phạm
Văn Đồng khẳng định rõ nhiệm vụ của Hội nghị Giơnevơ là bàn về vấn đề chấm
dứt chiến tranh và khôi phục hòa bình ở Việt am và Đông Dương. Đó là vấn đề
trọng đại, liên quan mật thiết đến vận mệnh của nhân dân Việt am và Đông
Dương, hòa bình của toàn thế giới. Vì thế, nhân dân Việt am và Đông Dương
nhiệt liệt tán thành chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình:
hân dân và Chính phủ nước Việt am Dân chủ cộng hòa cũng như
nhân dân và Chính phủ kháng chiến Khơme và Pathet ào sẵn sàng dùng
con đường thương thuyết để giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương
trên nền tảng thừa nhận quyền lợi của các dân tộc ở Đông Dương, nghĩa
là thừa nhận độc lập và thống nhất dân tộc, tự do dân chủ, do đó tạo ra
113

điều kiện để đặt những mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Đông
Dương và Pháp trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi [44, tr.415].
hư vậy, lập trường, nguyện vọng căn bản, quyền lợi thiêng liêng mà Việt
Nam kiên quyết chiến đấu để đạt được là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ.
Đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Giơnevơ với lập trường, quan điểm trước
sau như một là độc lập, thống nhất, dân chủ và hoà bình. Độc lập là độc lập thật sự và
hoàn toàn của dân tộc. Thống nhất là thống nhất quốc gia, toàn bộ lãnh thổ…Dân
chủ, trong nước thì nhân dân có quyền tự do dân chủ. Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng
nhấn mạnh: Hoà bình là hoà bình chân chính. Đời sống hoà bình của nhân dân ta với
lợi ích của nhân dân thế giới là một, không thể tách rời nhau, nhân dân sống hạnh
phúc, hoà bình thế giới được duy trì. Đây là lập trường của Việt Nam. Bốn điểm độc
lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình “như một cái khâu của một sợi dây chuyền
ngoắc với nhau, không thể tách rời nhau. Hoà bình của ta là hoà bình chân chính,
không tách rời khỏi độc lập dân tộc. Không thể có hoà bình mà lại không có độc lập
dân tộc, chỉ có độc lập chân chính khi hoà bình được tôn trọng” [44, tr.360-361].
Tại Hội nghị Giơnevơ, Việt am đã đưa ra đề nghị tám điểm nhằm ba mục
đích: Chấm dứt chiến tranh; khôi phục hoà bình; đảm bảo việc khôi phục hoà bình trên
cơ sở thừa nhận các quyền dân tộc của nhân dân Đông Dương; xây dựng quan hệ hữu
nghị giữa các nước Đông Dương và nước Pháp.
Phương châm, chính sách ngoại giao được xác định: Thứ nhất, mục đích là
độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình. Thứ hai, là nguyên tắc phải nắm cho vững.
Tôn trọng chủ quyền, bình đẳng, tự nguyện có lợi cho cả hai bên. Thứ ba, lực lượng
chủ quan là điều kiện căn bản đi đến thắng lợi. Sự ủng hộ của bên ngoài rất quan
trọng, không thể xem nhẹ nhưng chỉ là thứ yếu. Thứ tư, luôn đặt lợi ích của Việt
Nam trong lợi ích của phong trào hoà bình, dân chủ. Cần mềm mỏng về sách lược,
vững vàng về nguyên tắc. Đồng thời phải nhận rõ cuộc đấu tranh ngoại giao cũng
như kháng chiến là lâu dài, gian khổ, tiến từng bước, nhất là trong điều kiện thế giới
hiện nay, căn cứ vào so sánh lực lượng giữa ta và địch.
Hội nghị diễn ra căng thẳng, phức tạp. Mười ngày cuối của Hội nghị (từ 10
đến 21-7-1954), Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, có sự hỗ trợ của Liên Xô,
114

Trung Quốc, đã lần lượt đưa ra các vấn đề: xác định vị trí của giới tuyến quân sự
tạm thời; xác định thời hạn tổng tuyển cử; xác định thành phần của Uỷ ban giám sát
quốc tế; yêu cầu Pháp tuyên bố công nhận vùng tập kết của bộ đội Pa thét Lào;
Pháp tuyên bố công nhận và tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, nền thống nhất quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt, Miên, Lào; Pháp thừa nhận nguyên tắc rút quân
đội ra khỏi ba nước, không đem vũ khí, quân đội vào thêm và không tham gia các
liên minh quân sự v.v…Cho tới mấy ngày cuối trước khi ký kết, vẫn còn ba vấn đề
chưa giải quyết là lập Uỷ ban quốc tế, giới tuyến quân sự tạm thời và thời hạn tổng
tuyển cử.
Sau hai tháng rưỡi kiên trì, nỗ lực đàm phán, trải qua 8 phiên họp toàn thể và
23 phiên họp hẹp, với hàng loạt cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, Hội nghị
kết thúc ngày 21-7-1954 với việc ký kết 3 hiệp định: Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam và Hiệp định đình chỉ chiến sự ở ào được ký giữa đại diện Bộ Tổng tư
lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Thiếu tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ
Quang Bửu với đại diện Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương,
Thiếu tướng Đen tây (Dentail). Đến 11 giờ cùng ngày, Hiệp định đình chỉ chiến sự
ở Campuchia cũng được ký kết giữa Thiếu tướng Tạ Quang Bửu với đại diện Chính
phủ Vương quốc Campuchia là Nhiếc Tiêu Long. Hội nghị thông qua bản Tuyên bố
cuối cùng gồm 13 điểm (riêng Mỹ không tham gia vào Tuyên bố cuối cùng, ra một
tuyên bố riêng ghi nhận kết quả Hội nghị), ghi nhận và bao quát toàn diện, đầy đủ
các cam kết của các bên tham gia và những nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ
liên quan đến việc đình chỉ chiến sự tại các nước Đông Dương, là cơ sở để các nước
tham gia Hội nghị và các nước có liên quan triển khai thi hành Hiệp định. Uỷ ban
quốc tế giám sát và kiểm soát gồm đại diện Ấn Độ, Ba an và Canađa, do Ấn Độ
làm Chủ tịch được thành lập.
Kết quả chủ yếu của Hiệp định Giơnevơ là: Các bên tham gia Hội nghị đã
thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia là
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Pháp phải chấp nhận giải pháp
toàn diện cả về quân sự, chính trị ở cả 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, thực hiện
ngừng bắn trên toàn bộ chiến trường Đông Dương; Pháp phải chấm dứt chiến tranh
115

xâm lược, rút hết quân, chấm dứt chế độ thực dân ở Đông Dương; sẽ tổ chức hiệp
thương tổng tuyển cử thành lập chính phủ thống nhất ở mỗi nước; các nước không
được đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí vào Đông Dương, không được lập
căn cứ quân sự nước ngoài, không được tham gia liên minh quân sự, không cho
nước ngoài sử dụng lãnh thổ để gây chiến sự hoặc phục vụ cho một chính sách xâm
lược; Vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập
kết quân đội; Lào có 2 tỉnh để lực lượng kháng chiến tập kết; trong vòng 2 năm sẽ
tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 để thống
nhất nước Việt Nam.v.v...
Hiệp định Giơnevơ được ký kết là thắng lợi to lớn: “Chính phủ Pháp đã thừa
nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ta, thừa nhận quân đội
Pháp sẽ rút khỏi nước ta… Từ nay chúng ta phải ra sức đấu tranh để củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc” [114,
tr.321-322]. Thắng lợi ấy chính là kết quả của cuộc đấu tranh vì hòa bình suốt chín
năm ròng, bởi:
Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự không chỉ là kết quả của hai tháng
rưỡi nỗ lực đàm phán, thương lượng, mà nó phải đổi bằng biết bao hy sinh, mất mát
của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ và toàn diện trên tất
cả các mặt trận suốt chín năm. Cuộc kháng chiến nhằm mục tiêu cuối cùng là giành
lấy hòa bình, độc lập, tự do thực sự. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tác động tích
cực, là nhân tố quan trọng để Hội nghị Giơnevơ đi đến kết thúc cuộc kháng chiến
gian khổ vì hòa bình của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Kết quả quan trọng
của Hiệp định Giơnevơ là đã chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và
Đông Dương, dù đó là nền hòa bình chưa trọn vẹn. Việt Nam mới chỉ có một nửa
đất nước được giải phóng, Việt Nam chấp nhận điều đó để kết thúc chiến tranh, đổi
lấy hòa bình.
Nhìn nhận một cách khách quan, kết quả đạt được của Hội nghị Giơnevơ là
một thành công lớn của nền ngoại giao Việt Nam; là thắng lợi của nhân dân Việt
am, Đông Dương, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới; là chiến thắng mang tầm
quốc tế của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó quan trọng nhất là nền
116

độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt am được các nước,
kể cả Pháp phải cam kết tôn trọng. Những điều khoản quan trọng nhất của Hiệp
định trở thành cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh tiếp theo của Việt Nam chống đế
quốc Mỹ xâm lược.
Hiệp định Giơnevơ đã hiện thực hóa chủ trương hoà bình của Đảng. Với
lòng yêu chuộng hòa bình tha thiết, Việt Nam coi chiến tranh là sự tự vệ, khi không
còn sự lựa chọn nào khác. Việt Nam tiến hành đàm phán vì “Mục đích bất di bất
dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải
vững chắc nhưng sách lược của ta phải linh hoạt” [114, tr.319], đàm phán trên cơ sở
“nhân nhượng có nguyên tắc” và chấp nhận ký Hiệp định khi điều bất biến là độc
lập dân tộc đã được thừa nhận. Mục đích chính trị của cuộc kháng chiến là giành lại
độc lập, hòa bình đã bước đầu đạt được, chủ trương đánh bại ý chí tiếp tục chiến
tranh xâm lược, chứ không phải đánh tiêu diệt lớn quân Pháp, đã được thực hiện.
Hiệp định Giơnevơ là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, biết chấp nhận
thắng từng bước, là kết quả của sự kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao. Thực
chất Hội nghị là cuộc thương lượng giữa các nước lớn về chiến tranh Đông Dương.
Tư cách Đoàn đại biểu Việt am đến Hội nghị là một bên được mời tham dự chứ
không phải thành viên chính thức, điều này đã hạn chế nhiều đến sự chủ động đàm
phán của Việt am; tương quan lực lượng ủng hộ Việt am là bất lợi khi chỉ có
Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam (3/9 đoàn). Trong khi đó, Việt am chưa từng
dự một Hội nghị quốc tế lớn, chưa có kinh nghiệm trong đàm phán ngoại giao, chưa
có hiểu biết đầy đủ ý đồ các nước tới dự hội nghị và tình hình quốc tế lúc đó, trong
khi đối thủ là Pháp lại dày dạn kinh nghiệm, được Mỹ, Anh ủng hộ … Mặt khác,
Việt am tin tưởng vào đồng minh, chưa hiểu hết chiến lược của họ muốn sử dụng
Hội nghị này là diễn đàn để mặc cả với phương Tây. Giữa Việt am với iên Xô,
Trung Quốc chưa có sự thống nhất, còn bất đồng trong cách thức giải quyết các vấn
đề liên quan đến các nội dung đàm phán. Song, so với những gì đã diễn ra từ Hiệp
định Sơ bộ 6-3-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị Phôngtennơblô, Tạm ước
14-9-1946,… thì tại Hội nghị Giơnevơ, vấn đề Việt am đã được quốc tế hóa. Vấn
đề độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt am đã được Pháp
117

và các quốc gia khác thừa nhận. Pháp buộc phải rút quân, đình chỉ chiến sự để hòa
bình được lập lại ở Việt Nam và Đông Dương. Khung pháp lý về Việt Nam và
Đông Dương đã được hình thành, được quốc tế thừa nhận. Hội nghị Giơnevơ đã
hoàn thành chặng cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng giải pháp đàm
phán, thương lượng, đưa đến việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam. Báo cáo của đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đánh giá:
Ta đã tranh thủ được hoà bình, đã buộc đối phương phải ký Hiệp định
đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Việt, Lào, Miên. Tranh thủ được hoà
bình là một thắng lợi lớn. Đó là một thắng lợi chung của phe hoà bình,
dân chủ, nhưng trước hết và chủ yếu đó là thắng lợi lớn của nhân dân
Việt Nam, của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và của nhân dân Lào,
Miên [44, tr.591].
Với chủ trương và sách lược đàm phán ngoại giao kiên quyết, mềm dẻo, linh
hoạt cùng sự hỗ trợ tích cực của mặt trận quân sự, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ
chiến sự, lập lại hòa bình ở Đông Dương đã đạt được kết quả. Hiệp định góp phần
quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng. Hiệp định là kết quả nỗ lực của cuộc đấu tranh vì hòa bình, kết
thúc chặng đường đầu của cuộc đấu tranh lâu dài để tiến tới độc lập hoàn toàn,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Thắng lợi trong đấu tranh ngoại giao tại
Hội nghị là bước tiếp nối có ý nghĩa chiến lược từ thắng lợi quân sự trên chiến
trường, đã đưa đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh
nhưng rất vẻ vang, tự hào của quân và dân Việt am dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó minh chứng cho những nỗ lực đấu
tranh không mệt mỏi, tận dụng mọi khả năng hoà bình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam, là thắng lợi của quân, dân Việt Nam trong thực hiện chủ
trương của Đảng về tranh thủ các khả năng hoà bình để giành lấy nền hoà bình, độc
lập thực sự.
118

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3


Giai đoạn từ 1950 - 1954, tuy cuộc kháng chiến của Việt am đã được bạn
bè quốc tế ủng hộ, công nhận, có sự viện trợ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên
Xô, bạn bè quốc tế, sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Pháp thông qua phong trào đấu
tranh chống lại cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” của chính phủ Pháp tiến hành ở Việt
Nam… Song các khả năng đàm phán hoà bình hầu như không còn, đặc biệt là Mỹ
đã trực tiếp can thiệp và trở thành kẻ thù của Việt Nam. Quan hệ Việt - Pháp đã lên
đến đỉnh điểm không thể điều hoà, thương lượng, tình hình kinh tế, xã hội Pháp
cũng mất ổn định, nội các liên tiếp thay đổi do phần lớn là tác động từ chiến tranh
Đông Dương. Trong bối cảnh đó, chủ trương về tranh thủ thực hiện các khả năng
hoà bình từ 1950 đến 1954 chính là Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
tục lãnh đạo nhân dân thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, tranh thủ mọi sự
công nhận, ủng hộ của quốc tế, đẩy mạnh kiến quốc nhằm xây dựng thực lực cho
kháng chiến, tăng cường sức mạnh nội lực và chủ động mở các chiến dịch quân sự,
giành thắng lợi quân sự để tạo ra khả năng hoà bình có thể tranh thủ và nhanh
chóng kết thúc chiến tranh.
Đây là giai đoạn Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo toàn
dân, toàn quân đẩy mạnh đấu tranh quân sự, làm thất bại các chiến lược chiến tranh
của thực dân Pháp, dùng thắng lợi quân sự để đánh sụp ý chí tiếp tục chiến tranh
xâm lược của kẻ thù, mở ra khả năng sớm kết thúc chiến tranh bằng đàm phán hòa
bình. Chiến dịch Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ là minh chứng cho chủ trương
kết hợp đánh - đàm, chủ động thúc đẩy, làm xuất hiện khả năng thuận lợi để tranh
thủ. Là giai đoạn ta chủ động tạo ra khả năng hoà bình để tranh thủ, cũng là giai
đoạn minh chứng sinh động cho nhận định, chủ trương “Để đi đến hoà bình có khi
phải chiến tranh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng thực hiện các khả năng hoà bình từ năm
1950 đến năm 1954 khẳng định rõ khát vọng, thiện chí hoà bình của Việt Nam, vai
trò to lớn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định chủ trương dùng
biện pháp quân sự để mở ra cơ hội kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp hòa bình,
là cơ sở, kinh nghiệm quý cho chặng đường cách mạng tiếp theo của đất nước.
119

Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. NHẬN XÉT


4.1.1. Về quá trình Đảng hoạch định chủ trương tranh thủ các khả năng
hoà bình
Thứ nhất, đây là một chủ trương có cơ sở thực tiễn, được đề ra dựa trên
quyền tự nhiên của con ngư i, lịch sử phát triển của nhân loại, thực tế, truyền
thống đất nước và kiên trì phương châm hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc.
Quyền sống, quyền được tự do, được mưu cầu hạnh phúc là lẽ tự nhiên, mục
tiêu phấn đấu đạt tới của nhân loại. Lịch sử loài người đã có nhiều minh chứng sinh
động về vấn đề xem ra tưởng như bình thường, hiển nhiên nhưng vô cùng quan
trọng này. Đó là: Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) đã khẳng định: Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng
tư sản Pháp năm 1791 cũng nói: gười ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi;
và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi; Tuyên ngôn Độc lập (2-9-
1945) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Những
quyền tự nhiên mà con người khi sinh ra đã được hưởng.
Dân tộc Việt am trải suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước với 17
cuộc chiến tranh chống xâm lược. Dân tộc có truyền thống “Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn. ấy trí nhân để thay cường bạo”, luôn sống hòa hiếu, nhân văn. Hơn ai
hết, Việt am hiểu những hậu quả của chiến tranh, giá trị của hoà bình, độc lập và
quyết tâm thực hiện mong muốn hoà bình, độc lập đó. Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, Việt Nam đã thành một nước tự do, độc lập và có quyền được
hưởng tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. hưng cái quyền
đương nhiên ấy của Việt Nam lại bị thực dân Pháp xâm chiếm, tước đoạt.
120

Thực tế, tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, xu thế hoà bình,
độc lập trên thế giới phát triển mạnh. Hậu quả tàn khốc của chiến tranh làm cho
nhân loại thấy sự cần thiết phải hạn chế, ngăn chặn các cuộc chiến tranh xảy ra. Sự
ra đời của tổ chức iên hợp quốc và nhiều tổ chức khác đấu tranh cho hoà bình, dân
chủ là minh chứng cho nguyện vọng hoà bình của nhân loại. Cùng với đó, hầu hết
các nước tham chiến ở cả hai phe, dù thắng trận hay bại trận, đều bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, cần phải có thời gian để khôi phục, phát triển đất nước. ực lượng dân
chủ đấu tranh cho hoà bình, dân chủ phát triển mạnh, đứng đầu là iên Xô. Chủ
nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới; với nước Pháp bị tổn thất nặng nề
sau chiến tranh kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn, cần phải tập trung để khắc phục
hậu quả chiến tranh, ổn định, phát triển đất nước. Một bộ phận nhân dân Pháp và
chính giới Pháp đã từng tham gia cuộc kháng chiến chống phát xít Đức, giải phóng
đất nước (Pierre Messmer, eclerc, Paul Mus, Sainteny...) nên họ hiểu cái giá của
hoà bình. Mô hình chủ nghĩa thực dân, cách thức thống trị của thực dân Pháp đối
với các thuộc địa, trong đó có Việt am, Đông Dương đã lỗi thời, không còn phù
hợp. Ý định thành lập một chế độ uỷ trị quốc tế ở Đông Dương của Tổng thống Mỹ
Roosevelt là minh chứng cho điều này.
Với iệt Nam, tuy hà nước non trẻ mới ra đời chưa được thế giới, trong đó
có cả iên Xô, công nhận, khó khăn mọi mặt, thù trong giặc ngoài ra sức chống
phá, vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc, nhưng nhân dân lại ý thức rất rõ
quyền lợi và trách nhiệm của mình, phấn khởi xây dựng chế độ mới, tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng. Ý chí, nguyện vọng của nhân dân thiết tha với hoà bình, với
nền độc lập vừa giành được, không muốn chiến tranh xảy ra. Cùng với đó, chính
quyền, quân đội cũng được thành lập để bảo vệ thành quả mới giành được. hư
vậy, Việt am có cả ý chí, nguyện vọng và thực lực để xây dựng, bảo vệ hoà bình,
độc lập. Trong khi đó, việc thực dân Pháp quay trở lại Việt am ban đầu bị chính
Mỹ và các đồng minh phản đối. Đảng nhận thức rõ, nước Pháp ra khỏi chiến tranh
với tổn thất rất to lớn, thực lực quân sự không mạnh nhưng vẫn bám giữ quan điểm
thực dân, nên tìm cách dựa vào Mỹ, Anh... để trở lại Việt am, nhưng trong nội bộ
chính giới Pháp đang có sự mâu thuẫn về vấn đề Việt am. Đây là một nhân tố có
121

thể tận dụng để tranh thủ hòa bình. Đảng tin vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa
chống xâm lược sẽ được toàn dân ủng hộ, sẽ tạo nên sức mạnh để đánh thắng kẻ
thù, nên đề ra và kiên trì thực hiện chủ trương tranh thủ khả năng hoà bình.
Đảng đã sớm đề ra và kiên trì thực hiện chủ trương đó đến cùng, bằng mọi
biện pháp khi nhận thấy thực tế vẫn còn có khả năng hoà bình. ó phù hợp với tình
hình thực tế, mong muốn, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân tin
tưởng, ủng hộ, đoàn kết thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hình ảnh người dân Việt am nô nức đi bầu Quốc hội vào ngày 6-1-1946... cho thấy
khát vọng, mong ước hòa bình mạnh mẽ, cháy bỏng của người dân Việt am. Nhân
dân đã thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, làm theo sự chỉ đạo, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ, hưởng ứng mọi
lời kêu gọi chỉ với một mục tiêu mong muốn được sống trong độc lập tự do.
Các chủ trương, sự chỉ đạo và hoạt động của Đảng, các cán bộ của Đảng,
Chính phủ, tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt chín năm kháng chiến, đặc
biệt tập trung vào ba thời đoạn: 1945 - 1946, 1950 và 1954, với hàng loạt các hoạt
động ngoại giao, đàm phán với phương châm quán xuyến là hòa hoãn, nhân
nhượng, tránh xung đột, lấy dĩ bất biến ứng vạn biến... đã thể hiện rõ ràng sự kiên
trì đến cùng chủ trương tranh thủ khả năng hòa bình của Đảng. Để đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đứng đầu Đảng, chấp nhận những
nhượng bộ đau đớn, thậm chí bị một số đồng chí, người dân hiểu lầm... để đạt được
mục tiêu đề ra. Từ việc ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, chuyến đi thăm Pháp kéo dài
và ký Tạm ước 14-9-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh…. đến sự nhân nhượng, nỗ
lực của Việt am Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ, đã chứng minh Việt
am tranh thủ tận dụng mọi cơ hội có thể có được nhằm làm tiêu tan, đẩy lùi âm
mưu của kẻ thù, tránh chiến tranh và sớm kết thúc chiến tranh. Điều này khẳng định
sự nhất quán trong chủ trương, chỉ đạo thực hiện của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh, cũng là một chủ trương rất nhân văn, phù hợp thực tiễn, đạo lý,
truyền thống dân tộc Việt am.
Đảng đã thể hiện bản lĩnh quyết đoán và sự nhạy bén trong nhận định, đánh
giá tình hình, đánh giá kẻ thù, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc. Cho đến khi
122

khả năng hòa bình không còn nữa thì chủ động, kiên quyết phát động nhân dân cả
nước đứng lên chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự do, tranh thủ cơ hội hòa bình theo
một phương cách khác, đó là chủ động tạo ra cơ hội cho mình, tiến hành chiến tranh
để giành lấy hòa bình. Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, Biên giới Thu Đông
1950, Điện Biên Phủ Xuân Hè 1954 là những minh chứng cụ thể, điển hình.
Thứ hai, chủ trương kết hợp các biện pháp đấu tranh để tạo ra và tranh thủ
khả năng hoà bình nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là độc lập, hoà bình.
Độc lập, hòa bình là mục tiêu cuối cùng của cuộc kháng chiến. Từ thực tế so
sánh lực lượng, bối cảnh tình hình, Đảng xác định đây là cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, phải tiến hành kháng chiến
trên tất cả các mặt trận, lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng, quân sự, đối
ngoại.... Chiến tranh là một thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần
của một nước. Cuộc kháng chiến của Việt am buộc phải tiến hành trong hoàn
cảnh muôn vàn khó khăn nên càng cần sự kết hợp tất cả các lĩnh vực, mỗi lĩnh vực
chính là một mặt trận, cần phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân, dùng toàn lực
của nhân dân tiến hành kháng chiến toàn diện. Vừa kháng chiến vừa xây dựng thực
lực mới có thể chuyển yếu thành mạnh và giành thắng lợi cuối cùng.
hững năm 1945-1946, chiến tranh nổ ra ở miền am, Đảng chủ trương vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc, vận dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, lợi
dụng tối đa mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá chúng, ngăn ngừa, đẩy lùi thời
gian chiến tranh lan rộng ra toàn quốc; ở miền Bắc lấy đấu tranh ngoại giao, đàm phán
là chủ yếu. Sau ngày 19-12-1946, Đảng vẫn chủ trương tiếp tục tìm các giải pháp ngoại
giao, sẵn sàng gặp gỡ, đàm phán nếu có cơ hội dù là nhỏ nhất. Điều đó khẳng định
thiện chí, nỗ lực tránh chiến tranh của Đảng, Chính phủ Hồ Chí Minh và của nhân dân
Việt am. Đó là những “cuộc gặp gỡ quan trọng và đó chính là những cơ hội để giải
quyết hòa bình vấn đề Việt am nếu phía Pháp thực sự có thiện chí” [132, tr.31].
Sau cuộc gặp với Paul Mus, nhận thấy khả năng hoà bình, đàm phán không
còn nữa, Đảng quyết định đẩy mạnh hoạt động quân sự nhằm từng bước đánh bại
các hành động chiến tranh của thực dân Pháp, chủ động tạo ra khả năng thuận lợi có
123

thể tranh thủ. Đồng thời chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại để có được sự
công nhận, ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Từ những thắng lợi quân sự trong các năm 1950, 1951, 1952, sang năm 1953,
tình hình thế giới có nhiều biến đổi thuận lợi cho việc giải quyết các xung đột bằng
một giải pháp hoà bình, Đảng chủ trương kết hợp mở mặt trận đấu tranh ngoại giao,
vừa đánh, vừa đàm, dùng thắng lợi quân sự trên chiến trường để hỗ trợ cho đàm phán
ngoại giao. Đảng luôn ý thức đấu tranh quân sự cũng như đấu tranh ngoại giao là một
quá trình lâu dài, gian khổ, phải kiên trì, nỗ lực mới có kết quả. Điều này được minh
chứng rõ và cụ thể ở chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Hội nghị Giơnevơ và việc ký
Hiệp định đình chỉ chiến sự, lập lại hoà bình ở Việt am, Đông Dương.
Thứ ba, tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi, sự đồng tình, ủng hộ của các
nước trong phe xã hội chủ nghĩa, nhân dân Pháp, các lực lượng yêu chuộng hoà bình,
công lý trên thế giới, để đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc.
Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng, được đề ra từ sớm trên cơ sở thực tiễn
tình hình thế giới và khả năng Đảng dự đoán, phân tích xu thế phát triển của thời đại.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết Chính phủ và nhân dân các nước
đều có chung mong muốn về một thế giới hòa bình. hững năm 1945-1946, Hồ Chí
Minh nhiều lần viết thư cho Tổng thống Mỹ, đề nghị Mỹ ngăn chặn hành động xâm
lược Việt am của thực dân Pháp và viện trợ cho Việt am, dù rằng thể chế chính
trị của Mỹ không giống Việt am. Hiểu rõ vai trò, sức mạnh to lớn và sự cần thiết
phải liên hệ và cần có sự ủng hộ quốc tế, trong suốt quá trình kháng chiến, Đảng
luôn xác định cách mạng Việt am là một bộ phận của cách mạng thế giới, là một
lực lượng của phe dân chủ, của phe xã hội chủ nghĩa, đấu tranh vì hoà bình, dân
chủ. gay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt am Dân chủ
Cộng hòa ra đời, Đảng, hà nước Việt am tuyên bố rõ chính sách đối ngoại sẵn
sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, trong
quan hệ đối với các nước khác, Việt am luôn có chính sách rõ ràng, dựa trên các
nguyên tắc cơ bản: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau; không xâm
phạm lẫn nhau; chủ trương giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng thương lượng hòa
bình, phù hợp đạo lý và luật pháp quốc tế, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình;
124

không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng và hai bên cùng có lợi;
cùng chung sống hòa bình...
Từ năm 1947, vừa lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến, Đảng, Chính phủ
Việt am Dân chủ Cộng hoà đã cử nhiều đoàn đi tham dự các hoạt động của các
lực lượng dân chủ, tổ chức hoà bình trên thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc. Thông qua đó, nói lên tiếng nói chính nghĩa, nguyện vọng của nhân dân Việt
am, ủng hộ các phong trào đấu tranh của các lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế
giới. Đồng thời làm cho bạn bè thế giới hiểu về cuộc kháng chiến nhân dân Việt
am đang tiến hành.
Khi còn chiến đấu trong vòng vây, chưa có được sự công nhận, ủng hộ của
quốc tế, Việt am vẫn giúp cách mạng Trung Quốc, với phương châm “giúp bạn là
mình tự giúp mình”. Cách mạng Trung Quốc thành công, Đảng xác định đây là cơ
hội thuận lợi để có thể mở rộng mối quan hệ của cách mạng Việt am với bạn bè
quốc tế, từ đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ,
tiến bộ trên thế giới. Kết quả của chuyến đi bí mật sang Trung Quốc, iên Xô của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đầu năm 1950 chứng tỏ chủ trương đúng đắn của Đảng
trong nhận định tình hình, tranh thủ thời cơ tìm kiếm sự công nhận, ủng hộ của
quốc tế, cụ thể là của iên Xô, Trung Quốc.
Với nước Pháp, Hồ Chí Minh thể hiện rõ chủ trương có thể và cần phải bắt
tay nhau trong một sự nghiệp cộng tác bình đẳng, thật thà, để gây dựng hạnh phúc
chung cho cả hai dân tộc. Và Việt am sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân
Pháp. hững người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ
muốn thật thà cộng tác với Việt am thì sẽ được nhân dân Việt am hoan nghênh
họ như anh em bầu bạn. Song nhân dân Việt am kiên quyết cự tuyệt những người
Pháp quân phiệt. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt am chỉ chống lại thực dân
hiếu chiến Pháp chứ không chống lại nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, tự do.
Các hoạt động ngoại giao không ngừng nghỉ của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với Pháp trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh đã góp phần làm cho nhiều
người dân Pháp, một số chính khách Pháp hiểu được cuộc kháng chiến chính nghĩa
của Việt am, lên án hành động xâm lược của thực dân Pháp tại Đông Dương, hiểu
125

được Việt am mong muốn chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt tình trạng máu
của những thanh niên Pháp, thanh niên Việt đang đổ vô ích. Phong trào phản chiến
của nhân dân Pháp ngày càng lên cao, cổ vũ cho cách mạng Việt am, buộc Chính
phủ Pháp chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu tại Đông Dương.
Thứ tư, tuy nhiên, trong quá trình đề ra chủ trương tranh thủ thực hiện các
khả năng hòa bình, Đảng chưa tranh thủ được sự công nhận, ủng hộ của Liên Xô
trong những năm đầu của cuộc kháng chiến.
Một trong những nội dung cơ bản của chủ trương tranh thủ thực hiện các khả
năng hòa bình chính là tranh thủ được sự công nhận, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè
quốc tế, nhân tố quan trọng góp phần đưa kháng chiến đến thắng lợi. Muốn thế, cần
phải làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới,
đứng trong hàng ngũ các lực lượng dân chủ tiến bộ, đấu tranh cho hòa bình. hưng
thực tế, mặc dù Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những cố gắng, có sự chủ động
tranh thủ tìm và tạo các cơ hội để có thể liên hệ với Ban lãnh đạo Liên Xô nhằm
giải thích rõ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ở thời điểm trước, ngay sau khi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành
công và những năm đầu của cuộc kháng chiến, nhưng đáng tiếc là do nhiều nguyên
nhân cả khách quan và chủ quan đem lại, cho đến hết năm 1949, Việt Nam vẫn
chưa nhận được sự công nhận, ủng hộ của Liên Xô - nước đứng đầu phe xã hội chủ
nghĩa, ngọn cờ đầu của phong trào cách mạng thế giới, chỗ dựa của các nước đang
đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ trên thế giới. Việc Liên Xô chậm
công nhận Việt Nam, không viện trợ cho Việt Nam những năm đầu cuộc kháng
chiến là một thiệt thòi lớn đối với Việt Nam.
Thực tế đó, về mặt chủ quan, phần nào phản ánh sự hạn chế của Đảng trong
thực hiện chủ trương đối ngoại tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, cũng như sự thiếu thông
tin chính xác, chưa hiểu hết và đúng về cách mạng Viêt Nam, cá nhân Chủ tịch Hồ
Chí Minh của Liên Xô nói chung, của cá nhân Stalin nói riêng. Điều này được minh
chứng ở kết quả cuộc hội kiến Stalin của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến đi bí
mật của gười đến Liên Xô đầu năm 1950 và việc Liên Xô chính thức công nhận,
126

đặt quan hệ ngoại giao và giúp đỡ Việt Nam tiến hành kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
4.1.2. Sự chỉ đạo của Đảng về tranh thủ c c khả năng hoà bình
Một là, chỉ đạo thực hiện phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, kiên
quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, nhân nhượng có nguyên tắc về sách lược để tránh
xung đột, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tìm kiếm hoà bình.
ước Việt am Dân chủ Cộng hoà chính thức ra đời được ba tuần đã phải
đương đầu với cuộc tái xâm lược của thực dân Pháp, được quân Anh giúp sức,
được Mỹ bật đèn xanh, mở đầu ở Sài Gòn. Tình thế cả trong miền am, ngoài
miền Bắc lúc này không thuận lợi khi có tới 300.000 binh lính của bốn nước gồm:
gần 200000 quân Trung Hoa Dân quốc ở phía Bắc vĩ tuyến 16 (từ Đà ẵng trở ra
Bắc), 15000 quân Anh (phía am vĩ tuyến 16), hơn 80.000 quân hật bại trận hạ
vũ khí đầu hàng, chờ hồi hương và hàng nghìn quân Pháp đang gấp rút xâm nhập
bằng nhiều phương tiện, nhiều con đường. Trong khi đó, quân đội chính quy của
hà nước Dân chủ Cộng hoà non trẻ chỉ có khoảng 5000 người (bằng 1/60 về số
lượng), vũ khí, trang bị rất thiếu thốn, cơ bản không được huấn luyện, đào tạo, ít
kinh nghiệm tác chiến. hững đội quân nước ngoài có mặt tại Việt am không
những không ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, trái lại còn tỏ ra thù địch và đang
tìm cách lật đổ, thủ tiêu chính quyền cách mạng mới thiết lập. Bên cạnh “giặc
ngoài” đã nêu, còn có một số lượng đông đảo “thù trong”. Đó là các lực lượng, tổ
chức, đảng phái người Việt thân Tưởng, thân Pháp, thân hật, ủng hộ vương triều
phong kiến nhà guyễn vừa bị lật đổ, cùng các lực lượng khác không ưa Việt
Minh, cộng sản. Đứng trước thực tế khó khăn đó, so sánh lực lượng rất bất lợi cho
cách mạng, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm của ê nin “nếu
có lợi cho cách mạng, thì dù phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa
hiệp”, từ đó bình tĩnh đánh giá tình hình, nhận định đúng âm mưu, hành động của
từng đối tượng, từng kẻ thù để đề ra đối sách phù hợp, có những “nhân nhượng
hợp lý đối với kẻ thù. Cố gắng đạt được thỏa hiệp để cứu chính quyền nhân dân
khỏi bị tiêu diệt, tranh thủ được thời gian để tập hợp được lực lượng và chuẩn bị
cho cuộc chiến đấu quyết liệt chống bọn thực dân” [45, tr.404].
127

Đối với quân Trung Hoa Dân quốc dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào
miền Bắc Việt am để giải giáp, hồi hương quân hật nhưng lại công khai ý định:
“diệt Cộng, cầm Hồ” (tiêu diệt Cộng sản, cầm tù Hồ Chí Minh), không giao thiệp,
không công nhận Chính phủ của Hồ Chí Minh, Đảng chủ trương tránh xung đột, giao
thiệp thân thiện và nhân nhượng. Chủ trương này được thực hiện một cách kiên
quyết, khéo léo trên nhiều lĩnh vực kinh tế, tài chính, nhân nhượng về thành phần
Quốc hội, thành phần Chính phủ, giải tán Đảng, quân đội. Chủ trương, sự chỉ đạo đó,
được các cấp, các ngành nhận thức đúng, thống nhất thực hiện, kết hợp với sự ứng xử
linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những lần tiếp xúc với các cấp chỉ huy
quân Trung Hoa Dân quốc, nên dù tìm mọi cách chống phá, nhưng các mục tiêu quân
Trung Hoa Dân quốc đặt ra (ngoài nhiệm vụ giải giáp, hồi hương quân hật) đều
không đạt được. Họ không thể “tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh”, không thể lật
đổ được Chính phủ Hồ Chí Minh để đưa người của họ lên nắm chính quyền.
Hết thời hạn làm nhiệm vụ giải giáp quân hật ở miền Bắc Việt am và do
ở Trung Quốc lại xảy ra nội chiến Quốc - Cộng, quân Trung Hoa Dân quốc phải rút
về nước, nhưng trước khi rút, họ đã ký thoả thuận với Pháp để cho quân Pháp thay
chân, đổi lại một số quyền lợi về kinh tế. Đứng trước tình hình quân Pháp và quân
Trung Hoa Dân quốc thoả thuận với nhau, quân Pháp có được cái cớ để ra miền
Bắc, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương (Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3-3-
1946) tiếp tục hoà hoãn với Pháp để tránh tình huống cùng một lúc phải đương đầu
với cả quân Trung Hoa Dân quốc và quân Pháp, đồng thời đẩy nhanh quá trình quân
Trung Hoa Dân quốc rút về nước. Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ký với
đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, đồng ý để cho 15.000 quân
Pháp ra miền Bắc làm thay nhiệm vụ của quân Trung Hoa Dân quốc. Tuy nhiên,
điều quan trọng trong Hiệp định Sơ bộ là Đảng đã kiên trì đấu tranh để đưa vào
Hiệp định nội dung về việc nước Pháp phải công nhận Việt am là quốc gia tự do
(đây là điều phía Pháp không hề muốn), có quân đội, tài chính, nghị viện, ngoại
giao riêng, nằm trong iên bang Đông Dương và khối iên hiệp Pháp.
Trong Hiệp định Sơ bộ, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hai sự nhượng bộ
lớn: một là, chấp nhận để quân Pháp đổ bộ ra miền Bắc một cách hoà bình, không nổ
128

súng, (đây là điều làm cho một số cán bộ và người dân không thông về tư tưởng, nhận
thức); hai là, chấp nhận hạ thấp mục tiêu trong đàm phán từ chỗ yêu cầu Pháp phải
thừa nhận Việt am là nước độc lập, đến đồng ý đưa vào văn bản Hiệp định cụm từ
quốc gia tự do, khi tình hình đã trở nên rất cấp bách, quân Pháp đã có mặt ở cửa biển
Hải Phòng sẵn sàng đổ bộ bằng vũ lực nếu không ký được Hiệp định. Sự nhượng bộ,
hoà hoãn của Đảng để tránh xung đột là cần thiết khi mà thực lực nhà nước Việt am
Dân chủ Cộng hoà, nhất là thực lực của quân đội chưa đủ mạnh. ếu để xảy ra xung
đột quân sự, phía Việt am sẽ bị bất lợi (điều này đã được Đảng giải thích rõ trong Chỉ
thị Tình hình và chủ trương, ngày 3-3 và Chỉ thị Hoà để tiến, ngày 9-3-1946, chỉ ba
ngày sau khi ký Hiệp định Sơ bộ).
Sau khi quân Pháp có mặt ở miền Bắc, các địa phương, Việt am đã thực
hiện nghiêm chủ trương hoà hoãn, tránh xung đột với quân Pháp nhưng cũng kiên
quyết đấu tranh (thông qua Uỷ ban liên kiểm Việt- Pháp) trước những hành động
vi phạm Hiệp định của Pháp. Trước khi đi thăm nước Pháp để tìm kiếm cơ hội hoà
bình, xây dựng mối quan hệ và tình hữu nghị giữa hai nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trao chức Quyền Chủ tịch nước cho Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng
Bộ ội vụ với lời dặn: Dĩ bất biến, ứng vạn biến. Đây chính là quan điểm, chủ
trương xuyên suốt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đấu tranh ngoại giao,
lấy độc lập dân tộc làm mục tiêu tối thượng (bất biến) không thể đem ra mặc cả,
thương lượng; mọi sự thương lượng, đàm phán, nhân nhượng đều phải xoay quanh
mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc mà thực hiện. Chủ trương chỉ đạo nêu trên của
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trong các hoạt động ngoại giao sau đó
với Pháp. Cuộc đàm phán Việt - Pháp tại Fontainebleau, việc ký Tạm ước 14-9-
1946 đã thể hiện rõ chủ trương đó của Đảng, Việt am sẵn sàng nhân nhượng đến
mức cao nhất có thể được, nhưng là nhân nhượng có nguyên tắc. Đến khi nhận
thấy khả năng hoà bình không còn, Đảng đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân, kiên
quyết đứng lên kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, giành lấy hoà bình. Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12-12-1946 và
L i kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19-12-1946
đã thể hiện rất rõ sự chỉ đạo của Đảng.
129

Hai là, vừa chỉ đạo đấu tranh ngoại giao tìm kiếm khả năng hoà bình, vừa
chỉ đạo chuẩn bị và thực hiện kháng chiến, kiến quốc trong suốt cuộc kháng chiến.
Đảng chủ trương vừa tiến hành đấu tranh ngoại giao với quân Trung Hoa
Dân quốc nhưng cũng đồng thời không một phút nào ngừng công việc chuẩn bị
kháng chiến “bất cứ lúc nào và ở đâu” và không để đấu tranh ngoại giao ảnh
hưởng đến công việc chuẩn bị kháng chiến. Phân tích âm mưu, hành động của
từng đối tượng, Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc ngày 25-11-1945 của Ban Thường
vụ Trung ương Đảng xác định: kẻ thù chủ yếu của dân tộc Việt am lúc này là
thực dân Pháp xâm lăng, phải chĩa ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Điều này cho
thấy Đảng đã sớm nhận thức và xác định rõ kẻ thù chính để định ra cách thức đối
phó phù hợp, hiệu quả.
Tên của Chỉ thị là Kháng chiến, kiến quốc cũng cho thấy Đảng cùng lúc chỉ
đạo hai nhiệm vụ kháng chiến ở miền am và kiến quốc, tranh thủ xây dựng thực
lực ở miền Bắc. Miền am kháng chiến có kết quả mới có thể kìm chân quân Pháp
mở rộng chiếm đóng ra miền Bắc. gược lại, miền Bắc có kiến quốc thành công,
mới có điều kiện chi viện cho miền am chiến đấu, chuẩn bị thế và lực đương đầu
với quân Pháp khi chúng kéo ra miền Bắc và gây ra cuộc chiến tranh trên phạm vi
cả nước.
Việc Đảng chủ trương ký Hiệp định Sơ bộ để quân Pháp ra miền Bắc một
cách có điều kiện, thực hiện hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp để đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, mặt khác, để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng mọi mặt, sẵn sàng
chiến đấu khi khả năng hoà bình không còn, là một chủ trương đúng. Khoảng thời
gian từ 6-3 đến trước 19-12-1946, là khoảng thời gian Đảng thành công trong chỉ
đạo vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tận dụng được những ngày tháng quý báu để
xây dựng thực lực chuẩn bị kháng chiến. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng
kết: Hơn một năm tạm hoà bình đã cho ta thời gian xây dựng lực lượng căn bản.
Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân
dân kiên quyết chiến đấu, triển khai thế trận kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài
trong hoàn cảnh phải tự lực cánh sinh hoàn toàn. Vì thế, nhiệm vụ kháng chiến, kiến
quốc vẫn tiếp tục được thực hiện trong hoàn cảnh mới, trên phạm vi cả nước.
130

Tuy vậy, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không để lỡ bất kỳ cơ hội nào để
gặp gỡ, đàm phán với đối phương nhằm chấm dứt xung đột, đổ máu. Sự việc Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ động đề nghị gặp Bộ trưởng Moutet để nói rõ thực chất,
nguyên nhân xảy ra chiến sự, khi được tin Moutet sang Đông Dương điều tra tình
hình ngay sau ngày 19-12-1946; sự việc Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp gặp Paul
Mus, Cố vấn chính trị của Cao uỷ Bollaert tại Thái guyên, 5-1947, khi chiến tranh
trên cả nước đã diễn ra được hơn 5 tháng, đã chứng tỏ điều đó.
Trong quá trình kháng chiến, cả khi đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với
các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đã phá được thế bị bao vây, đã nhận được sự
chi viện, giúp đỡ to lớn về vật chất, tinh thần, nhưng Đảng vẫn xác định chủ trương
vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, dựa vào sức mình là chính, đồng thời thực hiện các
hoạt động ngoại giao, phối hợp chiến đấu với ào, Cămpuchia, Trung Quốc, tham
dự các hội nghị, diễn đàn quốc tế để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân,
các tổ chức hoà bình, tiến bộ, dân chủ trên thế giới, làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ
sự nghiệp kháng chiến chính nghĩa vì độc lập, yêu hoà bình của nhân dân Việt am.
Ba là, Đảng chỉ đạo thực hiện đánh thắng kẻ thù từng bước, vừa chiến đấu
vừa xây dựng lực lượng, tập trung đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, mở
ra khả năng đàm phán hoà bình, kết thúc chiến tranh.
Chỉ đạo này căn cứ từ so sánh lực lượng thực tế trên chiến trường. Trước sức
mạnh quân sự của thực dân Pháp, lại được Mỹ giúp sức, ngay từ đầu chiến tranh
Đảng đã chủ trương kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa xây dựng lực lượng,
đưa cuộc kháng chiến từ giai đoạn phòng ngự lên giai đoạn cầm cự, giằng co, vừa
đánh vừa chuyển hoá lực lượng có lợi cho kháng chiến, rồi chuyển lên giai đoạn
phản công và tiến công.
Khi không còn cơ hội hoà bình, Đảng lãnh đạo quân dân cả nước đẩy mạnh
tiến công quân sự, giành thắng lợi qua từng trận chiến đấu, từng chiến dịch, đến cả
chiến cuộc. Tuy nhiên, Đảng luôn chủ trương và chỉ đạo không dốc toàn lực đánh
một hai trận quyết định mà phải bảo toàn lực lượng, càng đánh càng mạnh. Phương
châm là không cố sức đánh tiêu diệt lớn mà tập trung đánh bại ý chí tiếp tục chiến
tranh, làm cho quân Pháp phải thừa nhận không thể dùng sức mạnh quân sự đánh
bại quân và dân Việt am, phải chọn giải pháp đàm phán để rút ra khỏi chiến tranh.
131

Chiến dịch Điện Biên Phủ là một minh chứng cụ thể, tiêu biểu cho chủ
trương, chỉ đạo này của Đảng. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các đơn vị chủ lực
ở thế chủ động, bao vây tiến công quân địch tổ chức phòng ngự bị động trong tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đảng đã chỉ đạo huy động sức mạnh của cả nước,
điều động những đơn vị tinh nhuệ, cùng vũ khí trang bị hiện đại nhất lúc đó lên
Điện Biên Phủ. Mặc dù tính chất trận đánh mang ý nghĩa quyết định như vậy, kể cả
đối với phía quân Pháp, nhưng trên thực tế, sau khi tập đoàn cứ điểm mạnh nhất,
biện pháp phòng ngự cao nhất của quân Pháp bị đánh bại, nhưng toàn bộ số quân
Pháp bị chết, bị thương, bị bắt làm tù binh tại Điên Biên Phủ chỉ chiếm 9% tổng số
đạo quân viễn chinh Pháp và chỉ chiếm 3,5% tổng số quân Pháp và quân đội quốc
gia của Bảo Đại. Tuy số lực lượng bị tổn thất không nhiều, nhưng vấn đề quan
trọng là thế trận của quân Pháp ngày càng lún sâu vào phòng ngự bị động, hình thức
và biện pháp phòng ngự cao nhất đã bị đánh bại, đặc biệt là tinh thần của quân Pháp
đã xuống rất thấp, hoang mang, dao động. Điều này càng thúc đẩy những người
phản đối chiến tranh trong chính giới và các tầng lớp nhân dân Pháp đẩy mạnh đấu
tranh đòi Chính phủ Pháp phải đàm phán chấm dứt chiến tranh.
Hội nghị Giơnevơ bàn về việc giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương
nhóm họp ngay sau ngày quân Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ, là một đòn giáng
mạnh vào thái độ ngoan cố của những kẻ hiếu chiến trong chính giới Pháp muốn
kéo dài chiến tranh, muốn giành được thắng lợi trên chiến trường để đàm phán trên
thế mạnh và rút ra khỏi chiến tranh trong danh dự. Sau trận thua có tính chất quyết
định ở Điện Biên Phủ, phía Pháp bước vào đàm phán với tâm thế của kẻ thất bại
trên chiến trường, muốn đàm phán để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Về phía Việt am, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thắng lợi đòn tiến công quân
sự, lấy đó làm cơ sở quyết định cho đàm phán. ghệ thuật lãnh đạo kết thúc cuộc
chiến tranh trong giai đoạn cuối chiến tranh của Đảng là nghệ thuật kết hợp nhịp
nhàng giữa tiến công quân sự với đấu tranh ngoại giao. Thắng lợi quân sự tại Điện
Biên Phủ tuy chưa làm chuyển biến cơ bản so sánh lực lượng trên chiến trường
nhưng đã tạo ra lợi thế lớn cho cuộc đàm phán tại Giơnevơ, mở ra khả năng rõ ràng
hơn bao giờ hết để kết thúc chiến tranh. Đấu tranh ngoại giao thắng lợi, bằng việc
132

ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt am và Đông Dương, đã góp phần mang lại
hoà bình cho một nửa đất nước sau cuộc kháng chiến kéo dài 9 năm ròng. Để giành
được hoà bình, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân triển
khai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựạ vào sức mình là chính, luôn
tranh thủ các khả năng thực hiện hoà bình dù là nhỏ nhất, kể cả khi phải sử dụng
giải pháp quân sự để đạt được mục tiêu là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, đem lại hoà bình cho đất nước.
Bốn là, Đảng chỉ đạo mở rộng quan hệ quốc tế để nhận được sự ủng hộ,
giúp đỡ về vật chất, tinh thần của các nước bè bạn, kể cả nhân dân Pháp.
Một thực tế là từ sau ngày tuyên bố độc lập, hà nước Việt am Dân chủ Cộng
hoà, Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch không nhận được sự công nhận và giúp
đỡ của quốc tế, kể cả của iên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, thành trì của phong
trào cách mạng thế giới, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là điều thiệt thòi và khó khăn
cho nhà nước Dân chủ Cộng hoà mới thành lập, lại phải đương đầu với sự tái xâm lược
của thực dân Pháp, được Anh, Mỹ giúp sức, bị Trung Hoa Dân quốc, hật Bản chống
phá, gây khó khăn.
Song, Đảng Cộng sản Đông Dương và hà nước Việt am Dân chủ Cộng hòa
vẫn kiên trì chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
Tuy biết iên Xô tập trung sự quan tâm, chú ý đến các vấn đề trong nước sau
chiến tranh, các vấn đề của châu Âu, của các nước Đông Âu, đối phó với Mỹ…,
nhưng Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nhiều lần liên hệ, gửi thư, điện
cho lãnh đạo iên Xô mong muốn thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau giữa hai nước, nhưng điều đáng tiếc là không nhận được kết quả tích cực.
Đối với Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần gửi thư cho Tổng thống,
Quốc hội và Bộ trưởng goại giao đề nghị Mỹ lấy tư cách là một trong những nước
đứng đầu phe dân chủ trên thế giới, đã từng chủ trương phản đối chủ nghĩa thực dân
cũ, thiết lập chế độ uỷ trị quốc tế, hãy hành động để ngăn chặn hành động xâm lược
của thực dân Pháp đối với Việt am, để tránh một cuộc chiến tranh đẫm máu xảy
ra, bảo vệ hoà bình ở Việt am, Đông Dương, trong khu vực Đông am Á và trên
thế giới. Tuy nhiên, vì lợi ích nước lớn và sự khác biệt về ý thức hệ, sự tính toán
133

thực dụng, Mỹ đã không hồi âm những đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trái lại,
ngày càng giúp Pháp nhiều hơn trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Cùng với việc liên hệ với iên Xô, Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
tích cực liên hệ, phối hợp, giúp đỡ cách mạng Trung Quốc; đẩy mạnh tuyên truyền
quốc tế về cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt am; tìm cách đặt các
văn phòng liên lạc, đại diện ngoại giao ở một số nước như Miến Điện, Thái an,
Pháp… tìm cách liên hệ với Việt kiều và những người dân yêu chuộng hoà bình,
tiến bộ Pháp để phối hợp hoạt động phản đối chiến tranh.
gay sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà hân dân
Trung Hoa được thành lập (10-1949), Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tuyên
bố công nhận và bày tỏ sự mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Trung
Hoa mới. Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động thực hiện chuyến đi thăm
bí mật đến Trung Quốc, sau đó đến iên Xô, hai nước lớn trong phe xã hội chủ
nghĩa. Kết quả của chuyến thăm là hai nước nói trên ra tuyên bố công nhận nhà
nước Việt am Dân chủ Cộng hoà. Trung Quốc, iên Xô đồng ý thiết lập quan hệ
ngoại giao, giúp đỡ về vật chất, kỹ thuật cho cuộc kháng chiến của Việt am. Đây
là một thắng lợi lớn về ngoại giao, cuộc kháng chiến của Việt am nhận được sự
đồng tình ủng hộ, giúp đỡ về vật chất, tinh thần của bạn bè quốc tế, làm tăng thêm
sức mạnh và khả năng thắng lợi của cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, hoà bình.
Bạn bè quốc tế cũng hiểu rõ rằng, giúp đỡ, ủng hộ Việt am kháng chiến chống lại
hành động xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc cũng chính là trách nhiệm và
nghĩa vụ để bảo vệ hoà bình ở khu vực và trên thế giới.
Đến mùa Hè năm 1954, khi kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ,
tham dự Hội nghị Giơnevơ, Đảng coi đây là diễn đàn quan trọng để tuyên truyền ra
thế giới về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt am chống lại sự nô dịch
của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, để thông qua đó, ngày càng nhận được nhiều thêm
sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Năm là, chỉ đạo đấu tranh trên bàn đàm phán nhằm giành kết quả cao nhất
đồng th i chấp nhận những kết quả đàm phán còn hạn chế để đạt mục đích cuối
cùng là chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình, tạo cơ sở tiếp tục hoàn thành đầy
đủ mục tiêu trong giai đoạn tiếp theo.
134

Với thắng lợi to lớn mang tính quyết định ở Điện Biên Phủ, đoàn đại biểu
Việt am do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu bước vào Hội nghị Giơnevơ
với tư thế của người chiến thắng. Đoàn Việt am Dân chủ Cộng hoà đã đưa ra
những đề nghị toàn diện giải quyết các vấn đề quân sự, chính trị, ngoại giao, ngừng
bắn, trao đổi tù binh, giới tuyến quân sự tạm thời, tổng tuyển cử, về giám sát thi
hành Hiệp định… với mục tiêu đạt được những kết quả cao. Tuy nhiên, Hội nghị đã
diễn ra rất phức tạp, không hoàn toàn nằm trong dự kiến của Việt am do lợi ích và
thái độ, động cơ của mỗi nước tham gia đàm phán, so sánh tương quan lực lượng,
do mục tiêu cần đạt được của các bên trong đàm phán. Mặt khác, Việt am Dân
chủ Cộng hoà tham gia Hội nghị Gơnevơ tuy là một bên liên quan chủ yếu nhưng
lại với tư cách là nước được mời tham gia vào giờ chót, nên chưa có sự chuẩn bị kỹ
về nội dung, còn thiếu kinh nghiệm đàm phán, chưa có sự hiểu biết đầy đủ và cần
thiết về lợi ích và chiến lược của các nước lớn tham gia Hội nghị… Vì thế, Việt
am chủ trương một mặt cố gắng giành được kết quả tối đa đối với các vấn đề đặt
ra, đồng thời cũng sẵn sàng xem xét, nhân nhượng những nội dung đàm phán để đạt
được mục tiêu cơ bản là ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh và các nước tham gia
Hội nghị cam kết thừa nhận và tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Việt am, ào, Campuchia.
Phái đoàn của Việt am Dân chủ Cộng hoà đã có sự nhân nhượng lớn về
giới tuyến quân sự tạm thời, về thời hạn tổng tuyển cử thống nhất đất nước, về
chuyển quân tập kết… gay sau ngày chiến dịch Điên Biên Phủ giành thắng lợi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhấn mạnh: Thắng lợi
này rất to lớn nhưng mới chỉ là thắng lợi bước đầu, quân và dân ta còn phải tiếp tục
đương đầu với một kẻ thù còn lớn mạnh, có nhiều âm mưu, thủ đoạn hơn thực dân
Pháp, đó là đế quốc Mỹ. Vì thế, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng tình
hình, tương quan lực lượng cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán, chủ trương
nhân nhượng để ký được Hiệp định Giơne vơ, đánh dấu thành quả giành được sau 9
năm kháng chiến gian khổ, hy sinh, để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Chiến tranh
đã chấm dứt, hoà bình được lập lại ở miền Bắc, đó chính là kết quả to lớn của kết hợp
đấu tranh quân sự, ngoại giao và các mặt đấu tranh khác của quân và dân cả nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
135

Sáu là, Đảng chưa kịp th i điều chỉnh sách lược, hoạt động khi các nước
lớn đã có sự điều chỉnh chiến lược, tình hình thế giới, khu vực đã biến đổi để đem
lại kết quả cao nhất.
Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, Việt am đã lập được cơ quan đại diện
của Chính phủ ở Băng Cốc, được hưởng quy chế ngoại giao. Tháng 2-1948, lập
được cơ quan đại diện ở Miến Điện, và bằng nhiều hình thức, đã mở được quan hệ
với Ấn Độ, Pakistan, Indônêxia. Các đại diện ngoại giao của Việt am tại Băng -
cốc, Ran - gun trở thành trung tâm liên lạc quan trọng của cuộc kháng chiến.
hưng khi tình hình các nước, khu vực thay đổi, Đảng đã không tìm được sách
lược phù hợp để tiếp tục duy trì sự hoạt động của các cơ quan đại diện đó, hoặc có
hoạt động thì cũng rất hạn chế, kém hiệu quả. Hội nghị Trung ương mở rộng (1-
1948) chủ trương liên lạc chặt chẽ với các đảng anh em để thi hành những phương
sách giúp đỡ nhau một cách thiết thực, đồng thời chủ trương vận động để tiến tới
thành lập một “ủy ban liên lạc giữa các Đảng bạn ở Đông am Á”, nhưng do tình
hình khó khăn, nên Đảng đã không tiếp tục tìm cách hiện thực hóa chủ trương ấy.
Đến năm 1950, Mỹ điều chỉnh chiến lược, đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương lập
khối liên minh chống cộng ở Châu Á, trọng điểm là Đông Dương, can thiệp trực
tiếp vào chiến tranh Đông Dương, làm cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở các quốc gia bị phân hóa, thì Việt am không tiếp tục duy trì được hoạt
động của các cơ sở đã có sẵn, không mở rộng thêm được các mối quan hệ mới,
chưa tranh thủ được xu hướng hòa bình, trung lập ở các nước một cách có lợi nhất
cho kháng chiến.
Trong đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ (1954), Việt am chưa hiểu biết rõ
tình hình quốc tế, không đánh giá hết, chưa hiểu đầy đủ ý đồ chiến lược của đồng
minh iên Xô, Trung Quốc tại Hội nghị Giơnevơ, chưa thấy hết được sự khác nhau
giữa Việt am và các đồng minh trong chính sách đối với Pháp, Anh, Mỹ trong thời
gian chuẩn bị và đàm phán tại Giơnevơ... để chủ động liên hệ, phối hợp đấu tranh
đem lại kết quả cao nhất cho nền độc lập, hòa bình của đất nước. Việt am chưa phát
huy hết hiệu quả thắng lợi quân sự trên chiến trường và sức ép dư luận trên bàn đàm
phán, chưa có nhiều kinh nghiệm, thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng các phương án đấu
136

tranh ở Hội nghị (tập trung vào mục tiêu chính trị là tổng tuyển cử, mà nhân nhượng
về phân vùng tập kết, giới tuyến...) nên không ngăn được Pháp giải quyết vấn đề
Đông Dương qua cơ chế nước lớn và tránh trực tiếp thương lượng với Việt am
trong thế yếu...
goài ra, quá trình chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình, ngay
trong nội bộ Đảng, Chính phủ cũng có lúc chưa hoàn toàn thống nhất. Việc Chủ tịch
Hồ Chí Minh phải giải thích sau khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3, Tạm ước 14-9, hứa với
đồng bào trước khi thăm Pháp năm 1946… Đã thể hiện lên điều đó.
4.1.3. ết q ả của ự ãnh đạo tranh thủ thực hiện c c khả năng hoà
bình trong thực tiễn c ộc kh ng chiến
Một là, đã góp phần đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực
dân Pháp, đẩy lùi nguy cơ và th i gian chiến tranh lan rộng ra cả nước, tranh thủ
xây dựng thực lực cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Khi tái xâm lược Việt am, Bộ Chỉ huy Pháp đã đề ra chủ trương đánh
nhanh thắng nhanh, hoàn tất quá trình xâm chiếm trong thời gian ngắn. Đây là chủ
trương thường thấy của các đội quân xâm lược, dựa vào so sánh lực lượng quân sự
áp đảo nhằm đè bẹp đối phương, hạn chế việc kéo dài thời gian chiến đấu để tiết
kiệm lực lượng và đảm bảo hậu cần, kỹ thuật.
Theo dự kiến, quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn và một số tỉnh am Bộ chỉ
trong vòng 18 ngày, nhưng trước sức kháng chiến mạnh mẽ của quân dân Sài Gòn,
các tỉnh Nam Bộ, được cả nước dốc sức chi viện bằng phong trào Nam tiến, nên
quân Pháp phải mất tới 3 tháng mới thực hiện được kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn
và phải mất thêm 3 tháng nữa để hoàn thành chiếm đóng các tỉnh Nam Bộ còn lại,
các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Tây guyên. hư vậy, kế hoạch đánh nhanh thắng
nhanh đã bị thất bại bước đầu. Sau khi đưa được lực lượng ra miền Bắc, Bộ Chỉ huy
Pháp vẫn chủ trương nhanh chóng tìm cách chiếm đóng các tỉnh, thành phố, hoàn
thành cuộc tái xâm lược Việt am. Để làm thất bại âm mưu và hành động của kẻ
thù, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo vừa tiếp tục kháng chiến ở
miền am để kìm chân Pháp, đồng thời thực hiện hòa hoãn, nhân nhượng, đấu
tranh ngoại giao, xây dựng thực lực ở miền Bắc. Vì thế, dù muốn nhanh chóng thực
137

hiện việc chiếm đóng miền Bắc, nhưng phải hơn 9 tháng sau, đến ngày 19-12-1946,
những kẻ cầm đầu quân sự, chính trị của Pháp ở Việt Nam mới tìm được cách làm
bùng nổ cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước Việt Nam. Một lần nữa, kế hoạch
đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bị thất bại một bước quan trọng.
Chiến tranh đã nổ ra theo kế hoạch “gây ra sự việc đã rồi” của thực dân
Pháp. Quân và dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã kiên quyết đứng lên
chiến đấu bảo vệ nền độc lập mới giành được. Trong quá trình triển khai thế trận
chiến tranh nhân dân, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tranh thủ thực hiện các khả
năng đàm phán để chấm dứt xung đột, khôi phục lại tình hình như trước ngày 19-
12-1946.
Mặc dù chiến sự đã và đang diễn ra, nhưng biết tin Chính phủ Pháp cử các
phái đoàn điều tra sang Đông Dương để tìm hiểu thực chất tình hình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn công khai bày tỏ ý định muốn gặp phái đoàn Pháp để bàn cách chấm
dứt xung đột. Cuộc gặp trực tiếp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Paul Mus, ngày
12-5-1947, là ví dụ điển hình về mong muốn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
toàn dân đối với hòa bình cho đất nước, dân tộc. Cuộc gặp không mang lại kết quả.
Sau đó, phía Pháp quyết định mở cuộc hành binh quy mô lớn nhất đánh lên căn cứ
địa Việt Bắc, nơi đứng chân của các cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. Trước
hành động quân sự của thực dân Pháp, quân dân Việt Bắc đã phối hợp với quân dân
cả nước mở chiến dịch phản công, đánh bại cuộc tiến công của quân Pháp trong
Thu Đông 1947, đồng thời đánh bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh
của thực dân Pháp sau hơn hai năm triển khai. Đây là thất bại nặng nề nhất của quân
Pháp kể từ đầu cuộc chiến tranh. Quá trình làm thất bại chiến lược đánh nhanh
thắng nhanh cũng đồng thời là quá trình Đảng tranh thủ thời gian lãnh đạo xây dựng
thực lực mọi mặt để có thể kháng chiến lâu dài.
Hai là, ký được các hiệp định để tranh thủ các khả năng hòa bình.
Đảng lãnh đạo quán triệt cán bộ, chiến sĩ quân đội, đảng viên các cấp, các
ngành khi tiếp xúc, phối hợp hoạt động với đối phương cần thực hiện nhân nhượng,
hòa hoãn tối đa trong điều kiện cho phép, trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn
138

biến” để hạn chế đến mức cao nhất sự khiêu khích, tạo cớ gây xung đột và chống
phá của đối phương (gồm quân Trung Hoa Dân quốc, quân Anh, quân Pháp, quân
Nhật và các tổ chức phản động trong nước). Việc đồng ý ngừng bắn theo đề nghị
của quân Pháp đầu tháng 10-1945 tại Sài Gòn, việc nhân nhượng trước các đòi hỏi
về tổ chức quân đội, về Đảng, về thành phần Quốc hội, Chính phủ, đáp ứng các yêu
cầu về kinh tế, tài chính của quân Trung Hoa Dân quốc là những nhân nhượng lớn
của Việt Nam, thể hiện rõ thiện chí hòa bình, tránh chiến tranh, đồng thời tranh thủ
thời gian hòa bình để củng cố, xây dựng chính quyền hà nước còn non trẻ.
Sau khi Trung Hoa Dân quốc ký hiệp định với Pháp (28-2-1946), đồng ý để
quân Pháp thay chân ở miền Bắc, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, căn cứ vào bối
cảnh tình hình, so sánh lực lượng, tiếp tục thực hiện chủ trương hòa hoãn, nhân
nhượng với Pháp bằng việc ký Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946). Hiệp định ký trong
hoàn cảnh thực dân Pháp đang ở cửa biển Hải Phòng, xung đột giữa quân Trung
Hoa Dân quốc với Pháp đã diễn ra, quân Trung Hoa Dân quốc cũng đang gây sức
ép Việt Nam ký hiệp định thỏa thuận với Pháp. Việc chấp nhận ký Hiệp định với
Pháp để có thêm thời gian hòa bình là chủ trương đúng, có ý nghĩa, đã biến thời
gian thành lực lượng, vừa tranh thủ xây dựng thực lực mọi mặt, vừa tích cực tìm
kiếm các giải pháp tránh chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Hiệp định Sơ
bộ sẽ mở đường cho sự công nhận của quốc tế, sẽ dẫn Việt am đến một vị trí quốc
tế ngày càng vững vàng.
Hội nghị đàm phán Pháp - Việt tại Fontainebleau tan vỡ, phái đoàn đàm phán
Việt Nam rời cảng Marseille về nước ngày 13-9-1946. hưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn ở lại Pháp, đã trao đổi, ký với Bộ trưởng Moutet bản Tạm ước Pháp -
Việt (còn gọi là Tạm ước 14-9). Trong đó, có nội dung cơ bản: “Chính phủ nước
Cộng hòa Pháp và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết tâm theo
đuổi, trong tinh thần tin cậy lẫn nhau, một chính sách hòa hợp và cộng tác đã được
thiết lập với Hiệp định Sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946 và nói rõ trong các cuộc
đàm phán Pháp - Việt tại Đà ạt và Fontainebleau” [138, tr.262]. Đặc biệt quan
trọng là Điều 9, trong đó chỉ rõ “... Hai bên chấm dứt mọi hành động chiến tranh và
bạo lực” [138, tr.263].
139

Tạm ước có 11 điều khoản cơ bản, trong đó, Việt am nhân nhượng thêm cho
Pháp một số quyền lợi về mặt kinh tế; về quân sự giữ nguyên tình trạng đóng giữ của
các bên tham chiến; về chính trị cơ bản xác định như Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946. Chủ
tịch Hồ Chí Minh coi việc ký Tạm ước là sự nhân nhượng cuối cùng, nếu nhân
nhượng nữa là “phạm đến quyền lợi cao trọng của dân tộc”, Hồ Chí Minh “không
muốn trở về Hà Nội tay không” và muốn “khi trở về nước sẽ đem về cho nhân dân
Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác chắc chắn” của nước Pháp.
Mặc dù đàm phán Fontainebleau tại Pháp đã thất bại, còn thực tế tại Việt
Nam, thực dân Pháp liên tục gây xung đột, không tôn trọng và thực hiện các điều
khoản đã thỏa thuận, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn nhận thấy ý định muốn nối lại đàm phán của phía Pháp. Ngay sau khi
cuộc đàm phán Việt Nam - Pháp tan vỡ, Bộ trưởng Moutet đã nói trong bữa ăn trưa
ngày thứ tư 11 - 9 với Chủ tịch Hồ Chí Minh “không chịu để cuộc đàm phán thất
bại” và đã cùng Hồ Chí Minh xem xét những điểm hai bên còn bất đồng trong bản
Tạm ước để “tìm cách xích lại gần nhau”. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm nhìn mang
tính chiến lược, đã quyết tâm tìm mọi cách kéo dài thêm thời gian hòa hoãn quý giá
cho đất nước. Nhà sử học Pháp Philippe Devillers đánh giá “Hai chính phủ đã kết
thúc cuộc hội nghị Fontainebleau trong một triển vọng hòa dịu dần dần chứ không
phải triển vọng đối đầu; ý định công khai của hai bên sẽ nối lại cuộc đàm phán vào
tháng giêng năm 1947 đã khẳng định điều đó. Mặc cho đô đốc d’Argenlieu la hét
lên trước việc ký kết “vội vàng” của bản thỏa ước mà ông ta coi như là một thảm
họa vì cái điều 9 kia...” [138, tr.265]. Bộ trưởng Moutet chỉ thị cho d’Argenlieu:
Tạm ước Pháp - Việt ngày 14-9... chắc chắn là một tiến bộ đáng kể so với
hiệp định Sơ bộ mồng 6-3. Tuy nhiên, chúng ta không thể coi bản thỏa ước
tạm thời ấy như là cơ sở xuất phát có khả năng để cho chúng ta hé thấy một
sự giải quyết tận gốc của vấn đề Đông Dương.
Nếu phải thực hiện nó một cách trung thực về phía chúng ta, chính là để
trước tiên khuyến khích một sự hòa dịu, nhờ có nó mà chúng ta cần thiết
phải xem xét lại toàn bộ chính sách của chúng ta. Chúng ta cần cố gắng
khơi dòng cho sự hòa dịu đó ngay từ bây giờ và tránh mọi biện pháp có
140

thể đầu độc những mối quan hệ Pháp - Việt trước ngày bản Tạm ước bắt
đầu có hiệu lực, tức 30-10-1946 [138, tr.266].
Sau này, tại Hội nghị Giơnevơ, trong bối cảnh khách quan không thuận lợi,
chưa hiểu hết tình hình, ý đồ của các nước lớn... nhưng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn, phù hợp để ký Hiệp định lập
lại hòa bình ở Đông Dương, Việt Nam.
Trong mọi hoàn cảnh, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quán triệt nguyên
tắc, phương châm Dĩ bất biến, ứng vạn biến, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền,
các nhân nhượng không được làm phương hại đến độc lập của dân tộc. Đặc biệt,
trong khi thực hiện hòa hoãn, nhân nhượng, tận dụng tối đa các điều kiện thực tế,
Đảng vẫn chỉ đạo sát sao xây dựng lực lượng, chuẩn bị kháng chiến không một phút
nào ngừng, không hề có ảo tưởng hòa bình. Trong các văn kiện, chỉ thị của Đảng và
trong chỉ đạo thực tiễn, Đảng đã thể hiện rất rõ chủ trương vừa tranh thủ hòa hoãn,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, vừa tranh thủ chuẩn bị kháng chiến cả về phương diện
lý luận, cách đánh và tổ chức xây dựng thế trận và lực lượng. Kết quả ký kết các
Hiệp định, Tạm ước đã hạn chế sự chống phá, khiêu khích nhằm gây xung đột, gây
chiến tranh của kẻ thù. Do đó, ngăn chặn được chiến tranh bùng nổ trong một
khoảng thời gian tạm đủ để chuẩn bị sẵn tâm thế bước vào cuộc kháng chiến lâu
dài, gian khổ với nhiều tổn thất, hy sinh nhưng nhất định thắng lợi.
Ba là, đánh bại ý chí tiếp tục chiến tranh của thực dân Pháp, buộc Pháp
phải chấp nhận giải pháp đàm phán kết thúc chiến tranh, mở ra khả năng hòa bình
thực sự cho đất nước.
Thực dân Pháp chủ trương dùng sức mạnh quân sự để áp đặt trở lại sự thống
trị Việt Nam. Ngay sau khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, thực dân Pháp khẩn
trương xúc tiến việc quay trở lại Đông Dương. Pháp tìm mọi cách thuyết phục
Đồng minh, thông qua Đồng minh để quay trở lại Việt am. Trước tình hình đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Bọn thực dân Pháp phải biết rằng: Dân Việt Nam không muốn đổ máu,
dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. hưng nếu cần phải hy sinh mấy
triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn độc
141

lập của Việt am, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ thì chúng ta
vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Vì dân Việt Nam tin chắc rằng,
thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công [116, tr.104-105].
Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, vừa
chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, theo phương châm lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng
mạnh, từng bước đánh bại âm mưu, thủ đoạn, ý chí tiếp tục chiến tranh của thực dân
Pháp, buộc Pháp phải chấp nhận giải pháp thương lượng để kết thúc chiến tranh.
Quân và dân Việt Nam chủ trương tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, chủ động
đánh địch ở khắp nơi, phát động chiến tranh du kích rộng khắp, biến hậu phương
địch thành tiền phương của ta, từ chiến tranh du kích tiến dần lên chiến tranh chính
quy, phát triển thế tiến công bằng các chiến dịch vừa và nhỏ... đã từng bước làm
thất bại các chiến lược chiến tranh của Pháp. Chính phủ Pháp lúng túng trong lựa
chọn cách thức giải quyết cuộc chiến tranh bằng giải pháp chính trị hay là hành
động quân sự. Nội bộ bị chia rẽ sâu sắc. Trong khi nghị sĩ quốc hội Pháp Mendès
France chủ trương thương lượng với Chính phủ kháng chiến Việt Nam dù những
điều kiện thương lượng bất lợi cho Pháp, nước “Pháp không nên bị đẩy sâu thêm
vào cái tổ ong vò vẽ ở Viễn Đông, không thể theo đuổi một cuộc chiến tranh xa xôi,
hao mòn về vật chất và tinh thần, không có đường ra” [50, tr.644], thì Tổng chỉ huy
kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương là De attre lại nói với Tổng thống Auriol: “ ếu
bây giờ ngài ra lệnh cho tôi mở đầu các cuộc đàm phán hòa bình, thì lập tức tôi xin
ngài cho tôi từ chức” [50, tr.749]. Kế hoạch Navarre là hy vọng cuối cùng của Pháp
mong “chuyển bại thành thắng” cũng bị thất bại hoàn toàn.
Chiến dịch Điên Biên Phủ giành thắng lợi đã đánh bại ý chí xâm lược của kẻ
thù. Tuy không bị tổn thất nặng về lực lượng, vẫn chiếm ưu thế về so sánh lực
lượng quân sự, nhưng thất bại trong trận Điện Biên Phủ đã đánh dấu chấm hết cho
những nỗ lực giành thắng lợi chung cuộc bằng sức mạnh quân sự của giới cầm
quyền Pháp, đánh sụp ý chí tiếp tục chiến tranh, mở ra cơ hội và tạo ra lợi thế cho
đoàn đàm phán Việt Nam tại Giơnevơ.
Bốn là, đã giành được sự công nhận và ủng hộ quốc tế đối với cuộc kháng
chiến chính nghĩa, phá được thế bao vây kéo dài nhiều năm, đưa cuộc kháng chiến
142

phát triển thông qua hoạt động đối ngoại, tuyên truyền mạnh mẽ, liên tục về kết quả
cuộc kháng chiến vì mục tiêu hòa bình cho Tổ quốc.
Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế đối với sự nghiệp cách
mạng của Việt Nam là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng, Chính phủ,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong những năm tháng đầu cuộc kháng chiến,
cách mạng Việt am chưa nhận được sự công nhận và ủng hộ của quốc tế. Mặc dầu
gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại do không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định phải tìm mọi cách, mọi cơ hội để tuyên truyền,
thiết lập các mối quan hệ với quốc tế, coi đó là một nhân tố quan trọng góp phần
đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
Chuyến thăm nước Pháp dài hơn 4 tháng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với
hàng chục cuộc hội kiến với các nhân vật trong chính giới Pháp, gặp gỡ các tổ chức,
đoàn thể chính trị xã hội, các tầng lớp nhân dân, các nhân vật nổi tiếng của Pháp về
chính trị, văn học, nghệ thuật, các cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Pháp và quốc tế,
đã góp phần quan trọng giải thích, tuyên truyền về nguyện vọng độc lập, hòa bình,
không muốn chiến tranh đổ máu của nhân dân Việt Nam.
Mặc dù cuộc đàm phán chính thức Việt Nam - Pháp tại Fontainebleau không đi
đến kết quả, nhưng việc Chính phủ Pháp tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm,
chấp nhận mở đàm phán tại Paris, những cuộc tiếp xúc thảo luận trực tiếp của chính
phủ hai bên, rồi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Moutet ký với Hồ Chí Minh bản Tạm
ước 14-9-1946, cho thấy cố gắng đối ngoại của Việt am đã thành công. Cuộc đàm
phán chính thức, giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp ngay tại Pari
đã buộc Pháp phải thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh, không thể coi Việt Minh chỉ là
một đảng phái hay “một phe ngổ ngáo nhất”. Đánh giá kết quả chuyến thăm Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn đại biểu Việt am đã làm được ba điều: Đem lá cờ
Việt Nam cắm vào giữa thủ đô nước Pháp; đã làm cho một bộ phận nhân dân và chính
giới Pháp hiểu rõ tình hình và nguyện vọng của Việt Nam không muốn chiến tranh với
Pháp, đã ký bản Tạm ước ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng, Chính phủ Việt Nam chủ
động đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở các cơ quan đại diện, phòng thông tin ở
143

các nước để tuyên truyền về cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, làm cho
nhân dân thế giới hiểu rõ nguyện vọng hòa bình, muốn sớm tìm giải pháp kết thúc
chiến tranh, từ đó mong muốn nhận được sự công nhận và giúp đỡ của quốc tế.
Việc Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì gửi thư, điện cho các nhà lãnh đạo
các nước lớn, các tổ chức, đoàn thể quốc tế đề nghị lãnh đạo các nước, các tổ chức
quốc tế ủng hộ Việt Nam, thể hiện sự mong muốn hội nhập với thế giới, được quốc
tế công nhận. Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật tiến hành chuyến thăm Trung
Quốc, iên Xô đầu năm 1950, đã giành được sự công nhận, cam kết ủng hộ về vật
chất, tinh thần của hai nước lớn này. Tiếp sau đó, các nước ở Đông Âu đi theo con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng tuyên bố công nhận nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt am. Đây
là sự thừa nhận trên thực tế cuộc kháng chiến chống xâm lược của Việt Nam là một
bộ phận quan trọng của phong trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc nói riêng.
Với chủ trương đối ngoại, đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng cùng
sự chủ động, kiên trì hoạt động không mệt mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc
kháng chiến của Việt Nam từ chỗ phải đơn độc chiến đấu, không được quốc tế biết
đến hay thừa nhận, đã từng bước giành được sự công nhận, ủng hộ của quốc tế.
Năm là, khẳng định thiện chí, khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam,
góp phần phản bác các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo lịch sử.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt am đã phải tiến hành
chống lại hàng chục cuộc xâm lược của các thế lực phong kiến, thực dân, phát xít,
đế quốc và phản động quốc tế để bảo vệ độc lập dân tộc. Tuy nhiên, có một số
người nhìn nhận cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ở góc độ tiêu cực, cho
rằng lãnh đạo Việt Nam hiếu chiến, chỉ muốn chiến tranh, bỏ lỡ nhiều cơ hội hòa
bình, khiến đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, nhân lực bị tổn
thất lớn.
Thực tế diễn biến cuộc kháng chiến, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng để đẩy
lùi nguy cơ chiến tranh, tìm kiếm cơ hội hòa bình, diễn ra từ lúc khởi đầu đến khi
kết thúc chiến tranh, đã bác bỏ các luận điểm tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo lịch
144

sử của những người muốn chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Khi không còn cơ hội tìm kiếm hòa bình, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi
toàn dân đứng lên chiến đấu, “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và
của cải để giữ vững quyền độc lập, tự do”. hân dân Việt Nam buộc phải cầm súng
chiến đấu để giành lấy hòa bình, tiến hành chiến tranh, chấp nhận gian khổ, hy sinh
vì một nền hòa bình muôn thuở cho dân tộc. Làn sóng phản chiến của nhân dân
Pháp, lên án mạnh mẽ “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” mà Chính phủ Pháp tiến hành tại
Đông Dương, các tổ chức, phong trào quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam thể hiện
rõ sự đồng tình của bạn bè quốc tế với cuộc chiến đấu vì hòa bình, chính nghĩa của
Việt am. Dưới đây là một vài ví dụ tiêu biểu:
Đánh giá về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp gặp Paul Mus tại Thái
guyên (5-1947), trong một hoàn cảnh có thể nói là nguy hiểm, khả năng thành
công không nhiều, tác giả Yves Gras phân tích:
Đề nghị ngừng chiến của ông (tức Hồ Chí Minh - VTHD chú giải) là một
sự vận động khôn khéo, đằng nào cũng đưa ông tiến đến gần mục tiêu của
ông. ếu người Pháp bằng lòng thương lượng với ông thì chỉ với việc này,
ông trở thành người đối thoại duy nhất của họ. hưng nếu người Pháp từ
chối, thì cử chỉ này cũng vẫn chứng tỏ thiện chí hòa bình của ông. Đó là
một hoạt động ngoại giao nhằm tranh thủ dư luận ủng hộ Việt am đồng
thời cũng cung cấp cho những người Pháp dân chủ những lý lẽ trong
những cuộc tranh cãi với phái hữu. hư vậy là trong khi cung cấp một
nhân tố cho những cuộc cãi cọ nội bộ của Pháp, hoạt động đó góp phần
làm giảm sút ý chí theo đuổi cuộc chiến tranh [50, tr.332].
Nhà sử học Pháp Philippe Devillers viết:
Tại Đông Dương, vào tháng 3-1946, nước Pháp đã khôi phục lại một cách
mỹ mãn địa vị tinh thần và chiến lược của mình, và chỉ một gang tay nữa
là đã có thể đi tới một hiệp ước lâu dài bền vững với chủ nghĩa quốc gia
Việt am. Đúng lúc ấy, nó đã vấp ngã vì húc đầu vào những “quyền” mà
nó nghĩ rằng nó “có” đối với Nam Kỳ, những cái “quyền” mà thực ra nó
đã chiếm đoạt bằng sức mạnh, bằng sắt thép và khói lửa. Hơn thế nữa, để
145

bảo vệ những “quyền” đó, nó đã dựa vào những viên quan cai trị, binh
lính và cảnh sát. Thực ra nó không còn phương tiện nữa để duy trì, ở một
nơi cách xa chính quốc 10 ngàn kilômét, nền thống trị của nó trên một dân
tộc không những đã hoàn toàn thức tỉnh, mà từ đây đã nổi dậy. Đáng lẽ ra
nó phải điều đình thì nó lại ngạo mạn từ chối [138, tr.435-436].
Tổng thống Pháp Francois Mitterrand, trong chuyến thăm Việt am năm
1993, đã có đánh giá đầy nuối tiếc về chuyến thăm Pháp năm 1946 của Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi cho rằng vào thời điểm đó, nước Pháp đã không có người đối thoại
với thiện chí của Hồ Chí Minh.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.2.1. Kinh nghiệm về sự hoạch định chủ trương của Đảng để tranh thủ
khả năng hoà bình
Thứ nhất, sớm đề ra chủ trương cụ thể, phù hợp với bối cảnh ở từng th i
điểm trên cơ sở đánh giá đúng tình hình quốc tế, chủ trương các nước lớn đối với
Việt Nam, hiểu rõ về địch và thực lực của ta.
Nhận thức, đánh giá đúng tình hình, chiều hướng phát triển của thế giới, khu
vực, chiến lược, chính sách của các nước lớn, nắm bắt thời cơ, hiểu rõ bản chất, thực
lực của kẻ thù, biết mục tiêu mình cần đạt, thực lực của chính mình... là vấn đề then
chốt, nhân tố quan trọng hàng đầu để Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương,
đường lối cách mạng đúng đắn, kịp thời, hiệu quả.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hiểu rõ bản chất, âm mưu của
từng đối tượng, lực lượng quân Đồng minh kéo vào Việt Nam và tình hình thế giới,
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ vấn đề cấp thiết, quan trọng nhất lúc này
là giữ vững thành quả cách mạng, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gấp rút chỉ đạo
và tổ chức Lễ tuyên bố Độc lập, sớm ra mắt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, để lấy tư cách chủ nhà đón tiếp quân Đồng minh. Đồng thời,
khẳng định quyết tâm bảo vệ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc, công bố
rõ quan điểm, chính sách ngoại giao của hà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đó là cơ sở quan trọng góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc
sau này.
146

Đến khi thực dân Pháp công khai tiến hành xâm lược Việt am, Đảng chủ
trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xác định rõ kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp
xâm lược, đồng thời chủ trương nhân nhượng, tránh xung đột với quân Trung Hoa
Dân quốc. Sau khi Trung Hoa Dân quốc và Pháp ký hiệp ước thỏa thuận cho quân
Pháp ra miền Bắc, Đảng chủ trương tiếp tục hòa hoãn với Pháp để tránh chiến tranh,
tận dụng thời gian để xây dựng thực lực. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp thể hiện rõ dã
tâm xâm lược, mọi khả năng đàm phán, hoà bình không không còn, Đảng chủ trương
kháng chiến với đường lối toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình. Đường lối
này là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành kháng chiến đến
thắng lợi cuối cùng trên cơ sở nhận định, đánh giá tình hình, hiểu rõ địch - ta và bối
cảnh tình hình trong nước, quốc tế. Đây là một kinh nghiệm quan trọng trong lãnh
đạo cách mạng của Đảng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi cuối cùng của cuộc
kháng chiến. Đây cũng là một kinh nghiệm có ý nghĩa trong mọi thời đại, hoàn cảnh,
bởi nếu dự báo chính xác tình hình, hiểu rõ thực lực của bản thân, đặc điểm của đối
phương thì sẽ có chủ trương, sách lược đúng để thực hiện thành công mục tiêu đặt ra
và ngược lại.
Thứ hai, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp kháng chiến chính
nghĩa, vì hoà bình của Việt Nam.
Đây là kinh nghiệm được rút ra từ việc nhận thức và hiện thực hóa chủ
trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; Việt Nam sẵn
sàng làm bạn với các nước dân chủ; ngoại giao để làm cho đất nước ít kẻ thù đi và
có nhiều bạn đồng minh hơn. Đây là chủ trương đúng đắn trong việc tập hợp lực
lượng quốc tế ủng hộ Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến. Thực tiễn sinh động
của chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã minh chứng đây là chủ trương
được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện thành công để tranh thủ các khả năng
hòa bình, góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Mặc dù biết Mỹ giúp Pháp nhưng vẫn có mâu thuẫn với Pháp trong vấn đề
Đông Dương, ý định của Mỹ muốn có “giải pháp hòa bình cho vấn đề Đông
Dương”, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo (12/1947) chủ trương
thân thiện với Mỹ, vẫn dùng Hội Việt - Mỹ làm lợi khí tuyên truyền, từ đó, góp
147

phần kìm chế Mỹ sớm can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương. hưng khi
Mỹ tăng cường viện trợ quân sự, vũ khí cho Pháp, trực tiếp can thiệp vào chiến
tranh Đông Dương những năm 1950-1954, Đảng xác định rõ đế quốc Mỹ đã trở
thành kẻ thù của cách mạng Việt Nam, cần phải gắn cuộc kháng chiến chống xâm
lược của Việt Nam với cuộc đấu tranh vì hòa bình dân chủ của nhân dân tiến bộ thế
giới, phù hợp với lợi ích chiến lược của iên Xô, để sau đó nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của iên Xô và các nước khác.
Khi hà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được tổ chức quốc tế, quốc
gia nào công nhận, Nam Bộ đang phải kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng
quân Đồng minh ở khắp đất nước, Đảng chủ trương nhân nhượng với Trung Hoa Dân
quốc, hòa hoãn với Pháp, khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ - Pháp, Pháp - Trung
Hoa Dân quốc, phân hóa chúng, kéo dài thời gian hòa bình, ổn định nội trị, tranh thủ
xây dựng thực lực để làm cơ sở tiến hành kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.
gay trong lúc đang phải tự lực cánh sinh kháng chiến trong vòng vây, Đảng
đã nhìn thấy khả năng nếu cách mạng Trung Quốc thắng lợi thì Trung Quốc chính
là địa bàn, cầu nối giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Việt Nam tuy
đang gặp muôn vàn khó khăn, nhưng vẫn sẵn lòng giúp cách mạng Trung Quốc.
Đúng là trong lúc cuộc kháng chiến của Việt am chưa được ai giúp thì tự mình đã
tìm cách giúp người. Chính sự giúp đỡ cách mạng Trung Quốc của Việt Nam đã trở
thành nhân tố quan trọng nối cách mạng Việt Nam với bạn bè quốc tế. Việc Trung
Quốc, Liên Xô công nhận, đặt quan hệ ngoại giao và viện trợ vật chất cho Việt Nam
kháng chiến từ đầu năm 1950 đã khẳng định sự thành công của Đảng trong tranh
thủ sự công nhận, ủng hộ quốc tế.
Thực tế chiến tranh đã thể hiện rõ sự nhận thức của Đảng về tranh thủ sự ủng
hộ quốc tế chính là một điều kiện để tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình,
đồng thời cũng là nhân tố quan trọng góp phần đưa cách mạng đến thắng lợi. Đảng
đã lãnh đạo tranh thủ tối đa thời gian hòa bình, chủ động tìm kiếm sự công nhận của
quốc tế, làm cho thế giới hiểu được nguyện vọng tha thiết, chính đáng của Việt
am là hòa bình, độc lập, tránh chiến tranh. Đảng có chủ trương rõ ràng, đảm bảo
các quyền lợi chính đáng của Pháp ở Việt Nam, khoan hồng, nhân đạo với tù binh
148

Pháp, làm cho nhân dân Pháp hiểu Việt Nam sẵn sàng, thành thật muốn hợp tác với
Pháp trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu mà
chính phủ Pháp đang tiến hành ở Đông Dương; làm cho Trung Quốc, Liên Xô, các
lực lượng dân chủ trên thế giới hiểu cuộc kháng chiến của Việt Nam và viện trợ vật
chất, ủng hộ tinh thần. Thành công của chủ trương đó trở thành một kinh nghiệm
quý, nhân tố quan trọng trong lãnh đạo kháng chiến của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xu thế toàn
cầu hoá, cũng như những diễn biến phức tạp, khó khăn trong việc bảo vệ chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành thành công công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước thì đây là kinh nghiệm cần thiết và nên được kế
thừa, phát triển.
Thứ ba, tận dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương để phục vụ mục tiêu
kháng chiến và đàm phán hòa bình.
Trong khi thực lực còn yếu, chưa đủ sức đương đầu trực tiếp với kẻ thù
mạnh hơn nhiều lần, thì để giành được thắng lợi, cần phải có chiến lược lâu dài, kết
hợp giữa các mặt đấu tranh, quân sự, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngoại giao..., trong
đó thực hiện đấu tranh ngoại giao để phân hóa, cô lập kẻ thù là một mục tiêu chủ
yếu. Suốt chín năm kháng chiến, chủ trương thêm bạn, bớt thù đã góp phần quan
trọng từng bước làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên đất Việt Nam có nhiều lực
lượng, đối tượng thù trong, giặc ngoài với những mưu đồ, mục tiêu riêng nhưng đều
nhằm chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã bình tĩnh, chủ động nhận định tình hình, phân tích âm mưu, hành động của
từng đối tượng, từ đó đề ra các đối sách phù hợp nhằm phân hóa chúng, tập trung
mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp. Đảng đã chủ trương, chỉ
đạo lợi dụng mâu thuẫn giữa các tập đoàn Mỹ - Trung Hoa Dân quốc với Anh -
Pháp; cụ thể giữa Pháp với Trung Hoa Dân quốc; giữa các lực lượng thân Pháp,
thân Trung Hoa Dân quốc, thân Nhật, thân Mỹ, thân Bảo Đại...; mâu thuẫn trong
nội bộ lãnh đạo quân sự, chính trị ở Đông Dương, Việt Nam; giữa Chính phủ Pháp
với chính quyền thực dân ở thuộc địa; mâu thuẫn trong chính giới Pháp; giữa nhân
149

dân Pháp với chính phủ của họ về tiến hành chiến tranh. Trên cơ sở nhận thức và lợi
dụng các mâu thuẫn đó để phát hiện, tranh thủ các khả năng hòa bình có thể có,
phục vụ sự nghiệp kháng chiến.
Chủ trương, sách lược triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối
phương để phân hóa, cô lập, Đảng đã không chỉ khoét sâu thêm mâu thuẫn, làm rạn
nứt sự câu kết giữa các đối tượng, tránh được cùng lúc phải đương đầu với nhiều kẻ
thù, mà còn kéo dài được thời gian hòa hoãn, tăng cường thực lực mọi mặt, chuyển
hóa lực lượng có lợi cho cách mạng, góp phần đánh bại ý chí tiếp tục chiến tranh
của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Thành công đó
trở thành một kinh nghiệm quý của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng trong
những giai đoạn tiếp theo.
Thứ tư, xây dựng và củng cố thực lực mọi mặt, đặc biệt về quân sự, ngoại
giao, để tranh thủ các khả năng hòa bình.
Xây dựng thực lực, phát huy sức mạnh nội lực là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt am, được chú trọng xây dựng, phát triển
trong suốt quá trình cách mạng. Ngay từ Thông cáo của Trung ương gửi các cấp bộ
Đảng ngày 21-12-1941, Đảng đã xác định rõ:
Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí
cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta
vậy... Trong cuộc chiến đấu giải phóng cho ta, cố nhiên là phải kiếm bạn
đồng minh dầu rằng tạm thời bấp bênh có điều kiện, nhưng công việc
của ta trước hết ta phải làm lấy [35, tr.244].
Ngày 26-12-1945, khi trả lời phỏng vấn báo chí hỏi về vấn đề ngoại giao,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại
giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to,
tiếng mới lớn” [116, tr.147]. Xây dựng thực lực cho kháng chiến chính là phát triển,
xây dựng sức mạnh của mọi mặt, mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao, văn hóa, xã hội... Phát huy thực lực, sức mạnh nội lực của ta chính là phát huy
được tinh thần đoàn kết, ý chí, sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng thực hiện một mục tiêu chung hòa bình, độc lập. Bởi
150

hòa bình độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được, thậm chí như gười nói
“muốn đi tới hòa bình có khi phải chiến tranh” [116, tr.146]. Thế nên cái gốc, điểm
mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh
sinh. Quan điểm, sự chỉ đạo đó đã được thực tiễn lịch sử chứng minh: Đó là khi Hồ
Chí Minh tìm cách liên lạc với Mỹ, tìm sự ủng hộ, giúp đỡ của Mỹ để chống Nhật
cuối năm 1944 đầu năm 1945, nếu Việt am không có đủ khả năng cung cấp cho
Mỹ những tin tức về hoạt động của Nhật như phía Mỹ cần và yêu cầu thì liệu Mỹ có
đồng ý hợp tác, giúp đỡ Việt am như trên thực tế đã diễn ra hay không?; khi điều
kiện thế giới thuận lợi, thời cơ cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền xuất hiện,
lãnh tụ Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào hãy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta;
muốn người ta giúp cho trước hết phải tự giúp mình đã và Cách mạng Tháng Tám
đã thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời; tiếp đến, một trong những
nội dung chính của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là “dựa vào sức
mình là chính”. hững năm 1945-1949, Việt Nam vừa tiến hành kiến quốc để xây
dựng sức mạnh nội lực mọi mặt, vừa kiên quyết kháng chiến giành độc lập thực sự.
Độc lập của Việt am là nhờ lực lượng của Việt am, dựa vào chính sức của Việt
am thì sẽ không bị lệ thuộc, không nước nào có thể chi phối được. Phải đánh giặc
bằng sức của chính mình, không chờ đợi, không ỷ lại; nhờ có thực lực, Việt am
từng bước giành được những thắng lợi, làm cho quốc tế công nhận, ủng hộ và đặt
quan hệ ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức rất rõ điều đó qua Bài nói chuyện
tại Hội nghị chiến tranh du kích (ngày 13-7-1952): “Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ, kết quả đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ đã phản ánh
thực lực của Việt Nam...
Thực tế cho thấy sức mạnh nội lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến
thành bại của cuộc chiến đối với cả Việt Nam và thực dân Pháp. Ngay sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, Pháp vì không có đủ thực lực nên phải thông qua con đường
Đồng minh để tìm cách quay trở lại Việt Nam và trong suốt chín năm chiến tranh
Pháp luôn mong muốn chỉ tiến hành đàm phán, thương lượng với Việt Nam trên thế
mạnh, với những thắng lợi quân sự đã giành được. Song, cũng vì không có đủ thực
151

lực, phải dựa vào viện trợ của Mỹ mà Pháp dần phải lệ thuộc chặt chẽ vào Mỹ và đó
là một trong những nguyên nhân góp vào sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ nói
riêng, Việt Nam nói chung. Thực tiễn quá trình cách mạng Việt am cũng như
trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước hiện nay đã cho thấy đây là
một kinh nghiệm quý về xây dựng, phát huy sức mạnh nội lực, khẳng định sức
mạnh nội lực chính là một trong những yếu tố quan trọng có vai trò quyết định để
thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra.
4.2.2. Kinh nghiệm chỉ đạo tranh thủ các khả năng hoà bình
Một là, tận dụng mọi cơ hội và mối quan hệ quốc tế, tranh thủ mọi khả năng
hòa bình dù là nhỏ nhất để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đạt được mục tiêu cuối
cùng là độc lập, hòa bình.
Một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đó là Đảng đã nhận định đúng tình hình quốc tế, chớp đúng
thời cơ thuận lợi để biến quyết tâm “dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng kiên
quyết dành cho được độc lập” thành hiện thực. Đảng đã chủ trương và thiết lập
được quan hệ với lực lượng Đồng minh (ở đây là Mỹ), để tranh thủ sự giúp đỡ của
họ về vũ khí, huấn luyện, đồng thời xác định được vị thế của Mặt trận Việt Minh
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, vì hòa bình của thế giới. Bài học
kinh nghiệm này tiếp tục được thực hiện hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Từ tháng 9-1945 đến 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thư,
điện cho lãnh đạo Liên Xô, Tổng thống Mỹ, các chính khách, chính phủ, quốc hội
Pháp..., nói rõ hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam, mong muốn độc
lập tự do chính đáng của nhân dân Việt am, đề nghị sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc
tế đối với Việt Nam. Dù rằng các bức thư, bức điện đó có hoặc không có hồi âm,
nhưng đã góp phần để Việt Nam hiểu rõ hơn tình hình quốc tế, thái độ, toan tính
của từng nước với Việt Nam, từ đó Đảng có chủ trương và chỉ đạo thực hiện hiệu
quả hơn.
Các chỉ đạo và hoạt động cụ thể, không mệt mỏi, liên tục của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, với tư cách và trọng trách là người đứng đầu Đảng, Chính phủ Việt Nam
152

Dân chủ Cộng hòa trong những thời đoạn quan trọng 1945 - 1946, 1950, 1954 trên
lĩnh vực đấu tranh ngoại giao và các lĩnh vực khác, cho thấy Việt am đã không từ
bỏ bất cứ một cơ hội nào dù là nhỏ nhất để tranh thủ các khả năng hòa bình.
Trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xử thế theo
phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến. Trong đó, cái bất biến là độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, là chiến lược mục tiêu, lý
tưởng cần đạt tới, cái vạn biến là con đường, cách làm, cách đánh giá, cách xử lý.
Việt Nam luôn sẵn lòng nhân nhượng Pháp nhưng không nhân nhượng vô nguyên
tắc, ảnh hưởng đến những vấn đề cốt tử của cách mạng. Đảng khẳng định: “Sự thật
đã chứng minh rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng võ
lực bắt ta phải nhượng bộ. hưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14-9 là một bước
nhân nhượng cuối cùng. hân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại
quyền lợi cao trọng của dân tộc” [36, tr.148]. Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời Cao ủy
D’Argenlieu trong cuộc gặp 18-10-1946 ở vịnh Cam Ranh “chúng tôi chưa thỏa
mãn với Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 vì Tổ quốc chúng tôi chưa hoàn toàn độc lập.
hưng chúng tôi sẽ giành được độc lập hoàn toàn”; không chấp nhận các điều kiện
mà Paul Mus đưa ra trong cuộc gặp tại Thái Nguyên tối 12-5-1947, bởi đó thực chất
là các điều kiện buộc Việt Nam phải đầu hàng; lập trường, quan điểm nhất quán của
Việt am trong quá trình đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ 1954... là những ví dụ
tiêu biểu cho phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến của Đảng.
Hai là, sớm chỉ đạo kết hợp các mặt đấu tranh để làm xuất hiện các khả
năng hòa bình.
Chủ trương kết hợp các lĩnh vực, các mặt đấu tranh thời kỳ 1945 - 1946, khi
miền Nam phải chiến đấu chống xâm lược, miền Bắc chưa có chiến tranh, Đảng chủ
trương kháng chiến, kiến quốc, coi đây là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật
thiết, bổ sung cho nhau. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng đã sớm xác định
đường lối kháng chiến, trong đó có nội dung kháng chiến toàn diện. Đảng coi đây là
một cuộc chiến đấu phải huy động tổng lực của đất nước, đánh địch toàn diện, lấy
đấu tranh vũ trang, hoạt động quân sự làm chủ yếu, đồng thời kết hợp với các lĩnh
vực khác như chính trị, kinh tế, ngoại giao để đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Trong
153

thời gian từ giữa năm 1947 đến cuối năm 1953, Đảng chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh
quân sự, giành thắng lợi nhưng không quên kết hợp với đấu tranh ngoại giao để
giành được sự ủng hộ quốc tế, cô lập kẻ thù.
Từ cuối năm 1953, Đảng chủ trương kết hợp đấu tranh quân sự (chiến dịch
Điện Biên Phủ) với đấu tranh ngoại giao (Hội nghị Giơnevơ) để tranh thủ và làm
xuất hiện các khả năng hòa bình có thể tranh thủ để sớm kết thúc chiến tranh. Đồng
thời, tận dụng sự đồng tình, ủng hộ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, các
lực lượng dân chủ, hòa bình thế giới, kể cả nhân dân Pháp, coi đây là mũi tiến công
lợi hại để cô lập kẻ thù để thực hiện thành công mục tiêu đề ra. Cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam ngay từ đầu đã là cuộc chiến không
cân sức, cho đến cả khi Việt Nam giành chiến thắng Điện Biên Phủ và đến Giơnevơ
trên tư thế của người chiến thắng nhưng về thực chất, xét trong bối cảnh quốc tế,
Hội nghị Giơnevơ, những toan tính của các nước đến Hội nghị lúc đó, thì so sánh
tương quan lực lượng vẫn là không cân sức, ta không có lợi thế như mong muốn.
Song, sự chủ động trong sách lược, kiên định mục tiêu cuối cùng là kết thúc chiến
tranh bằng một giải pháp hoà bình, Việt Nam đã đạt được. Để có được kết quả đó là
thành quả của suốt 9 năm quân và dân ta kiên trì, bền bỉ và nỗ lực đấu tranh, trong
đó, ngay từ đầu Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương,
đường lối đúng đắn kháng chiến và kiến quốc, kháng chiến toàn diện, kết hợp các
mặt đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực để ngăn ngừa, hạn chế và tìm cách sớm kết
thúc chiến tranh. Sức mạnh của một quốc gia dân tộc luôn là tổng hoà của tất cả các
yếu tố, của sự kết hợp giữa sức mạnh nội lực và nhân tố quốc tế, thời đại, đây là
kinh nghiệm có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, muốn đổi mới
đất nước thành công, việc biết tranh thủ tận dụng thời cơ chưa đủ, mà cò cần phải
biết chủ động đón lấy, tạo ra các khả năng, thời cơ để tranh thủ.
Ba là, tạo sự đồng thuận trong nội bộ Đảng khi đề ra chủ trương và chỉ đạo
thực hiện các khả năng hòa bình.
Đây là kinh nghiệm được rút ra trong quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, chiến lược đại đoàn kết của Đảng và
Hồ Chí Minh. Bất kể thời bình hay thời chiến, thể chế chính trị nào muốn mạnh,
154

muốn lãnh đạo đất nước thành công thì phải đoàn kết nhân dân trong nước, trong
nội bộ lãnh đạo và đoàn kết quốc tế. Nhân tố cơ bản, cốt lõi của sự đoàn kết đó
chính là sự nhất trí, đồng thuận của những người đứng đầu cơ quan, tổ chức, thể
chế. Bởi họ là những người đại diện cho nhân dân, định hướng cho nhân dân thực
hiện, bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp muôn vàn khó khăn gian khổ, để đi đến thắng lợi cuối cùng thì sự đồng thuận
trong nội bộ Đảng là hết sức quan trọng và cần thiết. Chính sự đồng thuận, đoàn kết
trong quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến là nhân tố quan trọng
quyết định thắng lợi. Trong chín năm trường kỳ kháng chiến, Việt Nam chỉ có một
Chính phủ duy nhất, ổn định nắm quyền lãnh đạo với người đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh - linh hồn của cuộc kháng chiến, và một Tổng chỉ huy Quân đội duy
nhất là Võ guyên Giáp. hưng với thực dân Pháp thì khác, tính từ tháng 8-1944
đến 6-1954, nội các Pháp có tới 20 lần thay đổi (trong đó, năm 1946 đổ ba lần, năm
1949 đổ 4 lần), và từ 8-1945 đến 6-1954, chiến trường Đông Dương thay đổi tới 7
Cao ủy, 8 Tổng chỉ huy. Thực tế đó cho thấy những mâu thuẫn, thiếu thống nhất,
bất đồng giữa các Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp với các Cao ủy; giữa
Chính phủ Pháp tại Pari với những người đứng đầu quân sự, chính trị Pháp ở Đông
Dương. Sự bất đồng, không thống nhất trong nội bộ đó làm cho Pháp không có một
bộ chỉ huy đủ mạnh, một chính sách thống nhất, rõ ràng về Đông Dương... và đó là
một nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Thực tế sự lãnh đạo của Đảng trong những thời điểm khó khăn, quan trọng
đối với sự nghiệp cách mạng, kháng chiến cho thấy, bên cạnh sự đoàn kết, thống
nhất trong nội bộ Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các vấn đề đối
nội, đối ngoại, kháng chiến, kiến quốc, cũng có những sự việc thể hiện sự chưa
đồng thuận, có quan điểm khác biệt. Sự đồng thuận, đoàn kết thể hiện trong việc
thành lập Chính phủ lâm thời, Chính phủ liên hiệp, mời các nhân sĩ, trí thức, kể cả
những kẻ là “tay chân” của quân Tưởng, Pháp... tham gia; mời cả vua Bảo Đại đã
thoái vị, giám mục Lê Hữu Từ làm Cố vấn tối cao. Trong Quốc hội đầu tiên, Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận dành 70 ghế không thông qua bầu cử cho các
thành viên của Việt Quốc, Việt Cách (thân Trung Hoa Dân quốc) tham gia. v.v...
155

Tuy nhiên, có những sự kiện, vấn đề mà ngay trong nội bộ lãnh đạo và trong
nhân dân cũng còn có những quan điểm, suy nghĩ khác nhau, thậm chí hiểu lầm. Đó
là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân nhượng, hòa hoãn Pháp để ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-
1946, Tạm ước 14-9-1946, trong chỉ đạo đàm phán ký Hiệp định Giơnevơ (21-7-
1954) v.v... nhằm tránh chiến tranh, giành lại độc lập, hòa bình. Đối với những vấn đề
mang tính chất sống còn, liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc và ở những thời
điểm quan trọng như vậy, việc có những quan điểm khác nhau, thậm chí đối nghịch
là điều có thể xảy ra. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh với uy tín cao, suốt đời hy sinh phấn đấu vì dân, vì nước, những sự khác
biệt đó đã được giải quyết. Đảng đã tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong việc giải
quyết những vấn đề trọng đại của đất nước. hư vậy, để thực hiện thành công “việc
hệ trọng nhất bây giờ là kháng chiến”, Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thống nhất tư tưởng, chủ trương đường lối, đoàn kết, tập hợp mọi giai tầng, lực
lượng, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Chủ trương đó đã hạn chế được
sự câu kết chống phá của các lực lượng nội phản, ổn định nội trị, góp phần tận dụng
hiệu quả thời gian hòa bình quý giá của đất nước.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá trong Đại hội toàn quốc lần thứ II
của Đảng (2-1951):
Cần nhắc lại Hiệp định 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, vì việc này
cũng làm cho nhiều người thắc mắc và cho đó là chính sách quá hữu.
hưng các đồng chí và đồng bào Nam Bộ thì lại cho là đúng. Mà đúng
thật. Vì đồng bào và đồng chí ở am đã khéo lợi dụng dịp đó để xây
dựng và phát triển lực lượng của mình... Chúng ta cần hòa bình để xây
dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa
bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một
năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng căn
bản [40, tr.22-23].
Đó là những minh chứng lịch sử tiêu biểu khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh về tạo sự đồng thuận, thống nhất, đoàn kết
nội bộ Đảng trong chỉ đạo cuộc kháng chiến. Để có được thành công, kinh nghiệm
156

ấy, đòi hỏi Đảng phải có bản lĩnh, trí tuệ, nắm vững thời cuộc. Những người lãnh đạo
cần phải luôn đặt lợi ích của nhân dân, Tổ quốc lên trên hết, trung thành, kiên trì thực
hiện mục tiêu cuối cùng là hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Bốn là, tăng cư ng năng lực tổ chức của cơ quan đối ngoại và đào tạo cán
bộ làm công tác đối ngoại, để đạt được kết quả có lợi nhất.
Đây là kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình thực hiện tranh thủ các
cơ hội đàm phán để tránh chiến tranh và sớm kết thúc chiến tranh của Đảng. Với
khát vọng hòa bình, Việt Nam luôn nỗ lực tìm mọi cách tránh chiến tranh, đã tích
cực đàm phán, thương lượng một cách nghiêm túc, chân thành trên cơ sở nguyện
vọng chính đáng của mình nhưng còn hạn chế về kinh nghiệm đàm phán, ngoại
giao. Chính vì thế, khi tiến hành thương lượng, đàm phán với các nước dày dạn
kinh nghiệm ngoại giao quốc tế, phía Việt Nam gặp không ít khó khăn.
Từ 1945 đến 1949, hoạt động ngoại giao của Việt Nam do những nguyên
nhân khách quan, chủ quan, chưa được được phát huy, chưa có sự nghiên cứu bài
bản về chính sách đối ngoại của Liên Xô, Trung Quốc, của Đảng Cộng sản Pháp và
động thái, sự chuyển biến chính sách của các nước lớn đối với chiến tranh Việt -
Pháp. Đặc biệt, Việt Nam chưa hiểu hết chính sách của Liên Xô, Trung Quốc với
phong trào cách mạng các nước, chưa xác định đúng được yếu tố chủ yếu chi phối
chính sách đối ngoại của Liên Xô, Trung Quốc lúc này là chủ nghĩa quốc tế vô sản
hay lợi ích dân tộc nước lớn để từ đó có đối sách phù hợp.
Nhận thức về công tác ngoại giao và đào tạo cán bộ làm công tác nghiên cứu
ngoại giao còn hạn chế. Cơ cấu tổ chức của cơ quan ngoại giao thiếu và yếu, trong
suốt cuộc kháng chiến, Bộ Ngoại giao chỉ bao gồm Phòng Hành chính, Phòng
Tuyên truyền, Thư ký Bộ trưởng và Công tác đội, đến năm 1950-1951 có thêm
Phòng Theo dõi (gồm 2 người), cán bộ nghiên cứu hạn chế, các hoạt động của các
cơ quan, bộ phận đại diện ở ngoài nước cũng chủ yếu mang tính chất tiếp xúc, tuyên
truyền, ít có hoạt động nghiên cứu hoặc các báo cáo về nghiên cứu thực tiễn. ăm
1951, Việt Nam mới có Đại sứ quán tại Bắc Kinh, năm 1952 ở Matxcơva và cuối
năm 1953 đầu năm 1954, mở thêm 3 Biện sự sứ (Tổng Lãnh sự quán) ở Côn Minh,
Nam Ninh và Quảng Châu, Trung Quốc. Biên chế của các cơ quan đại diện rất hạn
157

chế, cơ sở vật chất thiếu thốn và cán bộ cũng chưa được đào tạo, chưa có kinh
nghiệm nghiên cứu. Điều này bộc lộ rất rõ tại Hội nghị Giơnevơ. Hạn chế đó là do
điều kiện chiến tranh đem lại, tuy nhiên với những gì đạt được đã thể hiện sự nỗ
lực, trí tuệ, bản lĩnh của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ và của toàn quân,
toàn dân Việt Nam.
Để đấu tranh ngoại giao, đàm phán đạt được kết quả, bên cạnh chủ trương
đúng, sách lược khôn khéo, linh hoạt, cần quan tâm đến việc nâng cao năng lực, tổ
chức của cơ quan làm công tác đối ngoại, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng về quan
điểm, lập trường kỹ năng nghiệp vụ, khả năng nghiên cứu, đánh giá phân tích tình
hình của cán bộ ngoại giao để đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao. Kinh nghiệm này
được rút ra từ thực tiễn cuộc kháng chiến và có ý nghĩa quan trọng đối với hiện tại.
158

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4


Tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình trong kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945-1954 là một chủ trương đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn, được
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và thực hiện nhằm tranh thủ mọi yếu tố thuận lợi
của quốc tế, xu thế phát triển của thời đại, thực lực, mục tiêu của Pháp, Việt Nam và
các lực lượng liên quan, trên cơ sở đó, Việt Nam khẳng định khát vọng, thiện chí hoà
bình, thể hiện nỗ lực để tránh chiến tranh.
Đây là chủ trương được Đảng đề ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến và được
thực hiện với phương châm Dĩ bất biến ứng vạn biến. Trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau, Đảng luôn thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc, hòa hoãn, tìm
cách tránh xung đột, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nhưng kiên quyết đấu tranh cho
hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Chương này, tập trung nêu lên những
nhận xét, phân tích về kết quả, hạn chế trong quá trình Đảng hoạch định chủ trương,
chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình và kết quả của sự lãnh đạo thực
hiện chủ trương đó. Qua đó, rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo
tranh thủ thực hiện khả năng hòa bình - một nội dung lãnh đạo quan trọng diễn ra
trong thực tế của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng còn ít
được quan tâm nghiên cứu, thể hiện bằng các công trình, bài viết về giai đoạn này.
Thành công của Đảng trong chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình là một
nguyên nhân quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp 1945-1954.
159

KẾT LUẬN

Đã hơn 65 năm kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt
Nam kết thúc (7- 1954) và 74 năm kể từ ngày thực dân Pháp quay trở lại xâm lược
Việt Nam lần thứ hai (23-9-1945) trôi qua, đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu, các bài viết của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các học giả trong và
ngoài nước đề cập tới các vấn đề, sự kiện xung quanh cuộc chiến đó. Tuy nhiên, với
những nguồn tư liệu mới được giải mã, công bố, cùng những cách tiếp cận, nghiên
cứu khác nhau của nhiều học giả nước ngoài và của cả những người trong cuộc từ
các phía của cuộc chiến, nhất là của Việt Nam và Pháp, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp đến nay vẫn là đề tài còn nhiều khoảng trống, nhiều vấn đề cần làm
rõ, vẫn là đề tài hấp dẫn, thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Về vấn đề Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình trong
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) mà tác giả luận án tập trung nghiên
cứu luận giải là một vấn đề khó, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu, đề
cập một cách đầy đủ, hệ thống, không có văn kiện, nghị quyết hay chỉ thị chuyên đề
của Đảng đề cập trực tiếp tới. Tuy nhiên, từ chủ trương của Đảng và những hoạt
động cụ thể, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đứng đầu Đảng, đã thể hiện
rõ chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình. Qua việc khảo cứu những
tài liệu của các học giả trong, ngoài nước và đặc biệt là từ kết qủa của những sự
kiện đã diễn ra trong cuộc kháng chiến, với cách tiếp cận từ chính thực tiễn cuộc
kháng chiến, tác giả luận án phân tích, khái quát quá trình Đảng lãnh đạo tranh thủ
thực hiện các khả năng hoà bình, khẳng định rõ đây là một nội dung lãnh đạo của
Đảng trong cuộc kháng chiến và là một trong những nhân tố có vai trò quan trọng
trong việc sớm đưa cuộc kháng chiến kết thúc bằng một giải pháp hoà bình. Từ đó,
luận án làm rõ một số vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình là một chủ trương đúng
đắn, nhất quán của Đảng, được thực hiện ngay từ đầu và trong suốt cuộc kháng
chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người cùng Đảng hoạch định chủ trương, vừa
là người trực tiếp, chủ động thực hiện để hiện thực hoá chủ trương đó.
160

Thứ hai, đây là chủ trương có cơ sở lý luận và thực tiễn vì: Từ thực tế cuộc
kháng chiến soi chiếu vào quá trình hoạch định chủ trương của Đảng thì thấy rõ
trong nhiều văn kiện, chỉ thị chỉ đạo thực hiện kháng chiến đều có đề cập đến chủ
trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình của Đảng, ở từng mức độ, khía
cạnh, lĩnh vực phù hợp với bối cảnh tình hình lịch sử cụ thể; Sự chỉ đạo, hoạt động
thực tiễn, cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận về
chiến tranh, hoà bình, cách mạng của Lênin vào điều kiện cụ thể của cuộc kháng
chiến; Bối cảnh trong nước, tình hình thế giới, thực tế nước Pháp, xu thế phát triển
của thời đại và chính sách của các nước lớn… có những yếu tố thuận lợi để Việt
am đề ra chủ trương tranh thủ thực hiện khả năng hoà bình (thời điểm 1945-1946,
1950, 1953-1954). Đặc biệt là những nhân tố từ phía Pháp. Điều này được lý giải
rất rõ trong nhiều công trình khoa học của các học giả, trong đó điển hình là những
tài liệu chính thức về cuộc chiến tranh tại các Kho Lưu trữ của nước Pháp được
Philippe Devillers dày công thể hiện trong công trình “Paris - Sài Gòn - Hà Nội, tài
liệu lưu trữ về cuộc chiến tranh” và nhiều công trình nghiên cứu có giá trị khoa học
của các học giả viết ngay khi cuộc chiến tranh còn chưa kết thúc, đến cả hiện nay.
Không chỉ là nỗ lực của phía Việt Nam, mà ngay cả phía Pháp cũng mong muốn
đàm phán, thương lượng, tránh chiến tranh ở những mức độ, khía cạnh khác nhau.
Thứ ba, khẳng định thiện chí, khát vọng, mong muốn hoà bình của Việt Nam
mà đại diện tiêu biểu là Hồ Chí Minh. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng
định trong Tổng tập Hồi ký rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không bỏ qua bất kỳ một
cơ hội hoà bình nào dù là nhỏ nhất, còn Jean Saninteny thì nhận xét không chút
hoài nghi rằng: “Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích thật sự, một mục đích cuối cùng,
đó là độc lập của Việt Nam” và tất cả những lời nói, cử chỉ, thái độ, con người Hồ
Chí Minh đều khẳng định “ông không muốn giải quyết vấn đề bằng biện pháp bạo
lực”, vì thế, Hồ Chí Minh “không ngần ngại cho Pháp những nhượng bộ vì thành
thật nghĩ rằng, thương lượng vẫn ít thiệt hại hơn xung đột đẫm máu”...
Thực tế cho thấy có nhiều cách để giành lấy hoà bình, độc lập, có khi là dùng
thương lượng đàm phán, có khi phải dùng đến chiến tranh. Chiến tranh là giải pháp
không hề mong muốn của mỗi bên dù với bất cứ lý do, mục đích gì và khi đã xảy ra
161

thì trong nó luôn tiềm ẩn những khả năng để kết thúc. Tuy nhiên, việc kết thúc
chiến tranh, đạt được mục đích nhanh hay chóng, bằng giải pháp nào phụ thuộc vào
thực lực, khả năng và thiện chí của mỗi bên. Với Việt Nam, chủ trương tranh thủ
thực hiện các khả năng hoà bình trong cuộc kháng chiến chống thực vừa là mục tiêu
cần đạt được, vừa là phương thức để kết thúc cuộc chiến tranh. Chủ trương đó thể
hiện trên hai bình diện: một là, tranh thủ các khả năng do các điều kiện khách quan,
chủ quan đưa đến; hai là, nhận định, phân tích tình hình, chủ động tìm, tạo ra, làm
xuất hiện các khả năng thuận lợi để tranh thủ.
Ở chương 2, giai đoạn từ tháng 9-1945 đến hết năm 1949, khi các khả năng
hoà bình, thương lượng hiện ra một cách rõ ràng do các nhân tố khách quan và chủ
quan đem lại, thì Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động tranh thủ
thực hiện các khả năng hoà bình đó bằng cách tập trung hoạch định và triển khai
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc. Trong đó, chủ trương thực
hiện sách lược ngoại giao nhân nhượng, tránh xung đột, giao thiệp thân thiện và
“hoà để tiến”, thêm bạn bớt thù, tranh thủ mọi sự ủng hộ quốc tế đối với cách mạng
không phân biệt thể chế chính trị, sẵn sàng nhân nhượng nếu có lợi cho cách mạng
và không phạm đến “quyền lợi cao trọng của Tổ quốc”, kể cả Mỹ, nhân dân, chính
khách Pháp có tinh thần dân chủ, yêu chuộng hoà bình.
Ở chương 3, giai đoạn từ 1950 đến 7-1954 khả năng hoà bình giữa Pháp -
Việt Nam không thể hiện rõ, Mỹ trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, cuộc
chiến tranh Việt am, Đông Dương bị quốc tế hoá. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều
thay đổi, chủ trương của Đảng về tranh thủ thực hiện khả năng hoà bình lúc này
chính là vừa tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại để tranh thủ tối đa sự công
nhận, ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến, vừa chủ động, tích cực
tăng cường các hoạt động quân sự, dùng thắng lợi quân sự đánh sụp ý chí tiếp tục
chiến tranh của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ, để thúc đẩy, tạo ra khả năng nhanh
chóng kết thúc chiến tranh bằng giải pháp đàm phán hoà bình.
Từ việc phân tích, làm rõ chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà
bình của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), luận án đưa ra
những nhận xét cơ bản về kết quả, hạn chế trong quá trình Đảng hoạch định chủ
162

trương, chỉ đạo thực hiện và kết quả sự lãnh đạo của Đảng về tranh thủ thực hiện các
khả năng hoà bình. Đồng thời rút ra những kinh nghiệm của Đảng trong hoạch định
chủ trương, chỉ đạo tranh thủ các khả năng hoà bình. Đó là những kinh nghiệm quan
trọng, có ý nghĩa thiết thực đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này
cũng như công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận án đã góp phần: làm rõ thêm, khẳng
định quan điểm về trách nhiệm để nổ ra cuộc chiến tranh là do chính những kẻ thực
dân hiếu chiến Pháp ở Đông Dương và ở Pari; Nêu bật thiện chí hòa bình, không
muốn chiến tranh của lãnh đạo và nhân dân Việt Nam; khẳng định những nỗ lực
tranh thủ thực hiện khả năng hòa bình của Việt Nam đã góp phần giảm nhẹ hậu quả
nặng nề của cuộc chiến tranh, mau chóng kết thúc chiến tranh bằng giải pháp
thương lượng.
Chiến tranh kết thúc, mối quan hệ mới giữa Việt am và nước Pháp đã được
xác lập, đúng như Hồ Chí Minh nói với Jean Saninteny sau khi Hiệp định Đình chỉ
chiến sự đã ký tại Hội nghị Giơnevơ rằng: Chúng ta đã đánh nhau, đã “chọi” nhau
như ông vẫn thư ng nói ở Paris, trong suốt tám năm, nhưng mà là chiến đấu một
cách đàng hoàng, thẳng thắn. Bây gi hết chiến tranh rồi. Các ông cần phải tiếp
tục thẳng thắn, và cùng với sự thẳng thắn đó, chúng ta sẽ cùng nhau thoả thuận,
cùng nhau cộng tác. Thực tiễn mối quan hệ Việt - Pháp từ sau năm 1954 đến nay đã
minh chứng cho điều đó, cho những nỗ lực, thiện chí, khát vọng hoà bình chân
thành của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của Đảng, của hà nước Việt am Dân
chủ Cộng hòa, đã hoạt động liên tục, không mệt mỏi, với tầm nhìn chiến lược, kinh
nghiệm lãnh đạo và quan hệ quốc tế sâu rộng, khả năng nhạy bén, phát hiện nắm bắt
các khả năng, cơ hội hòa bình... đã đóng vai trò nổi bật, quyết định trong thành công
của dân tộc Việt am. Với những gì đã luận giải, chứng minh được, luận án mong
muốn đóng góp vào việc đập tan luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam hiếu chiến,
là kẻ khơi ngòi cho cuộc chiến tranh hao người tốn của suốt 9 năm trời.
163

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC


ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2015), “Tuyên ngôn Độc lập trong
tiến trình đấu tranh giành độc lập, chống áp bức bóc lột của các dân tộc trên
thế giới”, Hội thảo Tuyên ngôn Độc lập - Ý chí và khát vọng của dân tộc Việt
Nam, Học viện Chính trị, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Mai Chi, Vũ Thị Hồng Dung (2015), Tìm hiểu nguyên nhân Khởi
nghĩa Nam Kỳ thất bại?, Ban Tuyên giao Tỉnh ủy Vĩnh ong, Khởi nghĩa Nam
Kỳ ở ĩnh Long - năm 1940.
3. Vũ Thị Hồng Dung (2016), “Tìm hiểu thêm về việc ký Tạm ước 14-9-1946”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).
4. Vũ Thị Hồng Dung (2016), “Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
chuyến đi thăm Pháp năm 1946”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự,
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, (3+4).
5. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2016), “Cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước: Thắng lợi của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”,
Tạp chí Cộng sản, (4).
6. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2016), “Hành trình 30 năm tìm đường
cứu nước của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (6).
7. Vũ Thị Hồng Dung (2016), “Hội nghị Giơnevơ - Kết quả cuộc đấu tranh vì hòa
bình”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (7).
8. Nguyễn Thị Mai Chi, Vũ Thị Hồng Dung (2016), “Ý nghĩa sâu sắc của cụm từ
“Phải nhân nhượng” trong ời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946)”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (12).
9. Vũ Thị Hồng Dung (2016), Độc lập, tự chủ, sáng tạo - một nhân tố quyết định
thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hội nhập quốc tế, trong cuốn
Đại thắng mùa Xuân 1975 - Sức mạnh đoàn kết thống nhất non sông, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
164

10. Vũ Thị Hồng Dung (2016), Nhận định tình hình, đánh giá kẻ thù trong Cách
mạng Tháng Tám - một nhân tố thể hiện tầm nhìn th i đại, bản lĩnh của Đảng,
trong cuốn Cách mạng Tháng Tám 1945. Sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do
và chủ nghĩa xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
11. Vũ Thị Hồng Dung (2016), Đồng chí Trần ăn Giàu, nhà cách mạng, nhà giáo,
nhà khoa học, trong cuốn Dấu ấn một nhân cách. Trần ăn Giàu - Một nhân
cách lớn, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Thị Mai Chi, Vũ Thị Hồng Dung (2017), “Tiến công vào đô thị trong
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 - Quyết sách chủ động, táo bạo của
Đảng”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (2).
13. Vũ Thị Hồng Dung (2017), “Chuyến thăm nước Pháp tìm kiếm hòa bình của
Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946”, Tạp chí Nhịp cầu Tri Thức, (5+6).
14. Vũ Thị Hồng Dung (2017), “Về cuộc gặp giữa Paul Mus và Hồ Chí Minh (5-
1947)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (9).
15. Vũ Thị Hồng Dung (2017), Quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Jawaharlar Nehru
khởi nguồn cho hòa bình, hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ, trong cuốn Việt Nam -
Ấn Độ, 45 năm quan hệ ngoại giao và 10 năm đối tác chiến lược, Đại sứ quán
Cộng hòa Ấn Độ tại Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội.
16. Vũ Thị Hồng Dung (2017), Mấy suy nghĩ về nhân cách nhà cách mạng -
Dương Quang Đông, trong cuốn Đồng chí Dương Quang Đông ngư i cộng
sản kiên trung, tận tụy suốt đ i vì dân, vì đảng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Vũ Thị Hồng Dung (2017), Mấy cảm nhận về đồng chí Phạm ăn Chiêu, trong
cuốn Hồi ký “Cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào Gia Định (1945-
1954)”, Đồng chí Phạm ăn Chiêu với Đảng bộ và nhân dân Gia Định - Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2018), Đại đội độc lập - Nghệ thuật
dùng binh đặc sắc trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, trong cuốn
Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 70 năm nhìn lại (1947-2017), Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
165

19. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2018), “Sự giúp đỡ của Việt am đối với
cách mạng Trung Quốc những năm 1946-1949”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5)
20. Vũ Thị Hồng Dung (2018), “Điện Biên Phủ và những toan tính sai lầm của thực
dân Pháp”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).
21. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2018), “Góp phần tìm hiểu lý do Đảng
quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968”, ăm mươi năm
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ở Đắk Lắk, Tỉnh uỷ Đắk Lắc.
22. Vũ Thị Hồng Dung (2018), “Vài suy nghĩ về Lời tuyên bố của Tổng thống
B. inđơn Giôn xơn ngày 31-3-1968”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (6).
23. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2018), “Về cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc ở Biên giới phía Tây Nam (4-1977-1-1979)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (11).
24. Vũ Thị Hồng Dung, Nguyễn Thị Huyền Chi (2019), “Từ Điện Biên Phủ đến
Giơne vơ - Con đường kết thúc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Lý
luận chính trị, (5).
25. Vũ Thị Hồng Dung (2019), “Chủ trương tranh thủ thực hiện khả năng hoà bình
của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (12).
26. Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Thị Hồng Dung (2019), “Sự giúp đỡ của iên Xô đối với
Việt am trên lĩnh vực quân sự từ năm 1945 đến năm 1975”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (12).
166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. gô Vương Anh (2016), “Hồ Chí Minh và nước Pháp”, Tạp chí Lịch sử Quân
sự, (12), tr.20-24.
2. Nguyễn Khánh Anh (2006), “Về chuyến thăm Cộng hòa Pháp của Chủ tịch
Hồ Chí Minh năm 1946”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (9), tr.37-38-28.
3. Raymond Aubrac (2006), “Paris - Bắc Kinh - Hà Nội ba cuộc gặp với Hồ Chí
Minh để tìm kiếm hòa bình”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (7), tr.4-6.
4. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng
Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Bin (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Đỗ Thanh Bình (1993), “Hồ Chí Minh với vấn đề chiến tranh và hòa bình của
các dân tộc”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.29-30.
8. Trần Thái Bình (2007), “Tết Đinh Hợi 1947, những nỗ lực vãn hồi hòa bình
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (2), tr.43-46.
9. Trần Thái Bình (2014), “Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong các hoạt động ngoại
giao sau Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (274), tr.3-10.
10. Bộ Ngoại giao (1946), Cuộc trao đổi ở Cam Ranh giữa Đô đốc D’. Argenlieu
và Hồ Chủ tịch ngày 10-10-1946 (bản dịch từ tiếng Pháp), ưu hồ sơ 154 tại
phòng ưu trữ Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
11. Bộ Ngoại giao (1947), Tài liệu ghi chép về cuộc hội kiến giữa Hồ Chủ tịch, Bộ
trưởng Hòang Minh Giám thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
với Paul Mus đại diện của Cao uỷ Pháp tại Đông Dương Bollaert, ngày 11-5-
1947 tại thị xã Thái Nguyên, tài liệu lưu trữ ở hồ sơ 46đ, Phòng ưu trữ Bộ
Ngoại giao, Hà Nội.
12. Bộ Ngoại giao (1947), Thông báo ngày 23-12-1947 của Chính phủ Pháp, cho
phép Cao ủy Pháp điều đình với những ngư i không phải là Chính phủ Hồ
Chí Minh, ưu hồ sơ 46đ, phòng ưu trữ Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
167

13. Bộ Ngoại giao (1975), Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân (1945-1954), tập 1, Tài liệu lưu tại Phòng lưu trữ Bộ Ngoại
giao, Hà Nội.
14. Bộ Ngoại giao (1976), Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân (1945-1954), tập 2, Tài liệu lưu tại Phòng lưu trữ Bộ Ngoại
giao, Hà Nội.
15. Bộ Ngoại giao (1979), Sự thật quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua,
NXB Sự Thật, Hà Nội.
16. Bộ Ngoại giao (2015), Hiệp định Giơnevơ 50 năm nhìn lại, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
17. Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Ngoại giao
Việt Nam 1945-2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Bộ Tổng Tham mưu (1972), Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn
hình thành 1946-1955, Phòng 5, Khối Quân sử quân đội Việt Nam Cộng hòa,
Hà Nội.
19. Bộ Tổng Tham mưu, Ban Tổng kết biên soạn lịch sử (1991), Lịch sử Bộ Tổng
Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1995), NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
20. Lucien Bodard (2004), Cuộc chiến tranh Đông Dương, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội.
21. Gilbert Bodinier (1987), Cuộc chiến tranh Đông Dương 1945-1954, ăn kiện
và tư liệu, tập I - Sự trở lại Đông Dương của Pháp 1945-1946, Trung tâm
Lịch sử Lục quân Pháp, Hà Nội.
22. Gilbert Bodinier (1987), Cuộc chiến tranh Đông Dương 1945-1954, ăn kiện
và tư liệu, tập II - Đông Dương năm 1947 giải pháp chính trị hay giải pháp
quân sự, Trung tâm Lịch sử Lục quân Pháp, Hà Nội.
23. Lady Borton (2012), Hồ Chí Minh: Một hành trình, NXB Thế giới, Hà Nội.
24. Wilfred Burchett (1986), Tam giác Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam,
NXB Thông tin lý luận, Hà Nội.
25. Chu Văn Chúc (2007), “Chính sách đối ngoại của Đảng giai đoạn 1945-1946”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr.15-20.
168

26. Pierre Daum (2016), Lính thợ Đông Dương ở Pháp (1939-1952) một trang sử
thuộc địa bị lãng quên, NXB Tri thức, Hà Nội.
27. Wiliam J. Duiker (2000), Hồ Chí Minh - A life, Hyperion, New York, Bản
dịch lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
28. Nguyễn Kim Dung (1996), “Quan hệ Việt - Mỹ qua hoạt động của OSS và SO
ở Việt am năm 1945”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8), tr.62-63.
29. Nguyễn Thị Kim Dung (1997), Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại th i kỳ từ
tháng 9-1945 đến tháng12-1946, Luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Đinh Trần Dương (2004), “Hiệp định Giơnevơ - Một giải pháp chiến lược của
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (7), tr.6-9.
31. Đinh Trần Dương (2007), “Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong những năm 1945-1949”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr.27-31.
32. Dương Danh Dy (dịch) (2002), Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự
Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, trong Hồi kí những ngư i trong
cuộc - Hồi kí của La Quý Ba, NXB Lịch sử Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, Bắc
Kinh, Trung Quốc.
33. Bảo Đại (1990), Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước tộc xuất bản, Pari.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 6, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 7, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 9, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 10, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 11, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 13, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 14, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng Toàn tập, tập 15, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Điện Biên Phủ. Hội nghị Giơnevơ ăn kiện
Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
45. F. Côbêlép (2010), Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
46. Dixee R.Bartholomew-FEIS (2007), OSS và Hồ Chí Minh - đồng minh bất
ng trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, NXB Thế giới, Hà Nội.
47. Hoàng Minh Giám (1947), Thông điệp ngày 19-4-1947 của ông Hòang Minh
Giám gửi cho chính phủ Pháp, đề nghị Chính phủ Pháp chấm dứt ngay những
cuộc xung đột và mở những cuộc đàm phán nhằm giải quyết hòa bình, ưu hồ
sơ 162 tại phòng ưu trữ Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
48. Hoàng Minh Giám (1947), Thông điệp ngày 19-9-1947 của Bộ trưởng Ngoại
giao Hòang Minh Giám gửi Thượng sứ Bollaert, ưu hồ sơ 163 tại phòng ưu
trữ Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
49. Võ Nguyên Giáp (2018), Tổng tập Hồi ký Võ Nguyên Giáp, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
50. Yvơ Gra (1979), Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương, Hòang Thanh Quang
dịch, lưu tại Viện Lịch sử Quân sự, Hà Nội.
51. Nguyễn Mạnh Hà (1992), “Từ Hiệp định Sơ bộ, Hội nghị trù bị, Tạm ước…
đến chiến tranh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (3), tr.13-19.
52. Nguyễn Mạnh Hà (1995), “Pháp trở lại Đông Dương như thế nào”, Tạp chí
Lịch sử Quân sự, (5).
53. Nguyễn Mạnh Hà (1995), “Pháp với giải pháp Bảo Đại”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, (6).
170

54. Nguyễn Mạnh Hà (1995), “Về nguyên nhân nổ ra chiến tranh Đông Dương”,
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (8+9), tr.133-138.
55. Nguyễn Mạnh Hà (1996), “Về sự bất đồng giữa Cao uỷ với Tổng chỉ huy quân
Pháp trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự,
(1), tr.34-36.
56. Nguyễn Mạnh Hà (2000), “Chiến tranh Việt Nam những cơ hội hòa bình bị bỏ
lỡ”, Đặc san 50 năm Ủy ban Hòa bình Việt Nam, tr.43-45; 49-51.
57. Nguyễn Mạnh Hà (2005), “Bàn thêm về vấn đề thời cơ trong cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Cộng sản, (16), tr.24-28.
58. Nguyễn Mạnh Hà (2005), Điện Biên Phủ - động lực của mối quan hệ Việt -
Pháp, trong sách Điện Biên Phủ từ góc nhìn của các nhà khoa học Việt -
Pháp, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Mạnh Hà (2007), “Nhìn lại kết quả Hội nghị Giơnevơ 1954”, Tạp chí
Lịch sử Quân sự, (187), tr.6-10.
60. Nguyễn Mạnh Hà (2011), “Bàn thêm về kết quả Hội nghị Giơnevơ”, Tạp chí
Lịch sử Quân sự, (272), tr.61-65.
61. Nguyễn Mạnh Hà (2011), “Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng
đánh thắng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp”, Tạp
chí Quốc phòng toàn dân, (12), tr.12-14.
62. Nguyễn Mạnh Hà (2011), “Về một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng
thống Mỹ Harry Truman (1-1946)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (230), tr.32-34.
63. Nguyễn Mạnh Hà (2011), “Về một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
Tổng thống Mỹ Harry Truman (1-1946)”, Tạp chí Lịch sử quân sự, (2).
64. Nguyễn Mạnh Hà (2013), “Những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để
giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ”, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, (5), tr.102-104.
65. Nguyễn Mạnh Hà (2015), “Bàn thêm về ứng xử của Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với Trung Hoa dân quốc những năm 1945-1946”, Tạp
chí Lịch sử Quân sự, (277), tr.67-72.
171

66. Nguyễn Mạnh Hà (2017), “Góp phần tìm hiểu lý do đến tháng 1-1950 Liên Xô
mới công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Tạp chí Lịch sử
Quân sự, (2), tr.68-73.
67. Nguyễn Mạnh Hà (2017), Chính sách chính trị, quân sự của Pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn 1945-1954 và nguyên nhân thất bại, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
68. Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Thị Mai Hoa (2010), “Hồ Chí Minh vun đắp quan
hệ Việt - Trung”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (105), tr.43-50.
69. Lê Kim Hải (2005), Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt - Pháp th i kỳ
1945-1946, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
70. ăng Kỳ Hàn (1984), Đằng sau sự tiếp nhận đầu hàng của Nhật Bản tại Hà
Nội, NXB Tri thức thế giới, Hà Nội.
71. Lê Mậu Hãn (2011), “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện chủ
trương đấu tranh ngoại giao với đại diện của Chính phủ Pháp - “Hòa để tiến
(1946)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr.3-10.
72. Hăngri Adô (1968), Hồ Chí Minh - dịp may cuối cùng, NXB Flammarion,
Pari, bản dịch lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Hà Nội.
73. Nguyễn Trọng Hậu (2000), “Quan hệ cách mạng Việt Nam - Trung Quốc trong
những năm 1947-1950”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (6) tr.33-37.
74. Nguyễn Trọng Hậu (2004), Hoạt động đối ngoại của nước Việt nam Dân chủ
Cộng hòa th i kỳ 1945-1950, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Vũ Quang Hiển (2005), Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng th i kỳ
1945-1954, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Vũ Quang Hiển (2007), “Những nỗ lực vãn hồi hòa bình của Việt am trước
mùa đông năm 1947”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (12), tr.23-28.
77. Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), “Hai chuyến đi bí mật của chủ tịch Hồ Chí Minh
đến iên Xô năm 1950 và 1952”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr.71-78.
78. Nguyễn Thị Mai Hoa (2014), “Quan hệ Việt Nam, Liên Xô trong kháng chiến
chống thực dân Pháp”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.51-57.
79. Nguyễn Thị Mai Hoa (2014), “Trung Quốc ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam kháng
chiến chống thực dân Pháp”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (267), tr.35-40.
172

80. Phan Văn Hoàng (2018), Lịch sử nhìn từ nhiều phía, NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
81. Học viện Quan hệ quốc tế (1997), Tổng kết 50 năm đấu tranh trên mặt trận
ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1945-1995), Tập I (1945-1975),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
giành độc lập, tự do (1945-1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Học viện Quan hệ quốc tế (2002), Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân (1945-1954), NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
84. Trịnh Vương Hồng, Nguyễn Minh Đức (1993), “Hồ Chí Minh với quan hệ
Việt Nam - Mỹ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.18-19.
85. am Hưng, Đỗ Xuân (2006), “Tổng Bí thư Trường Chinh với chủ trương
“hòa để tiến””, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.3-8.
86. Nguyễn Văn Hưởng (2016), Phán xét. Các nước lớn đã can thiệp vào Việt
Nam như thế nào, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Hưởng (2017), Phán xét, các nước lớn đã can thiệp vào chiến
tranh Việt Nam như thế nào?, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
88. Nguyễn Khắc Huỳnh (2004), “Hiệp định Giơnevơ sau 50 năm nhìn lại và suy
ngẫm”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (7+8+9), tr.1-9; 6-10; 8-12.
89. Nguyễn Khắc Huỳnh (2005), “Đôi điều suy nghĩ về tư tưởng, nghệ thuật ngoại
giao Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (10+11), tr.1-6; 1-5.
90. Nguyễn Khắc Huỳnh (2005), “Hồ Chí Minh và cuộc đột phá về ngoại giao
mùa xuân 1950”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (5), tr.5-10.
91. Nguyễn Khắc Huỳnh (2005), “Ngoại giao Hồ Chí Minh thời kỳ giữ vững và củng
cố chính quyền cách mạng (1945-1946)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (8), tr.23-29.
92. Nguyễn Khắc Huỳnh (2006), “Đàm phán Việt - Pháp 1945-1946 và Hiệp định
sơ bộ 6-3-1946”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (3), tr.1-7.
93. Nguyễn Khắc Huỳnh (2006), “Đi vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược nêu cao thiện chí, nỗ lực vãn hồi hòa bình”, Tạp chí Lịch
sử Quân sự, (12), tr.23-26.
173

94. Nguyễn Khắc Huỳnh (2006), “Hồ Chí Minh với chuyến thăm Pháp và Tạm
ước 14-9-1946 những nỗ lực tột bậc để trì hoãn chiến tranh toàn quốc”, Tạp
chí Lịch sử Quân sự, (5), tr.19-24.
95. Nguyễn Khắc Huỳnh (2006), Ngoại giao Việt Nam phương sách và nghệ thuật
đàm phán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Nguyễn Khắc Huỳnh (2007), “Từ trận Điện Biên Phủ đến Hội nghị Giơnevơ,
những cuộc vận động ngoại giao rộng lớn ở hậu trường”, Tạp chí Lịch sử
Quân sự, (7), tr.1-5; 13.
97. Nguyễn Khắc Huỳnh (2010), “Từ phá vây về ngoại giao đến phá vây biên
giới”, Tạp chí Lịch sử quân sự, (225), tr.24-28.
98. Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), “Vai trò chiến lược của ngoại giao trong sự nghiệp
bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (8), tr.9-11.
99. Pierre Journoud (2019), De Gaulle và Việt Nam (1945-1969), NXB Đại học
Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội.
100. Vũ hư Khôi (2011), “Quá trình dẫn đến cuộc chiến tranh Pháp - Việt (1945 -
1954), Tạp chí Lịch sử Quân sự, (12), tr.3-7.
101. “Thông cáo về Chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa”, Báo Cứu quốc, ra ngày 3-10-1945, tr.1.
102. Lê Kim (1946), “Tướng Pháp Salan viết về chuyến thăm Pháp năm 1946 của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (6), tr.32-36.
103. Lê Kim (2011), “Bản thoả thuận quân sự tiếp theo Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946”,
Tạp chí Lịch sử Quân sự, (3), tr.36-39.
104. Lê Kim (2011), “Về chuyến đi Pháp năm 1946 của Chủ tịch Hồ tịch Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (5), tr.68-71.
105. Phạm Thị Lai (2007), “Thêm một số tư liệu về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đi
thăm iên Xô đầu năm 1950”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr.56-58.
106. Phan Ngọc Liên, Trịnh Vương Hồng (2000), Hồ Chí Minh chiến sĩ cách mạng
quốc tế, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
107. ưu Văn ợi (1996), ăm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), tập I,
Ngoại giao Việt Nam 1945-1975, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
174

108. ưu Văn ợi (2001), “Từ tuyên bố Brazavin đến Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946”,
Tạp chí Lịch sử Quân sự, (2+3), tr.28-31; 52-55.
109. ưu Văn ợi (2002), Pháp tái chiếm Đông Dương và chiến tranh lạnh, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
110. Nguyễn Phúc Luân (2004), Ngoại giao Việt Nam từ Việt Bắc đến Hiệp định
Giơnevơ, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
111. Nguyễn Phúc Luân (Chủ biên) (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự
nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Mắc Brátly (1990), Một cơ hội mong manh: nước Mỹ và sáng kiến ngoại giao
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - 1947, Trường Đại học Havớt, Mỹ,
bản dịch lưu tại Viện Sử học, Hà Nội.
113. Phạm Thị Thanh Mai (2014), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan hệ Việt Nam -
Liên Xô (1950-1954)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).
114. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. gô Văn Minh (2004), “Đàm và đánh trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945-1954)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (11), tr.5-9.
122. Nguyễn Thị Trà My (2015), “Vai trò của Anh trong quá trình Pháp tái chiếm
Đông Dương (9-1945 đến 3-1946)”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (3), tr.60-67.
123. Nguyễn Phương am (2016), Về các Tổng Tư lệnh, Tư lệnh chiến trư ng
Nhật - Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
124. Navarre (2004), Th i điểm của những sự thật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
125. Navarre (2015), Đông Dương hấp hối, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
126. Hoàng Nguyên (2004), “Diễn biến Hội nghị Giơne vơ và hoạt động của đoàn
ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (8), tr.11-14.
175

127. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội.
128. Vũ Dương inh (2006), “Hà Nội tháng 12-1946 những toan tính từ phía bên
kia”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (12), tr.63-67.
129. Vũ Dương inh (2014), “Hội nghị Giơne vơ về Đông Dương năm 1954 đôi
điều cần bàn thêm cho rõ”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (7), tr.63-69.
130. Vũ Dương inh (2014), “Từ Điện Biên Phủ đến Giơnevơ trên bàn cờ quốc
tế”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr.13-19.
131. Vũ Dương inh (2015), Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010),
NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
132. Vũ Dương inh (2016), “Liệu có thể tránh được cuộc chiến này không”, Tạp
chí Lịch sử Quân sự, (11), tr.27-33.
133. Vũ Dương inh (2016), “Quan hệ tam giác Việt - Hoa - Pháp và Hiệp định Sơ
bộ năm 1946”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (291), tr.3-8.
134. Vũ Dương inh (2017), Cách mạng Việt Nam trên bàn c quốc tế, lịch sử và
vấn đề, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Vũ Oanh, guyễn Thị Quyên (1993), “Những hoạt động ngoại giao của Hồ
Chí Minh trong những năm 1945-1946”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.26-28.
136. L.A. Patti (2008), Why Việt Nam? NXB Đà ẵng, Đà ẵng.
137. Ph.Devillers (1949), “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam”, Tạp chí Quốc tế, Paris
(2), tr.37-38.
138. Ph.Devillers (2003), Pari - Saigon - Hà Nội, Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến
tranh 1944-1947, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh.
139. Ph.răngxoa Gioay-Ô (1981), Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất. Giơnevơ 1954, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội.
140. Bùi Đình Phong (2015), Hồ Chí Minh tìm đư ng, mở đư ng, dẫn đư ng, thiết
kế tương lai, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
141. Đặng Phong (2002), Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Tập I: 1945-1954,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
176

142. Gareth Porter (1979), Vietnam: A History in Documents, New American


Library, New York.
143. A. Pulơ, (1998), Nước Mỹ và Đông Dương, từ Rudơven đến Níchxơn, NXB
Thông tin lý luận, Hà Nội.
144. Pierre Quatrepoint (2008), Sự mù quáng của tướng Đ Gôn đối với cuộc chiến
ở Đông Dương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. J. Sainteny (2004), Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ. Đối diện Hồ Chí
Minh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
146. Raoui Salan, Một đế chế cáo chung “ iệt Minh địch thủ của tôi” tháng mư i năm
1946 - tháng mư i năm 1954, Bản dịch lưu tại Thư viện Quân đội, Việt Nam.
147. Hoàng Bích Sơn (1986), “Về công tác ngoại giao trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr.38-42.
148. Stein, Tonnesson (2013), Việt Nam năm 1946, chiến tranh bắt đầu như thế
nào, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
149. Đặng Văn Thái (2004), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150. Nguyễn Thành (1988), Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp, NXB Thông tin lý luận,
Hà Nội.
151. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội.
152. Nguyễn Huy Toàn và nhiều tác giả (1996), Sự thật về những lần xuất quân
của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung, NXB Đà ẵng, Đà ẵng.
153. Trung tâm ưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ số 49, tờ 8- 9.
154. Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc (2003), Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
những sự kiện 1945-1960, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
155. Trần Trọng Trung (1996), “Cuộc đối thoại trước ngày nổ súng”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (12), tr.12-14, 22.
156. Trần Trọng Trung (1996), “Hội nghị Phôngtenblô”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8),
tr.58-61.
157. Trần Trọng Trung (2004), Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
177

158. Trần Trọng Trung (2006), “Chặng đường dẫn đến Hiệp định sơ bộ 6-3-1946”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (3), tr.53-58.
159. Trần Trọng Trung (2006), “Hồ Chí Minh từ thiện chí cứu vãn hòa bình đến quyết
tâm phát động kháng chiến”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (11), tr.3-9.
160. Trần Minh Trưởng (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao hòa bình,
hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.38-43.
161. Nguyễn Vũ Tùng (2018), Giáo trình Tiếp cận chính sách đối ngoại Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
162. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt
Nam, tập 10, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
163. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt
Nam, tập 11, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
164. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1995), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập II, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
165. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 1, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
166. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu
Tả ngạn sông Hồng (1945-1955), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 2, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội
168. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2009), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 3, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
169. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Tổng kết chỉ đạo tác chiến chiến lược,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
170. Viện Lịch sử Quân sự Việt am (2011), “Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 4, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
171. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2014), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 5, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
172. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2014), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 10,
NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
178

173. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2014), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam,
tập 4, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
174. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2016), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 6, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
175. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2018), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), tập 7, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
176. Viện Mác - Lênin (1986), Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt - Pháp, NXB
Thông tin lý luận, Hà Nội.
177. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - ênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (1995),
Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
178. Viện Quan hệ quốc tế (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao,
NXB Sự thật, Hà Nội.
179. Phạm Xanh (2006), “Cuộc viếng thăm Hà ội của một quan chức ngoại giao
Hoa Kỳ trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ”, Tạp chí Lịch sử Quân sự,
(12), tr.68-72.
180. Phạm Xanh (2006), “Hồ Chí Minh, hành trình Hà Nội - Pari - Hải Phòng năm
1946”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (10), tr.18-22.
181. ê Văn Yên (1998), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách
mạng giải phóng dân tộc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
179

PHỤ LỤC

Phụ lục 1
NỘI CÁC PHÁP, CAO ỦY VÀ TỔNG CHÍ HUY PHÁP Ở ĐÔNG DƯƠNG
(1945-1954)
1. Nội các Pháp
STT Tên Thủ tướng Lập Đổ Ghi chú
1 Charles de Gaulle 8-1944 1-1946 Tổng thống kiêm
2 Felix Gouin 1-1946 6-1946
3 Goerges Bidault 6-1946 11-1946 Lần thứ nhất
4 Léon Blum 12-1946 1-1947
5 Paul Ramadier 1-1947 11-1947
6 Maurice Schuman 11-1947 7-1948 Lần thứ nhất
7 André Marie 7-1948 8-1948
8 Maurice Schuman 8-1948 1-1949 Lần thứ hai
9 Henri Queuille 1-1949 10-1949 Lần thứ nhất
10 Jules Moch 5-10-1949 17-10-1949
11 René Mayer 17-10-1949 24-10-1949
12 Goerges Bidault 10-1949 6-1950 Lần thứ hai
13 René Pléven 6-1950 2-1951 Lần thứ nhất
14 Henri Queuille 2-1951 7-1951 Lần thứ hai
15 René Pléven 8-1951 2-1952 Lần thứ hai
16 Felix Faure 7-2-1952 27-2-1952 Lần thứ nhất
17 Antoine Pinay 3-1952 5-1953
18 René Mayer 5-1953 6-1953 Lần thứ hai
19 Joseph Laniel 6-1953 6-1954
20 Mendès France 6-1954 2-1955

- Chú thích:
+ ăm 1946, chính phủ đổ ba lần; năm 1949, đổ bốn lần.
+ ăm người làm Thủ tướng hai lần trong chín năm.
+ gười cầm quyền thời gian ngắn nhất: René Mayer: 7 ngày (1949); Jules
Moch: 12 ngày (1949).
180

2. Cao ủy và Tổng chỉ huy Pháp Đông Dương (1945-1954)


STT Tên Cao ủy Từ STT Tên Tổng chỉ huy Từ
1 Th. D’ Argenlieu 8-1945 1 Ph. Leclerc 8-1945
2 E.Bollaert 3-1947 2 E. Vallluy 7-1946
3 H. Blaizot 5-1948
3 L.Pignon 9-1948
4 M.Carpentier 9-1949
4 J.Delattre 12-1950 5 J.Delattre 12-1950
5 J.Letourneau 12-1951 6 R. Salan 12-1951
6 M.Dejean 6-1953 7 H. Navarre 5-1953
7 P.Ely 6-1954 8 P.Ely 6-1954

- Chú thích: Hai Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy:


1. Jean De Lattre de Tassigny 1950
2. Paul Ely 1954
Nguồn: Ban Chỉ đạo tổng kết cuộc chiến tranh [4, tr.440-441].
181

Phụ lục 2
THÀNH LẬP ĐẠO QUÂN VIỄN CHINH PHÁP Ở VIỄN ĐÔNG (THÁNG
10-1943 ĐẾN 8-1945)

Thương ượng với Đồng Minh


1. Vớ người Mỹ
Tướng Brossin de Saint - Didier, Trưởng phái đoàn quân sự Pháp ở Mỹ trình
lên tướng Marshall một bản ghi nhớ viết từ ngày 20-10-1944 có liên quan tới việc
tham gia của nước Pháp với các cuộc hành binh ở Viễn Đông.
Trong một cuộc gặp gỡ với đô đốc eahy, Tham mưu trưởng của Tổng thống
Roosevelt và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (Combined Chiefs of
Staff - C.C.S), đô đốc tuyên bố ông thuận tình với sự tham gia của Pháp và ông sẽ
xin Tổng thống tán thành. Ngày 20-1-1945, đã có sự phúc đáp của C.C.S. như sau:
“đề nghị hào hiệp” của Pháp đã được đánh giá cao, nhưng vì lý do các trục (hướng)
hoạt động hiện thời cũng như khả năng vận chuyển hạn chế (của Mỹ), Mỹ đã không
thể “xác định được lúc nào thì sẽ thực hiện được việc sử dụng những lực lượng
Pháp ở Viễn Đông”. Bộ chỉ huy Đồng Minh cũng từ chối bớt ra những tàu Pháp đã
tham gia hạm đội Đồng Minh và nếu nước Pháp cứ khăng khăng muốn đưa tàu sang
Viễn Đông thì Pháp sẽ phải tự đảm bảo lấy việc bảo trì và trang bị cho nó.
Ngoài những cuộc thương lượng ở Oasinhtơn, cũng còn có những cuộc tiếp
xúc với tướng Wedemeyer, Tham mưu trưởng lực lượng quân đội Đồng Minh đang
hoạt động ở Trung Quốc do tướng Blaizot, Đại sứ Pháp, tướng Pechkoff và tùy viên
quân sự Đại tá Sol tiến hành.
2. Vớ người Anh
Chiến trường chống Nhật chia làm ba Bộ chỉ huy:
- Tây am Thái Bình Dương, dưới quyền Mac - Arthur.
- Trung Quốc, dưới quyền Tưởng Giới Thạch, nhưng thực tế là do Tham
mưu trưởng của ông ta tướng Wedemeyer chỉ huy.
- Đông am Á (South East Area Command - S.E.A.C) dưới quyền đô đốc
Mountbatten.
182

Đông Dương không thuộc chính thức về Bộ chỉ huy nào và có những căng
thẳng giữa Mỹ và Anh về vấn đề này. Do vị trí địa lý, Bắc Kỳ nên thuộc về chiến
trường Trung Quốc và ngày 7-4-1945, tướng Wedemeyer đã nói với tướng Blaizot
là Đông Dương phải thuộc quyền chỉ huy của ông ta. Vả lại, sau đảo chính Nhật 9-
3, quân Pháp ở Bắc Kỳ đã chạy sang đất Trung Quốc. Trong cuộc chạy trốn ấy,
quân Pháp đã ít được Mỹ giúp đỡ, không những thế họ còn bị Mỹ coi là những kẻ
“đào tẩu”, những kẻ “lánh nạn” chứ không phải là những đơn vị chiến đấu và Mỹ đã
từ chối không trang bị lại cho họ, mặc dầu họ đã xin được đặt dưới quyền chỉ huy,
sử dụng của Mỹ. Ý đồ xấu của Mỹ còn thể hiện trong việc từ chối chở Binh đoàn
ứng chiến nhẹ của Pháp sang Ấn Độ và thêm nữa, trong tháng 4, trong việc gửi một
hòm thuốc ký ninh cho du kích Pháp ở Lào. Trái lại, am Đông Dương và am
ào, cũng như Cao Miên, nên thuộc về S.E.A.C. Vả lại, Lực lượng 136 đã tiếp tế
cho du kích Pháp ở Lào, khác với người Mỹ, Đô đốc Mounbatten lại rất ủng hộ việc
đưa một đạo quân viễn chinh Pháp sang Viễn Đông và thậm chí ông đã đề nghị việc
này với uân Đôn. hưng Chính phủ Anh vẫn cứ núp bóng sau quyền hành của
C.C.S. và cơ quan này thì như người ta đã biết, nó chẳng mấy quan tâm tới việc
thỏa mãn những yêu cầu của Pháp.
3. Những cuộc hội đàm giữa Juin và Marshall và bản ghi nhớ ngày 29-5-1945
Tướng Juin đến Mỹ để dự Hội nghị San Francisco, trong ngày 18-5-1945, đã
có những cuộc hội đàm rất thân mật với tướng Marshall và Đô đốc Leahy về vấn đề
tham gia của Pháp vào cuộc chiến chống Nhật. Ông được biết là Đồng Minh chưa
có dự kiến nào về hoạt động ở Nam Kỳ, nhưng một hành động Trung - Mỹ ở Bắc
Kỳ là có khả năng. Tướng Juin đề nghị đặt dưới quyền sử dụng của Đồng Minh một
đạo quân Viễn chinh. Đề nghị này, được nghiên cứu bởi Ủy ban Đông Dương ngày
25-5, và đã được cụ thể hóa bởi một bản ghi nhớ (hay bức giác thư), viết ngày 29-5.
Sự tham gia của Pháp được thể hiện ở việc gửi sang chiến trường hai sư đoàn người
da trắng; Binh đoàn ứng chiến nhẹ C.L.I. và Lữ đoàn Madagascar và sẽ được đặt
dưới quyền sử dụng của S.E.A.C.
Ngày 19-7, C.C.S trả lời rằng việc gửi một đạo quân Viễn chinh của Pháp
sang Viễn Đông vào lúc này là không thể thực hiện được, lý do là thiếu phương tiện
183

(nguyên văn “không có lượng chuyên chở có sẵn”) và đến trước mùa xuân 1946 thì
sẽ có thể sử dụng đạo quân này. Ngày 11-7, tướng Mac - Arthur đã thông báo danh
sách các đơn vị mà ông cho là cần thiết để thành lập đạo quân Viễn chinh, nhưng
theo một nguồn tin không chính thức ngày 3-8 thì các đơn vị Pháp sẽ tham gia vào
chiến trường của Mountbatten. Mà nếu ông này trù tính sẽ đổ bộ vào Đông Dương
vào tháng 10, thì dự kiến ấy vẫn chưa được chấp thuận.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.29-31].


184

Phụ lục 3
CHỈ THỊ CỦA TƯỚNG ĐỜ GÔN
Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Cộng hòa, Tổng tư ệnh q ân đội, gửi cao
ủy Pháp Đông Dương
Paris, 16-8-1945
1. Cao ủy Pháp ở Đông Dương (được) sử dụng những quyền hành của Toàn
quyền Đông Dương và những quyền hành của Tổng chỉ huy các lực lượng lục quân,
hải quân và không quân đóng ở Đông Dương hay được chỉ định để đến đấy.
Ông có nhiệm vụ thứ nhất là khôi phục chủ quyền của Pháp trong những
lãnh thổ của iên bang Đông Dương.
2. Tướng tổng chỉ huy các quân đội ở Viễn Đông có nhiệm vụ dưới quyền
của Cao ủy, tiến hành các biện pháp nhằm vào việc khôi phục chủ quyền ấy.
3. Các lực lượng được chỉ định sang Đông Dương hiện nay là như sau:
a, Đạo quân Viễn Đông đóng ở chính quốc.
b, Lữ đoàn thuộc địa đóng ở Madagascar, việc chuyển quân sẽ do cơ quan
Tổng tham mưu Bộ Quốc phòng và các cơ quan Bộ có liên quan giải quyết.
c, Binh đoàn ứng chiến nhẹ Đông Dương.
d, Lực lượng Pháp ở Trung Quốc và lực lượng lục quân tùy tình hình sẽ lập
lại ở Đông Dương.
e, Lực lượng hải quân Viễn Đông.
f, Lực lượng không quân Viễn Đông.
g, Lực lượng hải quân tùy tình hình sẽ đổ bộ.
4. Cao ủy được sử dụng các cơ quan của Tổng cục Tình báo.
5. Ông bảo đảm liên lạc với các chỉ huy Đồng Minh các chiến trường bằng
trung gian của các sỹ quan được ủy quyền.
6. Cao ủy có quyền trao cho Tổng chỉ huy sử dụng các lực lượng và phương
tiện ấy hay ủy nhiệm cho ông này những quyền hành chính mà ông xét thấy cần
thiết cho việc hoàn thành nhiệm vụ.
7. Trong trường hợp mà trong đó, vì lý do sự có mặt của lực lượng Đồng
Minh ở Đông Dương, tình hình không cho phép, cả ông cao ủy và Tổng chỉ huy, sử
185

dụng trực tiếp quyền hành của mình trên toàn bộ hay một phần lãnh thổ của Pháp,
thì những sỹ quan được ủy nhiệm nói trong điều 5, có thể nhận sự ủy quyền về quân
sự, chính trị và hành chính.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.148-149].


186

Phụ lục 4
CUỘC NÓI CHUYỆN GIỮA TƯỚNG SALAN VÀ
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Ngày 8-2-1946, từ 17h đến 18h30

Tướng Salan: à người chịu trách nhiệm về quân sự có mặt tại đây, tôi xin
cảm ơn gài về cử chỉ lịch thiệp gài đã thể hiện đối với các thương binh của tôi
trong chuyến tới thăm bệnh viện De Lanessan ngày 2-2 và những lời gài đã chúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tôi là một người bạn trung thành của nước Pháp. Đó
là ngày lễ Tết và tôi rất vui mừng được nhân dịp ấy thể hiện cảm tình của tôi đối với
đất nước ngài.
Tướng Salan: Trở về Hà Nội, tôi được biết trong những sự cố ngày 10 và 11
tháng Giêng, đã có những người Việt Nam che chở cho người Pháp trước một đám
đông, đó là một dấu hiệu đáng vui mừng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vâng, và ngoài ra gài hãy tin tôi, đa số người Đông
Dương không phải là bài Pháp, nhưng thật đáng tiếc là những sự việc ở miền Nam
và thái độ của các ông đã ngày càng đào sâu một cái hố giữa các ông và chúng tôi.
Tướng Salan: Cái hố ấy sẽ có thể lấp nhanh. gài có nghĩ tốt hơn là để
chúng tôi lập lại trật tự và sự bình yên ở đây vì chúng tôi có những phương tiện đầy
đủ một cách rộng rãi. Tôi chắc rằng đất nước sẽ rất biết ơn gài và gài sẽ làm ở
đây công việc của người đứng đầu chính phủ nếu gài để chúng tôi đổ bộ lên đây
mà không xảy ra một sự cố. Ngài sẽ chứng tỏ cho thế giới biết là Ngài có thể và biết
cách nắm giữ quân đội và đó sẽ là một biểu hiện rất rõ rệt về uy tín của Ngài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tôi không thể làm điều ấy mà không phản bội đất
nước tôi.
Tướng Salan: Đó không phải là phản bội đất nước khi giúp đất nước lấy lại
sự thịnh vượng trong một sự tự do chắc chắn sẽ tặng cho Ngài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: ước Pháp là một quốc gia lớn: chúng tôi yêu nước
Pháp, nhưng chúng tôi không muốn sống như nô lệ. Các ông có quân đông và trang
bị mạnh. Chúng tôi có ít vũ khí. Một người Pháp có thể giết mười người Việt Nam,
187

10 người Việt Nam có thể giết một người Pháp, Chúng tôi đông. ếu Việt Nam bị
nước Pháp đánh bại thì đó sẽ là một chiến thắng nhỏ, nhưng nếu Việt Nam nhờ
đoàn kết tất cả lực lượng mà đánh bại Pháp, thì đó sẽ là một chiến thắng rất to.
gười ta nói với chúng tôi vì một nước Pháp mới, vậy hãy chứng tỏ sự đổi
mới ấy đi.
Tướng Salan: nhưng nước Pháp đã sẵn sàng để chứng tỏ cái mới ấy. Vậy
thực ra Ngài muốn gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chẳng mấy quan trọng với tôi cái từ "độc lập" tôi
không bám giữ vào đấy. Chúng tôi không muốn sống nô lệ. Chẳng mấy quan trọng
với tôi cái từ "độc lập", cái tôi quan tâm là nội dung của nó. Chúng tôi muốn sống
tự do. Đương nhiên, chúng tôi muốn có nhiều những trao đổi kinh tế, nhiều những
quan hệ văn hóa rộng rãi hơn, những cán bộ, những kỹ thuật gia Pháp trên tất cả các
lĩnh vực, nhưng chúng tôi muốn làm chủ trên đất nước chúng tôi.
Tướng Salan: Tuyên bố ngày 24 tháng 3 cho các ông tất cả những cái đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: không, nó đã bị vượt quá xa từ lâu.
Tướng Salan: trong khi nói chuyện với các sĩ quan Pháp, họ có chỉ rõ quan
điểm của chúng tôi không?
Hồ Chí Minh: không, chưa bao giờ rõ ràng
Pháp ở Trùng Khánh, uân Đôn, Côn Minh, đã giải quyết với Trung Hoa về
số phận đất nước chúng tôi, nhưng với tôi thì chính phủ của các ông chẳng ai đề
nghị được một điều gì bổ ích hết.
Tướng Salan: tôi vẫn nghĩ rằng nếu Ngài không có một phản đối nào về sự
trở lại ở đây của chúng tôi thì chúng ta sẽ dễ dàng thỏa thuận với nhau. Việc đổ bộ
của chúng tôi sắp tới gần và chúng tôi lại rất mạnh, tại sao Ngài lại không thừa nhận
điều đó. ( ghe tiếng đổ bộ, Hồ Chí Minh tỏ ra bị ấn tượng và nỗi xúc động hiện lên
trên vẻ mặt của ông).
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tôi không muốn là kẻ phản bội đất nước tôi. Tôi đã
sống, ở trong rừng tôi đã chiến đấu chống quân Nhật, còn người Pháp, họ ở yên
trong nhà. Nếu các ông đổ bộ, chúng tôi không ngăn cản được các ông. hưng rồi
máu sẽ đổ và sẽ thật là bất hạnh bởi tôi không muốn thế; song, những người mẹ,
188

những trẻ em người Pháp sẽ bị giết. Tôi không thể giữ nổi đám đông và điều đó
thật đáng tiếc.
Tướng Salan: vâng, vì người ta không thể tha thứ cho điều đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tôi biết nhưng tôi không thể làm gì được cả; đó sẽ là
phản ứng của những con người không muốn bị trói buộc.
Tướng Salan: Ngài có những đảng phái chống lại Ngài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: và họ trách tôi là người yêu nước Pháp. Họ đã đưa
tôi ra trên báo của họ với hình ảnh khoác tay một người phụ nữ Pháp.
Tướng Salan: Trung Hoa có những nghĩa vụ với chúng tôi, với quốc tế bởi
Hiệp định Postdam và họ sẽ trung thành với nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tôi cũng nghĩ thế, hưng tôi vẫn giữ vững ý kiến là dù
ngay cả thế giới chống lại chúng tôi, chúng tôi cũng không muốn trở thành nô lệ. ước
Pháp là xứ sở của tự do, vậy nước Pháp hãy để chúng tôi tự do.
* *
*
Cuộc nói chuyện kết thúc, ông Hồ Chí Minh đã nhiều lần mời nước. Khi
xuống thềm ông nói với tôi "tướng quân, tôi biết ông nhân đạo. Chiều nay, chúng ta
là những người bạn, và có thể là kẻ thù ngày mai, tôi mong muốn rằng chúng ta vẫn
là bạn".
Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.202-204].
189

Phụ lục 5
THÔNG TRI: NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THAM MƯU ỦY BAN QUỐC
PHÒNG VỀ HIỆP ĐỊNH BỔ SUNG CHO HIỆP ĐỊNH 6-3
Paris, ngày 12-3-1946

Điều hai của hiệp định bổ sung kéo theo sự gạt bỏ hoàn toàn sau năm năm
các lực lượng Pháp khỏi đất nước Việt Nam.
Thậm chí nếu những xứ sở không phải Việt am mà đồng tình yêu cầu sự
duy trì của quân đội Pháp trên lãnh thổ của họ thì hiển nhiên vị trí của nước Pháp
chẳng bao lâu sẽ giống như vị trí mà nước Pháp đang giữ ở Trung Đông:
Để cho phép quyền lực của nước Pháp có thể đặt trên một căn cứ (cơ sở) cần
thiết về lãnh thổ thì quyền lực của nước Pháp cần thiết phải được công nhận ít nhất
là trên một xứ Mọi trải dài từ Trấn inh đến Đồng ai Thượng bao gồm cả từ Nha
Trang đến Phan Rang căn cứ thủy - Không quân Cam Ranh. Đó là điều cần phải
hiểu như vậy về gợi ý mà Bộ trưởng Thuộc địa đã nêu thành một vấn đề cấp bách
trong điện số 291 của ông.
Ngoài ra, có thể sau này còn nên dành cho chúng ta sự công nhận:
- Một căn cứ ở Hạ Long bao gồm cả Hòn Gai.
- Một căn cứ khác ở vùng Sài Gòn - Vũng Tàu.
- Xứ Thái kế cận với Trung Quốc.
- Các sân bay ở xung quanh Hà Nội và ở Cam Ranh, Đà ạt, Sài Gòn.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.226-227].


190

Phụ lục 6
ĐIỆN CỦA CHÍNH PHỦ GỬI ĐÔ ĐỐC D’ARGENLIEU DO ỦY BAN
ĐÔNG ĐƯƠNG CHUYỂN
Ngày 13-3-1946
Qua điện 213/CI ngày 9-3, tôi đã báo ông biết về sự phê chuẩn của chính phủ
đối với các hiệp định mà chúng tôi được biết qua điện 410F ngày 7-3.
Điện số 234/EM HO nói về những thỏa thuận bổ sung cho hiệp định chính
ngày 6-3 chỉ đến chúng tôi ngày 12-3.
Chính phủ hiện đang bị đặt trước một sự đã rồi, có liên quan đến những điểm
mà chính phủ chưa được hỏi ý kiến bao giờ.
Yêu cầu sau này ông không bao giờ ký kết một hiệp định nào, bất kể là nó có
tính chất gì, mà nội dung của nó trước đó không được đưa ra chính phủ để có sự
đồng ý.
Hãy có những dè dặt đối với việc thay quân trong trường hợp mà sự an toàn
của Liên bang và của con người và của cải tỏ ra không bảo đảm vì sự rút quân quá
gấp dồn dập của lực lượng quân sự.
Xin ông chỉ rõ, ông đã quy định ai là người sẽ chịu trách nhiệm về tài chính
cho quân đội Việt hay ông đã có dự kiến về những hiệp định tài chính.
gười ta cho tôi biết, cùng với những người hiểu biết kỹ về Nam Kỳ, chúng
ta có thể tổ chức cả một phong trào để ngăn cản Nam Kỳ hợp nhất với Bắc Kỳ dưới
khẩu hiệu “ am Kỳ cho người Nam Kỳ”. Đối với vấn đề ấy, chúng ta có thể thu
được một thắng lợi lớn về chính sự.
Ủy ban Đông Dương. Marius Moutet
Ký: De Langlade
Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.227-228].
191

Phụ lục 7
TƯỜNG TRÌNH CỦA TƯỚNG VALLUY
VỀ NHỮNG LÝ DO QUÂN SỰ CHỐNG LẠI VIỆC THỰC HIỆN
“MỘT ĐÒN GIÁNG BẰNG SỨC MẠNH”
Pari, ngày 30-3-1946
I. Dù cái từ “đòn gi ng bằng sức mạnh” được định nghĩa chính x c như
thế nào, về mặt quân sự, chắc chắn dù muốn hay không, nó sẽ phải được cụ thể
hóa Hà Nội bằng việc đánh chiếm thành phố bằng vũ trang và xuất phát từ sự bắt
buộc phải tiêu diệt sức đề kháng nhất định sẽ xảy ra do phản ứng (của đối phương).
Theo những tin tức đến nay thu thập được, những sự đề kháng ấy đến từ:
- Chắc chắn là những người Việt am: quân đội chính quy, không chính quy
và bán quân sự, và sự tham gia chiến đấu của dân thường, tất cả đều được vũ trang
cẩn thận.
- Có thể là cả những người Trung Hoa: hoặc công khai, hoặc bí mật (binh
lính giả trang, tổ chức tự vệ) và những đơn vị vũ trang hiện đại.
Nói một cách khác, mọi âm mưu thực hiện một “đòn giáng bằng sức mạnh”
chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh chung toàn thành phố.
II. Cứ cho là cuộc chiến ấy xảy ra đi thì chúng ta c được những gì để
đương đầ hay đúng hơn à khả năng chính x c của c c hương tiện ấy. (Binh
đoàn 2 thiết giáp và số binh sỹ ở trong thành).
- Về mặt kỹ thuật, sau một cuộc nghiên cứu do cơ quan tham mưu của chỉ
huy Bắc Đông Dương tiến hành sau khi tới Hà Nội, chúng ta có thể, sau khi cho biết
trước ba giờ:
1. Tung ra ở khu vực thành phố nằm ở phía Bắc tuyến đường 221, phố Reinach,
phố Parie (trừ khu Hoa - Việt ở Bắc hồ Hoàn Kiếm), binh đoàn 2 thiết giáp mà tối đa
nó chỉ bảo đảm sự tự do đi lại tạm thời các tuyến đường chính.
2. Tung ra theo đường tiến của binh đoàn thiết giáp nói trên, 3 tiểu đoàn yếu
(petits bataillons) thuộc số quân đóng ở trong thành, mà tối đa có chỉ chiếm lĩnh được
ít nhiều một cách bấp bênh một số điểm nhạy cảm chính và một số ngã tư chính.
3. Giữ sân bay Gia Lâm bằng một tiểu đoàn thứ tư.
192

III. Với một cuộc hành binh như thế, kết quả th được trong nội thành
sẽ ra sao?
Nếu tất cả đều ổn thì dù đối phương có phản ứng, chúng ta vẫn giữ được
những điểm cần chiếm. hưng nói thẳng ra, sự chiếm đóng ấy chỉ là một sự “kẻ ô
vuông Hà Nội của Pháp” trong cái mạng mắt lưới ấy của ô vuông, chúng ta chẳng
thâm nhập được và cũng chẳng càn quét được do những rủi ro to lớn (nhất là tổn
thất về thiết giáp trong một cuộc chiến đầy bất trắc trong thành phố).
gười Pháp lại sống rải rác trong thành phố cho nên những cuộc tàn sát tập
thể là rất đáng sợ. Tất nhiên, đa số người Pháp đều được bảo vệ, nhưng đối với cái
thiểu số không phải là nhỏ con, thì đối với họ, nguy hiểm là rất nhiều và chắc chắn.
IV. Ngoài ra, dù hiệu quả thế nào hành động của chúng ta cũng không
thể giới hạn được về thời gian cũng như về không gian
Nghe tin Hà Nội bị Pháp đánh úp, lập tức các đơn vị các tỉnh Việt Nam sẽ
kéo đến chi viện và lệnh chiến tranh du kích trên toàn quốc sẽ chắc chắn được ban
bố. Điều đó sẽ kéo dài cuộc chiến đấu và mở ra ngoài thành phố.
Hai dạng vẻ (về thời gian và không gian) của sự kéo dài ấy sẽ làm nảy sinh
những vấn đề gì cho chúng ta?
1. Khả năng kéo dài chiến đấu của quân đội Pháp ở Hà Nội
2. Sự can thiệp của Pháp đến từ Hải Phòng.
Với vấn đề thứ nhất, nó phụ thuộc vào:
a) Đối với bộ binh, là khả năng chiến đấu hạn chế của mấy tiểu đoàn trang bị
kém ở trong thành.
b) Số lượng hạn chế về đạn dược và ét săng (mà quan chức dân sự đã biết).
Số lượng ấy có thể ước lương là đủ cho 2 ngày chiến đấu, và 300km/một đầu xe.
Với vấn đề thứ hai, nó chỉ phụ thuộc duy nhất vào khả năng đi lại trên đường
Hải Phòng - Hà Nội. Về việc này, chỉ cần nêu lên những khó khăn trong việc qua lại
các cầu Lai Vu, Hải Dương và Đume ( ong Biên). Việc này chính quyền dân sự đã
biết. Vả lại, họ cũng biết về tầm quan trọng của các cây cầu ấy nên Chỉ huy Bắc
Đông Dương đã muốn có được sự kiểm soát thực sự đối với trục giao thông này,
điều mà (đến nay) vẫn không được bảo đảm chút nào.
193

V. Cho đến đây trong nghi n cứu chuyên môn này, các khía cạnh chính
trị vẫn chưa được đề cậ đến một cách có chủ ý
Tuy nhiên, có một vài xem xét về chính trị chúng ta không thể bỏ sót.
Trong đó, điểm chính nó liên quan chặt chẽ với những xem xét về quân sự, là
vấn đề: sự can thiệp của người Trung Hoa.
Sự can thiệp ấy, dù công khai hay ngụy trang, sẽ có nguy cơ kéo theo một
cách nghiêm trọng sự phát động những hành động tiến công đồng thời ở Hà Nội và
Hải Phòng về phía những người Trung Hoa. Đấy còn chưa kể những rắc rối quốc tế
mà chúng ta không thể tự lừa dối mình mà không tính đến. Có lẽ nên nhắc rằng ở
Bắc vĩ tuyến 16, ước tính người Trung Hoa có 100.000 quân, mà - nói nhỏ với nhau
- trong đó có 30.000 quân có thể nhanh chóng can thiệp ở đồng bằng Bắc Kỳ.
VI. Để tóm tắt nghiên cứu nói trên, chỉ riêng về mặt quân sự chuyên
môn (gạt bỏ những cân nhắc về mặt chính trị mà chính quyền dân sự đã đủ
biết) tình hình à như a :
1. Việc đánh chiếm lấy Hà Nội bằng một đòn sức mạnh không chắc chắn
thành công.
2. hưng chắc chắn nó sẽ kéo theo nhiều tổn thất cho thường dân Pháp ở Hà Nội.
3. Hậu quả của nó (về phía đối phương) sẽ là sự phát động của một cuộc
chiến tranh du kích toàn dân ở Bắc Kỳ, một cuộc chiến tranh du kích mà chúng ta
không chắc đã đương đầu nổi.
4. Rất có thể nó sẽ kéo đến sự can thiệp của người Trung Hoa, kèm theo đó
là những hệ lụy về chính trị và quân sự.
Tôi kết luận:
Mọi hành động phô trương về phía chúng ta trong tình hình hiện nay đều có
thể gây ra, đối với những đầu óc Pháp và Việt, những kích thích quá độ để tạo ra
một cuộc khủng hoảng gay gắt mà cuối cùng chúng ta chỉ có thể thoát ra nổi bằng
một thử thách về sức mạnh. Hành động đó phải kiên quyết loại bỏ.
Bởi vì chúng ta không có sức mạnh!
Thực vậy, một thử thách như thế hiện thời, sau một vài thắng lợi có tính chất
chiến thuật và cục bộ, sẽ kết thúc bằng một tư thế quốc tế bị suy yếu. Cắt đứt hoàn
194

toàn với Việt Nam, thử thách ấy sẽ có những hệ quả chính trị không thể tính xuể, và
trong khi tạo ra cái không thể sửa chữa được, nó sẽ đưa đất nước chúng ta lao vào
một cuộc viễn chinh lần thứ hai, một điều mà đất nước chúng ta không muốn.
Và việc mất uy tín của chúng ta sẽ là vĩnh viễn ở châu Á.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.233-236].


195

Phụ lục 8
TUYÊN BỐ CHUNG CỦA CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA PHÁP VÀ CHÍNH
PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Pari, ngày 14 - 9 - 1946
Chính phủ Cộng hòa Pháp và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
quyết định theo đuổi, với một tinh thần tin cậy lẫn nhau, chính sách hòa thuận và
hợp tác được thiết lập bởi Hiệp định sơ bộ ngày mùng 6-3-1946 và được xác định rõ
qua quá trình hội nghị Pháp Việt ở Đà ạt và ở Fontainebleau.
Tin duy nhất chính sách ấy phù hợp với lợi ích lâu dài của hai đất nước và
với truyền thống dân chủ mà họ đòi hỏi, hai chính phủ, trong khi tham khảo Hiệp
định 6-3-1946 đang có hiệu lực, cho rằng đã đến lúc đánh dấu một tiến bộ mới
trong sự phát triển của những mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam, trong khi chờ
đợi những hoàn cảnh cho phép ký kết một hiệp định toàn bộ và quyết định.
Trong một tinh thần hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau, chính phủ Cộng hòa
Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành ký một Tạm ước,
mang đến, trong khuôn khổ của những thỏa thuận có hạn, những giải pháp tạm thời
cho những vấn đề chính về quyền lợi tức thì đang đặt ra giữa Pháp và Việt Nam.
Về những gì liên quan đến cuộc trưng cầu dân ý do Hiệp định sơ bộ 6-3 dự
kiến, hai chính phủ sẽ dành ra để ấn định sau này về thời gian và các thể thức.
Cả hai chính phủ đều tin là tổng thể các biện pháp chứa đựng trong Tạm ước
sẽ đóng góp vào việc tạo ra trong một tương lai gần 1 không khí yên bình và tin cậy
cho phép tiếp tục sau này những cuộc thương lượng cuối cùng.
Vậy cả hai đều cho rằng có thể dự kiến đến 1-1947 sẽ tiếp tục làm nốt những
công việc vừa làm ở hội nghị Pháp - Việt Fontainebleau.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.287].


196

Phụ lục 9
THÔNG TRI CỦA TƯỚNG LECLRC VỀ TÌNH HÌNH HIỆN TẠI
Ở ĐÔNG DƯƠNG
Paris, 5-12-1946

Trong lúc những sự kiện ở Đông Dương thêm trầm trọng, tôi xin nói rõ lập
trường của tôi vẫn luôn luôn như thế nào đối với vấn đề ấy, và tóm tắt những sự
kiện chính.
Trong toàn bộ mùa Đông 45-46, mục tiêu là phải chiếm lại tối đa lãnh thổ,
căn cứ vào những khả năng quân sự của Pháp. Tình hình nhanh chóng tỏ ra là quân
số của quân đội viễn chinh cho phép ta chiếm lại một cách hiệu quả Nam Kỳ, Nam
Trung Kỳ và giữ những điểm trọng yếu ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Mên và Lào.
Ngày tiến quân của chúng ta ra Bắc Kỳ chỉ được xác định duy nhất bởi
những khả năng về hải quân và quân sự của chúng ta, vì ngay từ đầu, chúng ta
muốn càng sớm càng tốt cứu nguy cho số đồng bào ta đang trong tình trạng bấp
bênh giữa quân đội Trung Hoa và những người Việt Nam nổi loạn.
Việc ký kết Hiệp định 6-3 trùng hợp với ngày đến Bắc Kỳ của quân Viễn chinh
và nhờ đó cho phép đóng chiếm Hải Phòng - Hải Dương - Hà Nội và Hải Phòng - Hòn
Gai một cách không khó khăn gì, trừ sự cố Hải Phòng với quân Trung Hoa.
Hơn bao giờ hết, từ lúc đó, sự cần thiết phải có một đường lối chính trị thích
hợp với từng vùng đã được đặt ra với chúng ta:
Trong khi ở Nam Kỳ và Nam Trung Kỳ, mật độ quân đội của chúng ta cho
phép ta mỗi ngày một nắm được quyền chi phối phương hướng chính trị của các sự
kiện, thì ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tình hình không phải như vậy, vấn đề ở đây là
phải hòa giải tối đa các quyền lợi của Pháp và của Việt Nam. Việc này có thể thực
hiện được, nhờ có sự tồn tại của Chính phủ Hồ Chí Minh.
Chắc chắn chính phủ ấy trước hết là ủng hộ Việt am, và chưa hoàn toàn
được toàn thể dân chúng tuân theo, chắc chắn Hồ Chí Minh là người đấu tranh kiên
cường cho độc lập, một nhà yêu nước lớn; ngoài ra, tất cả đều có thể đạt được đối
với chính phủ này nếu chúng ta hết sức chú ý gượng nhẹ với những vấn đề "thể
diện" của họ.
197

Tóm lại, không có đủ phương tiện để bẻ gãy tinh thần dân chủ của Việt Nam
bằng vũ khí, nước Pháp hãy tìm mọi cách để kết hợp quyền lợi của mình với quyền
lợi của Việt Nam.
Trước là ông Sainteny, sau là Đại tá Cre'pin, các ông đã hoàn toàn hiểu rõ
vấn đề, cho nên ta đã thu được những kết quả lớn trong quá trình từ tháng 3 đến
tháng 8.
Không nghi ngờ gì, vẫn còn nhiều vấn đề nghiêm trọng phải giải quyết, đặc
biệt với Hồ Chí Minh, ông không thể quyết định từ bỏ Nam Kỳ một cách hoàn toàn
và không hơn không kém như ông đã cho biết trong các cuộc đàm phán ở
Fontainebleau.
Tuy nhiên, với sự tế nhị, khôn khéo và thời gian, những vấn đề này sẽ có thể
tìm ra một giải pháp. Rủi thay, hình như đã có một phương pháp hoàn toàn khác đã
được sử dụng từ vài tháng nay. gười ta muốn dùng vũ lực để bẻ gãy sức đề kháng
của Việt Nam, áp dụng lại những phương pháp có từ ngày tái chiếm; ngoài ra,
người ta không tin vào tính hiệu quả của Hồ Chí Minh và êkíp của ông.
Tôi đã rời Đông Dương quá lâu để có thẩm quyền đầy đủ nói về những vấn đề
này, tuy nhiên tôi vẫn kiên trì cho rằng phương pháp sau cùng này sao mà nó khá giống
với phương pháp người Anh chút nữa đã dùng, nếu cách đây 6 tháng họ cử sang Ai
Cập một người Anh yêu nước - ông ta kiên quyết bằng sức mạnh bắt vua Ai Cập phải
quay về trong giới hạn của sự tuân phục. hưng người Anh đã thương lượng, đã ve
vãn... và vẫn không từ bỏ kênh Suez.
Đó là phương pháp chúng ta đã dùng cách đây 6 tháng ở Bắc Kỳ. Tôi không
có ý so sánh Hồ Chí Minh với nhà vua Farouk, nhưng làm cho (đối phương) nắm
được sự cần thiết - điều thường xảy ra trong thời đại chúng ta - đối xử khéo léo, ve
vãn mà vẫn không rời bỏ cái cốt yếu.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.339-341].


198

Phụ lục 10
LỜI TUYÊN BỐ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI PHÓNG VIÊN BÁO
“ ARI - SÀI GÒN”
Ngày 13 tháng 12 năm 1946

Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến
tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này
chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách. Chúng tôi tha thiết với nền độc lập, nhưng
nước Việt am độc lập ở trong khối Liên hiệp Pháp.
ước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi
hàng bao nhiêu sinh mạng. hưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi
phải làm thì chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi không lạ gì những điều đang đợi chúng tôi.
ước Pháp có những phương tiện ghê gớm, và cuộc chiến đấu sẽ khốc hại, nhưng
dân tộc Việt am đã sẵn sang chịu đựng tất cả, chứ không chịu mất tự do. Dù sao,
tôi mong rằng chúng ta sẽ không đi tới cách giải quyết ấy.
Cả nước Pháp lẫn nước Việt am đều không thể phí sức gây một cuộc chiến
tranh khốc hại, và nếu phải kiến thiết trên một đống hoang tàn thì thật là khốc hại.

Nguồn: Báo Cứu quốc, số 434, ngày 13 - 12 - 1946; Hồ Chí Minh [116, tr.526].
199

Phụ lục 11
ĐIỆN CỦA LE’ON BLUM GỬI CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(Q a Tướng Valluy)
Ngày 20 -12 - 1946

Gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hà Nội


Trong khi Marius Moutet, phái viên của Chính phủ sửa soạn lên đường đi
Đông Dương nhằm đánh tan những hiểu lầm và tìm cách trở lại trạng thái hòa bình,
đáp ứng lời kêu gọi của Ngài trong bức công hàm ngày 16, chúng tôi được tin
những hành động chiến tranh nghiêm trọng đã xảy ra và ông Ủy viên Sainteny đã bị
trọng thương. Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu Ngài ra lệnh tức khắc để ngăn chặn
ngay chiến sự. Phái viên của Chính phủ chúng tôi sắp đến. Chúng tôi mong muốn
duy trì hòa bình và thực hiện các hiệp định nếu là một nền hòa bình trung thực.
Không thể chấp nhận bất cứ một sự vi phạm nào.
t n: LE’ON BLUM MARIUS MOUTET

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.348-349].


200

Phụ lục 12
Trích: ĐIỆN CỦA TƯƠNG JUIN GỬI VALLUY
Ngày 20-12-1946

Gửi tướng Valluy. Chính phủ ra lệnh cho ông đi đến được một cuộc ngưng
bắn nếu ông có khả năng, mà không phương hại gì đến tình hình quân đội và kiều
dân Pháp. Phái viên Chính phủ lên đường ngay nhằm thử ngăn chặn một cuộc chiến
tranh thật sự xảy ra. Yêu cầu giải thích rõ nguồn gốc các biến cố đã xảy ra. Sự kiện
nào đã gây ra việc tái chiếm các cơ quan chính quyền Hà Nội và việc tái chiếm này
đã đóng vai trò gì? Thủ tướng Blum đã gửi điện cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua
ông, có văn bản kèm theo đây.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.349].


201

Phụ lục 13
ĐIỆN VĂN GỬI ÔNG LE’ON BLUM

Chiều hôm qua, 22-12, tôi có nhận được điện văn của Ngài. Tôi rất hân hạnh
được biết ông Bộ trưởng Mutê, Ủy viên của Chính phủ Pháp, khởi hành sang Việt
Nam. Nhờ một sự may mắn vô cùng, tôi đã thoát khỏi những làn đạn của quân đội
Pháp tấn công vào dinh tôi. Ông Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của chúng tôi bị thương
trong cuộc tấn công này.
Chúng tôi rất lấy làm phàn nàn rằng cuộc xung đột đã lan rộng; cuộc xung
đột khởi đầu ở Hà Nội ngày 17-12 bằng một cuộc tàn sát đàn bà, trẻ con và người
già của Việt Nam, bằng việc tàn phá cả một khu phố, rồi ngày hôm sau bằng việc
chiếm đóng trụ sở hai bộ của Chính phủ chúng tôi; tiếp đến ngày hôm sau nữa, 19-
12, bằng việc gửi một tối hậu thư đòi giao Sở Công an cho nhà chức trách Pháp và
đòi tước khí giới các đội tự vệ của chúng tôi.
Chúng tôi cũng như gài, rất mong muốn giữ vững hòa bình và thi hành
thành thực những thỏa hiệp đã ký kết, như tôi đã từng nói rõ trong nhiều lời kêu gọi
gửi đến Ngài.
Chúng tôi mong sẽ nhận được lệnh các nhà chức trách Pháp ở Hà Nội phải
rút quân đội về những vị trí trước ngày 17-12 và phải đình chỉ những cuộc hành
binh mệnh danh là tảo thanh, để cho cuộc xung đột chấm dứt ngay.
Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 1946
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
HỒ CHÍ MINH
Nguồn: Hồ Chí Minh [116, 541]; Gilbert Bodinier [21, tr.352-353].
202

Phụ lục 14
ĐỐI THOẠI CÔNG KHAI GIỮA D’ARGENLIEU - MOUTET
Sài Gòn ngày 27 tháng 12 năm 1946

D’Argen ie : Những hành vi cực đoan cuối cùng và bỉ ổi mà các nhà lãnh
đạo Chính phủ Hà Nội vừa mới phạm đã thay đổi tính chất ban đầu của chuyến đi
công cán của gài. Trước vụ bạo lực ngày 19-12, chẳng phải gài đã dự định sẽ cố
gắng một lần nữa và trịnh trọng hơn, làm một cuộc vận động hòa dịu và hiểu biết
lẫn nhau có tính chất khuyên họ đi đến một cái nhìn chính xác và bổ ích hơn về tình
hình và về ý định của nước Pháp đối với nước Việt Nam sao?
Moutet: Tôi đến đây với tư cách là một sứ giả của hòa bình, nhằm đánh tan
mọi sự hiểu lầm, làm dễ dàng cho một sự thỏa thuận về những điểm cụ thể mà
không nhượng bộ về một số yêu sách. Tôi đã vỡ mộng một cách cay đắng khi nghĩ
rằng những Hiệp định đã được ký kết không thể đi vào hiệu lực thi hành.
D’Argen ie : Ở đây, không ai là không biết đến các cử chỉ biết bao cao
thượng của chúng ta khi chúng ta tiến hành ngày 14-9-1946 tại Paris, việc ký kết
bản Tạm ước; bản tạm ước đó được chúng ta thực hiện một cách hoàn toàn trung
thực, chắc chắn đã mang lại những kết quả có ích với điều kiện chúng ta cũng tìm
thấy ở những người ký kết bên kia một sự biết điều tối thiểu trong việc thi hành
những văn bản ràng buộc chính bản thân họ thông qua cá nhân vị chủ tịch của mình.
Trận mai phục Hải Phòng và kế đó là vụ bạo lực Hà Nội đã nói lên rõ rằng, những
nhà lãnh đạo Việt Nam hoàn toàn không biết chút gì về những ý định của Chính
phủ nước Cộng hòa (Pháp) và của những người được Chính phủ ủy quyền.
Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.361-362].
203

Phụ lục 15
TRÍCH NHẬT KÝ CỦA D’ARGENLIEU
Hà Nội, ngày 30-12-1946

+ Hồi 22 giờ 30: Theo Pignon, có những triển vọng mở ra. Những triển vọng
đó nhìn chung đều hướng về ý nghĩa phục hung lại chế độ quân chủ. Khó lòng thực
hiện lặng lẽ. Đương nhiên thôi: một sự phục hung bao giờ cũng là điều khó khăn và
tế nhị; nhưng nó giúp người ta thoát ra khỏi một tình thế hỗn độn.
+ Theo ý tôi, cần phải làm như sau:
1. Đừng để nảy sinh một sự thông đồng nào giữa Chính phủ Cách mạng Việt
Nam và Bộ Pháp quốc Hải ngoại, dù là rất nhỏ.
2. Trên những căn cứ chính xác, Chính phủ (Pháp) hãy tố cáo các thỏa ước
và hiệp định, không phải để trở lại với thực chất nội dung của nó, mà là để tự giải
thoát khỏi những bên cùng ký kết ác tâm và đáng ghét.
3. Phải chuẩn bị và cuối cùng dựng lên được một chính phủ mới có khả năng
tạo ra một “cú sốc”

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.365].


204

Phụ lục 16
TUYÊN BỐ CHÍNH TRỊ CỦA LE’ON BLUM
Paris, ngày 23 tháng 12 năm 1946
Chúng ta đã bắt buộc phải đương đầu với bạo lực. Tôi tuyên bố rằng những
người đang đánh nhau bên kia, những người Pháp ở Đông Dương, những dân cư
bạn có thể dựa hoàn toàn vào sự cảnh giác và sự quyết định của Chính phủ.
Tôi tuyên bố một cách cũng rõ ràng như vậy rằng những tất yếu nặng nề đè
xuống trên lưng chúng ta sẽ không thay đổi chút gì về những nguyên tắc chỉ đạo
đường lối chính trị của chúng ta. Chúng ta sẽ không bịt tai trước bất cứ một khả
năng nào chấm dứt được tình thế hiện tại.
Hệ thống thuộc địa cũ thiết lập quyền sở hữu bằng sự xâm lăng và duy trì nó
bằng sự áp bức, theo xu hướng khai thác đất đai và các dân tộc bị chinh phục, ngày
nay đã lỗi thời lắm rồi. Về vấn đề này, không có sự khác biệt quan điểm giữa Quốc
hội với chúng tôi. Trong chủ nghĩa cộng hòa của chúng ta, sự chiếm hữu thuộc địa
chỉ đạt tới mục đích cuối cùng và chỉ có thể biện hộ được khi nào nó chấm dứt, tức là
khi mà dân tộc bị chiếm làm thuộc địa đó đã có đầy đủ khả năng để sống tự lập và tự
cai trị lấy mình. Cái phần thưởng của nước thực dân lúc đó sẽ là việc đã khơi gợi lên
ở dân tộc thuộc địa những tình cảm biết ơn và yêu quý, đã tạo ra sự am hiểu và sự
đoàn kết về tư tưởng, về văn hóa, về lợi ích, cho phép hai bên thống nhất với nhau
trên tinh thần tự nguyện.
Một khi cuộc khủng hoảng này đã được khắc phục, thì mục đích của chúng
ta vẫn luôn luôn là một. Không phải vấn đề thỏa mãn các quyền lợi cá nhân, càng
không phải vấn đề bàn trở lại những nguyên tắc và những lời cam kết của chúng ta.
Mà vấn đề là bắt tay trở lại và tiếp tục sự nghiệp bị gián đoạn với tất cả tấm
lòng trung thực của mình, có nghĩa là tổ chức một nước Việt Nam tự do (phản đối
của cánh hữu) trong một iên bang Đông Dương tự nguyện liên kết với Liên hiệp
Pháp. hưng trước hết, cần phải lập lại trật tự hòa bình là điều kiện cơ bản tất yếu
cho việc thực hiện các điều thỏa thuận.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.366-367].


205

Phụ lục 17
TRÍCH: TUYÊN BỐ CỦA MOUTET
Sài Gòn, ngày 7 tháng 1 năm 1947

ước Pháp không muốn làm sai lời nói của mình, nhưng nó muốn điều đình
một cách thoải mái với những đại diện chân chính của dân tộc Việt Nam, quyết tâm
thi hành hết sức trung thực những Hiệp định đã tự nguyện thỏa thuận với nhau. Tôi
chưa bao giờ cho rằng một quyết định quân sự có thể thay thế cho những giải pháp
chính trị. Tôi muốn hy vọng rằng thời điểm của những giải pháp chính trị sẽ đến
trong một ngày không xa.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.375].


206

Phụ lục 18
TRÍCH: BÁO CÁO CỦA LECLERC GỬI LE’ON BLUM VỀ CHUYẾN
CÔNG TÁC TẠI ĐÔNG DƯƠNG

... với những phương tiện đang có hiện nay..., Bộ Chỉ huy (Pháp) không thể
đánh được một trận nào gọi là quyết định triển vọng duy nhất của nó, nếu hoạt động
của nó được kết hợp chặt chẽ với hoạt động chính trị, là cộng tác để làm tiêu hao dần
Chính phủ Hồ Chí Minh hiện nay. Với một sư đoàn phụ lực và với điều kiện là có
một công tác chính trị thích nghi, thì công cuộc bình định Nam và Trung Kỳ có thể
được đảm bảo thành công hơn... Còn ở Bắc Kỳ thì Bộ Chỉ huy có thể nuôi dưỡng lực
lượng nhằm một chiến dịch hoạt động mạnh mẽ vào Đông - Xuân 1947 - 1948.
Đạo quân viễn chinh lúc đó sẽ ở trong một tình thế tương tự như tình thế
tháng 3-1946 khi ký kết Hiệp định sơ bộ. hưng lần này, cần thiết hoạt động chính
trị, kết hợp chặt chẽ và tiếp nối vào hoạt động quân sự, phải mang lại kết quả thắng
lợi, nếu không thì vấn đề sẽ không có câu giải đáp.
Đây không cần thiết phải nhấn mạnh về tính chất nghiêm trọng của thời điểm
hiện tại. ước Pháp hôm nay phải quyết định chính sách của mình, sẽ như thế nào...
đồng thời cũng quyết định nó có thể và nó muốn cung cấp một cố gắng quân sự mới
ở tầm cỡ nào...
Đứng trước một tình hình như vậy, thì giải pháp dĩ nhiên sẽ phức hợp và
chắc chắn là phải kéo dài, chỉ có thể là một giải pháp chính trị: năm 1947, Pháp sẽ
không dung nổi vũ khí để đè nén một tập hợp đông hàng 24 triệu người đang lớn
mạnh lên, mang tư tưởng bài ngoại và có thể cả tư tưởng quốc gia chủ nghĩa nữa.
Tuy nhiên, một sự cố gắng quân sự kèm theo hoạt động chính trị của chúng ta ngày
càng mạnh mẽ thì giải pháp đó càng có khả năng và nhanh chóng thành công. Tất cả
vấn đề là ở đấy.
Việc xem xét chính sách của chúng ta không thuộc trách nhiệm của tôi. Tuy
vậy, tôi cũng xin phép được dự đoán rằng nội dung chính sách đó sẽ là đối lập với
chủ nghĩa quốc gia hiện nay của Việt Minh bằng một hoặc nhiều chủ nghĩa quốc gia
khác. Ở đâu?, Bao giờ? Thỏa thuận với ai? Cái khó của vấn đề rõ ràng là ở những
câu hỏi đó...
207

Bộ Chỉ huy địa phương, sau khi đã cân nhắc về những phương tiện sẵn có
trong tay, cũng cần phải cân nhắc thêm hai nhân tố sau đây:
Một mặt: Vấn đề thời gian (có thể kéo dài) tức đòi hỏi tránh tiêu hao phương
tiện quá sớm.
Mặt khác: Tiến hành một hoạt động rộng rãi và rất tích cực trên những địa
bàn đã chọn, nếu không, chúng ta sẽ ngày càng trở thành những tù nhân trong
những thành phố và căn cứ mà chúng ta chiếm đóng. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ,
vấn đề cơ bản vẫn là vấn đề chính trị. Đây là vấn đề điều đình với một chủ nghĩa
quốc gia bài ngoại đang trỗi dậy, là khai thông, nhằm bảo vệ lấy, ít nhất là một phần
nào, những quyền lợi chính đáng của nước Pháp.

Ngày 8 tháng 1 năm 1947


Ký tên: LECLERC

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.377-378].


208

Phụ lục 19
TRÍCH: THƯ CỦA D’ARGENLIEU GỬI DE GAULLE
Ngày 14 tháng 1 năm 1947

Nhờ ơn Chúa, Moutet đã không có một cuộc tiếp xúc cá nhân nào với nhóm
ông Hồ Chí Minh. Đó là một điểm thắng lợi đầu tiên.
Cần thiết, ngày mai Chính phủ tuyên bố đã quyết định chấm dứt mọi quan hệ
với nhóm ấy và trở lại hoàn toàn tự do. Cần phải nói thêm rằng ý đồ chính trị rộng
rãi tự do cơ bản vẫn luôn luôn là một, không có gì thay đổi, nhưng sẽ được tiếp tục
với những nhân vật khác thực sự tiêu biểu cho nhân dân Việt am. Đây sẽ là điểm
thứ hai.
Lực lượng vũ trang của chúng ta sẽ tiếp tục khôi phục lại trật tự công cộng
trên mọi điểm mấu chốt của vùng châu thổ Bắc Kỳ và dải đất Trung Kỳ. Họ phải
truy kích Chính phủ lưu vong và loại trừ nó đi.
Đối với những ai vượt lên được trên những tình huống đau thương của một
ngày, thì dường như cuộc bỏ chạy đáng xấu hổ của Chính phủ Hồ Chí Minh mở ra
cho nước Pháp một thuận lợi vô song trong hành động nhằm tiếp tục và hoàn thành
một cách xứng đáng sứ mệnh của nó tại Đông Dương.

Nguồn: Gilbert Bodinier [21, tr.376].


209

Phụ lục 20
THƯ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH GỬI ÔNG SANITENY

Gửi ông Sainteny, Ủy viên Cộng hòa.


Bạn thân mến,
Tôi vừa nhận được tin ông sắp trở về Pháp. Tôi gửi tới ông và bà Sainteny
những lời chúc lên đường bình an và sức khỏe tốt.
Tôi tin chắc rằng, cũng như tôi, ông rất tiếc công việc chung vì hòa bình của
chúng ta đã bị phá hủy bởi cuộc chiến tranh anh em này. Tôi đã hiểu ông khá rõ để
nói với ông, là ông không phải chịu trách nhiệm về chính sách vũ lực và tái chinh
phục này.
Vì vậy, tôi muốn được nhắc lại với ông, mặc dù mọi việc đã xảy ra, giữa ông
và tôi, chúng ta vẫn còn là bạn. Và tôi cũng có thể khẳng định với ông, nhân dân hai
nước chúng ta cũng vẫn là bạn của nhau.
Đã xảy ra khá nhiều chết chóc và tàn phá! Ông và tôi, chúng ta phải làm gì
bây giờ? Chỉ cần nước Pháp công nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, lập
tức xung đột sẽ ngừng, hòa bình và niềm tin cậy lẫn nhau sẽ trở lại, chúng ta sẽ lại
có thể bắt tay vào công việc xây dựng lại vì lợi ích chung của hai nước chúng ta.
Về phần tôi, tôi sẵn sàng cộng tác vì hòa bình, một nền hòa bình chính đáng
và danh dự cho hai nước chúng ta. Tôi mong rằng, về phía ông, ông cũng sẽ làm
việc theo hướng đó.
Chúng ta hãy cầu mong Thượng đế ban cho chúng ta sự thành công.
Người bạn tận tụy của ông
24-12-1947
Hồ Chí Minh

Nguồn: Ph. Devillers [138, tr.395-397].


210

Phụ lục 21
TRÍCH THÔNG TRI CỦA BAN BÍ THƯ
Ngày 27 tháng 12 năm 1953
Về lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhà báo Thuỵ Điển

… Hồ Chủ tịch tuyên bố rõ lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết
kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành
thương lượng nhằm mục đích giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam. Bọn thực dân Pháp
và phe lũ không thể đổ cho Việt Nam muốn kéo dài chiến tranh mà chỉ có chúng là
muốn “hoà bình”. ời tuyên bố của Hồ Chủ tịch đã gỡ mặt nạ thực dân Pháp và phe lũ,
làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới thấy rõ luận điểm hoà bình giả dối của
thực dân Pháp và lòng thiết tha yêu chuộng hoà bình thật sự của nhân dân ta.
Song Hồ Chủ tịch cũng nói rõ muốn giải quyết vấn đề Việt Nam một cách
hoà bình, chỉ có mộtcacsh là thực dân Pháp đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, thôi bắn giết nhân dân Việt Nam, tôn trọng nền độc lập thực sự của Việt Nam
và hai bên trực tiếp nói chuyện với nhau. hư thế là đối với nhân dân Việt Nam,
hoà bình không thể tách r i độc lập dân tộc.
… Tại sao Hồ Chủ tịch tuyên bố với nhà báo Thuỵ Điển?
Trong nhân dân và cán bộ ta, có người cho lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch chỉ
cốt để tuyên truyền đối ngoại; còn ta thì thực tế không muốn hoà bình, chỉ có việc
đánh cho kỳ tiêu diệt hết thực dân Pháp trên đất nước ta. Tưởng như thế là lầm.
Trong lịch sử, có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hoà bình mà đi đến đình
chiến. Chiến tranh Triều Tiên là một thí dụ. Hơn nữa, hiện nay đường lối chung của
phe ta trên thế giới là: dùng mọi cách để gây lại và tăng cường hoà hoãn quốc tế,
gìn giữ và củng cố hoà bình thế giới và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trái lại chủ
trương cảu phe đế quốc là tìm hết cách để phá hoại cuộc hợp tác hoà bình giữa các
nước, làm cho tình hình quốc tế ngày càng thêm căng thẳng và xúc tiến việc chuẩn
bị chiến tranh thế giới thứ ba.
… hân dân ta chiến đấu chống bọn xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng
vì hoà bình thế giới. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của dân tộc ta, đồng
thời cũng là kẻ thù của nhân dân thế giới.
211

Hồ Chủ tịch nói hoà bình không phải để tuyên truyền đối ngoại, mà chính vì
vấn đề Việt am cũng như các vấn đề tranh chấp khác trên thế giới có thể giải
quyết bằng cách thương lượng hoà bình.
Gần đây, trước phong trào hoà bình thế giới ngày càng lên mạnh, thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ và bọn Việt gian bù nhìn cũng nói đến “hoà bình”. hưng sự thật
chúng muốn che đậy mưu mô đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt - Miên - Lào, lừa
bịp dư luận thế giới và dư luận trong nước chúng, chứ không phải chúng thực tâm
muốn hoà bình. Ta không nên để chúng đeo chiêu bài hoà bình mà lừa phỉnh dư
luận. Ngọn c hoà bình phải do tay ta nắm lấy và giương cao lên.
Ta nói hoà bình, nếu địch vì lẽ này hay lẽ khác, phải nhận thương lượng trên
cơ sở “tôn trọng độc lập của Việt am” để đi đến đình chiến ở Việt Nam thì vấn đề
Việt Nam sẽ được giải quyết bằng phương pháp hoà bình. Song thực dân Pháp
không nhận thương lượng hoà bình thì chúng tự gỡ mặt nạ trước dư luận nhân dân
nước chúng và dư luận thế giới.
Tuy vậy, như Hồ Chủ tịch đã căn dặn: chúng ta tuyệt đối không nên có ảo
tưởng rằng hoà bình sẽ đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hoà bình cũng như
độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được…

Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn kiện Đảng, Toàn tập, tập 14, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, [42, tr.553-556].

You might also like