You are on page 1of 7

Các bệnh không truyền nghiễm, trong đó bao gồm ung thư đang là nguyên nhân

hàng đầu dẫn đến tử vong hiện nay[1]. Ung thư là từ chỉ một nhóm lớn các bệnh mà bắt
đầu bằng sự nhân lên mất kiểm soát của một hay nhiều nhóm tế bào dẫn đến sự xâm lấn
các bộ phận lân cận và di căn đến các bộ phận khác của cơ thể, gây tử vong cho người
bệnh. Năm 2020, theo số liệu của cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (IACR, thuộc
WHO) có hơn 19 triệu ca mắc mới và hơn 9,96 triệu ca tử vong trên 185 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Năm 2021, ước tính có hơn 20 triệu người được chẩn đoán mắc ung thư và
đã có hơn 10 triệu người tử vong do ung thư .Tại việt nam số ca mắc ung thư mới và ca
tử vong đang không ngừng gia tăng, cũng theo cơ quan này năm 2020 chúng ta ghi nhận
hơn 182.500 ca mới, 122.690 ca tử vong trên tổng số 97,3 triệu dân. Hiện nay còn
353.000 bệnh nhân đang điều trị ung thư. Với tỷ lệ tử vong xếp thứ 50/185(106/100.000),
việc chẩn đoán sớm đi kèm với tích cực điều trị, nâng cao chất lượng cuộc sống góp phần
lầm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân ung thư[2]. Trong đó hóa trị là một phương pháp điều
trị ung thư chính, mang lại hiệu quả cao.
Phương pháp lai hóa phân tử là kết hợp hai hay nhiều nhóm hợp chất có tác dụng
dược lý để cải thiện hiệu quả và hoạt tính của thuốc mới so với các hợp chất gốc ban
đầu[4] . Thuốc chống ung thư được tổng hợp bằng phương pháp lai hóa mang lại lợi ích
điều trị lớn vì khả năng khắc phục được các nhược điểm về dược động học thường gặp
phải khi sử dụng thuốc chống ung thư thông thường[3].
Các hợp chất dị vòng luôn được đánh giá là một nhóm chất có nhiều đặc điểm phù
hợp để thiết các thuốc có tác dụng tốt vì nhóm chất này có xu hướng tương tác liên kết
với các enzyme[4]. Một trong những hợp chất dị vòng quan trọng là triazoles. Vòng
triazoles có nhiều đặc tính dược lý khác nhau, đặc biệt là hoạt tính chống ung thư. Mặt
khác,người ta đã phát hiện ra rằng 1,2,3-triazole có khả năng chống lại sự phân hủy trong
quá trình trao đổi chất và việc đưa chúng vào trong phân tử giúp tăng khả năng hòa
tan,tăng sinh khả dụng và giúp tăng cường hoạt tính các nhóm dược lý gốc[5].
Các chất ức chế enzym Topoisomerase I là Indenoisoquinoline[6,7,8,9], được xác
định có tính ổn định hóa học cao hơn so với camptothecin. Các chất này đã được xác định
có hoạt tính chống tăng sinh với các dòng tế bào ung thư khác nhau. Topoisomerase I là
một enyme có vai trò quan trọng trong quá trình phiên mã, nhân đôi DNA, nó có chức
năng làm giãn xoắn DNA trong cả quá trình phiên mã và nhân đôi, enzyme sẽ tạo liên kết
cộng hóa trị với DNA cho đến khi đóng xoắn. Indenoisoquinoline tạo phức với enzyme
bằng cách tạo các liên kết cộng hóa trị từ đó gây ức chế enzyme và làm mất khả năng
giãn xoắn sợi DNA của các topoisomerase[10,11,12,13,14,15,16], vì thế tế bào ung thư
không thể hoàn thành các quá trình nhân lên và chết đi.
Do đó, nghiên cứu tổng hợp các dẫn xuất lai mới của Indenoisoquinoline theo
hướng tác dụng gây độc tế bào nhằm tìm kiếm các chất có hoạt tính chống ung thư theo
cơ chế gây độc Topoisomerase I có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Vì vậy, đề tài: “Nghiên cứu tổng hợp, xác định cấu trúc và tác dụng gây độc tế bào
ung thư một số dẫn xuất chứa dị vòng triazole của indenoisoquinoline” được tiến hành
với ba mục tiêu:
1. Tổng hợp các dẫn chất mới của Indenoisoquinoline
2. Xác định cấu trúc của các dẫn chất mới tổng hợp được.
3. Thử tác dụng gây độc tế bào.

Giới thiệu về indenoisoquinoline.


Indenoisoquinoline là hợp chất với tác dụng tương đồng camptothecin là ức chế
nhưng được nghiên cứu phát triển để khắc phục những điểm yếu của campothecin[8,17].
Khả năng tạo phức ổn định với phức hợp Top I- DNA (TopIcc), ngăn chặn sự đóng xoắn
của DNA gây ra các đứt gãy dẫn đến cái chết của tế bào[10,16]. Vì vậy,
indenoisoquinoline là mộ trong những khung cấu trúc quan trọng, đang được nhiều sự
chú ý đến vì các hoạt tính sinh học của chúng, đặc biệt là khả năng gây độc tế bào đối với
các tế bào ung thư ở người.[17],[19],[20],[21],[22],[23],[24],[25],[26],[27].

Indenoisoquinoline ít bị ảnh hưởng bởi các đột biến kháng thuốc Top1 của R364H
và N722S và các kênh thải trừ thuốc qua niêm mạc hơn camptothecin [10].
Topoisomerase I và II đang được hướng đến trong việc nghiên cứu và phát triển
các thuốc chống ung thư mới. Topoisomerase là một họ enzyme quan trọng đóng vai trò
then chốt trong các quá trình của DNA, bao gồm phiên mã, sao chép DNA. Chúng điều
khiển DNA một cách phức tạp, cho phép các sợi giãn xoắn, tách ra và đóng xoắn trong
suốt các chu trình tế bào [29]. Có hai loại Topoisomerase chính là Topoisomerase I và
topoisomerase II. Trong đó Topoisomerase I có ba loại phụ là IA, IB, IC[30]. TOP IA gắn
vào một mạch đơn của DNA rồi tách nó ra khỏi mạch kép và tạo liên kết cộng hóa trị ở
đầu 5’-phosphoryl. Việc này giúp nó truyền chuỗi DNA nguyên vẹn qua vết cắt, làm tahy
đổi cấu trúc DNA. TOP IA làm DNA giãn xoắn, tháo các nút thắt của DNA cho phép nó
sao chép và phiên mã [33]. TOP IB, IC cũng làm giãn xoắn một sợi đơn DNA nhưng với
cơ chế khác chúng gắn vào vị trí 3’phosphoryl với xúc tác của tyrosine bằng liên kết cộng
hóa trị [34]. Cả hai sử dụng chung cơ chế “xoay” để làm giãn các siêu xoắn DNA. Trong
cơ chế này, enzyme tương tác với DNA, làm đứt một sợi, cho phép DNA xoay quanh sợi
nguyên vẹn và cuối cùng làm lộ ra vết cắt [35].

Cơ chế hoạt động chung của TOP I liên quan đến việc làm giãn xoắn DNA và
ngăn chặn việc đóng xoắn ngay từ đầu trong các quá trình của DNA. Thông qua các
tương tác không cộng hóa trị, TOP I nhận biết và liên kết với một trình tự DNA cụ thể,
thường là các vùng DNA có chuỗi đơn. Sau đó, TOP I tạo ra sự phân cắt thuận nghịch ở
một trong các chuỗi DNA [36]. Sự đứt gãy này xảy ra bằng cách hình thành liên kết cộng
hóa trị giữa vị trí hoạt động hoặc vị trí xúc tác tyrosine và nhóm 3'-phosphoryl của DNA
[37]. Các chất ức chế TOPO I can thiệp vào quá trình biến tính và dẻo của khung DNA,
điều này rất quan trọng trong quá trình sao chép và phiên mã DNA. Bằng cách ngăn chặn
hoạt động của các enzyme Topoisomerase, có thể phá vỡ bước đóng xoắn trong DNA
trong quá trình sao chép hoặc phiên mã, dẫn đến sự phân tách DNA [38]. Những sự phân
tách này có thể phá vỡ tính toàn vẹn bộ gen của tế bào và kích hoạt các cơ chế, chẳng hạn
như sự chết tế bào hoặc hoại tử [39].

Cơ chế hoạt động chung (MOA) của TOPO I liên quan đến việc làm dịu quá trình siêu xoắn DNA
và ngăn ngừa ứng suất xoắn DNA ngay từ đầu; TOPO I nhận biết và liên kết với một trình tự DNA cụ thể,
thường là các vùng có DNA chuỗi đơn, thông qua các tương tác không cộng hóa trị [13]. Sau đó, TOPO I
tạo ra sự phân cắt thuận nghịch ở một trong các chuỗi DNA [14]. Sự đứt gãy này xảy ra bằng cách hình
thành liên kết cộng hóa trị giữa vị trí hoạt động hoặc vị trí xúc tác của dư lượng tyrosine (TYR) và nhóm
3'-phosphoryl của DNA [15]. Các chất ức chế TOPO I can thiệp vào quá trình biến tính và ủ của khung
DNA, điều này rất quan trọng cho quá trình sao chép và phiên mã DNA. Bằng cách ngăn chặn hoạt động
của enzyme TOPO, có thể phá vỡ bước thắt trong DNA trong quá trình sao chép hoặc phiên mã, dẫn đến
sự phân tách DNA [16]. Những sự cố này có thể phá vỡ tính toàn vẹn bộ gen của tế bào và kích hoạt các
cơ chế, chẳng hạn như apoptosis hoặc hoại tử (Hình 1) [17].

Tương tự, TOPO II cũng bao gồm hai phân nhóm: loại IIA và IIB. Có khả năng TOPO IIA đóng vai
trò quan trọng trong quá trình phân chia tế bào. TOPO IIB được biểu hiện ở các tế bào sau phân bào và
có thể quan trọng trong việc điều chỉnh sự biểu hiện của các gen dài, ngay cả ở giai đoạn đầu này.

Trong khi đó, topoisomerase loại IB được phát hiện ở cả sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân chuẩn,
bao gồm cả con người. Phân nhóm này bao gồm topoisomerase I của con người. Topoisomerase loại IB
phá vỡ một chuỗi DNA, tương tự như enzyme loại IA [1]. Tuy nhiên, chúng khác nhau ở chỗ gắn vào vị trí
xúc tác của dư lượng tyrosine [7]. Topoisomerase loại IB liên kết cộng hóa trị tyrosine với nhóm 3'-
phosphoryl của DNA [8]. Họ sử dụng một cơ chế gọi là cơ chế “xoay” để làm giãn các siêu xoắn DNA.
Trong cơ chế này, enzyme tương tác với DNA, làm đứt một sợi, cho phép DNA xoay quanh sợi nguyên
vẹn và cuối cùng làm lộ ra vết cắt [9]. Topoisomerase loại IB có liên quan đến quá trình sao chép, phiên
mã, sửa chữa và tái cấu trúc nhiễm sắc thể. Topoisomerase loại IC có cấu trúc tương tự enzyme loại IB và
có chung một số đặc điểm chức năng. Chúng phá vỡ một chuỗi đơn trong DNA và liên kết cộng hóa trị
với tyrosine có túi xúc tác đến đầu 3’-phosphoryl của DNA [10]. Topoisomerase loại IC tuân theo cơ chế
xoay để làm thư giãn các siêu xoắn DNA, tương tự như topoisomera loại IB. Những enzyme này chủ yếu
được phát hiện ở vi khuẩn cổ, nhưng chúng cũng có mặt ở một số vi khuẩn và virus. Chức năng và vai trò

cụ thể của chúng trong chuyển hóa DNA vẫn đang được nghiên cứu

ở đây chủ yếu có hai loại topoisomerase (TOPO): topoisomerase I (TOPO I) và topoisomerase II
(TOPO II). Hơn nữa, có ba loại phụ của topoisomerase loại I: loại IA, IB và I

Topoisomerase là một loại enzyme quan trọng đóng vai trò then chốt trong các quá trình khác
nhau liên quan đến DNA, bao gồm sao chép và phiên mã DNA. Chúng kiểm soát cấu trúc liên kết DNA
một cách phức tạp, cho phép các sợi thư giãn, tách ra và nối lại một cách liền mạch trong các quá trình
thiết yếu của tế bào.

Tác dụng chống ung thư của các dẫn xuất


Các chất ức chế topoisomerase I (TOP I) bao gồm dẫn xuất camptothecin,
irinotecan và topotecan, indenoisoquinoline NSC 314622 được FDA chấp thuận để điều
trị ung thư đại trực tràng, buồng trứng, phổi, hạch tân sinh và vú [34], [42].
Indenoisoquinolines tạo ra phức hợp phân tách DNA-TOP ổn định giống như các
chất tương tự camptothecin, nhưng thể hiện sự chọn lọc đối với các vị trí phân cắt DNA
cụ thể. Ưu tiên này cho phép chúng nhắm mục tiêu hiệu quả vào các dòng tế bào kháng
camptothecin. Các dẫn xuất này là ổn định về mặt hóa học và nhắm mục tiêu tác động lên
các tế bào biểu hiện quá mức. Bằng cách ổn định phức hợp phân hủy, chúng gây ra sự
phá hủy DNA, thể hiện hiệu quả của chúng như là phương pháp điều trị chống ung thư
mạnh. Hơn nữa, indenoisoquinolines làm trì hoãn DNA sửa chữa, dẫn đến sự chết tế bào
[17].
Viện ung thư Hoa kỳ đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng pha 1 và pha 2 với đối với
bệnh ung thư hạch bằng cách sử dụng các chất độc Top1 mới non-camptothecin là các
dẫn xuất indenoisoquinoline. Với ưu điểm là đã khắc phục được các hạn chế của
camptothecin như: ổn định hơn về mặt hóa học, thời gian lưu thuốc lâu hơn, không gây
tiêu chảy nặng. Hai dẫn xuất LMP 400 và LMp 776 đã hoàn thành thử nghiệm lâm sàng
pha 2. Một dẫn xuất khác là LMP 744 đang được phát triển thử nghiệm lâm sàng cho thấy
hoạt tính mạnh hơn LMP 400 và LMP 776 [7], [41].

NCI đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I và giai đoạn II đối với bệnh ung thư hạch tân
sinh bằng cách sử dụng các chất độc Top1 mới không phải CPT được gọi là indenoisoquinolines. Hai dẫn
xuất của nó là LMP400 (15) và LMP776 (16), đã trải qua thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II. Một dẫn xuất
indenoisoquinoline khác LMP744 (17) đang được phát triển lâm sàng và hoạt động mạnh hơn LMP400
và LMP766

Các chất ức chế indenoisoquinoline TOP I (LMP400, LMP776 và LMP744), đã


khắc phục những hạn chế như: tính không ổn định về mặt hóa học ( như camptothecin),
thời gian bán hủy trong huyết tương ngắn, thuốc thoát ra ngoài bởi các chất vận chuyển
ABC đa kháng thuốc và tiêu chảy nặng (như do irinotecan gây ra).

Indenoisoq
Indenoisoquinolines tạo ra phức hợp phân tách DNA-TOPO ổn định giống như các chất tương tự
camptothecin, nhưng thể hiện sự ưa thích đối với các vị trí phân cắt DNA cụ thể. Ưu tiên này cho phép
chúng nhắm mục tiêu hiệu quả vào các dòng tế bào kháng camptothecin. Các dẫn xuất này là ổn định về
mặt hóa học và nhắm mục tiêu tác động lên các tế bào biểu hiện quá mức các chất vận chuyển băng
cassette gắn ATP là ABCG2 và P-glycoprotein (MDR1). Bằng cách ổn định phức hợp phân hủy, chúng gây
ra sự phá hủy DNA, thể hiện hiệu quả của chúng như là phương pháp điều trị chống ung thư mạnh. Hơn
nữa, indenoisoquinolines làm trì hoãn DNA sửa chữa, dẫn đến apoptosis
1 giới thiệu về dẫn chất indeoisoquinoline
Những nghiên cứu của Cushman và các cộng sự đã chỉ ra các dẫn chất
indenoisoquinoline là những chất ức chế Top I mới tốt hơn về dược động học và độ ổn
định hóa học tốt cùng với khả năng tạo tổn thương không hồi phục sau khi thuốc bị thanh
thải[28]. Một số loại indonesoquinoline có khả năng liên kết và xen vào DNA khi không
có enzym và những loại khác thậm chí có thể tương tác trực tiếp với protein
topoisomerase I của động vật có vú ở nồng độ thuốc cao [10]. Hai dẫn xuất
indenoisoquinolines đã hoàn thành giai đoạn thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I/giai đoạn
II, LMP400 (indotecan), LMP776 (indimitecan). Nhiều dẫn xuất chứa phức đồng được
phát triển có hoạt tính chống ung thư hiệu quả cao [43], [44], [45] liên quan đến các cơ
chế hoạt động khác nhau, ionophores và chất ức chế proteasome đến ức chế
topoisomerase I và/hoặc topoisomerase II dẫn đến tổn thương DNA nghiêm trọng, ngừng
chu kỳ tế bào và cuối cùng là làm chết tế bào ung thư [6].
Các loại thuốc dựa trên kim loại đã được thiết kế và phát triển để có tác dụng gây độc tế bào đối
với tế bào ung thư kể từ khi phát hiện ra đặc tính chống ung thư của bạch kim [1,2,3,4]. Khi chúng áp
dụng nhiều dạng hình học phối hợp khác nhau, các kim loại vi lượng thiết yếu [5,6] được sử dụng để
thực hiện các loại thuốc phức hợp dựa trên kim loại trong các liệu pháp hóa trị chống ung thư. Đặc biệt,
nhiều phức hợp đồng được phát triển có hoạt tính chống ung thư hiệu quả cao [7,8,9] liên quan đến các
cơ chế hoạt động khác nhau, từ chất thải sắt [10], ionophores [11] và chất ức chế proteasome [12] đến
ức chế topoisomerase I và/hoặc topoisomerase II dẫn đến tổn thương DNA nghiêm trọng, ngừng chu kỳ
tế bào và cuối cùng là làm chết tế bào ung thư

You might also like