You are on page 1of 16

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Anh chị hãy phân tích các quan điểm về con người kinh tế
trong nghiên cứu xã hội học kinh tế.
- Kinh tế học cổ điển từng coi con người là thực thể kinh tế hay “
con người kinh tế” với đặc trưng là vì lợi ích, ích kỉ, luôn tính lỗ
- lãi, thiệt – hơn, được mất
- Theo Adam Smith trong kinh tế học chính trị cổ điển con người
kinh tế là luôn bị thúc đẩy bởi động cơ lợi ích cá nhân, theo
nguyên tắc bỏ ra ít mà thu về nhiều
 Ví dụ: Trong các xã hội có giai cấp, lợi ích kinh tế tất yếu
mang tính chất giai cấp. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lợi
ích của giai cấp tư sản là thu được giá trị thặng dư và lợi
nhuận tối đa bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm
thuê. Còn lợi ích kinh tế của những người lao động chỉ hạn
chế trong phạm vi giá trị sức lao động của họ. Do lợi ích
kinh tế có tính giai cấp nên trong điều kiện có nhiều thành
phần kinh tế như hiện nay tất yếu tồn tại mâu thuẫn về lợi
ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể
kinh tế khác với nhau
- Quan niệm “ con người kinh tế” là công cụ rất đắc lực trong
việc giải thích hành vi kinh tế và hành động xã hội của các cá
nhân. Chẳng hạn , một số nhà nghiên cứu nhận định rằng các
bậc cha mẹ sẽ đầu tư vào việc học hành của con cái nhiều
hơn nếu họ biết chắc rằng điều đó bảo đảm cho việc làm và
thu nhập trong tương lai của con cái họ. Một số nghiên cứu
dân số học phát hiện thấy hành vi sinh đẻ của các cặp vợ
chồng liên quan tới giá trị kinh tế mà đứa con có thể đem lại.
Chẳng hạn, nhiều gia đình ngư dân ven biển mong muốn đẻ
con trai để có thêm nguồn động lao động đánh bắt hải sản
trên biển bởi công việc này luôn đòi hỏi sức khỏe và khả
năng chịu đừng sóng gió của nam giới.
 Ví dụ: lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa: Có thể thấy lực lượng sản xuất
trong lĩnh vực nông thôn của Hà Nội còn thấp, năng suất
lao động thấp. Trong khi đó, CNH, HĐH xác định chuyển
đổi căn bản, toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ quản lý từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng lao động cùng với công nghệ, phương tiện máy móc
kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. Lợi ích kinh tế của nông dân
chính là nhu cầu được chuyển đổi từ sử dụng lao động thủ
công sang lao động sử dụng công nghệ tạo ra năng suất lao
động hiệu quả. Lợi ích kinh tế của nông dân là tổng thể
những nguồn thu từ hoạt động kinh tế của họ để đáp ứng
nhu cầu sản xuất và sinh hoạt cho mọi thành viên trong gia
đình. Trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân,
người dân vừa là chủ thể tiến hành, vừa là người trực tiếp
thụ hưởng thành quả của quá trình CNH, HĐH. Chính
người nông dân trực tiếp giải quyết lợi ích cho chính mình
thông qua phát triển sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập,
cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bản
thân và gia đình.
- Khái niệm con người kinh tế gắn liền với khái niệm hành vi
kinh tế, hành động kinh tế.
 Ví dụ: hành vi mua bán, là hành động thuần túy duy lý vì
dựa vào thông tin đầy đủ, chính xác về giá cả sản phẩm và
các cơ hội, điều kiện trao đổi trên thị trường. Hành động
kinh tế tuân theo động cơ cá nhân và vì lợi ích vật chất cá
nhân.
2. Sử dụng quan điểm về con người xã hội phân tích hoạt động
lựa chọn việc làm của sinh viên
- Con người xã hội được coi là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống xã
hội. Điều đó có nghĩa là nhà xã hội học không quan tâm nghiên
cứu những con người “riêng biệt” hay con người thực đang tồn tại
trong các hành động xã hội cùng mối quan hệ xã hội ràng buộc.
Con người xã hội là cơ sở của các tập hợp, các nhóm, các tầng lớp
xã hội ,một thành viên của cộng đồng người và của nhân loại. Nói
đến con người xã hội là con người có ngôn ngữ, có ý thức – tự ý
thức, sống thành xã hội thông qua các quá trình hoạt động – giao
tiếp, có phong cách xã hội, mang đậm nét ý thức xã hội và sống
bằng lao động với việc sử dụng công cụ, phương tiện, kỹ thuật.
- Theo quan niệm của Gabriel Tarde, hành động kinh tế (C) là kết
quả của sự tương tác gồm 2 nhân tố là sự mong muốn ( D) và niềm
tin ( Cr) được biểu diễn trong công thức: C=f ( D, CR)
- Theo quan niệm “ con người xã hội”, Kurt Lewin (1890- 1947),
nhà tâm lý học – xã hội người Đức cho rằng hành động kinh tế ( C)
phụ thuộc vào không gian kinh tế (S) và các đặc điểm nhân cách
( P). Mối quan hệ này được Lewin biểu diễn qua các công thức: C=
f (P,S)
- Chúng ta làm rõ về “ quan điểm con người xã hội” qua hoạt động
lựa chọn việc làm của sinh viên. Sinh viên được coi là lực lượng
lao động khỏe mạnh, dù có kiến thức hay sức khỏe tốt thì học
ngành nghề nào phù hợp. Hiện nay, rất nhiều sinh viên tìm việc
làm thêm với nhiều lý do khác nhau, cho thấy thực trạng việc làm
thêm với nhiều lý do khác nhau, cho thấy thực trạng việc làm thêm
của sinh viên hiện nay chủ yếu là để kiếm thêm một số tiền trang
trải cuộc sống khi đi học. Hiện nay thì lao động VN chiếm slg lớn
trong độ tuổi từ 18-23, đặc biệt là sinh viên đang theo học tại các
trường cao đẳng, đại học trên cả nước. Nhiều bạn chọn đi làm
thêm ngoài giờ để được tiếp xúc, trao dồi kỹ năng, kiếm thêm thu
nhập. Có thể thấy rất nhiều hình thức làm thêm như làm thêm, giúp
việc gia đình hay công việc sản xuất được trả lương. Tùy từng vị
trí mà phương thức tuyển dụng khác nhau nên bạn yên tâm sẽ lựa
chọn được vị trí phù hợp với nhu cầu của mình. Sinh viên có thể
tham gia công việc làm thêm và có thu nhập ổn định hàng tháng,
đủ để trang trải chi phí sinh hoạt. Phần lớn sinh viên bán thời gian
sẽ tập trung vào các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Cần
Thơ…Sinh viên dành phần lớn thời gian kiếm thêm thu nhập –
trung bình 4,5 giờ mỗi ngày, nhiều hơn thời gian học trên lớp và
nhóm (3 giờ), học ở nhà ( 2,5 giờ) hoặc học tại thư viện (1,6 giờ).
Sinh viên nếu có thời gian đi làm thêm, bạn nên tìm một công việc
liên quan đến ngành học của mình để tích lũy kiến thức và kinh
nghiệm cùng như kỹ năng mềm như: Kỹ năng sống, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian…Quan
trọng hơn, trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, nhà tuyển dụng
không chỉ quan tâm về điểm số, trình độ học vấn mà còn là những
kinh nghiệm đi làm thêm của sinh viên khi còn đi học.

3. Anh chị hãy phân tích hiện trạng về phân tầng mức sống của
Việt Nam giai đoạn hiện nay. Tác động tiêu cực của phân tầng
mức sống đến sự phát triển xã hội.
 Hiện trạng về phân tầng mức sống
- PTXH là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Nó
được định nghĩa là: “sự xếp hạng một cách ổn định các vị trí
trong xã hội xét từ góc độ quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền,
đặc lợi không ngang nhau”. Trong sự PTXH, có các “tầng” mỗi
tầng là một tập hợp người (cá nhân) giống nhau về địa vị, bao
gồm địa vị kinh tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính trị (quyền lực)
hay địa vị xã hội (như uy tín), từ đó mà họ có được những cơ hội
thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong xã
hội. Sự PTXH thường được mô tả dưới dạng các “tháp phân
tầng” với những hình dáng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc trưng
của các loại xã hội. Về cơ bản, PTXH là một sự phân chia mang
tính cấu trúc các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên những đặc
trưng về vị thế kinh tế – xã hội của các cá nhân. Vì vậy, khái
niệm PTXH phân biệt với các khái niệm gần gũi như: phân hoá
giai cấp, phân hoá giàu nghèo, phân cực xã hội. Thời gian qua ở
nước ta, trong các tài liệu nghiên cứu và cả trên các phương tiện
truyền thông, thường sử dụng thêm một khái niệm có nội hàm
hẹp hơn – “phân hoá giàu – nghèo” – đi kèm theo khái niệm
PTXH. Điều này là cần thiết (như đã nói trên) và nó cũng phản
ánh một sự thật là hầu hết các nghiên cứu và các kết luận về
PTXH ở nước ta gần đây thực chất mới chỉ đề cập tới sự phân
hoá giàu nghèo chứ chưa phải sự PTXH với nghĩa chính xác của
từ này. Chính vì thế, một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội đã
thận trọng hơn bằng cách sử dụng khái niệm “PTXH theo thu
nhập”, “PTXH theo mức sống” thay cho khái niệm PTXH nói
chung.
- Với hướng tiếp cận nói trên, các nghiên cứu về PTXH vừa qua
đã cố gắng sử dụng những hệ chỉ báo khá linh hoạt và đa dạng
để đo lường và phân loại các nhóm, tầng xã hội theo thu nhập và
mức sống. Trong cuộc nghiên cứu về những biến đổi xã hội
trong thời kỳ Đổi mới tại Hà Nội vào năm 1992 (lần đầu tiên,
khái niệm PTXH được sử dụng), các tác giả đã đề xuất ý tưởng
sử dụng khái niệm PTXH theo mức sống, gồm 4 chỉ báo “khách
quan” và 1 chỉ báo “chủ quan” để xét sự phân tầng các hộ gia
đình theo mức sống:
 Điều kiện nhà ở, bao gồm các yếu tố: sở hữu, diện tích và
loại nhà, khu phụ, vị trí, hoạt động cải tạo nâng cấp trong
5 năm qua, chất lượng nhà và đánh giá.
 Tiện nghi trong nhà, bao gồm 12 loại tiện nghi chủ yếu, đa
số mới xuất hiện trong đời sống của các gia đình trong 5
năm vừa qua. Ví dụ: tivi màu, xe máy, đầu Video, máy
giặt, máy điều hoà nhiệt độ…
 Chi tiêu, bao gồm các yếu tố: thói quen dùng năng lượng
đun nấu, tiền điện hàng tháng, thói quen ăn sáng, ăn trưa,
chi cho việc học của con cái, các chi tiêu cho nhu cầu văn
hoá…
 Thu nhập, bao gồm các yếu tố: nguồn thu nhập, mức độ ổn
định, bất ổn định của thu nhập, tổng thu nhập và thu nhập
bình quân trong gia đình (theo kê khai của chủ hộ).
- Chỉ báo chủ quan, bao gồm 2 loại đánh giá: tự đánh giá của chủ
hộ về mức sống của gia đình hiện nay trên thang đo 5 bậc; đánh
giá của điều tra viên qua phỏng vấn và quan sát cũng trên thang
đo 5 bậc trên cơ sở các nhận xét về nhà ở, tiện nghi, gia phong,
gia cảnh, trang trí nội thất, phong cách trả lời… hoặc một phần
thông tin thu thập được từ bên ngoài (từ cán bộ tổ dân phố,
phường, hàng xóm…).
- PTXH cũng được nghiên cứu theo hướng khác là xử lý và phân
tích kết quả của các cuộc điều tra mức sống dân cư và hộ gia
đình để từ đó rút ra các kết luận về thực trạng và xu hướng phân
hoá giàu nghèo (PTXH theo thu nhập hoặc mức sống). Những
phân tích dưới đây sẽ minh họa cho hướng nghiên cứu này trên
cơ sở số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư toàn quốc
năm 1993, năm 1998 và cuộc điều tra hộ gia đình đa mục tiêu
1994-1997
- Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mức sống của đại đa số dân
cư nước ta đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức
sống cũng ngày càng tăng, tạo nên một sự PTXH rõ nét hơn giữa
và trong các nhóm xã hội. Chẳng hạn, chênh lệch về chi tiêu
giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất là khoảng
5,52 lần vào năm 1998 và 4,58 lần vào năm 1993. Còn chênh
lệch theo thu nhập thì cao hơn. Năm 1998, chênh lệch về thu
nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất là
11,26 lần, giữa nhóm 10% giàu nhất và nhóm 10% nghèo nhất là
hơn 20 lần, còn giữa nhóm 5% giàu nhất và nhóm 5% nghèo
nhất là hơn 40 lần.
- Sự phân tầng theo mức sống hiện nay cũng có liên quan với số
nhân khẩu và tỷ lệ phụ thuộc của hộ gia đình (tỷ lệ người ngoài
độ tuổi lao động so với người trong độ tuổi lao động). Tỷ lệ này
của 20% hộ nghèo nhất là 1,13, cao gấp đôi so với nhóm 20% hộ
giàu nhất (0,54).
- Người có học vấn càng cao, càng có nhiều khả năng thuộc vào
nhóm có mức sống cao. Trong những chủ hộ có học vấn đại học,
cao đẳng trở lên thì 70% thuộc nhóm 20% giàu nhất, chỉ có
1,5% thuộc nhóm 20% nghèo nhất. Chi tiêu của hộ có chủ hộ
học vấn đại học, cao đẳng trở lên cao gấp 2,33 lần (năm 1993)
và 3,4 lần (năm 1998) so với hộ có chủ hộ chưa bao giờ đến
trường.
- Phân tầng mức sống cũng gắn liền với sự khác biệt theo khu vực
và vùng kinh tế – xã hội. 97% dân số trong độ tuổi lao động
thuộc nhóm 20% nghèo nhất là ở nông thôn và 65% dân số trong
độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% giàu nhất là ở đô thị. Sự chênh
lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn đóng góp phần chủ
yếu (tới 96%) vào mức độ phân tầng mức sống nói chung trên
quy mô toàn quốc. Phần lớn dân số trong độ tuổi lao động thuộc
nhóm 20% giàu nhất sống ở các vùng: Đông Nam Bộ (37%),
Đồng bằng sông Hồng (21%) và Đồng bằng sông Cửu Long
(18%), trong khi ở vùng núi phía Bắc chỉ có gần 7% và ở Bắc
Trung Bộ là 6%.
- Phân tầng mức sống cũng liên quan rõ rệt theo các khu vực kinh
tế. Phần lớn người làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước có
mức sống thuộc nhóm 20% giàu nhất, hoặc rơi vào 2 nhóm trên
cùng (75-80%). Tình hình cũng tương tự như vậy ở nhóm làm
việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có 1/3 lao động trong
doanh nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ sản xuất kinh
doanh nhỏ, thuộc vào nhóm 20% giàu nhất. Khoảng 40% những
người lao động thuộc hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và hộ
sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm có mức sống dưới
trung bình. 3/4 người thuộc nhóm 20% nghèo nhất là lao động
trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, trong khi 60% người thuộc
nhóm 20% giàu nhất làm việc trong 3 khu vực của Nhà nước
(kinh tế, hành chính – sự nghiệp, chính trị – xã hội). Như vậy,
người có khả năng sẽ có mức sống cao hơn nếu gắn với khu vực
nhà nước, khu vực chính quy (chẳng hạn, doanh nghiệp có đăng
ký) và khu vực đầu tư nước ngoài. Ngược lại, mức sống thấp
hơn thường gắn với những người làm việc trong khu vực ngoài
nhà nước, khu vực phi chính quy , hộ sản xuất kinh doanh nhỏ,
hợp tác xã.
- PTXH cũng có biểu hiện trong lĩnh vực phúc lợi xã hội. Trợ cấp
phúc lợi xã hội là công cụ mà nhà nước dùng để giảm bớt những
chênh lệch quá lớn, bảo đảm công bằng xã hội. Tuy nhiên, ở
Việt Nam hiện nay, những trợ cấp này còn chiếm tỷ trọng rất
thấp trong tổng thu nhập của dân cư (khoảng 4,4%). Dân cư Việt
Nam chủ yếu có thu nhập từ lao động cá nhân và gia đình; thu
nhập do phân phối lại, mang tính xã hội còn thấp. Trong việc
phân phối phúc lợi xã hội, chiếm tỷ trọng cao nhất là chi cho bảo
hiểm xã hội, bao gồm chi hưu trí và mất sức lao động (82,4%),
tiếp theo là chi cho bảo trợ xã hội (16,0%), chi cho xoá đói giảm
nghèo (1,1%). Tương quan giữa phúc lợi xã hội và PTXH chỉ ra
rằng, hiện nay chủ yếu là nhóm có mức sống “trung bình” và
“trên trung bình” được hưởng phúc lợi cao hơn các nhóm khác.
- Qua phân tích ở trên, nhìn chung, hiện trạng PTXH ở nước ta
khá đặc trưng cho thời kỳ đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Mức chênh lệch
giữa các tầng lớp chưa lớn, tốc độ tăng chênh lệch chưa cao. Tuy
nhiên, có một số đặc điểm cần lưu ý là: các tầng lớp trung lưu và
trung lưu trên thường gắn với khu vực nhà nước, khu vực kinh tế
chính quy. Hai nhóm này cũng được hưởng lợi nhiều hơn từ việc
phân phối phúc lợi xã hội so với các nhóm còn lại.
 Những tác động tiêu cực

- Phân tầng xã hội có tác động hai mặt. Trong bối cảnh
chuyển sang một nền kinh tế thị trường ở nước ta, phân
tầng xã hội như là hệ quả của quá trình thực hiện sự công
bằng xã hội, đã và sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy tính năng
động xã hội trong mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội, kích
thích họ tìm kiếm và khai thác các cơ hội để phát triển vượt
lên. Nó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày càng
quyết liệt, qua đó sàng lọc và tuyển chọn ra những người
có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để trở thành những
thành viên của nhóm vượt trội, động lực cho sự phát triển
của một ngành, một lĩnh vực hay một địa phương.

- Sự phân tầng xã hội phát triển có thể dẫn đến hình thành
một cơ cấu xã hội mới theo vị thế, bổ sung hoặc thay thế
cho cơ cấu xã hội - giai cấp, và tiếp đến là các hình thức
liên kết xã hội mới, trong đó một tầng lớp trung lưu mới ở
đô thị hay tầng lớp khá giả ở nông thôn - có thể đóng vai
trò của những nhân tố mới trong tiến trình phát triển sắp
tới.

- Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực của phân tầng mức
sống cũng rất đáng lưu ý vì chúng có thể trở thành nguyên
nhân gây ra những sự bất ổn định xã hội.

 Sự phân tầng xã hội gia tăng làm cho khác biệt giàu -
nghèo ngày càng dẫn rộng. Những cơ hội phát triển
cho người giàu sẽ nhiều hơn. Những khác biệt như
vậy diễn ra trước hết trong lĩnh vực kinh tế (cơ hội
có việc làm, tăng thu nhập....) sau đó sẽ lan sang các
lĩnh vực khác như giáo dục (cơ hội có học vẫn cần
thiết để vào đời, đặc biệt là cho thanh niên), chăm
sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác.
Những thành quả của công cuộc Đổi mới, do vậy
không phải tất cả các nhóm xã hội đều được thụ
hưởng ở mức độ tương xứng với sự đóng góp của
họ. Rõ ràng đó là những hậu quả không mong muốn
khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định
hưởng xã hội chủ nghĩa, và theo đuổi những nguyên
tắc công bằng xã hội. Và một khi những bất bình
đẳng xã hội vượt quá mức hạn hợp lý của chúng sẽ
có thể gây nên những bất ổn định, tiêu cực và xung
đột xã hội.

 Trong điều kiện quá độ sang nền kinh tế thị trường,


hiện tượng phân tầng xã hội thường có những biểu
hiện bột phát, cực đoan. Sự đối lập, đôi khi đến mức
tương phản 2 cực giàu - nghèo trong đời sống cũng
đặt ra nhiều vấn đề mà xã hội phải có trách nhiệm
lưu tâm. Xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn
thương trong cơ chế thị trường. Những hộ nghèo,
phụ nữ, trẻ em, người già, dân nhập cư tự do,.....Và
đặc biệt khi nhóm người nghèo lại rơi vào một số gia
đình là đối tượng quan tâm của các chính sách xã hội
thì vấn đề càng trở nên phức tạp hơn.

 Trên bình diện lối sống, phân tầng xã hội góp phần
tạo ra sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống. Đáng
lưu ý là sự phát triển của lối sống tiêu dùng trong bộ
phận dân cư khá giả, đặc biệt trong nhóm giàu
“mới”. Trong khi đó nhóm người nghèo bị bần cùng
hoá, cũng sẽ hành động không như xã hội mong đợi.
ở cả hai cực của sự phân hoá đó đều chứa đựng nguy
cơ tiềm tàng gây ra những bất ổn định xã hội.

 Và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là


những tác động về mặt tư tưởng, tâm lý, niềm tin về
công bằng xã hội, một khái niệm vốn gắn bó với mô
hình của nghĩa xã hội trước đây trong một bộ phận
dân cư (người già, người về hưu, các gia đình chính
sách,...). Bên cạnh đại đa số chấp nhận tính tất yếu
của sự phân tầng xã hội, vẫn còn một bộ phận dân cư
coi đó là hiện thượng không bình thườn" khó chấp
nhận và dễ tạo ra một tâm lý xã hội bi quan trước tác
động của cơ chế thị trường.
4. Đối tượng NC của XHH kinh tế là gì. Cho ví dụ phân tích
- NC về quá trình và hiện tượng kinh tế
- NC về khía cạnh XH “ mặt xã hội”, “ cái xã hội” của quá
trình và hiện tượng tâm lý
- Mối quan hệ giữa bộ phận kinh tế với tổng thể hệ thống xã
hội tạo thành XH tổng thể toàn vẹn
- Quy luật của sự phát sinh biến đổi mối quan hệ của xã hội,
kinh tế con người
 Đối tượng chung nhất: NC mối quan hệ giữa XH-
KT-con người
 Ví dụ phân tích
- Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến kinh tế VN 3 tác động
chính gồm: tăng trưởng, đầu tư và thương mại; gián đoạn các
chuỗi giá trị sản xuất quan trọng; suy giảm tiêu dùng tác động
lớn đến dịch vụ và du lịch. Điều đáng mừng là trong thách thức
đại dịch, Việt Nam là một trong những nền kinh tế hiếm hoi trên
thế giới có mức tăng trưởng GDP dương (tăng 2,1% năm 2020
và 2,58% năm 2021). Có thể tóm gọn lợi thế của Việt Nam trong
đại dịch Covid-19 ở một số điểm như sau:

 Ngành Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản: Trước những thuận


lợi và khó khăn đan xen, kết quả hoạt động năm 2021 của
ngành Nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền
kinh tế, với tốc độ tăng trưởng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm
phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn
nền kinh tế. Ngành Lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02
điểm phần trăm và ngành Thủy sản tăng 1,73%, đóng góp
0,05 điểm phần trăm. Đây là ngành chủ đạo làm động lực
tăng trưởng của nền kinh tế.

 Hoạt động thương mại, vận tải và du lịch dù có chững lại


do dịch, nhưng vừa bớt dịch là người dân lại mua sắm, du
lịch, di chuyển với mức tăng được ghi nhận từ 28,1 đến
51,3% trong quý III/2021.

 Ngành Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng


cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%; hoạt
động tài chính - ngân hàng tăng 9,42%; ngành Thông tin và
Truyền thông tăng gần 6%

 Như vậy, với điểm tựa chắc chắn từ ngành Nông nghiệp,
giúp Nhà nước và người dân không phải lo lắng về an ninh
lương thực. Đồng thời, nhờ sự tin tưởng vào các quyết định
của Chính phủ, nên việc hợp tác và ủng hộ của người dân
với các quyết định này khá tốt, giúp Việt Nam giảm thiểu
sự lây lan nhanh chóng của dịch bệnh. Việt Nam là một
nền kinh tế trẻ, đang sở hữu cơ cấu dân số vàng nên nếu có
các quyết sách đúng, tăng trưởng kinh tế sẽ mau chóng vực
dậy và hồi phục. Việt Nam có lợi thế trong nhiều ngành
kinh tế như nông nghiệp, du lịch, dịch vụ, viễn thông,…
nên khả năng các ngành lấy lại đà tăng trưởng và tăng
trưởng bứt phá sau thời kỳ bị phong tỏa vì đại dịch là rất
lớn. Theo đó, cơ hội để nền kinh tế phát triển cả về nguồn
cung và sức cầu trong bối cảnh Chính phủ đã xác định
quan điểm “thích ứng, sống chung với COVID-19” là rõ
ràng. Điều cần cân nhắc là các gói chính sách, các giải
pháp thúc đẩy kinh tế phục hồi đã và sẽ được ban hành tới
đây phải làm sao đạt được mục tiêu tăng trưởng cao nhưng
kiểm soát tốt lạm phát.
5. Anh chị hãy phân tích cấu trúc của bẫy nghèo khổ (bẫy nghèo
đói) và sự tác động của bẫy nghèo đói đến sự phát triển đất
nước.
- Bẫy nghèo khổ (Poverty trap) là một cơ chế khiến người dân rất khó
thoát nghèo. Bẫy nghèo được tạo ra khi một hệ thống kinh tế đòi hỏi
một lượng vốn đáng kể để kiếm đủ tiền thoát nghèo. Khi các cá nhân
thiếu vốn này, họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc có được nó, tạo
ra một chu kỳ nghèo đói tự củng cố
 Một là, thiếu hạ tầng và dịch vụ cơ bản: người trong bẫy nghèo
thường thiếu các cơ sở hạ tầng cơ bản như nước sạch, điện, giao
thông và cơ sở y tế. Điều này gây khó khăn cho việc tiếp cận các
dịch vụ và cơ hội phát triển.
 Hai là, thiếu giáo dục và kỹ năng: người nghèo thường không có
trình độ giáo dục cao và không được đào tạo các kỹ năng cần
thiết để tiếp cận công việc tốt hơn. Điều này gây ra sự hạn chế
trong khả năng tìm kiếm việc làm và tạo thu nhập ổn định.
 Ba là, tính kế thừa nghèo: trong một số trường hợp bẫy nghèo có
thể là kết quả của sự kế thừa nghèo từ các thế hệ trước. Ví dụ
nếu một hộ gia đình nghèo không có khả năng cung cấp giáo dục
và cơ hội cho con cái con cái của họ cũng sẽ gặp khó khăn trong
việc thoát khỏi tình trạng nghèo.
 Bốn là, thiếu cơ hội và quyền truy cập: người nghèo thường
không có quyền truy cập vào các nguồn lực cơ hội việc làm và
dịch vụ cần thiết. Họ đối mặt với rào cản về tài chính, quyền lợi
và quyền truy cập gây ra sự bất bình đẳng và khó khăn trong
việc cải thiện đời sống.
 Năm là, sự mất cân bằng về thu nhập và tài nguyên: bẫy nghèo
thường xuất phát từ sự mất cân bằng về thu nhập và tài nguyên,
người nghèo thiếu nguồn thu nhập ổn định và không đủ tài
nguyên để đảm bảo cuộc sống tương đối thoải mái và ổn định.
 Sáu là,vòng lặp nghèo: bẫy nghèo có xu hướng tạo ra một vòng
lặp nghèo. Trong đó những người trong bẫy mèo khổ khó có thể
tìm ra cách giải thoát tình trạng nghèo.
 Ví dụ: Một trong những cân nhắc quan trọng nhất khi nghiên
cứu bẫy nghèo đói là lượng viện trợ của chính phủ cần thiết
để đưa một gia đình thoát khỏi tình trạng hiện tại của họ. Hãy
xem xét trường hợp của một gia đình gồm bốn người, cha mẹ
và hai người con dưới độ tuổi lao động hợp pháp. Gia đình có
thu nhập hàng năm là 24.000 đô la. Cha mẹ làm công việc
được trả 10 đô la mỗi giờ. Theo hướng dẫn nghèo đói mới
nhất của liên bang, một gia đình bốn người được coi là nghèo
nếu thu nhập của họ dưới 26.200 đô la. Trong trường hợp đơn
giản, chúng ta hãy giả sử rằng chính phủ bắt đầu phân phát
viện trợ lên tới 1.000 đô la mỗi tháng. Điều này làm tăng thu
nhập hàng năm của gia đình lên 36.000 đô la. Trong khi giới
hạn ở mức 1.000 đô la, viện trợ của chính phủ giảm tương
ứng với sự gia tăng thu nhập của gia đình. Ví dụ, nếu thu
nhập của gia đình tăng $ 500 đến $ 2500 mỗi tháng, thì viện
trợ của chính phủ giảm $ 500. Cha mẹ sẽ phải làm việc thêm
50 giờ để bù đắp khoản thiếu hụt.Việc tăng giờ làm việc mang
lại cơ hội và chi phí giải trí cho các bậc cha mẹ. Ví dụ, họ có
thể dành ít thời gian hơn cho con cái hoặc có thể phải thuê
người trông trẻ trong thời gian họ không ở nhà. Số giờ làm
thêm cũng có nghĩa là cha mẹ sẽ không có thời gian để nâng
cấp kỹ năng của họ để có một công việc được trả lương cao
hơn. Số tiền viện trợ cũng chưa tính đến điều kiện sống cho
gia đình. Vì họ là người nghèo, gia đình sống ở một trong
những khu vực nguy hiểm nhất trong thành phố và không
được tiếp cận với các cơ sở y tế thích hợp. Đổi lại, tội phạm
hoặc tính dễ mắc bệnh có thể làm tăng chi tiêu trung bình
hàng tháng của họ, khiến việc tăng thu nhập của họ trở nên vô
ích
- Bẫy nghèo khổ có tác động tiêu cực tới nền kinh tế của một đất
nước. Dưới đây là một số tác động chính của bẫy nghèo khổ tới nền
kinh tế
 Giảm tiềm năng lao động: bẫy nghèo khổ dẫn đến sự thiếu hụt
về giáo dục và kỹ năng , giới hạn khả năng lao động tham gia
vào lực lượng lao động chất lượng cao. Điều này ảnh hưởng đến
năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
 Suy giảm sản lượng và tăng chi phí: người nghèo thường không
có tài nguyên và cơ hội tiếp cận vào các nguồn lực và công nghệ
hiện đại. Điều này gây ra sự giảm sản lượng trong nhiều ngành
công nghiệp và tăng chi phí sản xuất do sự thiếu hụt kỹ thuật và
quy trình kinh doanh hiệu quả.
 Giảm tiêu thụ và tăng tỷ lệ tiêu dùng: người nghèo có xu hướng
chi tiêu hơn là tiết kiệm. Do họ không có dư tài chính về đầu tư
hoặc tiết kiệm, điều này làm giảm tiêu thụ và gây ra tình trạng
thụ động trong nền kinh tế
 Thiếu tài nguyên và đầu tư: bẫy nghèo khổ giới hạn khả năng
tiếp cận tài nguyên và đầu tư. Người nghèo không có tiền để đầu
tư vào việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng hoạt động
kinh doanh hoặc tạo ra các nguồn lực mới, điều này làm giảm
khả năng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
 Bất bình đẳng xã hội: bẫy nghèo khổ tạo ra sự bất bình đẳng xã
hội với một phần của dân số không thể tiếp cận và sử dụng các
cơ hội kinh tế. Điều này gây ra mất cân bằng và bất ổn trong xã
hội ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và đầu tư.

6. Anh chị hãy phân tích vai trò của kinh tế tư nhân trong sự
phát triển kinh tế. Những giải pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp
Starup trong hoạt động khởi nghiệp nhằm phát huy vai trò của
kinh tế tư nhân trong sự phát triển.
- Kinh tế tư nhân tồn tại với tư cách là một thành phần kinh tế độc
lập, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có mục tiêu kinh
doanh là lợi nhuận. Dovậy, với những đặc điểm vốn có của nó, sự
hoạt động của kinh tế tư nhân có vai trò to lớn trong phát triển kinh
tế - xã hội .Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế xã
hội là tập hợp các hoạt động nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của thành phần kinh tế tư nhân trong việc góp vốn đầu tư thúc đẩy
tăng trưởng, phát triển kinh tế , giải quyết công ăn việc làm và thủ
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, đất nước theo
hướng tiến bộ, hợp lý.Theo khái niệm trên, kinh tế tư nhân có vai
*trò cụ thể như sau:

* Thu hút vốn trong dân cư cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội

Mọi người đều cần có vốn để phát triển kinh tế. Nhà nước có nhiều
biện pháp để huy động vốn trong dân cư như mở ngân hàng, quỹ
tín dụng, phát triển thị trường tiền tệ... Song nguồn vốn vẫn bị tồn
đọng trong tay người dân. Khi kinh tế tư nhân phát triển thì mọi hộ
gia đình, mọi chủ sản xuất đều có thể đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh và tự mở rộng quy mô này là rất lớn và dĩ nhiên lúc
này nguồn vốn trong dân cư được huy động triệt để phục vụ cho
mục tiêu chung của nền kinh tế.

* Giải quyết việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo.

Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước hiện đang trong quá trình cai
cách không tạo thêm được nhiều việc làm mới; khu vực hành chính
nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do
đó khu vực kinh tế tư nhân chính là nơi thu hút, tạo việc làm mới,
góp phần xoá đói giảm nghèo

* Góp phần tăng trưởng GDP và nâng cao trình độ người lao động
Đóng góp của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế đó là việc huy
động và sử dụng vốn hiệu quả, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho
người dân điều này tác động làm tăng sản xuất, kinh doanh, tăng
thu nhập cho người dẫn và làm tăng sản lượng trong nền kinh tế.
Đối với người lao động nhu cầu tuyển dụng của kinh tế tư nhân là
lao động có tay nghề. Đặc biệt là lao động ở các gia đình sản xuất
truyền thống thì trình độ rất cao. Vì vậy để phù hợp với đòi hỏi của
nền kinh tế bản thân người lao động phải nâng cao trình độ tay
nghề của mình.
* Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.Với quy mô vừa và nhỏ, kinh tế tư nhân thường
tập trung vào các ngành Thương mại, dịch vụ phát triển kéo theo
đó là việc lao động di chuyển từ lĩnh vực sản xuất (công - nông
nghiệp) sang lĩnh vực phê sản xuất. Như vậy nó sẽ thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế.
 Giải pháp cho các doanh nghiệp Starup trong hoạt động
khởi nghiệp nhằm phát huy vai trò của kinh tế tư nhân trong
sự phát triển
- Giải pháp 1: Nguồn vốn
 Một là chính sách liên quan đến khuyến khích IPO, giữa
các doanh nghiệp IPO với doanh nghiệp start up và chính
sách đầu tư nước ngoài.
 Thứ hai là huy động vốn từ cộng đồng thế nào, chúng ta
có nên khuyến khích mô hình crown-funding hay không?
 Thứ ba là hợp tác công - tư trong đầu tư. Trong bài phát
biểu, Grab đã đề cập rằng các doanh nghiệp như Grab
cũng có thể tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp start up
khi họ muốn đi ra khu vực. Các doanh nghiệp lớn của Việt
Nam có thể đóng vai trò dẫn dắt cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp. Ở các nền kinh tế lớn đều có doanh nghiệp
dẫn đầu và những doanh nghiệp này họ có những mối
quan hệ trong kinh doanh để giúp cho start up.
 Thứ tư, các nhà đầu tư thiên thần cũng như quỹ đầu tư
đóng vai trò quan trọng trong vấn đề nguồn vốn nên cần
ban hành các chính sách khuyến khích họ đưa vốn vào
doanh nghiệp start up, như cách họ đưa vốn vào bất động
sản hay chứng khoán. Với tính mạo hiểm cao, các nhà đầu
tư cần có chính sách tốt hơn.
- Giải pháp 2: Tổ chức trung gian khởi nghiệp, hay còn gọi
là "cò" khởi nghiệp
 Chúng ta nói đến mô hình kinh doanh mới không chỉ từ
start up mà các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp cũng phát sinh
nhiều hình thức hỗ trợ mới. Cần có chính sách đặc thù để
hỗ trợ cho các tổ chức trung gian này. Ngoài ra, khi đưa ra
các chương trình thí điểm nên tham khảo ý kiến của các tổ
chức trung gian này vì mỗi ngày họ nhận được rất nhiều ý
tưởng. Khuyến khích môi trường hỗ trợ khởi nghiệp đặc
biệt.
- Giải pháp 3: Vấn đề pháp lý

 Các doanh nghiệp nêu quan điểm về "thượng phương bảo


kiếm". Không phải đòi hỏi quyền đặc biệt nhưng về pháp
lý, không hình sự hoá các quan hệ về kinh doanh vì khi
làm những cái mới cần có sự hướng dẫn của các tổ chức hỗ
trợ khởi nghiệp, trung gian khởi nghiệp cũng như cơ quan
nhà nước nên nhìn nhận vấn đề một cách đơn giản hơn.

- Giải pháp 4: Đào tạo

 Các trường đại học, các tổ chức trung gian khởi nghiệp cần
đào tạo các đi ra thị trường bên ngoài, cách thương mại hoá
một sản phẩm khoa học công nghệ, và quan trọng nhất là
tinh thần khởi nghiệp.

- Giải pháp 5: Những hỗ trợ khác

 Những hỗ trợ khác có thể kể đến từ chính phủ như kêu gọi
nguồn vốn bên ngoài, chính sách dành cho doanh nghiệp
lớn để họ có động lực hơn khi tham gia vào thị trường start
up. Chính sách khuyến khích các mô hình khởi nghiệp vốn
đã thành công ở các thị trường thế giới hoặc các mô hình
thành công ở thị trường Việt Nam – một bên đi vào và một
bên đi ra – cũng nên cởi mở hơn.

You might also like