You are on page 1of 6

1.

The answer is a responsive pleading in which the defendant makes admissions or denials,
asserts legal defenses, and raises counterclaims.

2. Admissions help to narrow the number of facts that are in dispute. The plaintiff will not have to
prove facts at the trial that have been admitted by the defendant in the answer.

3. A denial in the answer, however, creates a factual issue that must be proven at trial. Defendants
often will plead one or more defenses in the answer. Each defense will consist of facts that the
defendant contends may bar the plaintiff from recovery.

4. The defendants may also make a claim for relief against the plaintiff by raising a counterclaim in
the answer. A counterclaim is appropriate when the defendant has a cause of action against a
plaintiff arising out of essentially the same set of events that gave rise to the plaintiff’s claim.

(Adopted from Introduction to Law and the Legal System, 2012)

1. Giải trình (của bị đơn) là văn bản mang tính phản hồi mà trong đó bị đơn đưa ra các tuyên bố
thừa nhận hoặc bác bỏ, khẳng định/cung cấp các luận cứ biện hộ có tính pháp lý, và đưa ra yêu
cầu phản tố.

2. Tuyên bố thừa nhận giúp giới hạn lại số lượng vấn đề/tình tiết đang tranh chấp. Nguyên đơn sẽ
không phải chứng minh các tình tiết mà bên bị đã thừa nhận trong văn bản giải trình nữa.

3. Tuyên bố phản bác trong giải trình, tuy nhiên, dẫn đến yêu cầu phải chứng minh tình tiết ấy tại
tòa. Bị đơn thường sẽ đưa một hoặc nhiều các căn cứ biện hộ trong văn bản giải trình. Mỗi căn
cứ sẽ bao gồm nhiều tình tiết mà bị đơn đưa ra (để) có thể cản trở nguyên đơn được nhận
khoản bồi thường.

4. Bị đơn cũng có thể yêu cầu nguyên đơn bồi thường bằng cách đưa ra yêu cầu phản tố trong văn
bản giải trình. Yêu cầu phản tố là phù hợp với pháp luật khi bị đơn có cơ sở pháp lý chống lại
nguyên đơn mà cơ sở pháp lý đó cũng phải xuất phát từ cùng một chuỗi sự kiện đã làm phát
sinh yêu cầu của nguyên đơn.

1. The Supreme Court’s power of judicial review enables it to interpret the meaning of the
Constitution and, in so doing, give substance to the Constitution’s ambiguous phrases. But the
Supreme Court is not free to roam at will, handing down constitutional decisions like some self-
proclaimed prophet interpreting the meaning of the stars.
2. Just as the Framers sought to divide power between the national government and the states,
they also wanted to prevent the concentration of power into the hands of one individual, or
even one group of individuals, within the national government. The Framers reduced all
governmental functions to essentially three: legislative, executive, and judicial. They believe that
the very root of tyranny was to allow these three essential governmental functions to be
exercised by one person or group.
3. Constitutional law provokes a tremendous amount of controversy in our political system. This is,
in part, because constitutional law is a struggle over which values shall predominate in our
society. Legal battles over gun control, school prayer, abortion, and the death penalty are in
reality battles over whose sets of values shall govern our law.

(Adopted from American Law and Legal Systems, 1997)


1. Quyền giám sát tư pháp của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cho phép cơ quan này giải thích Hiến
pháp và bằng cách đó, cơ quan này làm rõ/bổ túc cho những từ ngữ/điều khoản còn mơ hồ.
Nhưng điều đó không có nghĩa là Tối Cao Pháp Viện được tự do làm theo ý chí chủ quan của
mình, áp đặt những quyết định về hiến pháp như thể những nhà tiên tri tự phong cho mình
quyền giải thích thuật chiêm tinh.

2. Ngoài ý định phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ương và các bang, các nhà lập hiến còn
muốn ngăn chặn việc tập trung quyền lực vào trong tay một cá nhận hoặc một nhóm cá nhân, ở
phạm vi chính quyền trung ương. Các nhà lập hiến đã giới hạn chức năng nhà nước vào 03
nhánh cơ bản: lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Họ tin rằng gốc rễ sâu xa/ nguyên nhân chính
của nạn độc tài là cho phép 03 chức năng nhà nước cơ bản này đặt dưới sự kiểm soát của một
người hoặc một nhóm người nào đó.

3. Luật hiến pháp đặt ra nhiều tranh cãi trong hệ thống chính trị của chúng ta. Điều này một phần
do luật hiến pháp là sự đấu tranh về những giá trị chi phối xã hội chủa chúng ta. Cuộc chiến
pháp lý về giới hạn việc sử dụng súng, cầu kinh trong trường học, phá thai và án tử hình thực
chất là cuộc chiến về hệ giá trị nào sẽ chi phối pháp luật của chúng ta.

1. While the actus reus is proven by physical or eyewitness evidence, mens rea is more difficult to
ascertain. The jury must determine for itself whether the accused had the necessary intent to
commit the act, and that raises a number of difficult problems.

2. An accessory after the fact must know that another person has committed a felony and must
have personally assisted the felon. The basis for condemning someone as an accessory after the
fact is obstruction of justice. Actions commonly attributed to an accessory after the fact include
hiding a felon, lying to police officers about a felon’s whereabouts, and helping a felon cover up
his or her criminal activity.

3. Under the U.S. system of law, the person who brings the cause of action before the court bears
the burden of proof. In criminal law, a different standard of proof, called beyond a reasonable
doubt, is required. This standard places a greater burden on the State, which is the plaintiff, in a
criminal case. “Beyond a reasonable doubt” essentially means that all possible alternative
explanations for what happened have been considered and rejected except one – the one that
concludes that the accused committed the crime for which he is charged.

(Adopted from American Law and Legal System, 1997)

1. Nếu hành vi phạm tội có thể được chứng minh bằng chứng cứ cụ thể hoặc thông qua người làm
chứng, thì ý định phạm tội lại khó khẳng định hơn nhiều. Bồi thẩm đoàn phải tự mình xác định
xem liệu rằng bị cáo có động cơ cần thiết để phạm tội hay không và nhiệm vụ này đặt ra những
vấn đề nan giải.

2. Người che giấu tội phạm phải biết rằng một người đã phạm trọng tội và đã tự mình hỗ trợ kẻ
phạm tội đó. Cơ sở để cáo buộc ai đó che giấu tội phạm là hành vi cản trở công lý. Những hành
vi bị cáo buộc là che giấu tội phạm bao gồm che giấu kẻ phạm tội, nói dối cảnh sát về tung tích
của kẻ phạm tội, và giúp kẻ phạm tội che giấu hành vi phạm tội của mình.
3. Theo hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, người nào khởi kiện thì có nghĩa vụ chứng minh. Pháp luật hình
sự đòi hỏi một tiêu chuẩn chứng cứ khác gọi là chứng minh đến mức không còn/vượt quá nghi
ngờ chính đáng. Tiêu chuẩn này đặt nghĩa vụ chứng minh lên nhà nước vốn là được xem là
nguyên đơn trong vụ án hình sự. “Không còn nghi ngờ chính đáng” nhất thiết phải là mọi nguyên
nhân có thể gây ra vụ án đều đã được xem xét và loại bỏ - trừ một khả năng duy nhất mà theo
đó/ dẫn đến kết luận là/ chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội mà anh ta đang bị cáo buộc.

1. Tort law is fluid; it changes as society’s values shift. New torts are today being recognized where
no cause of action had previously existed, and the boundaries of tort liability are constantly in
flux. One example is the expansion of liability in regard to drivers who injure someone while
intoxicated. Traditionally, only the drivers themselves were responsible, but courts are now
finding liable for damages employers who release their intoxicated employees to go home as
well as drinking establishments whose customers leave and subsequently injure someone.

2. A person who willfully and intentionally causes serious mental distress to another can be held
reliable for his actions. This tort is limited to cases involving extreme misconduct – for example,
telling a mother that her child had been killed when, in fact, the tortfeasor knows the child is
fine. It involves more than hurt feelings, disappointment, or worry; there must be actual and
severe mental anguish.

(Adopted from American Law and Legal System, 1997)

1. Pháp luật BTTHNHĐ có tính linh hoạt cao; luật này thay đổi khi các giá trị xã hội thay đổi. Ngày
nay có những trách nhiệm BTTH mới mà trước đây chưa từng có cơ sở khởi kiện, và các giới hạn
về trách nhiệm BTTH cũng vận động/thay đổi không ngừng. Ví dụ như việc mở rộng trách nhiệm
đối với tài xế gây thiệt hại trong tình trạng say rượu. Trước đây, chỉ có chính tài xế gây thiệt hại
mới phải chịu trách nhiệm, nhưng hiện nay tòa có thể mở rộng trách nhiệm này đối với chủ sử
dụng lao động cho phép người lao động về nhà trong tình trạng say rượu cũng như các cơ sở
kinh doanh thức uống có cồn cho khách hàng dẫn đến nguyên dân gây ra thiệt hại.

2. Người nào, một cách cố ý và có chủ đích, gây ra tổn thất tinh thần nghiêm trọng cho người khác
có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường này chỉ áp dụng đối với những
trường hợp có hành vi vi phạm nghiêm trọng, ví dụ như thông báo cho người mẹ biết con mình
đã bị giết, trong khi thực tế chủ thể gây thiệt hại biết rõ đứa trẻ vẫn an toàn. Hành vi này không
chỉ dẫn đến cảm giác đau buồn, thất vọng, hay lo lắng chung chung mà phải thực sự gây ra tổn
thất tinh thần nghiêm trọng trên thực tế.

1. The requirements for formulating a contract appear relatively uncomplicated. First, there must
be two or more parties, each of whom have the legal capacity to enter into an agreement.
Second, there must be an offer and acceptance, or consent, which reflects a mutual
understanding between parties as to the essential elements of the contract. Third, the
agreement must be supported by consideration or obligation.

2. Valid contracts are accompanied by consideration. Consideration is not limited to money but
instead is usually defined in terms of exchange of benefits or detriments; that is, the parties
agree to do something they are not legally obliged to do or refrain from carrying out some
activity that they are not bound by law to do. This consideration may include the exchange of
mutual promises, such as one party’s agreeing to perform household tasks this week in
exchange for a promise that the other party will do so next week, or the exchange of money or
goods, such as trading one car for another.

(Adopted from American Law and Legal System, 1997)

1. Những điều kiện để một hợp đồng hình thành có vẻ khá đơn giản. Đầu tiên, phải có hai hoặc
hơn hai bên mà trong đó mỗi bên phải có năng lực pháp luật để tham gia hợp đồng. Hai là, phải
có một lời đề nghị giao kết hợp đồng và một lời chấp nhận, hoặc đồng ý giao kết mà qua đó
phản ánh sự nhất trí giữa các bên về những yếu tố thiết yếu/cơ bản của hợp đồng. Ba là, thỏa
thuận đó phải được củng cố bằng tính đối ứng về quyền và nghĩa vụ (tính lợi ích) hoặc tính ràng
buộc.

2. Hợp đồng có hiệu lực đi kèm với tính đối ứng về quyền và nghĩa vụ (tính lợi ích). Đối ứng về
quyền và nghĩa vụ không giới hạn ở tiền bạc mà thay vào đó thường được định nghĩa theo
hướng trao đổi qua lại những lợi ích hoặc thiệt hại; có nghĩa là, các bên đồng ý thực hiện một
công việc mà pháp luật không buộc họ phải làm cũng như từ bỏ quyền làm một việc mà pháp
luật không cấm. Tính đối ứng này có thể bao gồm việc trao đổi với nhau những cam kết, như
một bên hứa làm việc nhà tuần này để đổi lại một lời hứa là phía bên kia sẽ làm việc nhà vào
tuần sau, hoặc trao đổi tiền, hàng như bán một chiếc oto cho người khác.

1. A void contract is a nullity from its beginning, and damages do not result. For example, a
contract to murder someone is void, and the person making the “hit” could not successfully
maintain a lawsuit to collect her salary. On the other hand, a voidable contract is one which is
binding until it is disaffirmed or canceled by the party with the authority to do so. In many ways,
marriage is a contract which either party may rescind by obtaining a divorce.

2. Unenforceable contracts are those which meet the basic common law elements for contracts
but lack some other additional legal requirement such as being signed in front of a notary public.

3. Each party involved in the contract must have the legal capacity to enter into the agreement.
Incapacity may result from the age of the individual or from a party’s being mentally incapable
of understanding the ramifications of the contract.

(Adopted from American Law and Legal System, 1997)

1. Một hợp đồng vô hiệu thì không có hiệu lực pháp lý ngay từ đầu, và do đó không có thiệt hại
kéo theo. Ví dụ, một hợp đồng ám sát ai đó là vô hiệu, và người được thuê thực hiện việc ám sát
không thể thực hiện một vụ kiện thành công nhằm đòi thù lao. Mặt khác, một hợp đồng có thể
vô hiệu là hợp đồng có hiệu lực cho đến khi bị chối bỏ hoặc hủy bỏ bởi bên có quyền. Xét theo
nhiều khía cạnh, thì hôn nhân là một loại hợp đồng mà bên nào cũng có quyền hủy bỏ thông qua
yêu cầu li hôn.

2. Hợp đồng không có hiệu lực thi hành là những hợp đồng đáp ứng được những yếu tố cơ bản của
hợp đồng theo thông luật nhưng thiếu những đòi hỏi pháp lý kèm theo như phải được kí kết
trước một công chứng viên.
3. Mỗi bên trong hợp đồng phải có năng lực pháp luật để tham gia hợp đồng. Việc thiếu năng lực
có thể xuất phát từ tuổi của cá nhân hoặc từ việc một bên không có khả năng nhận thức những
hệ quả của hợp đồng.

1. A person contractually obligated to perform a duty may delegate that duty to a third person. If
Smith contracts with a painter to paint her new garage, the painter could delegate that duty to
other painters. A party cannot delegate that duty if there is a personal component involved such
that the duty can only be performed by the party to the original agreement.

2. An assignee is legally responsible for any claims that were originally available against the
assignor. Thus, the debtor would be entitled to raise the same defenses (such as capacity,
duress, illegality, or mistake) against the finance agency that were available against the creditor.

3. A discharge from a duty to perform occurs because of objective impossibility, by operation of


law, or by agreement. To illustrate, one party may die or become physically incapable of
performing, a statute may be passed that prevents a party from performing, or a duty to
perform may be discharged in bankruptcy.

(Adopted from Introduction to Law and the Legal System, 2012)

1. Cá nhân có nghĩa vụ thực hiện một công việc theo hợp đồng có thể chuyển giao nghĩa vụ đó cho
một bên thứ ba. Nếu Smith có thỏa thuận với một người thợ sơn sơn gara mới của cô ấy, người
thợ sơn có thể chuyển giao nghĩa vụ đó cho những người thợ sơn khác. Một bên không thể
chuyển giao nghĩa vụ nếu tồn tại yếu tố cá nhân đặc thù mà theo đó nghĩa vụ này chỉ có thể
được thực hiện bởi một bên trong thỏa thuận ban đầu.

2. Bên nhận chuyển giao quyền phải chịu trách nhiệm pháp lý về bất kì yêu cầu nào đã tồn tại
trước đó đối với bên đã chuyển giao quyền (kế thừa nghĩa vụ của bên chuyển giao quyền). Vì
thế, bên mắc nợ có quyền đưa ra những luận cứ tương tự (như vấn đề về năng lực giao kết hợp
đồng, đe dọa cưỡng bức, vi phạm điều cấm, hay nhầm lẫn) nhằm phản bác lại tổ chức tài chính
nhận chuyển giao/kế thừa quyền của chủ nợ .

3. Nghĩa vụ thực hiện một công việc có thể bị hủy bỏ do tình huống bất khả mang tính khách quan,
do pháp luật quy định, hoặc do các bên thỏa thuận. Ví dụ, do một bên trong hợp đồng chết hoặc
bị mất năng lực hành vi, do có một đạo luật mới được thông qua khiến một bên không thể thực
hiện nghĩa vụ, hoặc do nghĩa vụ bị hủy bỏ theo thủ tục phá sản.

1. A sole proprietorship bears the risk of loss of the business; that is, the owner will lose his or her
entire capital contribution if the business fails. In addition, the sole proprietor has unlimited
personal liability. Therefore, creditors may recover claims against the business from the sole
proprietors’ personal assets (e.g. home, automobile, bank accounts).

2. In the absence of an agreement to the contrary, all general partners have an equal right to
participate in the management of the general partnership business. In other words, each
partner has one vote, regardless of the proportional size of his or her capital contribution or
share in the partnership’s profits.

3. A corporation is a separate legal entity (or legal person) for most purposes. Corporations are
treated, in effect, as artificial persons created by the state that can sue or be sued in their own
names, enter into and enforce contracts, hold title to and transfer property, and be found civilly
and criminally liable for violations of law.

(Adopted from Business Law, 2013)

1. Doanh nghiệp tư nhân chịu mọi rủi ro về thua lỗ trong kinh doanh; điều này có nghĩa là chủ
doanh nghiệp tư nhân có thể mất toàn bộ phần vốn góp của mình nếu công việc kinh doanh thất
bại. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn. Vì thế, chủ nợ có thể
đòi được các khoản nợ của doanh nghiệp từ tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp tư nhân đó
(ví dụ như nhà cửa, ô tô, tài khoản ngân hàng).

2. Trừ khi có thỏa thuận khác/ Nếu không có thỏa thuận khác, tất cả các thành viên hợp danh đều
có quyền như nhau trong việc tham gia điều hành hoạt động kinh doanh của công ty hợp danh
(thông thường). Nói cách khác, mỗi thành viên hợp danh đều có quyền biểu quyết không phụ
thuộc vào phần vốn góp/ đóng góp của họ trong phần lợi nhuận của công ty hợp danh.

3. Thông thường, công ty cổ phần là một pháp nhân riêng biệt/độc lập. Theo đó, các công ty cổ
phần được coi như là một cá nhân giả lập theo quy định của pháp luật, có thể nhân danh chính
mình khi kiện hoặc bị kiện, có thể tham gia và thực hiện hợp đồng, có thể nắm quyền sở hữu và
chuyển nhượng quyền sở hữu đối với tài sản, và có thể chịu trách nhiệm dân sự cũng như hình
sự nếu vi phạm pháp luật.

You might also like