You are on page 1of 25

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


Môn học: Kinh doanh Logistics

Lớp học phần: Kinh doanh Logistics (122)_01


Giáo viên hướng dẫn: GS.TS Đặng Đình Đào
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Hoài Linh
Mã sinh viên: 11205767
Lớp chuyên ngành: Kinh doanh thương mại 62A

Hà Nội – 9/2022
Phần A: Trình bày thị trường logistics Việt Nam thời mở cửa (từ năm 1986) đến nay
– Khái quát thực trạng và giải pháp phát triển trong thời gian tới.

Vì sao cung ứng dịch vụ theo giá cả thị trường là động lực để thúc đẩy doanh nghiệp
logistics phát triển? (Lấy ví dụ cụ thể)

Trả lời:
I. Thị trường Logistics Việt Nam thời mở cửa (từ năm 1986) đến nay – Khái quát
thực trạng và giải pháp phát triển trong thời gian tới:

1. Khái quát về thị trường Logistics:

Đối với những người làm ăn, mua bán thì thuật ngữ “Thị trường” đã không
còn quá xa lạ. Thị trường là quá trình giao dịch giữa bên có nhu cầu mua và bên có
nhu cầu bán, là “nơi” diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng, cho thuê
hay các dịch vụ có liên quan khác mà đối tượng có thể là hàng hóa, dịch vụ, sức
lao động….

“Nơi” diễn ra ở đây được hiểu là ở bất cứ không gian, khung cảnh nào chỉ cần diễn
ra hoạt động mua bán, trao đổi chứ không nhất thiết phải gắn với một địa điểm cụ
thể nào.

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà thị trường có thể được chia thành nhiều
loại như:

 Dựa vào đối tượng giao dịch thì có thể chia ra thành thị trường thị trường
lao động, thị trường điện tử, thị trường nhà đất, thị trường dệt may….

 Dựa vào phạm vi giao dịch thì thị trường sẽ được chia ra thành thị trường
trong nước (thị trường nội địa) và thị trường quốc tế…

Từ đó, ta có thể hiểu, thị trường logistics là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi,
mua bán dịch vụ logistics.

Theo nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, thị trường được hình thành bởi 3
yếu tố chính là:
 Yếu tố chủ thể tham gia vào thị trường: Gồm có bên mua và bên bán, bên
môi giới thứ ba và các chủ thể được nhà nước trao quyền để quản lý điều
phối thị trường.
Trong đó bên môi giới thực hiện là bên trung gian, thực hiện các chức năng
tư vấn, hỗ trợ trong giao dịch của bên mua và bên bán. Bên môi giới thường
có mặt trong các loại giao dịch như, chứng khoán, bất động sản…

Cơ quan được nhà nước trao quyền để quản lý như các cơ quan quản lý thị
trường sẽ giám sát các hoạt động giao dịch trên thị trường, đảm bảo cho
hoạt động giao dịch đúng theo nội dung quy định của pháp luật đối với đối
tượng giao dịch đó.

 Yếu tố khách thể của thị trường: Là những lợi ích, kết quả mà các chủ thể
muốn có được khi thực hiện giao dịch. Đó có thể là các giá trị hữu hình như
tiền, hàng hóa, nhà đất… Hay các giá trị vô hình như sức lao động, dịch
vụ…

 Yếu tố giá cả: Mức giá cả sẽ được xác định dựa trên nhu cầu cung – cầu
trên thị trường. Trong trường hợp cung lớn hơn cầu, thì khi đó dẫn đến tình
trạng hàng hóa, dịch vụ mất giá, giá cả trên thị trường sẽ có xu hướng giảm.
Nếu cung nhỏ hơn cầu, tức là nguồn cung cấp không đáp ứng được hết nhu
cầu thì khi đó giá thành của hàng hóa, dịch vụ sẽ tăng cao.

Đối với mỗi loại thị trường thì đều mang những đặc điểm riêng nhất định
được căn cứ trên những điểm đặc trưng của từng loại đối tượng giao dịch, nhưng
nhìn chung thị trường sẽ có một số đặc điểm cơ bản như:

 Là nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi của các chủ thể. Đối tượng giao
dịch phụ thuộc vào nhu cầu các bên

 Mọi hoạt động giao dịch trên thị trường phải được diễn ra trên nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng. Tức là tự nguyện trong việc đưa ra quyết định, bình
đẳng trong quyền và lợi ích của các chủ thể.

 Thị trường không có tính ổn định lâu dài, là “nơi” luôn xảy ra các biến
động do nhiều nguyên nhân khác nhau (có thể là do sự thay đổi về hàng
hóa, giá cả, chủ thể tham gia)
 Ngày nay thị trường ngày càng được mở rộng, không bị giới hạn bởi yếu tố
địa lý, có sự liên kết, mở cửa giữa thị trường trong nước với thị trường khu
vực và thị trường thế giới…

Cơ chế thị trường là sự tác động mà ở đó cá nhân người tiêu dùng và các
doanh nghiệp tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của
tổ chức kinh tế.

Các bộ phận hợp thành cơ chế thị trường là giá cả thị trường, cầu hàng hóa, cung
hàng hóa, cạnh tranh.

 Giá cả thị trường là thứ giá cả hình thành trên thị trường bởi sự tác động
của lực trên thị trường. Trên mỗi thị trường, mỗi hàng hóa, dịch vụ đều có
một giá nhất định, và toàn bộ các giá đó tạo thành hệ thống giá cả thị
trường.

 Cầu hàng hóa là số lượng hàng hóa mà người mua muốn và có khả năng
mua theo mức giá nhất định. Như vậy, để có cầu hàng hóa phải có ba điều
kiện: mong muốn mua, có khả năng mua và mức giá.

 Cung hàng hóa là số lượng hàng hóa mà người sản xuất muốn và có khả
năng sản xuất để bán theo mức giá nhất định. Để có cung hàng hóa cũng
phải có ba điều kiện: mong muốn sản xuất, có khả năng sản xuất và mức
giá.

Một khi cung về hàng hóa nào đó trên thị trường vừa bằng cầu về hàng hóa
đó thì mức giá cả là giá cả bình quân và ngược lại, một khi mức giá cả là
giá cả bình quân thì số lượng cung vừa bằng số lượng cầu. Song vì cung và
cầu luôn luôn biến động nên chúng bằng nhau chỉ là trường hợp hãn hữu.
Dù thế nào đi nữa, thì giá cả thị trường của hàng hóa nào đó vẫn là do
tương quan của cung và cầu trên thị trường quyết định.

 Cạnh tranh: Có ba loại cạnh tranh trên thị trường: (i) Cạnh tranh giữa
những người sản xuất hàng hóa với nhau theo các hướng: mẫu mã, giá cả,
chất lượng hàng hóa và thực hiện các dịch vụ trước, trong và sau khi bán
hàng; (ii) Cạnh tranh giữa những người mua với nhau và (iii) Cạnh tranh
giữa một bên là những người bán và một bên là những người mua. Trên
thương trường không có chuyện đơn thương độc mã, mà là buôn có bạn bán
có phường.

Bốn bộ phận hợp thành cơ chế thị trường kể trên có quan hệ mật thiết với
nhau, như là những khâu trong một guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường,
cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường.

Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường là theo sự dẫn dắt của bàn tay vô
hình. Bàn tay vô hình đó chính là giá cả thị trường, là quy luật giá trị. Cơ chế quản
lý và điều tiết của Nhà nước: Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trước hết
bằng một hệ thống luật pháp điều chỉnh các quan hệ về lao động, tài sản, kinh tế,
xã hội,..., bằng các chính sách kinh tế, tài chính – tiền tệ, xã hội,..., bằng sự tổ
chức hệ thống các cơ quan quản lý, cơ cấu chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
trong hệ thống quản lý và bằng các công cụ điều tiết.

2. Thị trường logistics Việt Nam thời mở cửa (từ năm 1986) đến nay:

a. Thị trường logistics Việt Nam giai đoạn 1986 đến 2007:

Chính sách mở cửa nền kinh tế năm 1986 của Việt Nam đã thổi một luồng
sinh khí mới cho hoạt động kinh tế thương mại của đất nước với những thay đổi
lớn của nền kinh tế nước nhà. Một loạt các sự kiện và hoạt động kinh tế quan trọng
liên tiếp diễn ra, trong đó phải kể đến năm 1995, Mỹ chính thức bãi bỏ cấm vận
đối với Việt Nam; Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN, tham
gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), năm 1998 Việt Nam tham gia
diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) và đã nộp đơn tham gia Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Nhà nước không quản lý trực tiếp, đảm bảo hoạt
động của doanh nghiệp từ đầu vào đến đầu cuối nữa mà chỉ đóng vai trò quản lý vĩ
mô. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh theo một cách thức khác, chủ
động tìm đến khách hàng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Trong cơ chế mới, có
rát nhiều nguồn cung ứng nguyên vật liệu, vật tư cho doanh nghiệp, như vậy
doanh nghiệp cần lựa chọn nguồn cung ứng tốt nhất. Chính vì vậy doanh nghiệp
bắt đầu tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các nguồn cung
(trong nước, ngoài nước)... Để có thể tập trung vào khâu sản xuất, doanh nghiệp
có nhu cầu thuê lại các dịch vụ đó từ một công ty bên ngoài, tức là nhu cầu về dịch
vụ Logistics đã xuất hiện trên thị trường, chính vì thế cũng đã xuất hiện các công
ty cung ứng dịch vụ Logistics (LSP-Logistics Service Provider). Tuy nhiên trong
giai đoạn này, Logistics vẫn chưa được nhắc tới nhiều trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Quy định về Logistics trong Luật Thương mại năm
2005 là một trong những cơ sở quan trọng cho sự phát triển Logistics trong các
năm tiếp theo.

Khi kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu không còn do Vietrans độc
quyền nữa mà do nhiều công ty khác tham gia, trong đó nhiều chủ hàng ngoại
thương lại tự đảm nhận nghiệp vụ giao nhận mà không uỷ thác cho Vietrans. Hiệp
hội Giao nhận - Kho vận Việt Nam (VIFFAS) đã được thành lập vào năm 1994 và
đã trở thành hội viên chính thức của FIATA trong cùng năm đó. Thành viên của
VIFFAS là các công ty giao nhận trong đó phải kể đến COSFI, Sun Express,
DRACO, Tan tien phong, EVERICH, Thamico, FALCON....

b. Thị trường logistics Việt Nam giai đoạn 2007 đến nay:

Cuối năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Trong môi trường kinh tế mới, hoạt động của các ngành kinh tế đều trở nên sôi
động, đặc biệt là sự nhộn nhịp chưa từng có của thương mại và buôn bán quốc tế.
Điều này là tiền đề quan trọng thúc đẩy cho Logistics ở Việt Nam phát triển như
một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, như đa số các quốc gia đang phát triển khác, mô
hình Logistics ở Việt Nam còn non nớt và mới đang ở những bước phát triển đầu
tiên. Hoạt động Logistics ở Việt Nam bắt đầu khởi sắc cùng với Nghị định
140/2007 NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/09/2007.

Để đáp ứng với lượng hàng hoá xuất nhập khẩu đang ngày một tang lên, hàng
loạt các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận đã ra đời, số
doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này đã đạt mức 1200 vào cuối năm 2010.
Hầu hết các doanh nghiệp giao nhận vận tải ở Việt Nam hiện nay không chỉ làm
giao nhận và vận tải thông thường mà còn làm cả các công việc về lưu kho, dán
nhãn hiệu, đóng gói bao bì và thủ tục hải quan... Và đề có thể hoạt động trong
những lĩnh vực rộng hơn, rất nhiều doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh dưới hình
thức cung cấp dịch vụ Logistics. Tuy nhiên phải thấy rằng các công ty ở Việt Nam
kinh doanh dịch vụ Logistics lớn nhất hiện nay là các công ty của nước ngoài như
APL Logistics, Maersk Logistics, NYK Logistics, Schenker..., các công ty này
chiếm tới 70% thị phần dịch vụ Logistics của Việt Nam với bề dày kinh nghiệm,
kỹ thuật, công nghệ và uy tín cả trăm năm.

Một điều đáng chú ý là hoạt động Logistics vẫn nhận được sự bảo hộ của
Chính phủ nhằm ngăn cản các công ty nước ngoài thâm nhập thị trường trong
nước và nhằm giúp các công ty trong nước có thể tăng tính cạnh tranh trước khi
đối mặt với các tập đoàn nước ngoài, tuy nhiên điều này cũng làm chậm đi khả
năng phát triển của Logistics Việt Nam. Tại châu Á, nơi được coi là trung tâm vận
chuyển hàng hoá đã và đang chứng kiến sự thay thế các công ty đại lý địa phương
bằng các chi nhánh hoặc các công ty con của các tập đoàn giao nhận quốc tế lớn.
Ví dụ như ở Đài Loan, Hồng Kông, Singapo... một số hãng giao nhận châu Âu
như Danzas, Raf, Karl & Mueller... thay cho việc chỉ định các đại lý tại các cảng
họ đã thiệt lập chi nhánh của mình tại các quốc gia này vì luật pháp của các quốc
gia này cho phép. Điều này khác so với Việt Nam, đại đa số các hãng giao nhận
vận tải quốc tế chưa được phép kinh doanh vận tải tại Việt Nam mà chỉ được phép
trong giới hạn nghiên cứu, xúc tiến và phát triển thị trường. Vì vậy, phần lớn các
hãng giao nhận quốc tế cũng hoạt động dưới hình thức chỉ định một doanh nghiệp
Việt Nam làm đại lý cho họ hoặc thành lập công ty liên doanh, hoặc thậm chí tự
đảm nhận hoạt động khi núp dưới danh nghĩa của một đại lý liên doanh là doanh
nghiệp Việt Nam. Thực trạng này sẽ được dần thay đổi như các nước trong khu
vực vì Việt Nam phải thực hiện các cam kết với WTO.

3. Thực trạng và giải pháp phát triển Logistics trong thời gian tới:
a. Khái quát thực trạng Logistics ở Việt Nam hiện nay:
Dịch Covid-19 bùng phát từ cuối tháng 1/2020 và đã tác động trải rộng trên
215 quốc gia và vùng lãnh thổ, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, văn hóa xã hội và
đời sống con người. Dịch bệnh khiến kinh tế thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực, dự
báo sẽ rơi vào suy thoái sâu -5% trong năm 2020 (Báo cáo Logistics 2020). Đặc
biệt, đại dịch đã gây áp lực nặng nề lên khả năng sản xuất cũng như chuỗi cung
ứng toàn cầu hay còn là ngành dịch vụ Logistic. Toàn bộ dây chuyền của ngành
logistic đã bị ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch, mọi hoạt động bị trì hoãn và chính
dịch bệnh cũng tạo nên những thử thách không ngừng dành riêng cho ngành từ
hiện tại và cả trong tương lai.

Đối với Việt Nam, từ khi dịch Covid-19 bùng phát, cuộc khủng hoảng này tác
động mạnh mẽ lên ngành vận tải, logistics và tìm nguồn cung ứng chiến lược trọng
yếu. Các ngành sản xuất, như dệt may, dựa chủ yếu vào việc nhập khẩu nguyên
liệu từ Trung Quốc, nơi xảy ra dịch bị tác động nhất, đã ngưng trệ sản xuất. Chiến
dịch giải cứu hàng hóa bị ách tắc ở biên giới với Trung Quốc giai đoạn đầu của
dịch bệnh và đặc biệt là thời gian giãn cách xã hội trong tháng 4/2020 đã làm cho
hoạt động sản xuất, logistics, vận tải bị gián đoạn, tắc nghẽn. Hoạt động mua sắm
trực tuyến phát triển. Từ tháng 5, kinh tế bắt đầu phục hồi nhưng dịch Covid-19
tiếp tục diễn biến phức tạp tại các thị trường là đối tác thương mại chính của Việt
Nam gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất, nhập khẩu và logistics. Từ giữa
tháng 7/2020, sau 99 ngày không có ca nhiễm tại cộng đồng, dịch bùng phát đợt 2
với tốc độ nhanh tại thành phố Đà Nẵng, lại tiếp tục gây ảnh hưởng nặng nề cho
nền kinh tế và phục hồi hoạt động dịch vụ logistics nước ta.

Theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Logistics Việt Nam (VLA), trong
Quý I/2020, 15- 50% hoạt động của các hội viên bị ảnh hưởng (giảm về hoạt động
và doanh thu) tùy theo loại hình dịch vụ cung cấp. Khoảng 80% hội viên VLA là
doanh nghiệp vừa và nhỏ nên bị tác động nặng nề. Từ tháng 5/2020, hoạt động
logistics có được phục hồi theo nền kinh tế, nhưng hiện nay nhìn chung khoảng
20% doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics vẫn còn suy giảm về hoạt động.
So với trước dịch, lượng hàng hóa vận tải qua biên giới giảm đi nhiều, phải đổi lái
xe, đổi đầu kéo là những khó khăn hiện hữu. Nền kinh tế Việt Nam là một nền
kinh tế mở, phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư FDI với hơn 70% kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu là thuộc khu vực này. Theo đó, ngành dịch vụ logistics Việt Nam
cũng chịu tác động của khoảng hơn 30 doanh nghiệp cung cấp logistics xuyên
quốc gia có quan hệ mật thiết với các chủ hàng và hãng tàu biển lớn của thế giới.
Nhu cầu quốc tế giảm sút đưa đến đơn hàng xuất khẩu giảm, nhiều công ty phải
cho công nhân nghỉ việc. Doanh nghiệp dịch vụ logistics bị tác động, ảnh hưởng
theo, giảm sút đáng kể về năng lực kinh doanh và diện hoạt động. Doanh thu bị
giảm mạnh.

Qua dịch bệnh, ngành dịch vụ logistics Việt Nam đã nhận thức sâu sắc vấn đề
tồn kho (inventory) cần được quan tâm hơn trong hoạt động logistics đối với
doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc vào nguyên liệu nhập ngoại. Đồng thời, dịch
bệnh là chất xúc tác thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ
thông tin trong ngành dịch vụ logistics, trong điều kiện Cách mạng Công nghiệp
4.0. Vì vậy, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics đã nhận thức cần thiết
phải chuyển đổi số nhằm thay đổi sự trì trệ, tạo sự đột phá để nâng cao năng lực
cạnh tranh, giảm chi phí logistics, tăng trưởng, có thêm khách hàng và đạt lợi
nhuận tối đa vượt trội so với trước khi chuyển đổi số. Theo Hiệp hội Giao nhận
vận tải quốc tế (FIATA), hiện nay việc sử dụng chứng từ điện tử đang rất phổ biến
trong ngành dịch vụ vận tải, logistics thế giới, nhất là trong thời gian Đại dịch. Tại
Tân Cảng Sài Gòn, hãng tàu Maersk Lines đã cho thực hiện thành công e-DO -
Lệnh giao hàng (Delivery Order) điện tử và đang tiếp tục áp dụng ở Cảng Hải
Phòng. VLA đang xúc tiến thực hiện e-DO bằng công nghệ blockchain đối với lô
hàng lẻ (LCL), dự kiến mỗi năm có thể tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng Việt Nam;
phối hợp với Hiệp hội Nông nghiệp số (VIDA) và Tập đoàn FPT thành lập một
công ty công nghệ cộng đồng phát triển một nền tảng số trục để kết nối các ứng
dụng công nghệ có sẵn kết nối vào nhằm phục vụ chung cho cả cộng đồng doanh
nghiệp dịch vụ logistics và cộng đồng chủ hàng.

Dịch Covid-19 đã làm thay đổi cách tiêu dùng, phương thức hoạt động, trao
đổi thương mại. Thương mại điện tử của nước ta đã phát triển mạnh mẽ, kéo theo
các hoạt động logistics. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) cho
biết hoạt động thương mại điện tử Việt Nam đang tăng trưởng 30%/năm với quy
mô thị trường 2019 đạt 12,5 tỷ USD. Dự kiến 2020 đạt 15 tỷ USD. Theo công ty
nghiên cứu thị trường Nielsen, trong thời gian đại dịch, nhu cầu mua hàng trực
tuyến để tiêu dùng của Việt Nam tăng 25%. Theo một nghiên cứu của công ty tư
vấn chiến lược toàn cầu McKinsey, quá trình chuyển đổi số đáng lẽ cần 5 năm để
áp dụng vào doanh nghiệp và người tiêu dùng, thì nay chỉ mất 8 tuần nhờ cú hích
từ đại dịch. Covid-19 đã làm cho chuyển dịch sản xuất và chuyển đổi nguồn cung
để đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu an toàn và chuẩn bị cho dài hạn. Vấn đề cải
thiện tính cạnh tranh của chuỗi cung ứng và logistics như chi phí, chất lượng và
giao hàng đang được đặt lên hàng đầu. Các vấn đề trên đang ảnh hưởng mạnh mẽ
tới việc phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong thời gian tới.
Các hoạt động logistics mới xuất hiện, như vận tải đường sắt tàu container
lạnh liên vận quốc tế vận chuyển hàng hóa trọn gói sang Trung Quốc, mở ra
hướng xuất khẩu chính ngạch hàng trái cây và nông sản đông lạnh bằng đường sắt
sang Trung Quốc và từ đó đi Trung Á, Châu Âu. Vận chuyển vải tươi xuất khẩu
trước đây bằng đường hàng không thì nay được vận chuyển bằng đường biển với
những lô hàng vải tươi đầu tiên xuất sang Singapore, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong
tháng 6/2020, với giá cước vận tải chỉ bằng 1/3 giá cước vận chuyển bằng đường
hàng không.

b. Một số giải pháp phát triển Logistics trong thời gian tới:

Theo quyết định số 221/QĐ-TTg, sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-
TTg ngày 14 tháng 2 năm 2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao
năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, với
mục tiêu : “Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ
logistics vào GDP đạt 5-6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15-20%, tỷ
lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50-60%, chi phí logistics giảm xuống tương
đương 16-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.” .
Để thực hiện được điều đó, trước hết là phải tập trung phát triển tổng thể ngành
Logistics ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Sau đây là một số biện pháp được nêu ra
để phát triển Logistics giai đoạn tới:

Một là, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải làm nền tảng cho
hoạt động Logistics:

 Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cải cách thủ tục hành
chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục kiểm tra chuyên
ngành. Hướng tới cắt giảm ít nhất 50% điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
giao thông vận tải.

 Rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ kết nối của hạ tầng
giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ
logistics, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại
quan trong một tổng thể thống nhất.
 Tăng cường kết nối, phát triển hợp lý các phương thức vận tải, vận tải đa
phương thức và dịch vụ logistics. Trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác
đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị phần vận
tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường sắt và đường thủy nội
địa, đặc biệt là trên các hành lang vận tải chính.

 Phát triển vận tải thủy nội địa và vận tải ven biển.

 Tăng cường hợp tác với các đối tác nước ngoài để mở rộng kết nối hạ tầng
logistics. Mở rộng kết nối hạ tầng logistics với các nước trong khu vực
ASEAN, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới nhằm phát huy tác
dụng của vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới và quá cảnh.

 Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư trong xây dựng kết cấu
hạ tầng. Cân đối, bố trí các nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn ngân sách, vốn
ODA cho các dự án nhằm tăng cường khả năng kết nối giữa các phương
thức vận tải, ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình có
tính quan trọng, cấp bách.

 Khuyến khích, thu hút đầu tư ngoài ngân sách để xây dựng, phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông. Huy động tối đa mọi nguồn lực để tăng cường thực
hiện kết nối; đẩy mạnh hợp tác công tư (PPP) đối với các dự án phát triển
kết cấu hạ tầng giao thông.

 Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, khai thác vận tải.

 Nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

 Xử lý nghiêm các vi phạm về tải trọng, việc quản lý, lắp đặt, sử dụng thiết
bị giám sát hành trình xe, việc cấp và sử dụng phù hiệu, kê khai, niêm yết
giá cước của các đơn vị vận tải... Phối hợp chặt chẽ với các địa phương
trong việc quản lý, giám sát và xử lý vi phạm về hoạt động vận tải trên địa
bàn để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động vận tải.

Ngoài ra, hạ tầng Logistics còn có hệ thống thông tin, viễn thông,... Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư tư nhân, chủ động đầu tư của doanh
nghiệp và áp dụng mở rộng các mô hình PPP (hợp tác công tư)
Hai là, nâng cao phát triển nguồn nhân lực Logistics ở Việt Nam:
 Về công tác thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong những năm vừa qua, ngành Logistics tại các trường Đại học trên cả
nước luôn có điểm trúng tuyển cao hàng đầu. Đây là một dấu hiệu đáng
mừng vì năng lực cơ bản của sinh viên nhập học có tầm quan trọng tác
động đến kết quả đào tạo của các trường cũng như năng lực làm việc nghề
nghiệp sau này. Do đó, chúng ta cần tiếp tục duy trì và phát huy hơn nữa
công tác truyền thông, hỗ trợ tư vấn hướng nghiệp… để thu hút nguồn nhân
lực có chất lượng cao vào lĩnh vực chuyên ngành này. Đây không chỉ là
nhiệm vụ của các cấp quản lý, cơ sở đào tạo mà cần sự tham gia tích cực
của các doanh nghiệp, các tổ chức trong việc cung cấp thông tin, xây dựng
nhiều hình thức động viên khuyến khích như cấp học bổng, hỗ trợ kinh phí
học tập.

 Về công tác giảng dạy, huấn luyện tại các cơ sở đào tạo

Đây được coi là công tác trọng tâm trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho ngành Logistics. Với sự phát triển nhanh chóng về số lượng
của các trường, đơn vị đào tạo như thời gian qua và sự thành lập của Hiệp
hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam. Các trường, đơn vị đào tạo cần
đẩy mạnh hợp tác về giảng viên, cơ sở vật chất, tài liệu giáo trình, kinh
nghiệm quản lý, giảng dạy, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, khuyến khích
việc đào tạo liên thông và công nhận tín chỉ lẫn nhau. Sinh viên tại các
trường Đại học cần được trao cơ hội tham gia nghiên cứu, thực hiện dự án
để vừa có kiến thức thực tế vừa sẵn sàng tiếp thu và ứng dụng những tiến
bộ của khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, các doanh nghiệp sử dụng nhân lực
Logistics cũng cần được thu hút, tạo điều kiện để tham gia tích cực hơn nữa
trong quá trình đào tạo, hướng dẫn thực tập, tăng tiếp cận thực tế cho sinh
viên. Thực tế cho thấy, khi sinh viên được trao cơ hội thực tập bài bản,
nghiêm túc tại các doanh nghiệp thì đều vận dụng hiệu quả kiến thức có
được từ nhà trường vào thực tiễn để phát triển cơ hội nghề nghiệp ngay khi
ra trường.

 Về công tác đào tạo, phát triển năng lực chuyên môn tại các doanh nghiệp

Đối với người lao động đang công tác tại các doanh nghiệp, việc được
khuyến khích, tạo điều kiện học tập, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ là vô cùng cần thiết. Mối liên hệ giữa nhà trường, các cơ sở đào tạo với
doanh nghiệp, hiệp hội Logistics một lần nữa đóng vai trò quan trọng. Hiện
nay, các doanh nghiệp lớn như Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, CTCP
Gemadept đều có chính sách khá hiệu quả nhưng các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, chiếm đa số trong cộng đồng doanh nghiệp Logistics Việt Nam nên rất
cần có vai trò kết nối của Hiệp hội Logistics Việt Nam, các hiệp hội
Logistics địa phương qua đó có thể thực hiện công tác này một cách hiệu
quả.
Ba là, về mặt thể chế, cần có “bàn tay vô hình” của nhà nước để có cái nhìn bao
quát, đưa ra những chính sách phát triển ngành:

 Tái cấu trúc Logistics,khuyến khích áp dụng rộng rãi quản trị chuỗi cung
ứng, quản trị Logistics trong doanh nghiệp.

 Điều chỉnh và bổ sung luật, chính sách nhằm tạo điều kiện phát triển hoạt
động dịch vụ Logistics.

 Phát triển E-Logistics, triển khai các hệ thống EDI và hệ thống giao dịch
không giấy tờ tại các điểm hải quan. cửa khẩu,cải cách hành chính và minh
bạch trong các dịch vụ công.

II. Vì sao cung ứng dịch vụ theo giá cả thị trường là động lực để thúc đẩy doanh
nghiệp logistics phát triển? (Lấy ví dụ cụ thể)

1. Cung ứng dịch vụ theo giá cả thị trường là động lực để thúc đẩy doanh
nghiệp logistics phát triển:
Giá là biểu tượng giá trị của sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động trao đổi. Vì
vậy, không thể thiếu vắng giá cả ở bất kỳ một hoạt động trao đổi nào.

Giá cả có mối quan hệ khăng khít với giá trị sử dụng hay tính hữu ích của
hàng hoá. Đã là hàng hoá nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng và giá
trị có sự nhất trí với nhau và là 2 mặt thống nhất của hàng hoá. Giá cả không
những biểu hiện bằng tiền giá trị mà còn phản ánh giá trị sử dụng của hàng hoá.
Giá trị sử dụng là yếu tố quan trọng chi phối sự hình thành giá cả hàng hoá. Mối
quan hệ giữa giá cả và giá trị sử dụng biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau đây:
 Trên thị trường, giá cả hình thành thống nhất theo một đơn vị giá trị sử
dụng . Biểu hiện quan trọng nhất của giá trị sử dụng là chất lượng hàng hoá.
Vì vậy, giá cả hàng hoá hình thành theo chất lượng của nó.

 Mức giá của hàng hoá gắn liền với chi phí sử dụng hàng hoá.

 Giá cả phản ánh tính thay thế lẫn nhau trong sản xuất và trong tiêu dùng.
Mối quan hệ giữa giá cả với giá trị sử dụng của hàng hoá chỉ ra rằng: sự
thống nhất giữa giá trị và giá trị sử dụng là cơ sở cho sự hiện diện của mức
giá trên thị trường. Giá cả và giá trị sử dụng của hàng hoá là hai phương
tiện quan trọng đối với các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh để tồn
tại và phát triển. Việc nghiên cứu mối quan hệ này cũng có ý nghĩa đối với
quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thông qua việc tác động đến mối quan hệ giữa
giá cả-giá trị-giá trị sử dụng, Nhà nước thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã
hội đi đôi với quá trình tái sản xuất sức lao động cả về mặt giá trị cũng như
hiện vật, khuyến khích hình thành cơ cấu sản xuất-tiêu dùng tối ưu.

Chức năng của giá cả thị trường là chức năng phân phối và phân phối lại thị
trường cho những người có nhu cầu và khả năng thanh toán. Vì vậy, giá cả thị
trường không những giúp cho người tiêu dùng cố gắng lao động để thỏa mãn nhu
cầu mà còn làm cho các doanh nghiệp Logistics thúc đẩy sản xuất, năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ,... để nâng cao chất lượng khách hàng.

Giá cả kế hoạch dẫn đến phân phối bình quân và thủ tiêu động lực sản xuất và
làm giàu, kinh tế xã hội kém phát triển dẫn đến kinh doanh Logistics không phát
triển được.

Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết
định khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hóa
lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên
các cơ sở khách quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do).

Giá cả thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu của từng thị
trường đó. Giá thị trường là căn cứ khách quan đối với các doanh nghiệp để đưa ra
quyết định sản xuất, kinh doanh của mình trong môi trường cạnh tranh. Mua, bán
hàng hoá dịch vụ theo giá thị trường sẽ khiến các doanh nghiệp thúc đẩy nỗ lực
sản xuất, kinh doanh với chi phí tối ưu nhất để có được mục tiêu lợi nhuận tối đa
nhất.

Vì vậy, nếu mà cấc doanh nghiệp Logistics cung ứng dịch vụ theo giá cả thị
trường, họ sẽ nắm bắt được thị trường, nắm bắt được hành vi người tiêu dùng để
chọn cho mình một bộ phận khách hàng mục tiêu cụ thể. Doanh nghiệp Logistics
sẽ phải triển dịch vụ cung ứng của mình hướng đến đối tượng khách hàng mục tiêu
đó, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và nâng cao được chất lượng, doanh số
của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp có điều kiện phát triển trong lĩnh vực
Logistics.

2. Ví dụ thực tiễn chứng minh:

Chi phí logistics chủ yếu sẽ gồm 3 loại phí: chi phí vận tải, chi phí kho
bãi và chi phí hàng dự trữ. Trong đó, chi phí vận tải là lớn nhất chiếm đến
60%. Khi giá xăng tăng đột biến sẽ phản ánh ngay vào chi phí vận tải nội
địa, chi phí vận tải quốc tế thông qua phụ phí về cước xăng dầu…, từ đó gây
áp lực rất lớn đến chi phí vận hành trực tiếp tại doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua giá xăng dầu liên tục tăng và tăng mạnh vào nửa đầu
năm 2022. Ngành logistics vẫn còn chịu những hệ lụy của đại dịch Covid-19, lại
tiếp tục gánh chịu thêm một khó khăn nữa.

Giá xăng dầu tăng mạnh đang gia tăng áp lực lên ngành logistics, buộc
các doanh nghiệp phải tăng giá dịch vụ cung ứng Trong hoạt động kinh
doanh vận tải và logistics nói chung, không có ràng buộc doanh nghiệp phải
cố định giá mà sẽ có điều chỉnh theo biến động của thị trường xăng dầu. Tuy
nhiên, hầu hết các hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics ký kết với đối tác
cần phải giữ giá định kỳ theo năm nên không thể điều chỉnh ngay được.
Thực tế này đã khiến nhiều doanh nghiệp logistics chấp nhận rủi ro buộc
phải đẩy cao giá dịch vụ cung ứng nếu khách hàng chấp nhận đàm phán
hoặc rơi vào tình trạng thua lỗ nặng. Các cơ quan chức năng cần thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bổ trợ nội lực cho DN ngành logistics.
Theo các DN hoạt động trong lĩnh vực logistics, cần nhanh chóng xây dựng
hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, đẩy nhanh tiến độ các dự án kết nối hạ tầng giao
thông. Cùng với đó, thực hiện kết nối đa phương thức, tạo thuận lợi phát triển dịch
vụ logistics, tăng cường đầu tư vào hạ tầng hậu cần và kho bãi để đẩy mạnh hệ
sinh thái logistics, kết nối khu vực, giúp tăng khả năng cạnh tranh thương mại của
Việt Nam trên toàn cầu. Cần có giải pháp định hướng “Người Việt Nam ưu tiên
dùng dịch vụ của công ty Việt Nam”
Phần B: Trình bày mô hình kế hoạch hóa tập trung và mô hình hệ thống thị trường
trong việc giải quyết vấn đề kinh doanh thương mại và logistics.

Hiểu thế nào là chính sách định giá hướng vào khách hàng? Và giải pháp để thực
hiện chính sách đó trong kinh doanh logistics?

Trả lời:

I. Mô hình kế hoạch hóa tập trung và mô hình hệ thống thị trường trong việc giải
quyết vấn đề kinh doanh thương mại và logistics.

1. Mô hình kế hoạch hóa tập trung trong việc giải quyết vấn đề kinh doanh
thương mại và logistics:

Nền kinh tế kế hoạch tập trung (còn được gọi là kinh tế kế hoạch hoặc nền
kinh tế chỉ huy) là một nền kinh tế-xã hội trong đó Chính phủ và Nhà nước kiểm
soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu tố
sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Trong một nền kinh tế như vậy, các nhà
làm kế hoạch quyết định loại và khối lượng hàng hóa nào sẽ được sản xuất, các xí
nghiệp thực thi việc sản xuất này, trái ngược với một nền kinh tế phi kế hoạch.

Chính phủ thực hiện gần như tất cả các quyết định liên quan tới hệ thống kinh
tế bao gồm: Sản xuất như thế nào, sản xuất ra cái gì, sản xuất cho ai, giá cả của sản
phẩm như thế nào, của bộ phận lao động và bỏ vốn như thế nào?

Trong một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Chính phủ được coi là người ra
quyết định cao nhất và tốt hơn bất kì một nhà kinh doanh, nhà quản lý hay người
tiêu dùng nào trong việc phân bổ các nguồn lực của đất nước.

Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các chỉ
tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn,
định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm
quyền quyết định. Mọi sự thay đổi trong kế hoạch và tổ chức thực hiện đều phải
báo cáo lên cơ quan chủ quản. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật
tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà
nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Vai trò của kinh tế kế hoạch hóa tập trung:

 Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đóng góp quan trọng vào việc cải tạo
quan hệ sản xuất, tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay nhà nước. Do đó,
có điều kiện tập trung sức sản xuất để nâng cao năng suất lao động.

 Việc tập trung các tư liệu sản xuất và sản xuất có kế hoạch tạo điều kiện tập
trung sức lao động và vốn đầu tư vào những ngành trọng điểm, những công
trình quan trọng nhằm đưa đến sự thay đổi cơ bản nền kinh tế quốc dân.

 Tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Nhà nước có tác
dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng
điểm, những ưu tiên của đất nước. Ví dụ, quá trình Công nghiệp hóa những
năm 1930 ở Xô Viết đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh tế
cũng như các dự án chạy đua vũ trang và các dự án lớn khác của Liên Xô
sau này.

 Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên nền kinh tế tránh được lạm
phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài
chục năm.

 Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với thu nhập tăng đều theo
kế hoạch điều này là có lợi cho tầng lớp dân cư lớp dưới kém năng động
thích được sống bao cấp, sức mua của người dân tăng cao.

Mô hình kế hoạch hóa tập trung: Theo mô hình này, doanh nghiệp A muốn
được cấp chỉ tiêu, hàng hóa thì doanh nghiệp A phải gửi đơn hàng tới Cơ Quan
quản lý ngành. Cơ Quan quản lý ngành sẽ thu thập tất cả các đơn hàng trong vùng
để gửi lên Bộ Chủ Quản. Bộ Chủ Quản lại tiếp tục thu tất cả các đơn hàng trong
Bộ của mình để gửi lên Ủy ban Kế hoạch nhà nước. Tại đó, Uỷ ban Kế hoạch nhà
nước sẽ lập kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân (trong đó có thương mại dịch vụ
và chỉ tiêu phân phối hàng hóa) để trình Chính Phủ và Quốc Hội. Kết quả sẽ được
thông báo theo trình tự từ Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, đến Bộ Chủ Quản, đến Cơ
Quan quản lý ngành và cuối cùng là doanh nghiệp. Khi đó, doanh nghiệp A nhận
được chỉ tiêu mua (hay chỉ tiêu được cung ứng). Uỷ ban Kế hoạch nhà nước cũng
sẽ thông báo cho Bộ cung ứng về chỉ tiêu được cung ứng của doanh nghiệp để Bộ
cung ứng thông báo về Tổng Công Ty. Sau đó, Tổng Công ty sẽ thông báo cho
doanh nghiệp B về chỉ tiêu bán ra (hay chỉ tiêu phải cung ứng) Ngay khi doanh
nghiệp A nhận được chỉ tiêu mua, doanh nghiệp B nhận được chỉ tiêu bán ra, hai
công ty này sẽ ký hợp đồng cung ứng với nhau.

Ưu điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung trong việc giải quyết vấn đề
kinh doanh thương mại và logistics:

Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự tăng đầu
tư, khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số lợi thế khác, cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp có tác dụng nhất định. Nó cho phép tập
trung tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào
các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thế, đặc biệt trong quá
trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này
tạo sự thống nhất trong thực hiện các mục tiêu.

Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa
tập trung đã đáp ứng được yêu cầu của thời chiến, bởi vì do đất nước bị xâm lược,
mục tiêu của cả nước là giải phóng dân tộc. Bởi vậy thực hiện kế hoạch hóa tập
trung sẽ huy động được tối đa sức lực của nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế
để thực hiện mục tiêu đó, đây là nhiệm vụ chung chứ không phải riêng ai. Nhà
nước thực hiện bao cấp hoàn toàn, giúp cho người chiến sĩ ra chiến trường cũng
yên tâm phục vụ chiến đấu hơn, bởi họ không phải lo nghĩ đến chuyện gia đình, vợ
con ở nhà, vì mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.

Thời kỳ đầu, với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lừng lẫy của các
cuộc kháng chiến, cũng như do được sống trong một chế độ hoàn toàn mới, độc
lập, tự do, nên người dân tràn đầy hy vọng, sẵn sàng đóng góp công sức, tiền của
của mình cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Công bằng mà nói, lúc đầu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cũng đã tạo ra
được niềm tin và hy vọng về một xã hội mới tốt đẹp, một cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho người dân, nhờ đó đã tạo ra được động lực khá mạnh mẽ đối với sự phát
triển kinh tế -xã hội của đất nước. Điều này đã giúp cho miền Bắc huy động được
tối đa sức mạnh vật chất và tinh thần của người dân để phục vụ cho sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, và khi miền Nam được giải phóng, nước nhà được hoà bình,
thống nhất, chúng ta đã khắc phục khá nhanh những hậu quả do hơn 30 năm chiến
tranh tàn khốc để lại.
2. Mô hình hệ thống thị trường trong việc giải quyết vấn đề kinh doanh thương
mại và logistics:

Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.

Mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam bắt đầu được áp dụng từ sau năm
1986, sau khi chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường, nhà nước lúc này sẽ đóng vai trò chỉ đảo vĩ mô bao quát toàn bộ nền kinh
tế, các doanh nghiệp sẽ tự do hoạt động trong sự điều tiết của nhà nước. Các đặc
trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường:

Một là, trong nền kinh tế thị trường, cung ứng, mua bán hàng hóa và dịch vụ
sẽ theo giá cả thị trường. Giá cả thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ hình thành do
các nhân tố chi phối và vận động thị trường quyết định tại một thời điểm, địa điểm
nhất định. Giá cả thị trường phụ thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị
trường, giá trị hàng hóa, giá trị tiền tệ và tác động của các chính sách kinh tế. Hoạt
động mua bán trong nền kinh tế thị trường sẽ tập trung vào những người có nhu
cầu mua và họ sẵn sàng chấp nhận chi trả cho hàng hóa hóa hay dịch vụ đó. Ưu
điểm của đặc trưng này là tạo động lực cho người kinh doanh hay doanh nghiệp
phát triển, thúc đẩy sản xuất. Họ buộc phải đổi mới ,phát triển mình để cạnh tranh
và đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên, mặt hạn chế của nó là việc phân
chia giai cấp: thiểu số là những người nắm quyền còn đa số lại trong hoàn cảnh
khó khăn. Chênh lệch giàu nghèo quá mức sẽ dẫn đến nguy cơ bất ổn xã hội,
người nghèo sẽ đứng lên đấu tranh để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Hai là, trong nền kinh tế thị trường, mọi mối quan hệ kinh doanh, kinh tế đều
được tiền tệ hóa. Trong kinh doanh, tất cả mối quan hệ hợp tác đều dựa trên tính
hiệu quả và tạo lợi ích cho nhau. Ưu điểm của đặc trưng này là doanh nghiệp hay
người kinh doanh sẽ thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng trong mọi thương vụ làm ăn
hợp tác. Tuy nhiên, điều đó sẽ làm thay đổi những mối quan hệ cộng đồng, xã
hội,... khi chúng ta luôn luôn đặt lợi ích kinh tế và tính hiệu quả lên hàng đầu.

Bên cạnh đó còn một số đặc trưng cơ bản như: nền kinh tế thị trường là nền
kinh tế làm việc thông qua tiền, sự trao đổi bằng tiền, bằng vật chất; hay cạnh
tranh chính là tất yếu khách quan phải có trong nền kinh tế thị trường- là động lực
để phát triển nền kinh tế, và cuối cùng là trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ là
ngành phát triển và nhiều tiềm năng khai thác. Tóm lại, sự năng suất, chất lượng,
hiệu quả là những yếu tố hàng đầu trong mô hình kinh tế thị trường.

II. Chính sách định giá hướng vào khách hàng. Giải pháp để thực hiện chính sách
đó trong kinh doanh logistics:

Ngày nay khách hàng có nhiều quyền lợi và ưu thế hơn trong việc lựa chọn mua
sắm các sản phẩm, dịch vụ cần thiết cho nhu cầu của mình. Nhất là khi họ có thể tự
chủ động trong việc tiếp nhận các thông tin sản phẩm, thương hiệu,… cần thiết trước
khi liên hệ hoặc đến với địa điểm mua sắm của các đơn vị. Thậm chí, họ còn không
tiếp cận những thông tin do doanh nghiệp xây dựng mà tìm đến các nguồn mang tính
khách quan cao như các hội, nhóm review, đánh giá của người tiêu dùng. Nên việc tác
động vào quyết định mua sắm của khách hàng có thể nói là ngày càng khó khăn hơn
bao giờ hết.

Chính vì vậy, các doanh nghiệp thay vì tập trung vào lợi nhuận đã chuyển hướng
sang việc định hướng khách hàng để tác động đến việc đưa ra quyết định mua sắm
cuối cùng của họ. Theo đó, định hướng khách hàng là một loạt các hoạt động, thông
tin được xây dựng nhằm thu hút, giữ chân và phát triển khách hàng. Mang đến giá trị
kết nối giữa khách hàng và doanh nghiệp trong suốt quá trình trao đổi, mua bán. Bởi
muốn phát triển được các mối quan hệ với khách hàng bạn không đơn thuần chỉ là
cung cấp những gì mà mình có, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà còn phải
thực sự hiểu về họ.

Lúc này khi doanh nghiệp định hướng khách hàng sẽ là tất cả các mục tiêu đều
xoay quanh nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mọi hoạt động, chiến kinh doanh
hay marketing đều chú trọng vào việc thỏa mãn nhu cầu và trải nghiệm mua sắm của
khách hàng. Từ đó thiết lập và quản lý các mối quan hệ với khách hàng một cách rõ
ràng theo từng nội dung. Tuy nhiên, định hướng hay hướng vào khách hàng để phát
triển ở nước ta đôi khi vẫn bị giới hạn về cách hiểu. Ví dụ, nhiều người hiểu định
hướng khách hàng chỉ đơn thuần ám chỉ cho các vấn đề như chăm sóc khách hàng.
Tuy nhiên, chính xác nó bao gồm mọi hoạt động liên quan đến việc phục vụ, đáp ứng
nhu cầu của khách hàng.

1. Nội dung chính sách định hướng giá vào khách hàng:
Một trong những quyết định quan trọng mà các doanh nghiệp thường phải đối
mặt là thiết lập giá. Định giá sản phẩm là một quá trình khá phức tạp và cần phải
nghiên cứu một cách cẩn thận. Giá của một sản phẩm bán ra ngoài việc đảm bảo
phải bù đắp được chi phí sản xuất, nhân sự, tiếp thị, bán hàng và mang lại lợi
nhuận còn phải tính toán làm sao thể hiện được sự uy tín của thương hiệu doanh
nghiệp và cạnh tranh với các đối thủ khác. Tùy vào các mục đích của chủ doanh
nghiệp như muốn thâm nhập thị trường, đánh bại đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần
hay tăng lợi nhuận thì sẽ cần áp dụng các chiến lược và phương pháp định giá
khác nhau.

Ba chiến lược định giá chính mà các doanh nghiệp thường áp dụng đó là định
giá dựa vào chi phí, định giá dựa vào cạnh tranh và định giá dựa vào khách hàng.
Trong đó, định giá dựa vào khách hàng (Customer-Driven Pricing) là việc doanh
nghiệp thiết lập giá dựa vào giá trị cảm nhận của khách hàng đối với hàng hóa
hoặc dịch vụ của công ty.

Định giá dựa vào khách hàng có một số đặc trưng sau:

 Phương pháp định giá dựa vào khách hàng dựa trên cơ sở khách hàng sẽ
thay đổi thói quen tiêu dùng tùy thuộc vào giá của hàng hóa, dịch vụ và các
khách hàng khác nhau sẵn sàng trả các mức giá khác nhau để có được sản
phẩm, dịch vụ của một doanh nghiệp.
 Với phương pháp này, các doanh nghiệp định giá bán của mình căn cứ vào
cảm nhận của người mua về giá trị sản phẩm, dịch vụ chứ không phải phí
tổn của người bán. Giá trị tiêu dùng đối với sản phẩm là sự đánh giá của
người tiêu dùng về khả năng của nó trong việc thỏa mãn những nhu cầu và
ước muốn đối với họ.

 Phương pháp định giá dựa vào giá trị cảm nhận của khách hàng có quy
trình ngược với phương pháp định giá dựa vào chi phí. Có thể hình dung
phương pháp này qua sơ đồ:

Theo phương pháp này công ty xác định mức giá dựa trên nhận thức của
khách hàng về giá trị của sản phẩm. Giá trị và mức giá bán sẽ quyết định việc thiết
kế và mức chi phí phát sinh. Như vậy, việc định giá bắt đầu từ việc phân tích nhu
cầu của khách hàng và nhận thức của họ về giá trị của sản phẩm. Khi định giá theo
giá trị cảm nhận của khách hàng, người làm giá phải xây dựng được những biến số
tạo nên giá trị cảm nhận trong suy nghĩ của người mua; giá bán dự kiến được ấn
định theo giá trị cảm nhận này.

Để xác định giá “theo giá trị cảm nhận được”, người làm giá phải tiến hành
các công việc sau đây:

 Xây dựng khái niệm sản phẩm cho thị trường mục tiêu với chất lượng và
giá cả dự kiến cụ thể;

 Dự kiến khối lượng bán mong muốn theo mức giá dự kiến;

 Dự kiến công suất cần thiết của nhà máy, vốn đầu tư và xác định chi phí sản
xuất sản phẩm;

 Xác định lợi nhuận theo mức chi phí và giá dự kiến.

Khi đã khẳng định rằng mức giá dự kiến đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận
mục tiêu, người chào hàng sẽ thuyết phục khách hàng chấp nhận mức giá đó bằng
cách chứng minh với khách hàng rằng lợi ích mà khách hàng nhận được từ việc
tiêu dùng sản phẩm là thỏa đáng.

Vấn đề quan trọng nhất của phương pháp “đặt giá theo giá trị cảm nhận” của
khách hàng là doanh nghiệp phải xác định chính xác nhận thức của thị trường về
giá trị của sản phẩm. Các doanh nghiệp cần tránh khuynh hướng hoặc thổi phồng
giá trị của sản phẩm dẫn đến định giá quá cao hoặc quá khắt khe trong đánh giá
dẫn đến định giá thấp so với mức giá đáng ra họ có thể tính.

Để áp dụng được phương pháp này công việc đầu tiên mà những người làm
giá của doanh nghiệp phải làm là nghiên cứu thật kỹ thị trường mục tiêu để đo
lường được nhận thức của thị trường về giá trị sản phẩm.

Ưu điểm, hạn chế của phương pháp định giá dựa vào khách hàng:

 Ưu điểm: Giá sẽ phù hợp nhu cầu và được chấp nhận bởi đa số khách hàng
trên thị trường mục tiêu.

 Hạn chế:
 Rất khó để tìm ra được mức giá gắn liền với quyết định mua và hành
vi mua của người tiêu dùng.
 Việc quá chú ý đến khách hàng dẫn đến bỏ qua yếu tố chi phí hay bỏ
qua yếu tố cạnh tranh trên thị trường.

2. Giải pháp để thực hiện chính sách định giá hướng vào khách hàng trong kinh
doanh logistics:

Một là, thiết lập chính sách giá cạnh tranh và ấn tượng với khách hàng trên
các phương tiện truyền thông. Một trải nghiệm dịch vụ khách hàng tốt sẽ giúp
danh tiếng doanh nghiệp xuất hiện trên các phương tiện truyền thông xã hội. Và,
một khi trải nghiệm gây cảm giác tiêu cực, điều đó cũng sẽ lan truyền nhanh
chóng. Mọi tương tác giữa doanh nghiệp và khách hàng phải thật tích cực, đồng
thời, cần chủ động khuyến khích họ mua hàng trong tương lai.

Hai là, giải quyết chiến lược vận chuyển bằng chiến lược bán lẻ. Khi chiến
lược bán lẻ và vận chuyển tập trung vào tăng lượng dịch vụ khách hàng, chi phí
liên quan đến mỗi giao dịch sẽ giảm. Điều này là do khi đẩy cao khả năng hiển thị
và phối hợp giữa Logistics đầu vào và đầu ra, doanh nghiệp càng có khả năng đáp
ứng nhu cầu của các nhà bán lẻ. Do đó, cả nhà cung cấp Logistics và bán lẻ nên có
cái nhìn toàn diện về tất cả các bước trong chu kỳ sản phẩm. Điều này sẽ loại bỏ
nhầm lẫn cũng như đảm bảo sự mong đợi của khách hàng được đáp ứng.

Ba là, một chuỗi cung ứng tiên phong trong dự đoán và ngăn ngừa các khó
khăn cho khách hàng. Một chiến lược Logistics định hướng khách hàng hiệu quả
phải dự đoán được các vấn đề có thể xảy ra, chứ không chỉ giải quyết những vấn
đề đang mắc phải. Điều này có thể giải quyết bằng cách: đảm bảo rằng công ty nên
có “mạng lưới rộng khắp” với tất cả đối tác. Trong một nghĩa nào đó, đây là kinh
nghiệm bán hàng đa kênh, kết hợp thương mại điện tử với tất cả các kênh khác của
Logistics, và một chuỗi cung ứng khép kín tất cả các quy trình lại không hạn chế
chi phí tối ưu nhất. Ngoài ra, các bộ phận nội bộ có xu hướng báo cáo quá mức
thành công của họ. Vì vậy, các công ty bên thứ ba có thể cung cấp các chuẩn mực
về phân tích và báo cáo các hành động trong doanh nghiệp của các bên.

Tuy nhiên, chỉ khắc phục vấn đề không đủ. Các chủ doanh nghiệp cần một
chiến lược cho dịch vụ khách hàng. Các chủ hàng cũng phải đưa ra các chiến lược
sử dụng thuật toán và thông tin dựa trên dữ liệu để cung cấp cho khách hàng nhiều
hơn mức họ cần. Tuy nhiên, những chiến lược này không được làm tăng chi phí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14 tháng 02 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển
dịch vụ logistics đến năm 2025.

2. Quyết định 221/QĐ-TTg năm 2021 sửa đổi Quyết định 200/QĐ-TTg phê duyệt Kế
hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt
Nam đến năm 2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành

3. Sách chuyên khảo: Logistics - những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam xuất
bản năm 2011 – GS.TS Đặng Đình Đào – Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển,
Trường đại học Kinh tế quốc dân.

4. Bài 3 môn Kinh doanh Logistics: Thị trường và môi trường kinh doanh Logistics-
GS.TS Đặng Đình Đào.

5. Giáo trình quản trị Logistics- Giáo sư Đoàn Thị Hồng Vân- xuất bản 2010.

You might also like