You are on page 1of 2

Chương 4:

NHẬN ĐỊNH
1. Bên đại diện có thể làm đại diện cho nhiều thương nhân.
2. Trong mọi trường hợp, bên đại diện đều phải tuân thủ sự chỉ dẫn của bên giao đại diện.
3. Bên đại diện có quyền hưởng thù lao đối với những hợp đồng được giao kết giữa bên
giao đại diện với bên thứ 3 sau khi hợp đồng đại diện chấm dứt
4. Bên đại diện trong mọi trường hợp không được nhân danh chính mình khi thực hiện
các hoạt động thương mại.
5. Bên môi giới phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi
giới
6. Trong mọi trường hợp, bên môi giới không được tham gia thực hiện hợp đồng với các
bên được môi giới.
7. Bên môi giới không được ký hợp đồng môi giới với cả bên mua và bên bán trong cùng
một quan hệ mua bán hàng hoá.
8. Trong hoạt động uỷ thác xuất khẩu hoặc uỷ thác nhập khẩu bên uỷ thác có thể uỷ thác
cho bên nhận uỷ thác tất cả các hàng hoá lưu thông hợp pháp tại Việt Nam.
9. Đại lý thương mại là một hoạt động thương mại trong đó, bên đại lý nhân danh chính
mình, bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ cho bên thứ ba và chịu mọi trách nhiệm phát
sinh từ hợp đồng với bên thứ ba.
10. Các bên có thể thoả thuận quyền sở hữu hàng hoá được chuyển giao cho bên đại lí kể
từ thời điểm bên giao đại lí giao hàng cho bên đại lí.
11. Trong quan hệ đại lí thương mại, các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
đại lí.
Bài tập 7: Tranh chấp hợp đồng môi giới thương mại
Ngày 15/01/2015 Công ty A (bên A) ký kết với Công ty B (bên B) một hợp đồng
môi giới. Theo đó, Công ty B có nghĩa vụ môi giới Công ty A với Công ty C của nước C
để Công ty A xuất khẩu sản phẩm thiết bị lạnh công nghiệp của mình sang nước C.
Trong hợp đồng môi giới, điều khoản về thu lao và thanh toán có quy định như sau:
“2.1 Mức thù lao: “Bên B được hưởng thù lao bằng 1,2% giá trị hợp đồng mà
Bên A ký kết được với công ty C.”
2.2 Phương thức thanh toán: Bên A thanh toán cho bên B bằng chuyển khoản vào
tài khoản của bên B bằng tiền đồng Việt nam theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại
thương Việt nam tại thời điểm thanh toán.
2.3 Thời hạn thanh toán: Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền thanh
toán của Công ty C.”
Ngày 30/6/2015 A đã ký kết được hợp đồng với C trên cơ sở môi giới của B. Trên
cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa, A đã giao lô hàng trị giá 10 triệu USD cho C tại cảng
TP. Hồ Chí Minh. Theo hợp đồng giữa A và C thì C được trả chậm sau 90 ngày kể từ
ngày được giao hàng để tạo điều kiện cho C xuất khẩu lô hàng đó sang nước D sau khi
hàng cập cảng tại nước C và dùng tiền thu được để thanh toán tiền hàng cho A. Tuy
nhiên, sau đó C không xuất khẩu được lô hàng sang nước D nên không có tiền để thanh
toán cho A.
Ngày 30/9/2015 B đã gửi công văn yêu cầu A thanh toán tiền thù lao môi giới là
120.000 USD, thời hạn thanh toán là 15/10/2015. Trong suốt thời gian đó đến 30/11/2017
A vẫn không thanh toán tiền thù lao môi giới cho B, nhưng do trong thời gian đó B có
nhiều thay đổi nhân sự nên không ai quan tâm đến việc này. Đến ngày 15/12/2017 B mới
lại gửi công văn yêu cầu một lần nữa A thanh toán tiền thù lao môi giới là 120.000 USD,
cộng với tiền lãi trên số tiền chậm trả tính từ 16/10/2015 đến 15/12/2017, theo lãi suất nợ
quá hạn trung bình trên thị trường vào ngày 15/12/2017 là 15%/năm, bằng 39.000 USD,
thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,
chi nhánh TP.HCM, tại thời điểm thanh toán. Thời hạn thanh toán đến 30/12/2017.
A cho rằng C chưa thanh toán tiền hàng nên A chưa phải thanh toán cho B. Mặt
khác đến thời điểm tháng 12/2017 thì thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu thanh toán thù
lao đã hết, nên đằng nào thì A cũng không có nghĩa vụ thanh toán nữa.
Hỏi:
1. Công ty B có quyền được hưởng thù lao môi giới từ hợp đồng môi giới với
Công ty A?
2. Công ty A đã có nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao môi giới hay chưa?
3. Công ty B có quyền yêu cầu Công ty A thanh toán tiền lãi do chậm thanh toán
như trên hay không?
4. Thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu thanh toán thù lao môi giới đã kết thúc hay
chưa?

You might also like