You are on page 1of 36

LỜI MỞ ĐẦU

Cùng với sự phát triển của kinh tế, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng
được công nhận. Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã công nhận kinh tế
tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, trong đó chiếm phần lớn là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Cùng
với việc bộ phận doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng phát triển, việc xây dựng và
hoàn thiện các chính sách đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi là
điều rất cấp thiết, đặc biệt là đối với xây dựng hệ thống pháp lý kế toán. Trong xu
hướng phát triển và hội nhập quốc tế, hệ thống pháp lý kế toán cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa cần tiếp tục được hoàn thiện, tiến gần với các nguyên tắc, chuẩn mực
phổ biến trên thế giới.

Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán Việt Nam và chế độ kế toán cùng nhau tạo
thành hệ thống pháp lý kế toán, định hình hoạt động kế toán trong tổ chức, doanh
nghiệp. Trong đó chế độ kế toán là các quy định hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng
hệ thống kế toán để thu thập và báo cáo các thông tin tài chính một cách rõ ràng,
hiệu quả. Thông tư 133/2016/BTC “Hướng dẫn Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ
và vừa” (Thông tư 133) hiện hành được Bộ Tài chính ban hành năm 2016 thay thế
Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
hoạt động linh hoạt, minh bạch, rõ ràng hơn. Đồng thời Thông tư 113 cũng giúp
doanh nghiệp tiếp cận với các chuẩn mực kế toán quốc tế, thông lệ kế toán trên thế
giới. Tuy nhiên, qua 6 năm thực hiện, cùng với sự phát triển và thay đổi liên tục của
nền kinh tế, Thông tư 133 cũng đã dần có những hạn chế, tồn tại gây vướng mắc,
làm giảm hiệu quả của công tác kế toán. Do đó em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Vận dụng chế độ kế toán cho doanh nghiệp trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam.”
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

1.1. Tổng quan về chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam


1.1.1. Các chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành tại Việt Nam

Theo Luật kế toán năm 2015: “Chế độ kế toán là những quy định và hướng dẫn về
kế toán trong một lĩnh vực hoặc một số công việc cụ thể do cơ quan quản lý nhà nước về
kế toán hoặc tổ chức được cơ quan quản lý nhà nước về kế toán ủy quyền ban hành”.
Chế độ kế toán quy định các nguyên tắc và hướng dẫn quy trình nhận biết, đo
lường và báo cáo các thông tin tài chính cho các bên liên quan, bao gồm các cấp quản lý
điều hành doanh nghiệp, chủ nợ, các nhà đầu tư, cơ quan thuế , …Chế độ kế toán giúp
cung cấp các thông tin tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác, từ đó hỗ
trợ các đối tượng sử dụng quản lý, điều hành và theo dõi tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Bộ Tài Chính ban hành ba chế độ kế toán áp dụng cho các đối tượng doanh nghiệp
khác nhau (trừ các ngành nghề kinh doanh đặc biệt được quy định chế độ kế toán riêng).
Dựa vào quy mô, lĩnh vực hoạt động và điều kiện cụ thể, doanh nghiệp có thể lựa chọn
chế độ kế toán phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Cụ thể về các chế độ kế toán
doanh nghiệp được áp dụng như sau:
- “Chế độ kế toán doanh nghiệp siêu nhỏ” được hướng dẫn trong Thông tư
132/2018/TT-BTC. Theo đó, doanh nghiệp siêu nhỏ được lựa chọn áp dụng chế độ
kế toán hướng dẫn theo thông tư này hoặc “Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và
vừa” theo Thông tư 133/2016/TT-BTC.
- “Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa” được hướng dẫn trong Thông tư
133/2016/TT-BTC. Trong Thông tư 133 cũng quy định “Doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thể lựa chọn áp dụng Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Thông tư số
200/2014/TT-BTC”.

2
- “Chế độ kế toán doanh nghiệp” được hướng dẫn trong Thông tư 200/2014/TT-
BTC có hiệu lực đối với mọi doanh nghiệp thuộc tất cả lĩnh vực, các thành phần
kinh tế khác nhau. Ta có thể hiểu rằng doanh nếu không thuộc đối tượng bắt buộc
áp dụng chế độ kế toán khác thì hoàn toàn có thể áp dung chế độ kế toán theo
Thông tư 200.

1.1.2. Nguyên tắc chung

Doanh nghiệp phải áp dụng chế độ kế toán phù hợp với quy định nhất quán trong
một năm tài chính. Trường hợp có những thay đổi trong năm tài chính dẫn tới việc không
còn thuộc đối tượng áp dụng chế độ kế toán hiện tại trong thì doanh nghiệp được phép
tiếp tục áp dụng chế độ kế toán cho đến hết năm tài chính. Việc thay đổi chế độ kế toán
chỉ được thực hiện khi bắt đầu năm tài chính kế tiếp.
Trong các thông tư hướng dẫn chế độ kế toán đều kèm theo phụ lục hướng dẫn
biểu mẫu chứng từ kế toán, biểu mẫu sổ kế toán. Doanh nghiệp có thể lựa chọn áp dụng
biểu mẫu hướng dẫn tại phụ lục của Thông tư hoặc được tự xây dựng biểu mẫu phù hợp
với các đặc điểm hoạt động của của công ty mình, đảm bảo cung cấp rõ ràng, đầy đủ
thông tin, minh bạch, dễ kiểm tra, kiểm soát và đối chiếu.

3
1.1.3. Phân loại quy mô doanh nghiệp và ý nghĩa Chế độ kế toán cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa
Phân loại quy mô doanh nghiệp
Nghị định 80/2021/NĐ-CP quy định rõ tiêu chí xác định quy mô doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Theo đó, tiêu chí phân loại quy mô doanh nghiệp tùy theo lĩnh vực căn cứ vào số
lượng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội và tổng doanh thu của năm hoặc tổng nguồn
vốn của năm.

Ý nghĩa Chế độ kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Kinh tế tư nhân đã được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần
phát triển kinh tế xã hội. Số liệu từ Tổng cục Thống kê (2022) cho biết trong gần 900
nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97%, thu hút
32% tổng nguồn vốn, tạo ra 26% tổng doanh thu thuần của cả khối doanh nghiệp, chiếm
vị thế quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế (Nguyễn Thị Hương, 2023). Theo TS.
Đoàn Tranh (2016), vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế bao gồm:

4
- “Doanh nghiệp nhỏ và vừa giải quyết phần lớn nhu cầu việc làm cho dân cư”.
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô vốn tương đối nhỏ nhưng lại
có nhiều lao động, phù hợp với trình độ khoa học kỹ thuật mà quy mô kinh doanh
có thể đáp ứng. Chính vì thế mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa giải quyết vấn đề
việc làm cho người dân địa phương, từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
- “Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo sự năng động của nền kinh tế”. Tính linh hoạt của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp đáng kể vào sự linh hoạt của nền kinh tế,
thông qua việc chuyển đổi nhanh chóng để lấp đầy các khoảng trống của thị
trường. Từ những năm1986, trong cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang
nền kinh tế thị trường, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được thể hiện rõ
trong việc thúc đẩy nhanh chóng khai thông thị trường, góp phần làm giảm lạm
phát kinh tế.
- “Doanh nghiệp nhỏ và vừa thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, đặc biệt
là khu vực nông thôn”. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chọn các nghách của
thị trường, và do quy mô vốn nhỏ phù hợp với các ngành dịch vụ, thương mại, sửa
chữa bảo dưỡng hoặc ngành xây dựng. Điều này thúc đẩy phát triển cơ cấu ngành
dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước.
Nhận thức rõ đóng góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển nền kinh tế,
Nhà nước luôn cố gắng để xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, thuận lợi, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh và phát triển.
Bên cạnh các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp lý kế toán dành riêng cho đối tượng doanh nghiệp này cũng rất
được Nhà nước chú trọng. Quyết định số 1177 TC/QĐ/CĐKT năm 1996, Quyết định số
48/2006/QĐ-BTC hay mới nhất là Thông tư 133/2016/TT-BTC cho thấy sự hoàn thiện và
đổi mới để đáp ứng với các thay đổi của nền kinh tế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa bắt kịp xu hướng phát triển của khu vực và quốc tế.
So với Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC trước đây, có nhiều sự khác biệt trong
Thông tư 133, nổi bật nhất là trao cho doanh nghiệp nhiều quyền quyết định hơn trong tổ

5
chức kế toán. Cùng với đó là việc dần tiếp cận với IAS, IFRS chính là lý do Thông tư 133
được đánh giá cao bởi tính thực tiễn, hướng tới hội nhập quốc tế.
1.2. Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Khái quát chung
Bộ Tài chính ban hành Thông tư 133/2016/TT-BTC “Hướng dẫn Chế độ kế toán
doanh nghiệp nhỏ và vừa” có hiệu lực áp dụng cho năm tài chính bắt đầu hoặc sau ngày
1/1/2017, thay thế các nội dung quy định đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trước đây
trong Quyết định 48/2006/QĐ-BTC và Thông tư 138/2011/TT-BTC.

6
1.2.2. Kế toán Tài sản

Tiền và chênh lệch tỷ giá hối đoái


Vàng, bạc, kim khí quý, đá quý theo Quyết định 48 trước đây được phản ánh trên
TK 1113 và TK 1123 được phân loại là hàng tồn kho chuyển sang ghi nhận trên các TK
156 – Hàng hóa, TK 155 – Thành phẩm, TK 152 – Hàng tồn kho. Đối với vàng, bạc, kim
khí quý, đá quý, không được phân loại là hàng tồn kho chuyển sang TK 2288 – Đầu tư
7
khác. Điều này phù hợp với đặc điểm các DNNVV thường không nắm giữ vàn với mục
đích cất giữ giá trị nên không sử dụng TK 1113, TK 1123 như quy định trong Thông tư
200.
Thay đổi cách xác định tỷ giá giao dịch trong các giao dịch ngoại tệ. Chênh lệch tỷ
giá hối đoái phát sinh trong kỳ được ghi nhận đồng thời vào doanh thu hoạt động tài chính
hoặc chi phí tài chính tại thời điểm phát sinh hoặc định kỳ tùy theo điều kiện kinh doanh
và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.

Kế toán đầu tư tài chính


Các khoản đầu tư tài chính không chỉ được phân loại theo thời hạn đầu tư, mà còn
được chú ý phân loại theo mục đích khác nhau như TK 121 – Chứng khoán kinh doanh,
TK 128 – Đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn, và TK 1288 – Đầu tư khác.

Kế toán giao dịch hợp đồng hợp tác kinh doanh


Thông tư 133 đã quy định nguyên tắc kế toán đối với hoạt động thực hiện hợp
đồng hợp tác kinh doanh (BCC): “Trong mọi trường hợp nhận tiền, tài sản của bên khác
đóng góp cho hoạt động BBC, doanh nghiệp phải ghi nhận các tài sản này là nợ phải trả,
không được phép ghi nhận vào vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp”. Ngoài ra, Thông tư
133 còn quy định các trường hợp BBC theo hình thức tài sản đồng kiểm soát, BBC theo
hình thức hoạt động kinh doanh đồng kiểm soát và BBC chia lợi nhuận sau thuế.

Kế toán hàng tồn kho


Theo Thông tư 133 quy định: “Doanh nghiệp chỉ được phép áp dụng một trong hai
phương pháp kế toán hàng tồn kho: Phương pháp kê khai thường xuyên hoặc phương
pháp kiểm kê định kỳ. Khi xác định giá trị hàng tồn kho không được áp dụng phương
pháp nhập sau xuất trước (LIFO). Một số đơn vị đặc thù (ví dụ như các đơn vị kinh doanh
hình thức siêu thị) được phép áp dụng cách thức xác định giá trị hàng tồn kho cuối kỳ
theo phương pháp giá bán lẻ”.

8
Kế toán tài sản cố định và kế toán bất động sản đầu tư

Thông tư 133 quy định kế toán dựa vào nguồn hình thành tài sản cố định (TSCĐ)
để phân bổ hao mòn phù hợp theo nguyên tắc:
- “Đối với TSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay hoặc vốn chủ sở phục vụ cho sản
xuất, kinh doanh thì hao mòn được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh”.
- “Đối với TSCĐ hình thành từ các Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển khoa học và công
nghệ thì hao mòn được ghi giảm các quỹ đó”.

Đồng thời Thông tư 133 cũng quy định “Doanh nghiệp phải thực hiện kế toán phân
loại các TSCĐ và bất động sản đầu tư theo mục đích sử dụng, đối với các tài sản được sử
dụng cho nhiều mục đích, kế toán thực hiện ước tính giá trị hợp lý của từng bộ phận để
ghi nhận phù hợp với mục đích sử dụng”.

1.2.3. Kế toán các khoản phải trả

Nợ phải trả
Thông tư 133 quy định rõ nguyên tắc kế toán các khoản nợ phải trả, theo đó:
- “Các khoản nợ phải trả được theo dõi chi tiết theo kỳ hạn phải trả, đối tượng phải
trả, loại nguyên tệ phải trả và các yếu tố khác theo nhu cầu quản lý của doanh nghiệp”.
- “Doanh nghiệp phân loại các khoản phải trả dựa trên nguyên tắc: Phải trả người
bán bao gồm các khoản phải trả có tính chất thương mại phát sinh từ giao dịch mua hàng,
tài sản, dịch vụ; Phải trả nội bộ gồm các khoản phải trả giữa đơn vị cấp trên và đơn vị cấp
dưới trực thuộc hạch toán phụ thuộc; Phải trả khác gồm các khoản phải trả không có tính
chất thương mại, không liên quan tới giao dịch mua hàng hóa, dịch vụ”.
- “Khi lập Báo cáo tài chính, kế toán căn cứ kỳ hạn còn lại của các khoản phải trả
để phân loại là dài hạn hoặc ngắn hạn”.
- “Đối với các khoản phải trả bằng ngoại tệ, doanh nghiệp phải theo dõi chi tiết
theo từng loại nguyên tệ, từng đối tượng thanh toán và thực hiện quy đổi ra đồng tiền ghi
sổ kế toán theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh”.

9
Chi phí phải trả và Dự phòng phải trả

Tương tự như Thông tư 200, quy định của Thông tư 133 yêu cầu kế toán ghi nhận
và trình bày trên BCTC phân biệt rõ các khoản chi phí phải trả là chi phí trích trước hay
chi phí dồn tích, theo đó
- “Dự phòng phải trả được định nghĩa là nghĩa vụ nợ hiện tại nhưng thường chưa
có khả năng xác định giá trị và thời gian thanh toán cụ thể, thường được ước tính (ví dụ
như khoản dự phòng bảo hành sản phẩm)”.
- “Chi phí phải trả là nghĩa vụ nợ hiện tại đã xác định rõ giá trị, thời gian thanh
toán”.
- “Các khoản dự phòng phải trả được trình bày tách biệt trên BCTC với các khoản
phải trả thương mại và phải trả khác trong khi chi phí phải trả được trình bày trong các
khoản phải trả thương mại và phải trả khác”.
- “Các khoản chi phí phải trả được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong
kì theo nguyên tắc phù hợp giữa chi phí và doanh thu”.

Đồng thời theo thông tư 133, số hiệu và tên tài khoản các khoản nợ phải trả không
phân loại ngắn hạn và dài hạn như trong Quyết định 48 trước đây, thay vào đó việc phân
loại các chỉ tiêu nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn được trình bày trên BCTC.

Vay và nợ thuê tài chính

Tài khoản 341 – Vay và nợ thuê tài chính được sử dụng để ghi nhận và phản ánh
tình trạng thanh toán các khoản tiền vay, nợ thuê tài chính, bao gồm cả vay dưới hình thức
phát hành trái phiếu, trong khi Thông tư 200 phản ánh và theo dõi nghiệp vụ phát hành
trái phiếu ở trên tài khoản 343. Thông tư 133 ghi rõ nguyên tắc hạch toán nghiệp vụ phát
hành trái phiếu tương tự như Thông tư 200.

1.2.4. Kế toán vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu chính là tài sản thuần của doanh nghiệp được hình thành từ vốn
góp của chủ sở hữu, các cổ đông, thành viên góp vốn hoặc từ kết quả kinh doanh của
10
doanh nghiệp. Theo quy định của Thông tư 133, vốn chủ sở hữu được ghi nhận theo từng
nguồn hình thành như:
- “Vốn góp của chủ sở hữu”
- “Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh”
- “Các khoản khác được phép ghi tăng vốn chủ sở hữu”

Thông tư 133 yêu cầu doanh nghiệp phải ghi nhận vốn góp huy động, nhận từ các
chủ sở hữu theo số tiền thực góp, không được phép ghi nhận theo số vốn cam kết sẽ góp.
Trong trường hợp góp vốn bằng tài sản phi tiền tệ thì doanh nghiệp ghi nhận theo giá trị
hợp lý của tài sản vào thời điểm góp vốn, cụ thể:
- “Việc nhận vốn góp dưới hình thức các loại tài sản vô hình như thương hiệu, bản
quyền, nhãn hiệu, quyền sử dụng tài sản… chỉ được thực hiện khi có quy định cụ thể của
pháp luật hoặc được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp không có quy
định cụ thể thì giao dịch góp vốn bằng tài sản vô hình được kế toán như nghiệp vụ thuê tài
sản hoặc nhượng quyền thương mại”.
- “Việc thực hiện phân phối lợi nhuận chỉ được phép thực hiện khi doanh nghiệp có
lợi nhuận sau thuế chưa phân phối. Việc chia lợi nhuận cho chủ sở hữu vượt quá số lợi
nhuận sau thuế chưa phân phối dưới mọi hình thức đều làm giảm vốn góp, theo đó doanh
nghiệp phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật và điều chỉnh giấy
đăng ký kinh doanh”.
Đối với tài khoản kế toán, Thông tư 133 lược bớt các TK 412, TK 441, TK 461,
TK 466 và gộp các quỹ vào TK 418 nhằm đơn giản hóa để phù hợp với đặc điểm hoạt
động của DNNVV. Về cơ bản, nguyên tắc kế toán vốn chủ sở hữu của Thông tư 133
tương tự so với Thông tư 200.

1.2.5. Kế toán doanh thu

Nguyên tắc kế toán doanh thu của Thông tư 133 cũng giống như Thông tư 200,
theo đó kế toán ghi nhận doanh thu theo giá trị hợp lý tại thời điểm phát sinh giao dịch,
khi lợi ích kinh tế thu được là chắc chắn, không phân biệt việc đã thu tiền hay chưa.
“Doanh thu và chi phí tạo ra khoản doanh thu đó phải được ghi nhận đồng thời theo
11
nguyên tắc phù hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nguyên tắc phù hợp có thể xung
đột với nguyên tắc thận trọng, khi đó kế toán phải căn cứ vào bản chất của giao dịch và
các Chuẩn mực kế toán để phản ánh một cách trung thực, hợp lý”.
Thông tư 133 cũng đưa ra nguyên tắc ghi nhận doanh thu bất động sản đối với
doanh nghiệp là chủ đầu tư: “doanh nghiệp không được ghi nhận doanh thu bán bất động
sản với số tiền thu trước theo tiến độ công trình. Điều kiện ghi nhận doanh thu bán bất
động sản được quy định bao gồm: bất động sản đã hoàn thành toàn bộ và bàn giao cho
người mua, không còn nắm giữ quyền quản lý bất động sản, doanh thu đã được xác định
chắc chắn, xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán bất động sản”. Các quy định
chi tiết này góp phần giúp BCTC thể hiện trung thực tình hình kinh doanh của các doanh
nghiệp trong ngành đầu tư, kinh doanh bất động sản.
Khác với Thông tư 200, chế độ kế toán theo Thông tư 133 lược bỏ TK 521, thay
vào đó các khoản giảm trừ doanh thu được phản ánh vào bên Nợ của TK 511 – Doanh thu
bán hàng và cung cấp dịch vụ.

1.2.6. Kế toán chi phí

Thông tư 133 định nghĩa “Chi phí là những khoản làm giảm lợi ích kinh tế, được
ghi nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh hoặc khi có khả năng tương đối chắc chắn sẽ
phát sinh trong tương lai không phân biệt đã chi tiền hay chưa”, điều này nhằm đảm bảo
việc tuân thủ nguyên tắc thận trọng và bảo toàn vốn. Chi phí và doanh thu được tạo ra
tương ứng phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Tuy nhiên đối với một
số trường hợp, nguyên tắc phù hợp có thể xung đột với nguyên tắc thận trọng, khi đó việc
ghi nhận phải căn cứ vào bản chất của giao dịch để phản ánh một cách trung thực, hợp lý.
Điểm khác biệt so với Thông tư 200 nằm ở chỗ thay vì phản ánh và theo dõi các
khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng
máy thi công, chi phí sản xuất chung trên các tài khoản riêng biệt, Thông tư 133 phản ánh
các khoản mục trên vào TK 631 – Giá thành sản xuất.

12
1.2.7. Trình bày báo cáo tài chính

Báo cáo tài chính (BCTC) phản ánh tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của
một doanh nghiệp theo một cấu trúc khoa học, chặt chẽ. BCTC được sử dụng để cung cấp
thông tin về tình hình tài chính và tình hình kinh doanh của một doanh nghiệp, đáp ứng
nhu cầu hữu ích những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định. Để đạt được mục
tiêu này, BCTC phải cung cấp cho người sử dụng đầy đủ thông tin của doanh nghiệp về
tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí, và phân chia kết quả kinh doanh.
Các thông tin này cùng với các thông tin trong Bản thuyết minh BCTC giúp người sử
dụng dự đoán được các dòng tiền trong tương lai và đặc biệt là thời điểm và khả năng tạo
ra các dòng tiền và các khoản tương đương tiền.

Thông tư 133 đặt ra yêu cầu đối với thông tin trình bày trên BCTC như sau:
- “Thông tin trình bày trên báo cáo tài chính phải đầy đủ, khách quan, không có sai
sót để phản ánh trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp”.
- “Thông tin tài chính phải thích hợp để giúp người sử dụng Báo cáo tài chính dự
đoán, phân tích và đưa ra các quyết định kinh tế.”.
- “Thông tin tài chính phải được trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thông tin thiếu
chính xác có thể làm ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng thông tin tài chính của
đơn vị báo cáo. Tính trọng yếu dựa vào bản chất và độ lớn, hoặc cả hai, của các khoản
mục có liên quan được trình bày trên báo cáo tài chính của một đơn vị cụ thể.”.
- “Thông tin tài chính phải đảm bảo có thể kiểm chứng, kịp thời và dễ hiểu”.
- “Thông tin tài chính phải được trình bày nhất quán và có thể so sánh giữa các kỳ
kế toán; so sánh được giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau”.

Khi lập và trình bày BCTC, phải xem xét tình hình doanh nghiệp dựa trên giả định
về sự hoạt động liên tục. Theo quy định trong Thông tư 133: “Doanh nghiệp được xác
định là không hoạt động liên tục đối với các trường hợp dự kiến chấm dứt hoạt động, bị
yêu cầu giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động trong vòng 12 tháng bởi cơ quan có thẩm
13
quyền hoặc không có hồ sơ xin gia hạn hoạt động khi hết thời hạn hoạt động”. Theo đó,
Thông tư 133 quy định các nguyên tắc hướng dẫn lập và trình bày BCTC cụ thể riêng cho
đối tượng doanh nghiệp đáp ứng giả định hoạt động liên tục và đối tượng doanh nghiệp
không đáp ứng giả định hoạt động liên tục. Bên cạnh đó, Thông tư 133 còn hướng dẫn hệ
thống BCTC năm bắt buộc áp dụng cho các doanh nghiệp siêu nhỏ.

“Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính của doanh nghiệp đáp ứng giả
định hoạt động liên tục”
Thông tư 133 quy định đối với doanh nghiệp đáp ứng giả định hoạt động liên tục:
“BCTC phải chú trọng nhiều hơn vào việc phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao
dịch và sự kiện so với hình thức pháp lý của các giao dịch và sự kiện đó”.
Báo cáo tình hình tài chính trình bày khoản mục Tài sản và nợ phải trả theo tính
thanh khoản giảm dần hoặc phân loại thành ngắn hạn và dài hạn. Riêng đối với doanh
nghiệp siêu nhỏ được trình bày theo tính thanh khoản giảm dần. Cùng với đó, tài sản và
nợ phải trả phải được trình bày riêng biệt.
Các khoản mục doanh thu, thu nhập, chi phí phải được đảm bảo trình bày tuân thủ
theo nguyên tắc phù hợp và đảm bảo nguyên tắc thận trọng. Các khoản mục doanh thu,
thu nhập, chi phí và dòng tiền của các kỳ trước trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền có sai sót ảnh hưởng trọng yếu được điều chỉnh hồi tố
bằng cách báo cáo lại trên cột thông tin so sánh, không điều chỉnh vào kỳ báo cáo.

“Nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp không đáp
ứng giả định hoạt động liên tục”
Doanh nghiệp không đáp ứng giả định hoạt động liên tục vẫn phải trình bày đủ các
BCTC. Báo cáo tình hình tài chính và Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày theo mẫu
báo cáo dành riêng cho doanh nghiệp không đáp ứng giả định hoạt động liên tục. theo đó
doanh nghiệp không phải phân loại tài sản và nợ phải trả thành ngắn hạn và dài hạn mà
trình bày trên Báo cáo tình hình tài chính theo tính thanh khoản giảm dần. Trước khi lập
Báo cáo tình hình tài chính, tài sản và nợ phải trả phải được đánh giá lại.

14
So với chế độ kế toán trước đây, trong hệ thống BCTC, quy định về Bản thuyết
minh BCTC là có sự chuyển biến rõ nét nhất. Bản thuyết minh phải được xây dựng minh
bạch, công khai; cung cấp thông tin bổ sung chưa được trình bày trong các BCTC khác
nhưng lại cần thiết cho việc trình bày trung thực và hợp lý tình hình tài chính, kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp.

15
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ
KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

2.1. Tác động tích cực của “Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa”

Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC đã được Bộ Tài chính thay thế bằng Thông tư
133/2016/TT-BTC “Hướng dẫn Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Về cơ bản, có
thể nói Thông tư 133 theo kịp với sự phát triển của kinh tế thị trường tại thời điểm ban
hành, phù hợp với yêu cầu thực tiễn tại Việt Nam.

2.1.1. Sổ sách và chứng từ kế toán

Thông tư số 133 không yêu cầu bắt buộc về mẫu sổ sách và chứng từ kế toán mà
cho phép doanh nghiệp tự thiết kế, xây dựng sao cho phù hợp với yêu cầu hoạt động của
doanh nghiệp. Đặc biệt khi Thông tư 133 đã bỏ quy định bắt buộc lựa chọn trong 4 hình
thức ghi sổ (Nhật ký chung, Nhật ký - Sổ cái, Chứng từ ghi sổ, kế toán trên máy tính).
Thay vào đó, doanh nghiệp được phép tự xây dựng hình thức ghi sổ kế toán trên cơ sở
đáp ứng được yêu cầu thông tin kế toán cho riêng mình.

2.1.2. Chiết khấu thương mại, khuyến mãi và chiết khấu bán hàng

Thông tư 133 quy định “Trường hợp xuất hàng tồn kho để khuyến mại, quảng cáo
nhưng khách hàng chỉ được nhận hàng khuyến mại, quảng cáo kèm theo các điều kiện
khác như phải mua sản phẩm, hàng hóa (ví dụ như mua 2 sản phẩm được tặng 1 sản
phẩm....) thì kế toán phải phân bổ số tiền thu được để tính doanh thu cho cả hàng khuyến
mại, giá trị hàng khuyến mại được tính vào giá vốn (trường hợp này bản chất giao dịch là
giảm giá hàng bán)”. Điều này ảnh hưởng nhiều đến biên lợi nhuận gộp của các doanh
nghiệp sản phẩm tiêu dùng. Trước đây các chi phí này hầu như đều được phản ánh vào
chi phí bán hàng do chưa có quy định rõ ràng và thống. Vậy nên sự phân biệt bản chất
loại hình khuyến mãi làm giảm doanh thu và biên lợi nhuận gộp của doanh nghiệp nhưng
biên lợi nhuận hoạt động tăng và lợi nhuận thuần không đổi.
16
Trong trường hợp sản phẩm khuyến mãi không kèm theo điều kiện (sản phẩm dùng
thử miễn phí), trong quá khứ, doanh nghiệp ghi nhận đồng thời tất cả doanh thu, giá vốn
hàng bán và chi phí bán hàng bằng giá vốn của sản phẩm khuyến mãi. Còn Thông tư 133
quy định: “Trường hợp xuất hàng tồn kho để khuyến mại, quảng cáo không thu tiền,
không kèm theo các điều kiện khác như phải mua sản phẩm, hàng hóa...., kế toán ghi nhận
giá trị hàng tồn kho vào chi phí bán hàng (chi tiết hàng khuyến mại, quảng cáo)”. Cách
thức hạch toán này làm giảm doanh thu, giảm giá vốn hàng bán, tuy nhiên chi phí bán
hàng và lợi nhuận sẽ không thay đổi.
Quy định mới này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất và hàng tiêu
dùng, là những doanh nghiệp thường có sản phẩm khuyến mãi nhằm mục đích marketing.

2.1.3. Ghi nhận doanh thu đối với doanh nghiệp bất động sản

Thông tư 133 có sự thay đổi về cách thức ghi nhận doanh thu đối với doanh nghiệp
bất động sản so với quy định trong Quyết định 48. Theo chế độ kế toán trước đây, doanh
nghiệp bất động sản được phép ghi nhận doanh thu đối với số tiền thu trước tiến độ. Tuy
nhiên theo Thông tư 133 thì: “Bất động sản đã hoàn thành toàn bộ và bàn giao cho người
mua, doanh nghiệp đã chuyển giao rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu bất động
sản cho người mua”. Theo TS. Ngô Thị Thu Hương (2017) đánh giá “Mặc dù việc thay
đổi cách thức ghi nhận doanh thu như trên sẽ không làm thay đổi dòng tiền hoạt động của
doanh nghiệp, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh trong kỳ của các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp đã ghi nhận doanh thu theo tiến độ hợp đồng xây dựng khi
công trình chưa hoàn thành xong sẽ phải ghi giảm lợi nhuận sau thuế chưa phân phối các
năm trước và hồi tố khoản lợi nhuận đó vào thời điểm công trình hoàn thành và bàn giao
cho khách hàng”.
Thông tư 133 chỉ thay đổi cách hạch toán kế toán mà không ảnh hưởng tới bản
chất của nghiệp vụ. Thay đổi này đã hạn chế được doanh nghiệp làm đẹp BCTC của mình
dựa vào lỗ hổng của các quy định trước đây, khi trước đây doanh nghiệp ghi nhận doanh
thu theo ước tính chủ quan của của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Thay đổi trên

17
cho thấy sự tương đồng giữa quy định về doanh thu từ bất động sản với VAS số 14 –
Doanh thu và thu nhập khác.

2.1.4. Xác định giá trị hàng tồn kho khi có ứng trước cho người bán bằng ngoại tệ;
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ khi nhận ứng trước từ người mua bằng
ngoại tệ.

Quy định kế toán trước đây tồn tại sự không thống nhất với VAS 10 về xử lý chênh
lệch tỷ giá hối đoái. Điều này gây lúng túng cho các bên, gây khó khăn cho doanh nghiệp
khi lập BCTC cuối kỳ, khó khăn đối với kiểm toán. Cơ quan thuế cũng gặp khó khăn
trong việc thanh tra thuế doanh nghiệp, bởi việc ghi nhận hay không ghi nhận chênh lệch
có thể làm cho BCTC của doanh nghiệp đang lãi trở thành lỗ và ngược lại.
Thông tư 133 đã quy định thông nhất với Chuẩn mực kế toán Việt Nam và hướng
đến chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS 21). Trong thông tư đã làm rõ thế nào là các khoản
mục tiền tệ có gốc ngoại tệ: “Đối với hàng tồn kho mua vào bằng ngoại tệ, phần giá mua
phải căn cứ vào tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh để ghi giá trị hàng tồn kho
đã nhập kho (trừ trường hợp có ứng trước tiền cho người bán thì giá trị hàng tồn kho
tương ứng với số tiền ứng trước được ghi nhận theo tỷ giá tại thời điểm ứng trước)”.
Tương tự với trường hợp của bên bán có phát sinh doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ bằng ngoại tệ, theo đó “Trường hợp nhận tiền ứng trước của khách hàng bằng
ngoại tệ thì doanh thu tương ứng với số tiền ứng trước được quy đổi ra đơn vị tiền tệ kế
toán theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm nhận ứng trước, phần doanh thu tương ứng
với số tiền còn lại ghi nhận theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh
thu”.

2.2. Hạn chế của Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Về cơ bản, Thông tư 133 đã tiến gần hơn đến các chuẩn mực quốc tế và bổ sung
các nghiệp vụ kinh tế chưa được hướng dẫn trong các quy định trước đây, giảm thiểu
những mâu thuẫn và thiếu nhất quan trong công tác kế toán tại doanh nghiệp. Tuy nhiên,

18
qua 6 năm thực hiện, Thông tư đã bộc lộ một số hạn chế gây khó khăn cho doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện.

2.2.1. Tỷ giá ngoại tệ

Thông tư 133 quy định nguyên tắc xác định tỷ giá giao dịch cho từng trường hợp
cụ thể. Theo đó “Doanh nghiệp sử dụng tỷ giá ngoại tệ của ngân hàng thương mại nơi
doanh nghiệp thường giao dịch (do doanh nghiệp tự lựa chọn) để ghi sổ kế toán”. Điều
này phản ánh đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp, đảm bảo được nguyên tắc thận
trọng của kế toán, không đánh giá quá cao giá trị tài sản hay đánh giá quá thấp nợ phải trả
của doanh nghiệp. Chẳng hạn khi bán hàng trả chậm cho khách hàng, khoản phải thu từ
khách hàng thu được bằng ngoại tệ thì doanh nghiệp phải bán ngay số ngoại tệ này cho
ngân hàng theo quy định của Luật quản lý ngoại hối Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp phải
sử dụng tỷ giá mua của ngân hàng thương mại khi quy đổi khoản phải thu này sang Đồng
Việt Nam. Quy định như trên dễ áp dụng, phù hợp cho các doanh nghiệp có ít giao dịch
bằng ngoại tệ.
Tuy nhiên nguyên tắc này sẽ gây nhiều phức tạp cho việc kế toán của những doanh
nghiệp có tần suất phát sinh giao dịch bằng ngoại tệ cao. Kế toán sẽ phải lựa chọn sử
dụng tỷ giá nào để quy đổi trong ba tỷ giá do ngân hàng thương mại công bố: tỷ giá mua
tiền mặt, tỷ giá mua chuyển khoản hay tỷ giá bán. Chưa kể đến việc doanh nghiệp có thể
phát sinh giao dịch ngoại tệ tại nhiều ngân hàng khác nhau. Việc ghi nhận giá trị tài sản,
nợ phải trả một cách chính xác là điều cần thiết, nhưng cũng cần phải xem xét giữa chi
phí của việc phản ánh đúng và lợi ích của việc phản ánh kịp thời.

2.2.2. Ghi nhận doanh thu bất động sản

Theo Thông tư 133, đối với các công trình, hạng mục công trình mà doanh nghiệp
là chủ đầu tư (kể cả các công trình mà doanh nghiệp vừa là chủ đầu tư, vừa tự thi công),
doanh nghiệp không được ghi nhận doanh thu bán bất động sản theo VAS số 15 và không
được ghi nhận doanh thu đối với số tiền thu trước của khách hàng theo tiến độ.

19
Nếu trước đây, theo Quyết định 48 “Các doanh nghiệp bất động sản được phép ghi
nhận doanh thu đối với số tiền thu trước của khách hàng theo tiến độ”, thì Thông tư 133
quy định “Các doanh nghiệp bất động sản chỉ được ghi nhận doanh thu khi bất động sản
đã hoàn thành toàn bộ và bàn giao cho khách hàng”. Về bản chất, cách thức ghi nhận
doanh thu trong Thông tư 133 sẽ không làm ảnh hưởng tới dòng tiền hoạt động trong kỳ
của công ty. Tuy nhiên điều này sẽ gây ra ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh
trong kỳ của các doanh nghiệp.

Đối với các đơn vị chuyên xây dựng chung cư, nhà văn phòng để bán và cho thuê,
có chu kỳ sản phẩm dài, đặc biệt là các công ty đã thực hiện niêm yết trên sàn chứng
khoán thì quy định này có thể dẫn tới một số công ty bị thua lỗ do không có doanh thu
bán hàng hoặc doanh thu rất thấp, trong khi chi phí vẫn phát sinh. Điều này có tác động
xấu đối với giá trị cổ phiếu của công ty trên thị trường và ảnh hưởng đến hoạt động huy
động vốn để thực hiện các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, do thời gian thi công dài, người
mua phải thanh toán cho chủ đầu tư thành nhiều đợt theo tiến độ thi công. Việc ghi nhận
doanh thu khi bất động sản đã hoàn thành toàn bộ và bàn giao cho người mua làm giảm số
thuế phải nộp cho Nhà nước, giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước do khoản tiền lãi phải
nộp phát sinh do chậm nộp thuế. Do đó, một số công ty khác lợi dụng quy định này để
kéo dài thời gian ghi nhận số thuế phải nộp cho Nhà nước.

2.2.3. Kế toán tài sản cố định

Thông tư 133 quy định: “Những tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc nhiều bộ
phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau thành một hệ thống, để cùng thực hiện một hay một
số chức năng nhất định, nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không
thể hoạt động được, nếu thỏa mãn đồng thời cả 4 tiêu chuẩn dưới đây, thì được coi là tài
sản cố định (TSCĐ):
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy
- Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên
- Có giá trị theo quy định hiện hành
20
Trong trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết riêng lẻ với
nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ
phận nào đó mặc cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động của chính đó
nhưng do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận
tài sản và mỗi bộ phận tài sản đó nếu cùng thỏa mãn đồng thời bốn tiêu chuẩn của tài sản
cố định chỉ được coi là một TSCĐ hữu hình độc lập”.

Có thể thấy, quy định ghi nhận tài sản cố định hữu hình theo Thông tư 133 quá cụ
thể. IAS 16 – Nhà xưởng, máy móc, thiết bị không quy định cụ thể cách thức xác định
tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình mà đòi hỏi doanh nghiệp phải xét đoán khi áp dụng
tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình, cho từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, đối với tòa nhà
cao ốc là một tổ hợp gồm nhiều tài sản, theo IAS 16 tất cả các bộ phận quan trọng của tòa
cao ốc như: thang máy, hệ thống điều hòa tổng, hệ thống phòng cháy chữa cháy, các căn
hộ trong tòa cao ốc phải được ghi nhận là các TSCĐ hữu hình riêng biệt. Là bộ phận quan
trọng cấu thành tòa nhà được ghi nhận là TSCĐ hữu hình, do thỏa mãn các tiêu chuẩn ghi
nhận TSCĐ bởi vì cách thức thu hồi lợi ích kinh tế, thời gian sử dụng của từng bộ phận
quan trọng cấu thành các tài sản đó là khác nhau. Đồng thời IAS 16 cũng quy định:
- “Doanh nghiệp có thể hợp nhất các tài sản riêng biệt không quan trọng như:
khuôn đúc, công cụ, khuôn dập và áp dụng các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình vào
giá trị hợp nhất đó”.
- “Doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá toàn bộ chi phí cho tài sản tại thời điểm
phát sinh, khi thỏa mãn các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình. Các chi phí này bao gồm
các chi phí ban đầu khi mua hoặc xây dựng tài sản và chi phí phát sinh sau đó để bổ sung,
thay thế một phần hoặc đi kèm với tài sản đó”.

Do các quy định trong Thông tư 133 không phù hợp với IAS 16 nên trên thực tế có
sự khác nhau giữa các doanh nghiệp trong việc vận dụng các quy chuẩn để ghi nhận
TSCĐ hữu hình theo chi phí ban đầu và chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu. Với các
quy định trong Thông tư 133 thì kế toán không được ghi nhận là TSCĐ các bộ phận quan
trọng cấu thành tài sản, trái với thông lệ trên thế giới.

21
Nguyên tắc xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình của Thông tư 133 chưa thống
nhất với IAS 16 nên chưa thể thực hiện nhất quán trong thực tế. Cụ thể:
- So với IAS 16, nguyên tắc xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình theo Thông tư
133 còn thiếu một yếu tố, đó là “nguyên giá phải bao gồm cả các khoản chi phí ước tính
ban đầu do phá hủy, điều chuyển và khôi phục vị trí, mặt bằng đặt TSCĐ hữu hình, để
thực hiện nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện khi đầu tư, mua sắm TSCĐ hữu hình,
đó cũng là kết quả của việc sử dụng TSCĐ hữu hình trong một giai đoạn nhất định”. Tuy
nhiên các khoản chi phí này theo Thông tư 133 lại được phản ánh vào TK 352 - Dự phòng
phải trả, “bao gồm các khoản chi phí hoàn nguyên môi trường, chi phí thu dọn, khôi phục
và hoàn trả mặt bằng”. Điều này có thể được coi là sự nhầm lẫn, vì nếu các khoản chi phí
này được xác định là dự phòng phải trả thì sẽ không được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ
đến khấu hao cho mục đích thu hồi vốn, tạo ra động lực để doanh nghiệp thực hiện nghĩa
vụ. Theo TS. Ngô Thị Thu Hương (2017): “Mặc dù chưa có quy định cụ thể về vấn đề
này nhưng nhiều doanh nghiệp đã ước tính các chi phí trên khi xác định nguyên giá TSCĐ
hình thành do đầu tư, mua sắm cho phù hợp với IAS 16, đặc biệt là các doanh nghiệp
nước ngoài. Các doanh nghiệp này đã ước tính các chi phí phá hủy, điều chuyển tài sản và
khôi phục lại mặt bằng dự kiến sẽ phát sinh, khi hết thời hạn hoạt động theo quy định của
pháp luật, để tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hiện ngay từ khi đầu tư, mua sắm các tài sản
này. Một số doanh nghiệp khai thác tài nguyên như Dầu khí phải thực hiện phá hủy giàn
khoan dầu, khôi phục lại vị trí đặt giàn khoan trên biển, sau một thời gian cho phép được
khai thác dầu”.
- Thông tư 133 cũng chưa có quy định về nội dung phải ghi giảm nguyên giá, ví dụ
như các khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế về bản chất làm giảm giá trị bên mua
TSCĐ phải thanh toán.
- Đối với trường hợp mua TSCĐ được kèm thêm thiết bị, phụ tùng thay thế, theo
Thông tư 133 “Phải xác định và ghi nhận riêng thiết bị, phụ tùng thay thế theo giá trị hợp
lý. Nguyên giá TSCĐ được mua là tổng các chi phí liên quan trực tiếp tới việc đưa tài sản
và trạng thái sẳn sàng sử dụng, trừ đi giá thiết bị, phụ tùng thay thế”. Điều này gây khó
khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện, vì chưa có hướng dẫn về giá trị hợp lý thiết bị phụ

22
tùng thay thế được cho kèm khi mua TSCĐ. Thông tư 133 cũng chưa có hướng dẫn xác
định nguyên giá TSCĐ trong các trường hợp được nhận khuyến mại, cho, tặng các dịch
vụ liên quan đến tài sản như khuyến mại chi phí bảo dưỡng trong một số năm nhất định
khi mua xe hơi. Nghiệp vụ này chỉ có hướng dẫn cho bên bán mà chưa hướng dẫn cho
bên mua.
- Đoạn d, Mục 1, Điều 37, Thông tư 133 hướng dẫn việc “trích lập dự phòng phải trả và
tính trước vào chi phí sản xuất, kinh doanh đối với chi phí sửa chữa TSCĐ theo yêu cầu
kỹ thuật phải sửa chữa, bảo trì, duy tu định kỳ”. Quy định trên về trích lập dự phòng đi
ngược lại nguyên tắc ghi nhận dự phòng theo Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 37 – Các
khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng. Theo IAS 37, nguyên tắc ghi nhận các khoản dự
phòng quy định “một khoản dự phòng chỉ được ghi nhận khi thỏa mãn các điều kiện: đơn
vị có nghĩa vụ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới) do kết quả từ một sự kiện
đã xảy ra ; đơn vị có thể chắc chắn rằng phải sử dụng các nguồn lực gắn liền với những
lợi ích kinh tế để thanh toán nghĩa vụ ; giá trị của nghĩa vụ có thể được ước tính một cách
đáng tin cậy”. Việc trích lập dự phòng phải trả chỉ cho thấy ý định sẽ tiến hành sửa chữa
tài sản này của doanh nghiệp, không thể hiện việc yêu cầu bắt buộc đơn vị phải làm như
vậy vì doanh nghiệp có thể lựa chọn bán tài sản đó bất cứ lúc nào.

2.2.4. Quy định không trích khấu hao đối với bất động sản đầu tư nắm giữ chờ tăng
giá và đánh giá giảm nguyên giá bất động sản đầu tư

Theo Thông tư 133 thì “Doanh nghiệp không trích khấu hao đối với bất động sản
đầu tư (BĐSĐT) nắm giữ chờ tăng giá. Trong trường hợp có bằng chứng chắc chắn cho
thấy BĐSĐT bị giảm giá so với giá trị thị trường và khoản giảm giá được xác định một
cách đáng tin cậy, thì doanh nghiệp được đánh giá giảm nguyên giá BĐSĐT và ghi nhận
khoản tổn thất vào giá vốn hàng bán (tương tự như việc lập dự phòng đối với hàng hóa
bất động sản)”. Quy định này không khả thi vì:
- Chưa nêu rõ cách xử lý cho doanh nghiệp khi không xác định được giá trị suy
giảm một cách chắc chắn và đáng tin cậy nếu BĐSĐT có dấu hiệu suy giảm giá trị rõ
ràng.

23
- Không có cơ sở cho doanh nghiệp để xác định giá trị suy giảm của BĐSĐT một
cách chính xác khi có dấu hiệu suy giảm chắc chắn, vì Việt Nam chưa có chuẩn mực kế
toán về suy sản giá trị (hay còn gọi là tổn thất tài sản) phù hợp với IAS 36 – Impairment.
- Chưa quy định rõ là doanh nghiệp có bắt buộc phải đánh giá suy giảm giá trị
BĐSĐT hay khi nào có dấu hiệu và bằng chứng chắc chắn với đánh giá suy giảm giá trị
BĐSĐT.
- Khi BĐSĐT tăng giá chưa có quy định là doanh nghiệp có được hòa nhập hay
không và mức hòa nhập được xác định như thế nào.

2.2.5. Hàng bán bị trả lại

Điều 57 Thông tư 133 quy định: “Hàng bán bị trả lại phản ánh giá trị của số sản
phẩm, hàng hóa bị khách hàng trả lại (do không đảm bảo điều kiện về quy cách, phẩm
chất ghi trong hợp đồng kinh tế). Khoản hàng bán bị trả lại phát sinh cùng kỳ tiêu thụ sản
phẩm, hàng hóa dịch vụ được điều chỉnh giảm doanh thu của kỳ phát sinh. Trường hợp
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ từ các kỳ trước, đến kỳ sau mới phát sinh hàng
bán bị trả lại thì doanh nghiệp ghi giảm doanh thu theo nguyên tắc:
- Nếu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ từ các kỳ trước, đến kỳ sau bị trả lại
nhưng phát sinh trước thời điểm phát hành báo cáo tài chính thì kế toán phải coi đây là
một sự kiện cần điều chỉnh phát sinh, sau ngày lập Bảng cân đối kế toán và ghi giảm
doanh thu trên BCTC của kỳ lập báo cáo (kỳ trước).
- Trường hợp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ bị trả lại sau thời điểm phát hành BCTC
thì doanh nghiệp ghi giảm doanh thu của kỳ phát sinh (kỳ sau)”.

Theo TS. Ngô Thị Thu Hương (2017), việc chỉ quy định chung về kế toán hàng
bán bị trả lại như trên dẫn đến một số vấn đề như sau:
- “Trường hợp trong hợp đồng mua bán có điều khoản về quyền trả lại hàng mua,
vậy thì tại thời điểm giao hàng, doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng hàng bán có bị
trả lại hay không thì những rủi ro đối với quyền sở hữu hàng hóa vẫn thuộc về doanh
nghiệp. Vậy doanh nghiệp ghi nhận doanh thu tại thời điểm nào? Tại thời điểm giao hàng
cho khách hay chỉ ghi nhận khi thời hạn cho phép trả lại hàng đã qua. Chế độ kế toán hiện
24
nay chưa quy định cụ thể về trường hợp này mà chỉ đánh đồng xử lý trên tất cả các trường
hợp hàng bị trả lại theo cách đã được đề cập ở trên”.
- “Quy định ở Việt Nam về hạch toán hàng trả lại như trên chỉ khả thi khi thời điểm
khách hàng trả lại hàng vào thời điểm ghi nhận doanh thu là trong cùng một kỳ kế toán.
Sẽ là bất hợp lý trong trường hợp doanh thu được ghi nhận ở kỳ trước, các khoản giảm trừ
doanh thu lại phát sinh ở kỳ sau. Điều này dẫn đến việc chỉ tiêu doanh thu thuần và lợi
nhuận nằm ở các kỳ khác nhau. Trong khi đó theo thông lệ kế toán quốc tế, đối với giao
dịch bán hàng, kế toán ghi nhận doanh thu đồng thời ước tính để trích lập dự phòng doanh
thu hàng bán bị trả lại, đảm bảo doanh thu vào khoản giảm- doanh thu được ghi nhận
cùng kỳ”.

2.2.6. Trích lập dự phòng giảm giá trị tài sản

Thông tư 133 chưa quy định cụ thể, chi tiết thông tin về trích lập và hoàn nhập các
khoản chi phí dự phòng giảm giá các loại tài sản như hàng tồn kho, nợ phải thu, các
khoản đầu tư tài chính có ảnh hưởng đến tình hình tài sản, chi phí, thu nhập và kết quả
kinh doanh trên BCTC, từ đó có thể ảnh hưởng trọng yếu đến các quyết định của các đối
tượng sử dụng thông tin.

2.2.7. Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ

VAS hướng dẫn cách lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp
bắt đầu từ lãi trước thuế cộng trừ các khoản điều chỉnh trong đó có số chênh lệch các
khoản phải trả. Mặc dù trong quy định về báo cáo đã có yêu cầu các khoản phải trả này
không bao gồm các khoản phải trả liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính. Tuy nhiên, do
TK 331 – Phải trả người bán bao gồm các khoản phải trả thương mại do mua sắm hàng
hóa, nguyên liệu cho sản xuất và phải trả cho việc mua sắm TSCĐ. Khi lập Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, kế toán viên chỉ lấy số dư cuối kỳ của TK 331 trừ đi số dư đầu kỳ. Điều
này có thể làm cho dòng tiền từ hoạt động kinh doanh lẫn lộn với dòng tiền từ hoạt động
đầu tư, ví dụ như nhiều công ty có hoạt động kinh doanh có lãi nhưng lại có dòng tiền từ

25
hoạt động kinh doanh âm lớn do công ty đầu tư vào bất động sản lớn, điều này ảnh hưởng
rất nhiều trong việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

26
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ VÀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ KẾ
TOÁN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

3.1. Đánh giá Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa


3.1.1. Ưu điểm

Đổi mới cách tiếp cận chính sách


Chúng ta đều đã biết cách tiếp cận chính sách ảnh hưởng rất lớn đến thức tiễn. Nếu
các nhà hoạch định chính sách đặt nặng mục đích phòng ngừa triệt để gian lận thì chính
sách được đưa ra chắc chắn sẽ tạo nhiều rào cản và dẫn tới một số hệ lụy không mong
muốn cho những doanh nghiệp kinh doanh đúng pháp luật. Chế độ kế toán doanh nghiệp
nhỏ và vừa đặt vị trí các doanh nghiệp làm trung tâm và mục đích quản trị doanh nghiệp
lên hàng đầu, vì vậy tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh đúng pháp luật.

Đề cao tính khả thi khi áp dụng trong thực tế doanh nghiệp
Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa được soạn thảo linh hoạt hơn đưa ra
nhiều lựa chọn cho các doanh nghiệp điển hình như:
- Chế độ kế toán chủ yếu quy định đến TK cấp 1, chỉ một số ít TK chi tiết đến cấp
2, mỗi tài khoản chỉ còn ánh một nội dung chứ không có riêng TK ngắn hạn, dài hạn.
Doanh nghiệp được tự chi tiết và theo dõi ngắn hạn dài hạn họ mở các tài khoản chi tiết
theo yêu cầu quản lý của mình.
- Dỡ bỏ toàn bộ sự bắt buộc đối với chứng từ và sổ sách kế toán. Doanh nghiệp sẽ
được tự xây dựng hệ thống chứng từ và sổ sách kế toán để đáp ứng yêu cầu quản trị, điều
hành phù hợp với đặc thù hoạt động của mình miễn là đáp ứng được các yêu cầu của Luật
kế toán.
- Chế độ kế toán chỉ quy định về nguyên tắc kế toán mà không quy định chi tiết
các bút toán. Bằng cách vận dụng nguyên tắc kế toán, doanh nghiệp sẽ được tự quyết định
các bút toán ghi sổ sao cho phù hợp nhất với quy trình luân chuyển chứng từ và thói quen
của mình miễn là trình bày BCTC đúng quy định.

27
- Doanh nghiệp được tự do lựa chọn đồng tiền ghi sổ kế toán khi đáp ứng được các
tiêu chí Chế độ quy định.
- Doanh nghiệp được tự quyết định ghi hoặc không ghi doanh thu từ các giao dịch
nội bộ mà không phụ thuộc vào chứng từ xuất gia là hóa đơn GTGT hay phiếu xuất kho
kiêm vận chuyển nội bộ.
- Các doanh nghiệp được tự quyết định cho đơn vị hạch toán phụ thuộc ghi nhận
khoản vốn nhận từ doanh nghiệp là nợ phải trả hoặc vốn chủ sở hữu.
- Các doanh nghiệp được chọn biểu mẫu BCTC theo tính thanh khoản giảm dần
hoặc phân biệt ngắn hạn, dài hạn theo truyền thống.

Tách biệt kế toán và thuế, hướng đến phục vụ nhu cầu quản trị, điều hành
doanh nghiệp
Lâu nay chúng ta hay quan niệm doanh thu, chi phí kế toán phải giống doanh thu,
chi phí kế toán thuế hoặc việc xuất hóa đơn phải đi kèm với việc ghi nhận doanh thu. Tuy
nhiên cần biết rằng mục đích của kế toán khác với mục đích của thuế do đó trong rất
nhiều trường hợp thời điểm ghi nhận doanh thu, chi phí kế toán khác với thời điểm kê
khai thuế, việc ghi nhận doanh thu không nhất thiết phải bằng số ghi trên hóa đơn họ
không phụ thuộc vào việc có xuất hóa đơn hay không. Một số ví dụ về sự khác biệt giữa
kế toán và thuế như:
- Thu trước tiền bán bất động sản, doanh nghiệp phải xuất hóa đơn và tạm nộp thuế
TNDN 1% trên số tiền nhận trước nhưng do chưa bàn giao nhà nên doanh nghiệp chưa
được ghi nhận doanh thu.
- Mua vé máy bay, phòng vé phải xuất hóa đơn nhưng hành khách chưa bay thì
hãng hàng không chưa ghi nhận doanh thu.
- Bán hàng đại lý hưởng hoa hồng thì doanh thu là hoa hồng nhưng hóa đơn xuất
ra, là toàn bộ số tiền thu được của sản phẩm, hàng hóa.
- Bán sản phẩm sản xuất thử doanh nghiệp phải xuất hóa đơn nhưng số tiền thu
được không ghi nhận doanh thu mà ghi giảm trừ chi phí sản xuất thử.
Lần đầu tiên Chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành có những tuyên ngôn về sự
khác biệt giữa doanh thu, chi phí, lợi nhuận kế toán so với doanh thu tính thuế (GTGT,
28
TNDN), chi phí được trừ và thu nhập chịu thuế. Để xóa bỏ thói quen đã ăn sâu vào tiềm
thức của kế toán là điều không dễ dàng nhưng việc bắt đầu thay đổi tư sẽ dần dần tạo ra
một chế độ kế toán phù hợp, thống nhất với chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế

Tiếp cận gần hơn với thông lệ và Chuẩn mực quốc tế


Nền kinh tế của chúng ta đang phát triển và ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Vì vậy, chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán cũng phải tiếp cận gần hơn với thông lệ
và chuẩn mực quốc tế. Thông tư 133 đã đưa vào một số nội dung mang tính thông lệ thế
giới như ghi nhận doanh tương ứng với nghĩa vụ thực hiện, phân loại chứng khoán kinh
doanh và đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn,…

Tập trung làm minh bạch thị trường


Đối với thị trường bất động sản, chế độ kế toán lần này bắt buộc phải minh bạch,
không nhập nhằng giữa tồn kho bất động sản và sản xuất kinh doanh dở dang (đối với các
dự án triển khai chậm tiến độ, chưa hoàn thành) phải tách bạch và trình bày rõ ràng trên
BCTC để không đánh lừa các nhà đầu tư. Điểm mới này đã thể hiện sự bảo vệ các nhà
đầu tư trong việc lựa chọn đúng các dự án bất động sản để đầu tư, tránh thiệt hại như
trong thời trước đây.

Đề cao trách nhiệm người hành nghề dịch vụ kế toán


Những người hành nghề dịch vụ kế toán ký tên và ghi rõ số chứng chỉ hành nghề
vào sổ sách, báo cáo tài chính do đơn vị/cá nhân mình lập ra, đơn vị/cá nhân làm sai sẽ có
chế tài xử phạt theo quy định. Điều này hưởng tới nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán,
minh bạch thị trường dịch vụ kế toán tại Việt Nam, phù hợp với nhu cầu hội nhập và cam
kết với quốc tế.

3.1.2. Tồn tại

Bên cạnh những thành công và ưu điểm cơ bản trên, chế độ kế toán mới theo
Thông tư 133 còn bộc lộ không ít những hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Những hạn chế
này làm giảm hiệu quả công tác kế toán trong các doanh nghiệp, cụ thể:

29
- Chế độ kế toán vẫn còn quá chú trọng vào việc yêu cầu các doanh nghiệp cung
cấp thông tin phục vụ cho việc quản lý của các cơ quan chức năng. Trong nền kinh tế kế
hoạch hóa trước đây chủ yếu chỉ tồn tại loại hình doanh nghiệp Nhà nước do vậy người sử
dụng thông tin cũng chủ yếu là Nhà nước. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại, doanh nghiệp có nhiều mối
quan hệ với các đối tượng khác nhau, đồng thời các đối tượng này cũng có những lợi ích
và mối quan tâm khác nhau đối với doanh nghiệp. Vì vậy, họ cũng rất cần các thông tin
tài chính của doanh nghiệp để có thể đưa ra các quyết định phù hợp.
- Chế độ kế toán từ trước tới nay dựa trên cơ sở cơ bản là các yêu cầu, nguyên tắc
và phương pháp kế toán. Song do đặc thù yêu cầu quản lý, chế độ kế toán vẫn ít nhiều bị
ảnh hưởng bởi các quy định của luật thuế và cơ chế tài chính. Điều này gây khó khăn
không nhỏ cho các doanh nghiệp trong việc áp dụng, cũng như các cơ quan Nhà nước khi
thực hiện chức năng quản lý của mình.
- Chế độ kế toán quy định tương đối chi tiết và còn mang tính chất bắt buộc cao,
gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi có những đặc thù riêng biệt, họp khi xuất hiện
nghiệp vụ kinh tế không được hướng dẫn trong chế độ, việc áp dụng chế độ kế toán rất
khó thống nhất và khó có được sự chấp thuận của cơ quan chức năng quản lý. Để có thể
thực hiện được doanh nghiệp phải xin phép hoặc là được sự đồng ý của cơ quan chức
năng, điều này sẽ mất thời gian và tốn nhiều công sức, làm giảm hiệu quả trong quá trình
quản lý nói chung và công tác kế toán nói riêng.
- Chế độ kế toán mới ban hành còn vướng mắc trong việc kế toán cụ thể một số
phần hành như ghi nhận doanh thu bất động sản, về tỷ giá, về tài sản cố đinh, về ghi nhận
doanh thu hàng khuyến mãi, về các khoản đầu tư, hàng bán đại lý, và một số nghiệp vụ
thức tế phát sinh nhưng chưa được quy định trong chế độ kế toán. Điều này gây khó khăn,
lúng túng cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.

30
3.2. Kiến nghị hoàn thiện
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chung

Hoàn thiện quy định về tính thông nhất của hệ thống tài khoản, hình thức hệ
thông báo cáo tài chính
Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành hệ thống tài khoản kế toán
thống nhất cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên hệ thống tài khoản này chỉ đáp ứng được
việc lập BCTC thông thường cho các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhưng chưa đáp
ứng được yêu cầu quản trị nội bộ của từng doanh nghiệp.
Trong khi đó, IFRS chỉ quy định về các BCTC, không quy định về hệ thống tài
khoản kế toán vì nó là phương tiện kế toán để áp dụng được đầu ra là các báo cáo tài
chính. Theo kế toán quốc tế, doanh nghiệp được tự thiết kế hệ thống tài khoản kế toán từ
các yêu cầu thông tin và yêu cầu báo cáo tài chính và báo cáo quản trị (không phải trị yêu
cầu về báo cáo tài chính), nhà thiết kế phân tích và đưa ra hệ thống tài khoản kế toán phù
hợp có thể đáp ứng được các yêu cầu về báo cáo tài chính và báo cáo quản trị. Lưu ý rằng
việc đáp ứng các yêu cầu của báo cáo quản trị cần nhiều tài khoản hơn so với yêu cầu của
báo cáo tài chính theo luật định. Ở hầu hết các nước, không có khái niệm hệ thống tài
khoản kế toán thông nhất chung cho một quốc gia, vì mỗi công ty có nhu cầu thông tin,
quản trị rất khác nhau nên các công ty tự xây dựng cho mình là hợp lý nhất. Các chuyên
gia kế toán đúc kết kinh nghiệm, lý thuyết quản trị kế toán sẽ đưa ra các hệ thống tài
khoản kế toán có tính hướng dẫn, tham khảo cho công ty và giảng dạy ở các trường kinh
tế.
Hầu hết các hệ thống đào tạo kế toán tiên tiến trên thế giới đào tạo theo bản chất
của giao dịch và các giao dịch đó được quản trị, được báo cáo như thế nào để đáp ứng các
yêu cầu của các nhà đầu tư và các nhà quản trị doanh nghiệp. Họ không có hệ thống tài
khoản thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp. Các giao dịch được ghi nhận theo bản chất
và tên gọi của chúng. Hệ thống kế toán Việt Nam chỉ nên mang tính hướng dẫn. Bởi đối
với những công ty cần nhiều thông tin quản trị, do hệ thống tài khoản Việt Nam không
đáp ứng được yêu cầu, công ty phải xây dựng lại hệ thông tài khoản cho phù hợp. Nhưng
các doanh nghiệp này vẫn phải dùng hệ thống tài khoản thống nhất làm bộ khung. Điều
31
này làm cho hệ thống tài khoản của doanh nghiệp trở nên phức tạp và rắc rối hơn rất
nhiều, gây nhiều khó khăn cho công ty.
Vì những lý do trên, chế độ kế toán không cần thiết phải thực hiện xây dựng quá
cụ thể hệ thống tài khoản thống nhất từ và trình tự kế toán các nghiệp vụ kinh tế một cách
quá cụ thể nhưng thiếu tính bao quát. Chế độ kế toán chỉ nên ban hành các tài khoản
khung (hay quy định loại tài khoản) và tài khoản nhóm tạo điều kiện cho doanh nghiệp
phân loại các đối tượng kế toán của mình phù hợp với quy định chung, không phản ánh
sai bản chất, nội dung của từng đối tượng kế toán. Các tài khoản do doanh nghiệp tự xây
dựng phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý cũng như
yêu cầu cung cấp thông tin của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó doanh nghiệp tự vận dụng
các nguyên tắc và các chuẩn mực kế toán quy định cho từng đối tượng kế toán cụ thể để
xây dựng trình tự kế toán đối với các giao dịch và các sự kiện kinh tế liên quan đến từng
đối tượng kế toán cho doanh nghiệp.

Xây dựng chế độ kế toán theo hướng linh hoạt và phong phú
Chế độ kế toán hiện hành mặc dù đã tháo gỡ được nhiều nút thắt trong công tác kế
toán. Tuy nhiên trong thời gian tới, cần xây dựng một chế độ kế toán theo hướng mở hơn
nữa, giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhằm phù hợp với đặc thù kinh doanh cũng như
trình độ và yêu cầu quản lý tránh hướng dẫn quá cụ thể không bao quát và quá cứng nhắc.
Từ đó, định hướng cho doanh nghiệp vận dụng các chuẩn mực kế toán, tạo thói quen
trong việc vận dụng chuẩn mực kế toán vào công tác kế toán của đơn vị. Chế độ kế toán
xây dựng không cứng nhắc có thể linh hoạt áp dụng cho nhiều lĩnh vực đặc biệt là những
doanh nghiệp có tính đặc thù cao như các lĩnh vực nông nghiệp, thăm dò khoáng sản.

3.2.2. Hoàn thiện một số quy định cụ thể

Hoàn thiện kế toán trích trước chi phí sửa chữa tài sản cố định
Theo TS. Ngô Thị Thu Hương (2017) để phù hợp với IAS 37 thì nên ghi nhận việc
trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ là một khoản nợ tiềm tàng trong quy định tại đoạn d,
Mục 1, Điều 37, Thông tư 133 vì:

32
- “Nghĩa vụ có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại của nghĩa
vụ này sẽ chỉ được xác nhận bởi khả năng xảy ra hoặc không xảy ra của một hoặc nhiều
sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà đơn vị không kiểm soát được; hoặc”
- “Nghĩa vụ hiện tại phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra nhưng chưa được nghi nhận
vì: Không chắc chắn có sự giảm sút về lợi ích kinh tế do việc phải thanh toán nghĩa vụ nợ;
Giá trị của nghĩa vụ đó không được xác định một cách đáng tin cậy”.

Theo IAS 37, nguyên tắc ghi nhận nợ tiềm tàng được quy định như sau:
- “Đơn vị không được ghi nhận nợ tiềm tàng”.
- “Khoản nợ tiềm tàng phải được trình bày trên báo cáo tài chính, trừ khi khẳ năng
xảy ra sự giảm sút lợi ích kinh tế đối với đơn vị là thấp”.
- “Các khoản nợ tiềm tàng thường phát sinh ngoài dự tính, vì vậy đơn vị cần
thường xuyên đánh giá về khả năng xảy ra sự giảm sút về lợi ích kinh tế: nếu khả năng
này là chắc chắn, cần ghi nhận khoản dự phòng liên quan”.

Doanh nghiệp có thể ghi nhận và trình bày thông tin về việc trích trước chi phí sửa
chữa TSCĐ định kỳ trên BCTC như sau:

33
Việc ghi nhận khoản trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ định kỳ như trên sẽ đáp
ứng được tốt hơn nhu cầu quản trị của đơn vị và phản ánh đúng tình hình tài chính trung
thực, hợp lý và tuân thủ các quy định theo đúng tinh thần “tôn trọng bản chất hơn hình
thức”.

Hoàn thiện kế toán hàng bán bị trả lại


Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa nên có những quy định cụ thể, chi tiết
hơn về việc ghi nhận các trường hợp hàng bán bị trả lại theo các hướng như sau:
- Trường hợp hợp đồng quy định người mua được quyền trả lại sản phẩm, hàng
hóa đã mua theo điều kiện cụ thể (ví dụ chương trình dùng thử sản phẩm), thì doanh
nghiệp không được phép ghi nhận doanh thu tại thời điểm giao hàng cho khách, mà chỉ
được phép ghi nhận doanh thu khi những điều kiện đó không còn tồn tại và người mua
không có quyền trả lại hàng hóa nữa.
- Trường hợp hợp đồng không quy định cụ thể các điều kiện cho phép người
mua trả lại sản phẩm, hàng hóa đã mua, thì doanh nghiệp ghi nhận doanh thu tại thời
điểm giao hàng cho khách. Nếu phát sinh hàng bán bị trả lại sau khi ghi nhận doanh thu,
kế toán ghi nhận hàng bán bị trả lại là một khoản giảm trừ doanh thu.

Hoàn thiện quy định về trích lập dự phòng giảm giá tài sản.
Một số cơ sở, căn cứ để trích lập và ghi nhận các khoản chi phí dự phòng có thể
được ban hành như sau:
- Đối với các loại hàng tồn kho đặc thù không có giao dịch trên thị trường, doanh
nghiệp trích lập dự phòng dựa trên giá của mặt hàng tương tự trên thị trường để xác định
giá trị ước tính có thể thực hiện được và thuyết minh trên BCTC.
- Đối với các khoản đầu tư tài chính thiếu giao dịch thực tế tại ngày lập BCTC, đơn
vị có thể căn cứ vào các cơ sở sau: Với cổ phiếu OTC, doanh nghiệp có thể sử dụng giá
của cổ phiếu tương tự của doanh nghiệp khác trong ngành đã niêm yết hoặc dựa vào mức
điểm giảm của chỉ số chứng khoán trên thị trường làm căn cứ xác định và ghi nhận chi phí
dự phòng và thuyết minh trên BCTC; Với loại trái phiếu và các công cụ nợ khác, doanh
nghiệp căn cứ trên giá của trái phiếu, công cụ nợ tương tự của các doanh nghiệp khác
34
trong ngành đã niêm yết, đồng thời dựa trên việc chiết khấu các khoản tiền lãi và tiền gốc
sẽ thu được vào ngày đáo hạn theo tỷ lệ chiết khấu là lãi suất tiết kiệm trung bình của các
ngân hàng thương mại tại thời điểm lập BCTC.

Hoàn thiện phương pháp lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Để dòng tiền từ hoạt động kinh doanh không bị lẫn lộn với dòng tiền từ hoạt động
đầu tư và dòng tiền từ hoạt động tài chính, cần hướng dẫn cách lập Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ theo hướng phân chia các khoản phải thu do bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của
đơn vị và các khoản phải trả thương mại do mua hàng tồn kho tách biệt với các khoản
phải thu, phải trả về mua bán TSCĐ hay tài sản dài hạn và các khoản phải thu, phải trả về
các họa động tài chính.

35
KẾT LUẬN

Kế toán là công cụ cung cấp thông tin tài chính, là nền tảng để ra quyết định kinh
doanh, là một bộ phận quan trọng trong hệ thống công cụ quản lý, điều hành và kiểm soát
hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện khung pháp lý kế toán nói chung và chế độ kế toán nói
riêng một cách phù hợp và đầy đủ các yếu tố pháp lý trong quá trình hội nhập hiện nay là
nhiệm vụ trọng yếu. Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ giúp công tác
quản lý của Nhà nước đạt hiệu quả cao mà còn giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát
triển toàn diện, đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập với quốc tế.

Thông tư 133 đã có nhiều cải tiến, phát triển, song về bản chất vẫn dựa theo hệ
thống chế độ kế toán đồng bộ đã có sẵn. Với sự phát triển phức tạp của thị trường, các
giao dịch sẽ ngày càng chứa đựng nhiều nội hàm với bản chất khác biệt hoàn toàn. Vì thế,
Thông tư 133 qua gần 7 năm áp dụng đã dần bộc lộ những hạn chế do không theo kịp sự
biến đổi không ngừng của nền kinh tế. Do đó, việc chú trọng phát triển và ban hành
những quy định, hướng dẫn mới là cần thiết để luôn cập nhật, phát triển Chế độ kế toán
Việt Nam phù hợp với xu hướng của quốc tế.

36

You might also like