You are on page 1of 20

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ 5-6 TUỔI


THÔNG QUA TỔ CHỨC NGÀY HỘI, NGÀY LỄ Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Các nghiên cứu ở nước ngoài.
1.1.2 Các nghiên cứu ở trong nước.
1.2 Khái niệm công cụ của đề tài
1.2.1 Giáo dục thẩm mỹ
Ngay từ thời cổ, con người khi đã hình thành, phát triển ý thức thẩm mỹ, đã
biết thưởng thức (tiếp nhận) cái đẹp và tạo ra cái đẹp, con người vừa hoạt động
thẩm mỹ, vừa giáo dục thẩm mỹ cho các lứa tuổi kế tiếp. Song, do trình độ nhận
thức thẩm mỹ còn thấp kém, hoạt động giáo dục thẩm mỹ ở giai đoạn này mang
nặng tính chất tự phát, kinh nghiệm và thường gắn liền với những tín điều tôn
giáo nguyên thuỷ.
Hoạt động giáo dục thẩm mỹ trong điều kiện của các xã hội chiếm hữu nô
lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa thường bị chi phối bởi những quan niệm
thẩm mỹ, hoặc duy tâm khách quan, duy tâm chủ quan, thần bí, tôn giáo; hoặc
duy vật siêu hình. Đặc biệt, giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường chịu sự chi phối
chặt chẽ các quan niệm thẩm mỹ triết học, thẩm mỹ - tôn giáo duy tâm, thần bí.
Hiện nay, ở các nước Phương Tây, giáo dục thẩm mỹ đang được thả nổi dưới
khẩu hiệu “Tự do” nhưng thực tế lại chịu sự lũng đoạn của các tư tưởng thẩm
mỹ - triết học phi mácxit hiện đại. Nhiều nước thuộc phương Đông hoạt động
giáo dục thẩm mỹ đang đề cao mỹ học - triết học tôn giáo, Nho giáo và
Đạo giáo.
Giáo dục thẩm mỹ trong xã hội xã hội chủ nghĩa nói chung trong nhà
trường xã hội chủ nghĩa nói riêng, gắn liền với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ mục tiêu làm hình
thành, phát triển nhân cách con người mới về mặt thẩm mỹ, dựa trên cơ sở thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa trở thành
một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp “trồng người”. Hoạt động giáo dục thẩm mỹ
trong nhà trường xã hội chủ nghĩa là một hình thức hoạt động giáo dục có tính
đặc thù, nhằm xây dựng con người có nhận thức, ý thức thẩm mỹ xã hội chủ
nghĩa, có năng lực thực tiễn trong tiếp nhận, trong sáng tạo cuộc sống cá nhân
và xã hội “theo quy luật của cái đẹp”.
Theo quan điểm của mỹ học Mác-Lê Nin, giáo dục thẩm mỹ được hiểu theo hai
nghĩa:
- Nghĩa hẹp: Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục có tính trường quy
về cái đẹp giáo dục con người biết cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
- Nghĩa rộng: Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục và tự giáo dục
nhằm phát huy mọi năng lực của con người theo quy luật cái đẹp, trong đó có
việc bồi dưỡng nhận thức thị hiếu thẩm mỹ của con người, những tình cảm
mạnh mẽ để con người có thể phân biệt rạch ròi giữa đẹp và xấu, cái cao cả và
cái thấp hèn.
Theo tác giả Lương Hồng Văn “Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình làm
hình thành và phát triển nhân cách xã hội chủ nghĩa về mặt thẩm mỹ, trong đó
con người có năng lực nhận thức, ý thức đúng đắn đối với đời sống thẩm mỹ của
xã hội; đồng thời, có khả năng tiếp nhận và sáng tạo cuộc sống “theo quy luật
của cái đẹp”. [52]
Tuy có nhiều cách diễn đạt khái niệm về giáo dục thẩm mỹ nhưng chúng
đều có một điểm chung thống nhất như sau: Giáo dục thẩm mỹ là giáo dục để
người học có nhận thức đúng đắn và tương đối đầy đủ về cái đẹp nói chung, cái
đẹp trong nghệ thuật nói riêng, về các nền văn hóa, văn minh, các trường phái
nghệ thuật, về những điều đối lập với cái đẹp (cái xấu, cái ác).
Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của
nhà giáo dục đến trẻ, nhằm giúp trẻ biết nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu thích
cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động cá nhân.
1.2.2 Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
Ở nhà trường GDMN, hoạt động giáo dục thẩm mỹ được xem là một bộ
phận cơ bản làm hình thành con người mới với tính cách chủ thể tích cực, sáng
tạo của xã hội công nghiệp, hiện đại theo hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc
giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức công dân, đạo đức xã hội, lao động khoa học
và kỹ thuật; giáo dục thẩm mỹ và “hoà tan”, “hoà nhập” vào các hoạt động giáo
dục đó; vừa được xác định như một hình thức giáo dục có nội dung, phương
thức, mục đích riêng biệt. Đồng thời, sự tác động lẫn nhau giữa giáo dục thẩm
mỹ và các hoạt động giáo dục khác trở thành động lực của giáo dục toàn diện,
tổng hợp.
- Tính mục tiêu chung
Giáo dục thẩm mỹ ở nhà trường mầm non là một quá trình làm hình thành
con người - nhân cách xã hội chủ nghĩa về mặt thẩm mỹ cho trẻ. Con người -
nhân cách được hình thành từ trẻ luôn mang tính tổng hợp, toàn diện và triệt để.
Tổng hợp vì con người - nhân cách này do hàng loạt mối quan hệ kinh tế - xã
hội, văn hoá, giáo dục cấu thành. Toàn diện vì nó phải chứa đựng những thành
quả của tất cả những hoạt động thực tiễn vật chất và các giá trị tinh thần của sự
phát triển, tiến bộ xã hội. Còn triệt để là do nó đòi hỏi phải được tiến hành giáo
dục đầy đủ, sâu sắc và thường xuyên. Tất cả các yêu cầu trên cần được thực hiện
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động giáo dục thẩm mỹ là một trong
những thành tố chủ yếu của quá trình xây dựng con người - nhân cách nói trên.
- Tính khoa học
Trước hết, quá trình giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em là một quá trình mang
tính khoa học. Không phải là các kinh nghiệm cảm tính, mà là những tri thức mỹ
học, lý luận về thẩm mỹ được trang bị cho học sinh. Những tri thức này được
tập trung, khái quát hoá trong một hệ thống các phạm trù, khái niệm, nguyên lý,
nguyên tắc, quan điểm của mỹ học Mác-Lênin. Từ tư tưởng mỹ học biện chứng
duy vật mácxit, người giáo viên vận dụng một cách khoa học, sáng tạo vào việc
giải quyết những hiện tượng thẩm mỹ cụ thể - sinh động của học sinh và xã hội.
Đồng thời, giáo dục thẩm mỹ đòi hỏi phương thức, phương pháp giáo dục phải
bảo đảm tính khoa học như: phù hợp với đối tượng, thực nghiệm - làm mẫu, hệ
thống - cấu trúc, phân tích - tổng hợp, v.v... Mặt khác, giáo dục thẩm mỹ tiếp
nhận một cách hợp lý mọi thành tựu của tất cả các khoa học khác (đặc biệt là các
khoa học giáo dục) nhằm làm giàu cho nội dung và phương pháp giáo dục
của mình.
- Tính thực tiên
Quá trình giáo dục trẻ em là một quá trình mang tính thực tiễn. Gắn liền
với tính khoa học của giáo dục thẩm mỹ là tính thực tiễn; bởi thực tiễn không
chỉ là “quan điểm thứ nhất và cơ bản” đối với nhận thức thẩm mỹ, mà còn là cơ
sở, động lực, mục tiêu của hoạt động giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường. Xuất
phát từ nhu cầu, lợi ích của việc phát triển đời sống thẩm mỹ cá nhân và xã hội
(trong đó có trẻ em), nhằm xây dựng con người - nhân cách phát triển về phẩm
chất thẩm mỹ; nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường cần
tương ứng, phù hợp với yêu cầu xây dựng văn hoá thẩm mỹ tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua giáo dục của nhà
trường, trẻ em được chuẩn bị chu đáo để sau này trở thành chủ thể tiếp nhận và
sáng tạo trong đời sống thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy ngay trong khi học
tập ở nhà trường, học sinh cần được hướng dẫn, được tạo điều kiện để tự ý thức,
tự điều chỉnh và tự phát huy năng lực hoạt động thẩm mỹ trong tất cả các lĩnh
vực học tập, lao động, sinh hoạt của n hà trường. Qua đó, trẻ em có thể “cải tạo
bản thân mình” theo thước đo, theo nguyên tắc, quy luật của cái đẹp, cái cao cả.
Tính thực tiễn của giáo dục thẩm mỹ cũng đòi hỏi ở người thầy giáo phải hoà
mình, nắm được thực tiễn xây dựng đời sống thẩm mỹ của nhân dân, của xã hội
và phải trở thành chủ thể định hướng, giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Cần lưu ý rằng,
tính thực tiễn của giáo dục thẩm mỹ luôn đòi hỏi nhà trường, người thầy phải
giải quyết đúng đắn, nhanh nhạy và hiệu quả trước những vấn đề nảy sinh
thường gặp trong đời sống thẩm mỹ của trẻ em. Giáo dục thẩm mỹ còn cần
hướng tới “phía trước”, tức là dự báo tình trạng thẩm mỹ sẽ xảy ra trong ý thức
và hoạt động thẩm mỹ của trẻ, đồng thời đưa ra các giải pháp tương ứng nhằm
chủ động điều chỉnh, định hướng và quản lý quá trình diễn biến của chúng.
- Tính nhân văn - nhân đạo
Tính nhân văn của giáo dục thẩm mỹ là tính chất cơ bản, quyết định của
toàn bộ hoạt động giáo dục thẩm mỹ, trong đó trẻ được GD về mặt thẩm mỹ, trở
thành nhân cách có phẩm chất thẩm mỹ mang tính nhân văn. Giáo dục thẩm mỹ
xem con người - trẻ em và sự hình thành nhân cách về mặt thẩm mỹ là đối tượng
giáo dục của mình nhằm mục tiêu xây dựng một nhân cách phù hợp với yêu cầu
phát triển bản tính nhân văn -nhân đạo của con người theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Toàn bộ quá trình hoạt động giáo dục thẩm mỹ đòi hỏi phải xuất phát
từ nhu cầu, lợi ích và mục đích thẩm mỹ mang tính Chân - Thiện - Mỹ của trẻ
em, do trẻ em và vì trẻ em. Bản tính nhân văn của con người là nhân ái, nhân
đạo, phát triển hài hoà, toàn diện, hoàn thiện. Bằng con đường giáo dục, trẻ em ý
thức được và có năng lực hiện thực hoá bản tính trên đây. Ở góc độ mỹ học, cái
Chân, cái Thiện, thuộc bản chất của cái Mỹ, đồng thời, chỉ có thông qua cái Mỹ,
bằng cái Mỹ, gắn liền với cái Mỹ thì cái Chân, cái Thiện mới thật sự hiện diện,
thật sự có sức sống mạnh mẽ và sinh động. Vì vậy, cái Đẹp trở thành hạt nhân
của giáo dục cái Đẹp, trẻ em mới có thể nhận biết được cái giả, cái ác, cái xấu và
tự loại trừ chúng, tự miễn dịch đối với chúng. Nhân cách của con người xã hội
chủ nghĩa là nhân cách văn hoá mới, nhân cách phát triển với tính chất tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Sáng tạo thẩm mỹ và hưởng thụ (tiếp nhận) thẩm mỹ
vốn thuộc bản tính con người, chất nhân văn của con người. Sáng tạo thẩm mỹ,
tiếp nhận thẩm mỹ của con người - nhân cách xã hội chủ nghĩa luôn mang tính
văn hoá thẩm mỹ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự hình thành, phát triển của
trẻ em cần được xây dựng theo tinh thần nói trên. Bởi vì, một con người - nhân
cách được thật sự phát triển khi trong bản thân nó bao hàm sự phát triển về mặt
văn hoá, được văn hoá hoá; cũng như không thể thiếu sự phát triển về mặt văn
hoá thẩm mỹ, được văn hoá thẩm mỹ hoá. Do đó, giáo dục văn hoá cần có tính
thẩm mỹ, và giáo dục thẩm mỹ cần có tính văn hoá.
1.2.3. Lễ hội
Theo từ điển Tiếng Việt (2017), “Lễ hội là cuộc vui tổ chức chung, có các
hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống của dân tộc [3; tr401].
Theo tác giả Nguyễn Như Ý (2014), “Lễ hội cũng là hội lễ, hình thức sinh
hoạt văn hóa, xã hội của một tập thể, một tổ chức thuộc giới, nghề, ngành hoặc
tôn giáo trong phạm vi một địa phương hoặc trong cả nước. Lễ hội có phần lễ để
tưởng niệm các anh hùng dân tộc, tổ sư một nghề, một thần linh và phần hội.
Hội có nhiều hình thức: hội giao duyên, hội thi tài, hội văn chương, hội thượng
võ….[4;tr204-205].
Như vậy có thể hiểu “Lễ hội là cuộc vui chung mang tính nghi lễ văn hóa
truyền thống của cộng đồng, được tiến hành một cách có tổ chức nhằm mục
đích bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”
1.2.4 Hoạt động lễ hội ở trường mầm non
Ngày hội, ngày lễ ở trường mầm non là một hình thức mô phỏng lại những
ngày hội, ngày lễ của dân tộc hoặc các sự kiện quan trọng trong năm có liên
quan đến trẻ (có sự cải biên cho phù hợp với đối tượng trẻ nhỏ và điều kiện nhà
trường), nhằm tạo cho trẻ những sân chơi tập thể bổ ích, lành mạnh, đồng thời
góp phần thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra.
Trong Chương trình giáo dục mầm non, hình thức tổ chức các hoạt động
giáo dục được phân theo mục đích và nội dung giáo dục bao gồm:
- Tổ chức hoạt động có chủ định của giáo viên và theo ý thích cử trẻ.
- Tổ chức lễ, hội: Tổ chức kỷ niệm các ngày lễ hội, các sự kiện quan trọng
trong năm liên quan đến trẻ có ý nghĩa giáo dục và mang lại niềm vui cho trẻ.
Vì vậy, tổ chức các ngày hội, ngày lễ trong Trường Mầm non trải dài theo
suốt thời gian của một năm học bắt đầu từ ngày Khai giảng, ngày tết Trung thu,
Tết cổ truyền…. và kết thúc ở ngày lễ Bế giảng.
Đây cũng là một hình thức giúp trẻ thâm nhập vào cuộc sống xã hội trong
những thời điểm có ý nghĩa cã hội nhất định để giáo dục truyền thống và mang
lại niềm vui, niềm tự hào cho trẻ. Có thể tổ chức hoạt động ngày hội, ngày lễ
cho trẻ nhân dịp ngày lễ lớn của dân tộc (Tết Nguyên đán, rằm Trung thu, ngày
giải phóng Miền Nam, ngày Quốc tế phụ nữ…) hoặc là những ngày dành cho trẻ
em, dành cho học sinh, thầy cô (Tết thiếu nhi, ngày Khai trường, Bế giảng, sinh
nhật trẻ…) hay những lễ hội truyền thống của địa phương, kỷ niệm ngày thành
lập trường, thực hiện chuyên đề.
1.2.5 Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo thông qua tổ chức ngày hội, ngày
lễ ở Trường Mầm non.
1.3 Lí luận về giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
1.3.1 Đặc điểm phát triển thẩm mỹ của trẻ 5-6 tuổi
Trẻ 5 - 6 tuổi vừa là chủ thể thưởng thức, đồng thời là chủ thể sáng tạo
thẩm mĩ. Sự phát triển thẩm mĩ của trẻ được xem xét ở hai yếu tố cơ bản: ý thức
thẩm mĩ và hoạt động thẩm mĩ.
Ý thức thẩm mĩ của trẻ: Ý thức thẩm mĩ của trẻ gồm các thành tố như: cảm
xúc thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, quan điểm thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ. Ý thức
thẩm mĩ của trẻ được biểu hiện nổi bật ở thành tố cảm xúc thẩm mĩ, các thành tố
như thị hiếu thẩm mĩ, quan điểm thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ mới ở bước đầu
hình thành trên cơ sở phát triển của cảm xúc thẩm mĩ.
Các công trình nghiên cứu khoa học đã khẳng định từ 0 đến 6 tuổi được coi
là giai đoạn khởi đầu – giai đoạn vàng, đóng vai trò nền tảng vô cùng quan trọng
đối với việc hình thành phẩm chất nhân cách con người. Có thể coi đây là thời kì
phát cảm về mặt “xúc cảm thẩm mĩ”, đặc biệt là những xúc cảm tích cực. Những
xúc cảm tích cực, dễ chịu được nảy sinh khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp -
tạo nên trạng thái tinh thần khoan khoái khiến trẻ cảm thấy gắn bó thiết tha với
con người và cảnh vật xung quanh, làm nảy nở ở trẻ lòng mong muốn làm
những điều tốt lành để đem niềm vui đến cho mọi người. Khi trẻ tiếp xúc trực
tiếp với sự vật hiện tượng phong phú, đa dạng trong thiên nhiên, trong đời sống,
trong nghệ thuật, trẻ rất nhạy cảm và thể hiện xúc cảm thẩm mỹ với những "cái
đẹp" của sự vật, hiện tượng. Những xúc cảm đó chi phối mạnh mẽ đời sống tâm
lí của trẻ.
Khi tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cảm xúc của trẻ
bộc lộ rất chân thật, hồn nhiên nhưng trẻ chưa biết kiềm chế được xúc cảm của
mình. Trẻ bộc lộ cả hai mặt cảm xúc tiêu cực và cảm xúc tích cực. Tất cả các sắc
thái xúc cảm, tình cảm (vui, buồn, hờn, giận, yêu, ghét...) phát triển mạnh và chi
phối mọi hành động của trẻ. Một bông hoa tươi thắm, một cánh bướm sặc sỡ,
một bức tranh đẹp, một khúc nhạc hay, một câu thơ giàu vần điệu, một câu nói
dịu dàng, một nụ cười âu yếm... đều gợi lên nhưng rung động trong lòng mỗi
đứa trẻ. Bằng cách tri giác hình khối, đường nét, màu sắc, âm thanh, ngôn ngữ
tác động đến các giác quan, trẻ dễ dàng tiếp nhận những ấn tượng từ phía bên
ngoài mang tính hình tượng và giàu màu sắc xúc cảm, dễ dàng nhận ra cái đẹp
của thiên nhiên, của con người, của sự vật hiện tượng, hiểu được ý nghĩa tượng
trưng và ý nghĩa biểu thị các đối tượng, dễ dàng phân biệt sự đối lập giữa các
mặt, hình dung ra cuộc sống, tâm trạng, tính cách, diễn biến của các sự vật hiện,
hiện tượng trong thiên nhiên, đời sống, trong nghệ thuật. Đó chính là những xúc
cảm thẩm mĩ, xúc cảm về cái đẹp. Loại xúc cảm đó có ý nghĩa đặc biệt đối với
trẻ vì ở giai đoạn này, trẻ nhận thức thế giới và tỏ thái với những sự vật, hiện
tượng xung quanh mình thường thông qua xúc cảm thẩm mĩ(xúc cảm về cái
đẹp). Vì thế, trẻ luôn có nhu cầu được tham gia các hoạt động cùng nhóm bạn bè
để chúng có cơ hội được trò chuyện, bày tỏ, diễn đạt những điều quan sát được
từ thế giới xung quanh và thể hiện tình cảm trong khi chơi và giao tiếp.
Mỗi tác phẩm nghệ thuật - nơi biểu hiện tập trung của cái đẹp, đối với trẻ
thơ đó vừa là nội dung vừa là phương tiện giáo dục thẩm mỹ. Một bản nhạc tươi
vui, một bức tranh đẹp, một khúc nhạc hay, một câu thơ giàu vần điệu, một câu
truyện cổ tích lung linh những tình tiết thần thoại có thể làm cho trẻ ngỡ ngàng,
vui sướng, gợi lên trong lòng trẻ những rung động, những xúc cảm về cái đẹp.
Điều đó tạo nên trạng thái tinh thần khoan khoái khiến trẻ cảm thấy yêu quý,
gắn bó với con người và cảnh vật xunh quanh, làm nảy nở ở trẻ lòng ham muốn
đem niềm vui đến cho mọi người. Không chỉ trong nghệ thuật, mà ngay trong
chính cuộc sống thường ngày, một bông hoa tươi thắm, một cánh bướm sặc sỡ,
một câu nói dịu dàng, một nụ cười âu yếm... đều dễ dàng khơi dậy trong tâm
hồn trẻ thơ những xúc cảm thẩm mỹ. Sự trải nghiệm, tích lũy mỗi ngày đó dần
hình thành ở trẻ thị hiếu thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ và kết
tinh lại thành phẩm chất đạo đức, nhân cách cao đẹp của con người, làm cho trẻ
trở thành người luôn biết yêu cái đẹp và tạo ra cái đẹp cho cuộc sống. Đặc biệt,
giáo dục thẩm mĩ thông qua các hoạt động nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi, trẻ
được tạo cơ hội thể hiện bản thân, đồng thời khuyến khích sự phát triển khả
năng nghệ thuật, phát huy trí tưởng tượng sáng tạo.
Một đặc điểm quan trọng trong sự phát triển thẩm mĩ của trẻ là sự phát
triển tình cảm thẩm mĩ khá rõ nét và ổn định hơn các độ tuổi trước. Với vẻ đẹp
của thiên nhiên, trẻ thể hiện niềm vui, sự ham thích được khám phá, tìm hiểu.
Với những con người xung quanh, trẻ không chỉ thể hiện bày tỏ tình cảm phù
hợp với trạng thái cảm xúc của bản thân mà còn phù hợp với trạng thái cảm xúc
của người khác trong các tình huống giao tiếp bằng cử chỉ, giọng nói, nét mặt.
Với các tác phẩm nghệ thuật, trẻ thể hiện tình cảm như thích nghe, thích xem,
mong muốn được nghe, được xem đồng thời còn có những vận động hòa theo và
thể hiện rõ ràng tình cảm yêu, ghét, say mê.
Điểm đặc biệt trong sự phát triển thẩm mĩ của trẻ 5 - 6 tuổi là sự hình thành
tri giác thẩm mĩ các tác phẩm nghệ thuật. L.X.Vưgôtxki nhà tâm lý học Nga coi
sự tri giác thẩm mĩ của trẻ là sự xuất hiện các hình tượng nghệ thuật. Việc tri
giác thẩm mĩ các tác phẩm nghệ thuật của trẻ có những đặc điểm riêng, nó có
mối liên quan chặt chẽ với xúc cảm và tình cảmthẩm mĩ bởi nó cũng dựa trên cơ
sở là tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm nghệ thuật. K.D.Usinxky đã khẳng
định: "Trẻ em tư duy bằng hình tượng, âm thanh, màu sắc". Trẻ có thể hiểu được
nội dung và tư tưởng của những bài hát, câu chuyện, bài thơ dài, hình ảnh trừu
tượng cho dù trẻ chưa thể hiểu hết tất cả từ ngữ đã nghe. Trẻ cũng có thể phân
biệt được hình ảnh nghệ thuật và hiện thực, chỉ và nhận xét được các phương
tiện biểu đạt hình tượng, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật. Trẻ cũng có thể
nắm bắt được cấu trúc thể loại, mối quan hệ giữa hiện thực trong tác phẩm với
hiện thực ngoài cuộc sống.
Với đặc trưng tâm lí lứa tuổi riêng biệt, trẻ 5 - 6 tuổi dễ dàng hòa đồng vào
các sự kiện, hòa mình với nhân vật, hòa mình vào trong các hình tượng trong
các tác phẩm nghệ thuật, đồng nhất, biến mình trong đó. Từ góc nhìn của trẻ,
cuộc sống luôn hiện ra những điều mới điều mới mẻ, ngay cả những gì bình
thường nhất đang diễn ra hằng ngày đối với trẻ cũng đầy sự mới lạ, hấp dẫn.
Tuy nhiên, mọi sự vật, hiện tượng, mọi suy nghĩ, hành động nằm trong mối quan
hệ với chính bản thân chủ thể. Khả năng đồng hóa này khiến trẻ có thể giao cảm
với thế giới con người, tự nhiên trong tác phẩm nghệ thuật từ đó, trẻ thể hiện sự
cảm nhận của mình bằng các cảm xúc tích cực: chú ý lắng nghe, ngắm nhìn, vui
sướng, vỗ tay, dùng những từ gợi cảm hoặc bằng những cảm xúc tiêu cực như sợ
hãi, tức giận, chê bai...
Thị hiếu thẩm mĩ của trẻ 5 - 6 tuổi mang nặng tính cá nhân và không bền
vững. Tình cảm của trẻ hình thành bền vững hơn so với các lứa tuổi trướccùng
với sự phát triển mạnh mẽ về các kiểu loại tư duy giúp trẻ có thể tự do và chủ
động hơn trong việc lựa chọn tiếp cận với đối tượng thẩm mĩ, biết tỏ thái độ yêu
ghét rõ ràng, bước đầu biết đưa ra đánh giá của bản thân về các đối tưởng thẩm
mĩ bằng việc phân tích, so sánh các sự kiện, hiện tượng, thiết lập mối quan hệ
của thông tin giữa xa và gần, giữa mới và cũ, giữa những dấu hiệu đơn lẻ và
những dấu hiệu đặc trưng. Tuy nhiên, sở thích của trẻ 5 - 6 tuổi vẫn chịu sự chi
phối mạnh mẽ của cảm xúc nên những sở thích của trẻ thường diễn ra trong thời
gian ngắn và dễ dàng thay đổi. Tính cá nhân trong sự phát triển thị hiếu thẩm mĩ
đặc biệt thể hiện rất rõ khi trẻ cảm thụ các tác phẩm nghệ thuật. Bằng“nhãn quan
trẻ thơ”, trẻ có thể tùy ý thích hoặc không thích phẩm này hoặc tác phẩm khác
tùy thuộc vào sở thích, vốn sống, vốn kinh nghiệm riêng của trẻ. Thậm trí trẻ
còn có thể rung cảm theo một cách thức khác, không hoàn toàn giống với ý đồ
của tác giả. Chẳng hạn khi nắm bắt âm điệu và nhạc tính của một bài thơ hay, trẻ
so sánh “thơ cứ như hát”. Hay ngắm nhìn một bức tranh đẹp trẻ trầm trồ khen
ngợi “Bức tranh thật tuyệt”.
Việc hình thành “xã hội trẻ em” trong các nhóm chơi tạo điều kiện để trẻ
bước đầu hình thành xu hướng cùng sở thích với những ý kiến lập luận thống
nhất của cả nhóm chơi. Sở thích cá nhân và sở thích nhóm tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau là cơ sở của việc hình thành thị hiếu thẩm mĩ mang tính tập thể.
Những trẻ có chung nguyện vọng, đồng nhất về mặt tâm tư thì chơi chung với
nhau, chúng có những hành vi, cử chỉ, điệu bộ thể hiện tình cảm yêu, ghét với
cùng một đối tượng như nhau.
Lí tưởng thẩm mĩ của trẻ hình thành ở mức độ sơ giản. Trẻ xuất hiện những
ước mơ trở thành những hình mẫu lí tưởng mang điều tốt lành đến cho mọi người
như anh hùng, bộ đội, giáo viên, bác sĩ, kĩ sư xây dựng hay hoàng tử, công chúa...
Lí tưởng thẩm mĩ của trẻ cũng thể hiện ở thái độ mong muốn tạo ra cái đẹp, giữ
gìn, bảo vệ cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
Trong môi trường giáo dục mầm non, trẻ 5 - 6 tuổi tiếp nhận "giá trị thẩm
mĩ" một cách cụ thể, cảm tính và chuyển dần sang lối tiếp nhận trừu tượng,
lôgic. Khi trẻ tích lũy được những ấn tượng và kiến thức đa dạng, phong phú về
cái đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc sống, trong nghệ thuật, trẻ có hứng thú,
nhu cầu thẩm mĩ phong phú và phát triển khả năng sáng tạo. Với những đặc
điểm phát triển thẩm mĩ như trên, giáo viên mầm non cần có nhiệm vụ giúp cho
trẻ tích lũy một vốn ấn tượng và kiến thức thẩm mĩ sơ đẳng; hình thành cho trẻ
những phẩm chất tâm lí - xã hội cho phép trẻ trải nghiệm, đánh giá cái đẹp của
sự vật, hiện tượng để trẻ lĩnh hội và sáng tạo ra cái đẹp. Giáo viên cần tạo nhiều
cơ hội, tình huống học tập cho trẻ không chỉ biết thưởng thức cái đẹp mà còn
biết cải tạo và sáng tạo cái đẹp "theo qui luật của cái đẹp" (Marx).
1.3.2 Vai trò của giáo dục thẩm mỹ đối với sự phát triển của trẻ 5-6 tuổi ở
trường mầm non
Giáo dục thẩm mỹ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ 5-6
tuổi ở trường mầm non. Giáo dục thẩm mỹ giúp trẻ:
- Thể hiện cảm xúc cá nhân: Khi trẻ được giáo dục thẩm mỹ sẽ biết cách
bộc lộ xúc cảm thẩm đối với các sự vật, sự việc xung quanh như phản ánh điều
xấu, khen ngợi và thực hiện đức tính tốt, biết khen/ chê…
- Kích thích sáng tạo: Bé biết cảm nhận thẩm mỹ sẽ góp phần hình thành
năng lực sáng tạo nhất là trong các lĩnh vực hội họa, tạo ra những điều tươi đẹp
cho không gian.
- Hỗ trợ các kỹ năng cần thiết khác: Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ mật
thiết với giáo dục đạo đức, trí tuệ và thể chất có vai trò bổ trợ cho nhau.
- Nhận biết lẽ phải: Đây cũng là chiếc cầu nối giúp con bé đi đến thế giới
của cái đẹp, của tình yêu và lòng nhân ái, vị tha hiểu được những điều xấu –
đẹp, hay – dở, đúng – sai,...
- Tự tin hơn: Khi đã nhận thức thẩm mỹ bé sẽ có nhân sinh quan sáng rõ
ràng để tự tin hơn trong cuộc sống.
1.3.3 Mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi
ở trường mầm non
- Mục tiêu
+ Có khả năng cảm nhận vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và trong tác
phẩm nghệ thuật.
+ Có khả năng thể hiện cảm xúc, sáng tạo trong các hoạt động âm nhạc,
tạo hình.
+ Yêu thích, hào hứng tham gia vào các hoạt động nghệ thuật; có ý thức
giữ gìn và bảo vệ cái đẹp
- Nội dung giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
+ Dạy trẻ quan sát và cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên
Thiên nhiên và cuộc sống xung quanh bản thân nó đã chứa đựng rất nhiều
vẻ đẹp, rất nhiều những điều bất ngờ và thú vị. Trẻ càng nhìn, càng nghe nhiều
màu sắc, nhiều âm thanh của thiên nhiên, của cuộc sống bao nhiêu thì cảm giác
và tri giác của trẻ càng trở nên nhạy bén, tinh tế bấy nhiêu và phạm vi xúc cảm
biểu hiện sự phát triển tinh thần của trẻ càng trở nên rộng lớn.
Trong quá trình tiếp xúc với thiên nhiên với cỏ cây, hoa, lá, các con vật... trẻ
được tiếp xúc và cảm nhận cái đẹp ở xung quanh, từ đó khơi gợi ở trẻ nguồn
cảm hứng vô tận cho việc sáng tạo ra cái đẹp.
Có thể tổ chức cho trẻ quan sát một số lần cùng một hiện tượng từ đó trẻ
mới nhận thấy vè đẹp sâu sắc. Nếu chỉ một lần thì trẻ chưa cảm thụ được hết,
nhận thức vẫn còn mờ nhạt, trẻ dễ quên.
+ Giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày
+ Giáo dục vẻ đẹp trong mối quan hệ với những người thân xung quanh
Trước hết cần chỉ cho trẻ thấy cái đẹp trong lỗi cư xử của mỗi người đối
với người thân xung quanh. Đó là thái độ tôn trọng lễ phép với người lớn, nói
năng nhẹ nhàng, yêu thương những người thân
Trong quá trình giáo dục trẻ, giáo viên cũng nên khai thác những vể đẹp từ
chính trẻ và các bạn trong lớp bằng các câu hỏi như: Lớp ta hôm nay bạn nào
gọn gàng nhất? Tóc ai chải mượt và đẹp nhất? Con thích áo (váy) của bạn nào
nhất? Vì sao? Con hãy nhìn vào gương xem cô chải lại tóc cho con thế này có
đẹp hơn không
+ Dạy trẻ hành vi văn hóa
Giáo dục cái đẹp cho trẻ không thể bỏ qua việc rèn luyện hành vi văn hóa.
Chính những cử chỉ, hành vi đẹp đẽ là thể hiện thái độ đúng đắn với mọi người
và điều đó phải được tiến hành gaios dục một cách toàn diện, tỉ mỉ từ dáng đi,
kiểu đứng, ăn uống đến việc giữ gìn vệ sinh.
+ Giáo dục trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với đồ vật xung quanh
Trẻ nhỏ thường rất hứng thú với đồ vật, đồ chơi có màu sắc tươi sáng, phát
ra âm thanh hoặc chuyển động được. Do vậy, người lớn cần làm cho trẻ chú ý
đến các sự vật, hiện tượng và dạy trẻ biết nhìn ra, phát hiện được cái đẹ của thế
giới đồ vật. Đồng thời dạy cho trẻ các qui tắc ứng xử đúng đắn, đẹp, có văn hóa
với những đồ vật xung quanh
Việc giáo dục cái đẹp cho trẻ nhỏ cũng cần chú ý đến việc sắp xếp, trang trí
phòng học, phòng chơi... Một môi trường sạch, đẹp, gọn gàng sẽ ảnh hưởng tốt
đến xúc cảm, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của trẻ. Trẻ vừa học, vừa khám phá
trong môi trường vừa cảm nhận cái hay, cái đẹp từ đó. Giáo viên cần thiết kế
môi trường trong và ngoài lớp phù hợp với các mục đích giáo dục và mang tính
thẩm mỹ cao. Tường ở lớp phải được sơn màu phù hợp với chức năng của từng
phòng, với từng loại hình hoạt động của trẻ. Màu sơn tường phải tươi sáng và
được trang trí bằng những hình ảnh vui nhộn, khơi gợi xúc cảm tích cực và trí
tưởng tượng của trẻ. Các đồ dùng, đồ chơi phải được lựa chọn và sắp xếp gọn
gàng, đẹp mắt, mang tính mở để tạo cơ hội tối đa cho trẻ hoạt động ở các góc. Ở
góc khoa học có thể chuẩn bị các nguyên vật liệu mở như các loại vải vụn, giấy
vụn nhiều màu sắc, các loại hạt, lá cây, quả khô, vỏ của các động vật thân mềm,
lông của một vài loại chim... Mỗi lớp cũng cần thiết kế một góc thiên nhiên, vừa
tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc trực tiếp và khám phá các đối tượng là vật
thật, vừa giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp từ màu sắc, hương vị và âm thanh của
thiên nhiên. Giáo viên cần chọn các loại hoa, cây cảnh có màu sắc, hình dạng,
cấu tạo, hương thơm đa dạng và các con vật bé nhỏ, có tiếng kêu hoặc cách vận
động ngộ nghĩnh. Các đối tượng này cần phải được chính cô và trẻ chăm sóc cẩn
thận để luôn khỏe mạnh và phát triển tốt.
+ Bước đầu cho trẻ làm quen với nghệ thuật
Nghệ thuật là một phương tiện toàn diện và vô tận để giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ. Thông qua việc cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật giúp trẻ
nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, vẻ đẹp của cuộc sống, của nhân cách
con người. Do vậy nhiệm vụ của người giáo viên mầm non là phải biết lựa chọn
các tác phẩm nghệ thuật phù hợp với nhận thức, tâm lý của trẻ để hướng dẫn,
giúp trẻ cảm thụ được tính thẩm mỹ ở mỗi tác phẩm.
Cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật (văn học, âm nhạc, hội hoạ...)
đa dạng, phong phú và phù hợp với lứa tuổi, giúp trẻ làm quen với cái đẹp trong
các tác phẩm nghệ thuật, trong nội dung và hình thức biểu hiện của nó.
Tập cho trẻ một số kĩ năng tham gia vào các hoạt động nghệ thuật như kể
chuyện, đọc thơ, múa hát, vẽ....
Tạo cơ hội cho trẻ sáng tạo khi tham gia các hoạt động nghệ thuật
- Phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
+ Dạy trẻ cảm nhận cái bên trong mối quan hệ với người thân
Đây được xem là phương pháp không thể thiếu trong quá trình giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ mầm non. Bởi cái đẹp trong cách cư xử với người thân xung
quanh là vô cùng quan trọng. Trong quá trình giáo dục trẻ tại lớp, giáo viên cũng
cần giáo dục thẩm mỹ từ chính trẻ với các bạn trong lớp, có thể khiến trẻ thấy
mình xinh đẹp và trân trọng cái đẹp của những bạn khác.
+ Dạy trẻ cảm nhận cái đẹp từ những sự vật trong cuộc sống
Trẻ nhỏ thường rất thích đồ vật hay đồ chơi có màu sắc sặc sỡ có thể
chuyển động. Do vậy, người lớn cần giúp trẻ biết cách quan sát, phát hiện được
cái đẹp của tất cả các đồ vật. Đồng thời, dạy bé các quy tắc ứng xử đúng đắn với
những đồ vật xung quanh mình.
+ Dạy trẻ cảm nhận cái đẹp từ những sự vật trong cuộc sống.
Khi giáo dục thẩm mỹ cho bé tại trường, giáo viên cần chú ý đến việc sắp
xếp, trang trí phòng học, phòng chơi sao cho đẹp mắt, sinh động. Điều này giúp
trẻ vừa học, vừa khám phá trong môi trường xung quanh vừa cảm nhận cái hay,
cái đẹp từ đó. Ngoài ra, giáo viên cũng nên thiết kế môi trường trong và ngoài
lớp phù hợp với mục đích giáo dục và có tính thẩm mỹ cao.
+ Dạy trẻ quan sát và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên
Thiên nhiên và cuộc sống xung quanh chứa đựng rất nhiều điều bất ngờ,
thú vị và xinh đẹp. Vì vậy, trẻ càng nhìn, càng nghe được nhiều màu sắc, âm
thanh của thiên nhiên, thì tri giác sẽ càng trở nên nhạy bén, tinh tế hơn.
Khi được tiếp xúc với cỏ cây, hoa, lá, động vật... sẽ khiến trẻ dễ dàng cảm
nhận được những cái đẹp xung quanh mình. Từ đó, khơi gợi bên trong trẻ nguồn
cảm hứng vô tận cho việc sáng tạo ra cái đẹp. Để dạy trẻ cảm thụ được vẻ đẹp
thiên nhiên, giáo viên hãy tổ chức các buổi tham quan nhỏ bằng việc quan sát
xung quanh vườn trường. Trong quá trình trải nghiệm, bạn có thể đặt một số câu
hỏi về sự vật, hiện tượng xảy ra trong vườn trường, nhằm khơi gợi hứng thú
quan sát của trẻ.Ngoài ra, giáo viên cũng có thể cho trẻ quan sát nhiều lần cùng
một hiện tượng để bé thấy được vẻ đẹp ẩn sâu bên trong. Bởi có những vật nếu
chỉ quan sát một lần thôi thì chưa thể cảm thụ được hết, nhất là khi trí nhớ của
trẻ có hạn, mau quên.
+ Dạy trẻ làm quen, tiếp xúc với nghệ thuật: Đây là phương pháp giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ mầm non không thể thiếu và rất cần thiết. Bởi việc làm quen
với nghệ thuật giống như một phương tiện hữu hiệu để quá trình giáo dục thẩm
mỹ của trẻ trở nên hoàn thiện hơn.
+ Dạy trẻ cách nhìn cuộc sống với nhiều sắc màu tươi sáng: Ở độ tuổi này
trẻ đã có thể cảm nhận cơ bản về thế giới đa dạng và phong phú của đồ vật. Mọi
thứ xung quanh trẻ từ tấm rèm cửa, bức tranh treo trên tường cho đến quần áo,
đồ đạc trong nhà….Tất cả, đều sẽ ảnh hưởng và tác động đến cảm nhận thẩm
mỹ của trẻ.
1.3.4 Các con đường giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
1.4 Lí luận về giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua tổ
chức ngày hội, ngày lễ ở trường mầm non
1.4.1 Đặc trưng hoạt động ngày hội, ngày lễ của trẻ trong chương trình giáo
dục mầm non.
- Là một hoạt động giáo dục: Hoạt động ngày hội, ngày lễ ở trường mầm
non là một hoạt động bắt buộc, được tổ chức ở trường mầm non theo quy định
của Chương trình giáo dục mầm non của Bộ giáo dục và đào tạo, có ý nghĩa
quan trọng đối với nhà trường và sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ.
- Có quy định riêng về cách tổ chức, thời gian, địa điểm, thành phần tham
gia… theo sự chỉ đạo của ngành và kế hoạch năm học của từng trường mầm
non.
- Hoạt động ngày hội, ngày lễ ở trường mầm non giúp trẻ có những kiến
thức cơ bản về những ngày hội, ngày lễ của dân tộc, các sự kiện quan trọng liên
quan đến trẻ em, đồng thơi qua đó tạo ra cho trẻ những hoạt động lý thú, những
trải nhiệm thú vị gắn liền với cuộc sống ( không gắn liền với yếu tố tâm linh như
các hoạt động lễ hội ngoài cộng đồng)
1.4.2 Ưu thế của hoạt động ngày hội, ngày lễ trong giáo dục phát triển thẩm mỹ
cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
Hoạt động ngày hội ngày lễ giúp trẻ nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và tình cảm
thẩm mỹ thông qua các phương tiện rực rỡ, giàu tính nghệ thuật, giàu hình ảnh
và ấn tượng trong ngày lễ hội. Từ đó khơi gợi trong các em tình yêu nghệ thuật
mong muốn không chỉ ngắm nhìn người khác biểu diễn mà còn tự mình trực tiếp
tham gia vào các hoạt động ngày hội, ngày lễ ấy.
1.4.3 Quy trình giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tổ chức ngày hội,
ngày lễ ở trường mầm non (Lập kế hoạch, Tổ chức thực hiện, Kiểm tra – đánh
giá)
- Lập kế hoạch tổ chức lễ hội
Việc lập kế hoạch tổ chức lễ, hội cho trẻ ở trường mầm non theo chủ đề
phải đảm bảo cho sự phát triển chung của trẻ, tạo cho trẻ nhiều cơ hội hoạt động
chiếm lĩnh những kinh nghiệm cuộc sống, kỹ năng và phát triển năng lực cần
thiết cho cuộc sống. Kế hoạch tổ chức lễ hội giúp cho lãnh đạo trường mầm non,
các giáo viên và trẻ cũng như các bậc cha mẹ tiến hành tổ chức lễ hội một cách
chủ động, góp phần nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc, giáo dục trẻ.
Ban giám hiệu trường mầm non, các giáo viên mầm non, phụ huynh trẻ đều
tham gia vào việc hoạch định các kế hoạch tổ chức lễ hội theo nhu cầu, hứng thú
và phát triển của chính trẻ. Trong bản kế hoạch phải xác định rõ mục tiêu, lựa
chọn nội dung, hình thức, phương pháp và các phương tiện phù hợp để tổ chức
lễ, hội cho trẻ ở trường mầm non.
Tuyên truyền, vận động cha mẹ của trẻ quan tâm đến ngày hội, ngày lễ sắp
tới, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của phụ huynh trong việc chuẩn bị ngày hội ngày
lễ.
Quảng cáo ngày lễ, hội qua các băng zôn, loa đài, chuẩn bị vật liệu trang trí
khung cảnh trường, lớp phu hợp với nội dung của ngày lễ hội (tranh ảnh vẽ, cắt
dán, cờ hoa, dây hoa, cây cảnh đặc trưng của địa phương, những sản phẩm tạo
hình của trẻ phù hợp với điều kiện thực tiễn của lớp học, của địa phương, vùng
miền.
Xây dựng kế hoạch chuẩn bị của người điều khiển chương trình trong ngày
hội, ngày lễ và người điều khiển cần phải nắm rõ cách thức của mỗi ngày hội,
ngày lễ.
Để chuẩn bị cho lễ hội, cô giáo và trẻ luyện tập một số tiết mục văn nghệ,
trao đổi cùng trẻ về ngày hội, ngày lễ, tạo cho trẻ tâm thế chờ đợi ngày lễ hội
sắp diễn đến.
Các tiết mục văn nghệ của cô và cha mẹ trẻ sẽ biểu diễn cần chuẩn bị trước
để các tiết mục mang thẩm mĩ cao và phù hợp với nhận thức của trẻ.
Chuẩn bị tổ chức ngày hội tùy theo thời tiết, tùy theo nội dung của ngày
hội, ngày lễ mà có thể tổ chức toàn trường hay theo nhóm, lớp.
Khi tổ chức toàn trường cần chuẩn bị sân bãi hoặc hội trường rộng. Nếu tổ
chức tại nhóm, lớp cần chuẩn bị khung cảnh phù hợp với ngày hội, ngày lễ, phù
hợp với yêu cầu vận động của trẻ.
- Tổ chức thực hiện
Tổ chức thực hiện kế hoạch đã đề ra. Tổ chức phối hợp lồng ghép, đan xen
các hoạt động của trẻ một cách tự nhiên, linh hoạt, mềm dẻo theo nội dung và
tính chất của lễ, hội. Khi tổ chức lễ, hội cần quan tâm tạo cho trẻ có nhiều cơ hội
để trải nghiệm, để quan sát và khám phá thế giới xung quanh thông qua các ngày
hội ngày lễ ở trường mầm non bằng nhiều con đường khác nhau theo cách tiếp
cận mở chứ không bắt trẻ phải ghi nhớ, phải công nhận.
Bố trí đủ thời gian để trẻ được tham dự lễ hội theo nhu cầu, ý thích và phù
hợp với lứa tuổi
Lế hội ở trường mầm non thường được tiến hành theo 2 phần:
+ Phần lễ: Trẻ được đứng trong đội hình vừa đi, vừa hát tiến đến vị trí ngồi
theo nhạc để tạo không khí vui chung cho toàn trường.
Người điều khiển chương trình sẽ trò chuyện ngắn gọn với trẻ, mở đầu buổi
lễ (tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu).
+ Phần hội
Biểu diễn các tiết mục văn nghệ, vui chơi, giải trí cho trẻ như đọc thơ, kể
chuyện, múa hát, vui chơi, đóng kịch…. Tất cả các tiết mục đều có nội dung nói
về ngày hội, ngày lễ.
Cần chú ý sắp xếp các tiết mục cho phù hợp, xen kẽ các tiết mục cá nhân
và tập thể, giữa tiết mục vui nhộn và tiết mục tĩnh, giữa tiết mục của trẻ và
người lớn. Kết thúc buổi lễ nhẹ nhàng, để lại âm hưởng và dư vị của ngày hội,
ngày lễ cho trẻ. Cần chú ý đến trẻ lớp bé vì các cháu không thể ngồi một chỗ
được lâu, do thời gian không thể kéo dài dễ làm trẻ mệt mỏi
Tổ chức các hoạt động ngày hội, ngày lễ thường không quá 45 phút.
- Kiểm tra, đánh giá
Sau mỗi ngày lễ, ngày hội thì từ Ban giám hiệu nhà trường đến các giáo
viên, trẻ ở các lớp đều cần phải có sự đánh giá. Kết quả ddanhs giá lễ hội phải so
sánh với mục tiêu giáo dục đặt ra trong kế hoạch từ trước đó để điều chỉnh cho
những buổi lễ hội tiếp theo có sự tổ chức tốt hơn.
1.4.4 Điều kiện giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tổ chức ngày hội,
ngày lễ ở trường mầm non.
1.4.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi
thông qua tổ chức ngày hội, ngày lễ ở trường mầm non.
- Yếu tố nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
ngày hội, ngày lễ
Nội dung, chương trình ngày hội, ngày lễ mang tính thiết thực, phù hợp sẽ
kích thích, động viên trẻ tham gia.
Phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp sẽ góp phần phát huy vai trò
tích cực chủ động, sáng tạo của trẻ, huy động trẻ tham gia vào quá trình ngày
hội ngày lễ.
Hình thức trang trí không gian hoạt động lễ hội, phương pháp rèn luyện
trẻ tham gia các hoạt động nghệ thuật trong các lễ hội giúp giáo dục thẩm mỹ
hiệu quả cho trẻ.
- Yếu tố năng lực và phẩm chất sư phạm của giáo viên trong tổ chức hoạt
động lễ hội ở trường mầm non.
- Môi trường tổ chức hoạt động lễ hội
Môi trường vật chất: Trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho vtổ chức
ngày hội, ngày lễ là phương tiện giúp trẻ nhận biết ngày hội ngày lễ. Muốn tổ
chức tốt ngày hội, ngày lễ của trẻ thì nhà trường cần phối kết hợp với gia đình
trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi để trẻ cơ hội cho trẻ tham gia
vào các lễ hội nhiều hơn và tốt hơn.
Môi trường tâm lý
Môi trường chăm sóc giáo dục trong trường mầm non cần phải đảm bảo an
toàn về mặt tâm lý. GV phải luôn tạo ra môi trường thân thiện giữa cô và trẻ,
giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với người xung quanh. Tạo môi trường cho trẻ để trẻ
cảm thấy an toàn, ấm ấp và những mối quan hệ tin cậy để khuyến khích trẻ tự
tin khi tham gia hoạt động lễ hội.
Kết luận chương 1

You might also like