Ve Yeu Cau Phan To Cua Bi Don 1640676480807

You might also like

You are on page 1of 5

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ YÊU CẦU PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN

THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 2015


THIÊN HÀ

Trong vụ án dân sự, nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập đối với bị đơn, nhưng
bị đơn cũng có quyền yêu cầu ngược lại đối với nguyên đơn hoặc người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, yêu cầu của bị đơn chỉ được
coi là yêu cầu phản tố khi đáp ứng được các điều kiện nhất định theo quy định
pháp luật. Liên quan đến quy định pháp luật về yêu cầu phản tố của bị đơn thì
hiện nay thì vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng các quy
định này trên thực tế còn chưa thống nhất như: chưa phân biệt được đâu là yêu
cầu phản tố của bị đơn với ý kiến của bị đơn với yêu cầu của nguyên đơn hoặc
yêu cầu yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, yêu cầu phản
tố có áp dụng thời hiệu khởi kiện hay không?... Trong phạm vi bài viết, tác giả
xin nêu ra một số quy định của pháp luật liên quan đến yêu cầu phản tố, một số
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định này và sự cần thiết phát triển án lệ
về vấn đề này.
1. Quy định pháp luật
Điều 200 BLTTDS năm 2015 quy định về Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
như sau:
“1. Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với
yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và
nhanh hơn.

1
3. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.”
Theo quy định này, sau khi nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án của
Tòa án hoặc sau khi nhận được thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu độc lập của
Tòa án, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc đối với
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Yêu cầu phản tố của
bị đơn chỉ được chấp nhận khi yêu cầu này để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc yêu
cầu này được chấp nhận sẽ dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập; giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và
nhanh hơn. Ngoài ra, bị đơn chỉ được quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời
điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn còn có sự nhầm lẫn giữa yêu cầu phản
tố của bị đơn với ý kiến của bị đơn dẫn đến trường hợp Tòa án không xem xét yêu
cầu phản tố của bị đơn hoặc chỉ là ý kiến của bị đơn nhưng Tòa án lại xem xét
giải quyết như yêu cầu phản tố của bị đơn. Những sai sót như vậy, dẫn đến việc
áp dụng pháp luật không đúng làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án hoặc là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Trước đó, việc phân biệt yêu cầu phản tố và ý kiến của bị đơn đã được hướng
dẫn tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao như sau:
“Điều 12. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn quy định tại Điều 176
BLTTDS
“1. Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó độc lập, không
cùng với yêu cầu mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập yêu cầu Toà án giải quyết.
Ví dụ: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê
nhà còn nợ của năm 2005 là năm triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn
A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng
đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là ba triệu đồng. Trường hợp này, yêu
cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A.
2. Chỉ coi là ý kiến của bị đơn mà không phải là yêu cầu phản tố của bị đơn
đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập nếu bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
2
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (như yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập).
Ví dụ: Nguyên đơn C có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền sở
hữu đối với một xe ô tô và buộc bị đơn D trả lại cho mình xe ô tô đó. Bị đơn D có
yêu cầu Toà án không công nhận xe ô tô này thuộc sở hữu của C mà là của mình
hoặc công nhận xe ô tô này thuộc sở hữu chung của C và D. Trường hợp này, yêu
cầu của bị đơn D không được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn C.
3. …”
Theo quy định tại khoản 2 Điều 200 của BLTTDS năm 2015 thì “Yêu cầu
phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
b.Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập.
c. Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và
nhanh hơn.”
Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp bị đơn có nghĩa vụ
đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng có
nghĩa vụ đối với bị đơn; nên bị đơn có yêu cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa
vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nếu yêu cầu đó được chấp
nhận thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vì không có căn
cứ.

3
Có sự liên quan giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp hai
yêu cầu này có mối quan hệ với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ
án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng hơn.
2. Một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau trong các quy định pháp
luật liên quan đến yêu cầu phản tố
Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật liên quan đến yêu cầu phản tố
của bị đơn và qua thực tiễn xem xét việc giải quyết một số vụ án có yêu cầu phản
tố, tác giả có thể nêu ra một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến
vấn đề này như sau:
2.1. Về thời điểm bị đơn được đưa ra yêu cầu phản tố
Theo quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015 thì “Bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”. Quy định bị đơn chỉ có quyền
đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận công khai chứng cứ và hòa giải là một quy định hoàn toàn mới của BLTTDS
năm 2015. Bởi vì thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự nói chung trước đây theo
BLTTDS năm 2004 thì nhiều trường hợp bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố
ngay từ đầu mà có khi đưa ra yêu cầu phản tố trong thời gian chuẩn bị xét xử, có
khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố tại phiên tòa làm cho thời gian giải quyết vụ án
kéo dài và làm tăng tính phức tạp của bị án. Tuy nhiên, điểm hạn chế của BLTTDS
năm 2015 là không quy định rõ bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời
điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải lần thứ mấy do một vụ án có thể mở nhiều phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải khác nhau. Điều này dẫn đến tình trạng
áp dụng pháp luật không không nhất giữa các Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án trong việc xem xét thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn trong trường hợp
bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất, có trường hợp chấp nhận
và có trường hợp không chấp nhận.
2.2. Về Thủ tục yêu cầu phản tố
Có ý kiến cho rằng BLTTDS năm 2015 chưa quy định rõ ràng về thủ tục yêu
cầu phản tố. Tuy nhiên, thủ tục yêu cầu phản tố của bị đơn đã được quy định cụ
thể tại Điều 202 BLTTDS năm 2015 như sau: “Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu
cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của
nguyên đơn”. Như vậy, theo quy định này, có thể xác định yêu cầu phản tố của bị
đơn cũng chính là yêu cầu khởi kiện ngược lại của bị đơn đối với nguyên đơn hay
người có nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, nên thủ tục yêu cầu phản tố cũng
4
phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu như đối với yêu cầu khởi kiện theo BLTTDS
năm 2015.
2.3. Yêu cầu phản tố của bị đơn có phải là yêu cầu khởi kiện?
Theo Điều 202 BLTTDS năm 2015 quy định: “Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc
yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện
của nguyên đơn”. Như đã phân tích tại mục 2.2 thì yêu cầu phản tố của bị đơn
cũng chính là yêu cầu khởi kiện ngược lại của bị đơn đối với nguyên đơn hay
người có nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Do đó, yêu cầu phản tố của bị
đơn cũng phải được xem xét, giải quyết theo như quy định đối với yêu cầu khởi
kiện.
2.4. Việc giải quyết yêu cầu phản tố có áp dụng thời hiệu khởi kiện hay
không?
Như đã phân tích tại mục 2.1 nêu trên thì yêu cầu phản tố của bị đơn cũng
chính là yêu cầu khởi kiện ngược lại của bị đơn đối với nguyên đơn hay người có
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Do đó, khi thụ lý giải quyết yêu cầu phản
tố của bị đơn đối với nguyên đơn hay người có nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập thì Tòa án phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu như đối với yêu cầu khởi kiện theo
BLTTDS năm 2015, trong đó có quy định tại Điều 184, 185 về thời hiệu khởi kiện
và áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu.
Ngoài các vấn đề nêu trên, thực tế vẫn còn một số vấn đề còn nhiều ý kiến
khác nhau liên quan đến quy định về việc thụ lý, giải quyết, thay đổi yêu cầu khởi
tố…. Để việc áp dụng pháp luật về yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự nói chung
được thống nhất trong thực tiễn, cần có hướng dẫn hoặc giải đáp cụ thể các vướng
mắc nêu trên. Tuy nhiên, trong khi chờ văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm
quyền thì Tòa án nhân dân tối cao có thể xem xét phát triển án lệ liên quan đến
vấn đề này để hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định pháp luật về vấn đề nêu
trên.

You might also like