You are on page 1of 27

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA: CHÍNH TRỊ - LUẬT

TIỂU LUẬN

BỘ MÔN: TRIẾT HỌC MAC-LÊ NIN

MÃ HỌC PHẦN: LLCT130105_23_1_40

LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT CỦA SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẨT, LIÊN HỆ
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: TS. NGUYỄN THỊ TRI LÝ

Sinh viên thực hiện

STT Họ và tên MSSV


1 Nguyễn Hoàng Khánh 23128123
2 Phạm Đình Huy 23128120
3 Lê Huỳnh Đức 23128106
4 Nguyễn Tiến Đạt 23128104
5 Trần Hùng Vương 23128193

TP.HCM, Tháng 12 năm 2023

1
LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG
VIÊN ......................................................................................................................
.......... ......................................................................................................................
.......... ......................................................................................................................
.......... ......................................................................................................................
......... .......................................................................................................................
......... .......................................................................................................................
......... .......................................................................................................................
......... .......................................................................................................................
........ ........................................................................................................................
........ ĐIỂM

--------------------------

Ký tên

2
MỤC LỤC

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
...........................................................................................................................................

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


...........................................................................................................................................

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


...........................................................................................................................................

4. Kết cấu tiểu luận


...........................................................................................................................................

PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI


TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

2.1. Những vấn đề cơ bản về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
...........................................................................................................................................

2.1.1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
...........................................................................................................................................

2.1.2. Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
...........................................................................................................................................

2.1.3. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất


...........................................................................................................................................

2.2. Nội dung và vị trí của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
...........................................................................................................................................

3
2.2.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
...........................................................................................................................................

2.2.3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất
...........................................................................................................................................

2.3. Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề


...........................................................................................................................................

2.3.1 Ý nghĩa lý luận


...........................................................................................................................................

2.3.2 Ý nghĩa thực tiễn


...........................................................................................................................................

PHẦN 3: KIẾN THỨC LIÊN HỆ

LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1 Biểu hiện của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong
nền kinh tế Việt Nam
...........................................................................................................................................

3.1.1 Vài nét về sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta
trước đổi mới (1986)
...........................................................................................................................................

3.1.2 Nền kinh tế Việt Nam sau đổi mới


...........................................................................................................................................

3.2 Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
...........................................................................................................................................

3.2.1 Khái quát về nền kinh tế hàng hoá và nền kinh tế thị trường
...........................................................................................................................................

4
3.2.2 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
...........................................................................................................................................

3.3 Quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
...........................................................................................................................................

3.3.1 Những thành tựu đạt được qua việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế
...........................................................................................................................................

3.3.2 Những hạn chế qua việc thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
...........................................................................................................................................

3.3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triẻn của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
...........................................................................................................................................

PHẦN 4: PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


...........................................................................................................................................

5
Phần 1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Những nhà hiền triết luôn mang đến những giá trị tinh hoa cho cuộc sống thêm
khởi sắc. C.Mác là một trong số những biểu tượng lỗi lạc mang đến những triết lý sống
vô giá ấy. Trong vô vàn triết lý ấy để lại sự ấn tượng trong quá trình nghiên cứu về
Triết học là câu nói mà C. Mác đã từng đề cập: “Cái cối xay gió quay bằng tay đưa lại
xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái cối xay gió chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có
nhà nước tư bản chủ nghĩa”. 1 Thật sự là thế, vòng đời luôn biến đổi, chuyển xoay con
người cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Khi con người đã trải qua năm phương thức
sản xuất gắn liền với năm hình thái xã hội trong suốt chiều dài lịch sử: công xã nguyên
thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa rồi là xã hội chủ nghĩa. Mới thấy
được rằng, con người luôn thay đổi tư duy theo chiều hướng hoàn thiện, đổi mới hơn
trong tương lai. Sự phát triển ấy đồng thời dẫn đến sự thay đổi phát triển lực lượng sản
xuất với mối quan hệ sản xuất. Từ đây quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất chính là quy luật bất di bất dịch gắn liền với đời sống con người.
Mà đây còn là sự tác động chi phối đến với hình thái kinh tế - chính trị của mỗi quốc
gia theo nhiều chiều hướng khác nhau. Nói như thế để hiểu rằng quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất chính những thành phần mấu chốt quyết định sự vận hành của một
nền kinh tế theo hai chiều riêng biệt “phát triển vững mạnh” hay “trì chệ, chậm phát
triển”. Đấy cũng chính là nguyên do ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển đổi
mới của nước ta.

Qua những nền móng cơ bản ta biết rằng quan điểm của Triết học Mác- Lênin đề
cập đến quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất chính là hai yếu tố quan trọng của
phương thức sản xuất. Giữa chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động
biện chứng lẫn nhau đã làm nên quy luật phổ biến tác động mạnh mẽ đến nhận thức
của con người trong suốt quá trình lịch sử ở lĩnh vực kinh tế- chính trị. Do đó, đất
nước ta cũng không nằm ngoài vòng của quy luật. Khi đất nước đứng trước thời thế

1
C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 187
6
của cuộc vận động đổi mới theo hướng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất càng là một yếu tố quan
trọng quyết định đến vận mệnh của định hướng nền kinh tế. Tuy nhiên, ta cũng sẽ bắt
gặp không ít khó khăn trước những thử thách trong quá trình nâng tiến đất nước bởi
những tác động khác nhau của ngoại cảnh cho đến việc vận dụng quy luật này là cả
một vấn đề. Thế nên việc sử dụng quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng
sản xuất luôn là bài toán khó đối với các chuyên gia và cũng là một vấn đề cấp thiết
đáng được quan tâm hàng đầu.

Trên vai trò là một sinh viên ngành Hóa việc nắm bắt được tình hình kinh tế thị
trường, hiểu và vận dụng được quy luật như đã đề cập như trên là một điều hết sức lớn
lao cho công trình học tập lẫn áp dụng vào đời sống. Vì vậy nhóm chúng tôi xin phép
được chọn đề tài: “Quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất từ đó liên hệ với quá trình đổi mới kinh tế của Việt
Nam hiện nay” để nghiên cứu và phát huy tính thiết yếu của quy luật.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.

Đối với đề tài được lựa chọn thì mục đích nghiên cứu của chúng tôi sẽ hướng về
nghiên cứu hai nội dung cốt lõi là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để làm sáng
tỏ yếu tố quyết định đến phương thức sản xuất. Cũng như thấy được mối quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất sẽ chi phối nền kinh tế định hướng theo xã hội chủ nghĩa
trong lăng kính thị trường với nhiều biến động như hiện nay. Từ đó mà mỗi người dân
cũng như Đảng và Nhà nước ta sẽ có hướng đi đúng đắn trong công cuộc tiến bộ, đổi
mới đất nước, làm chủ được vận mệnh của nền kinh tế. Để đạt được những thành tựu
tự hào như trên nhóm chúng em sẽ nghiên cứu xoay quanh hai vấn đề mấu chốt quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất qua đó bật lên mối liên hệ về thực trạng hiện tại của
nền kinh tế và có những giải pháp tối ưu cho quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam
hiện nay.

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài nhóm chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
thống nhất-tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh v.v…Vận dụng
7
quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp với sự tham khảo từ các trang tài liệu về triết
học Mác-Lenin.

4. Bố cục tiểu luận

Đề tài ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài chia làm hai
phần chính sau:

Phần kiến thức cơ bản: Cơ sở lý luận của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Phần kiến thức liên hệ: Liên hệ vấn đề nghiên cứu với quá trình đổi mới kinh tế
của Việt Nam hiện nay

8
Phần 2

KIẾN THỨC CƠ BẢN

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI


TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

2.1. Những vấn đề cơ bản về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

2.1.1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự
nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất
được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt
kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao
động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực
tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản
xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối
quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến
giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể
hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con
người.

Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng
lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể
sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực
cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng
lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ
ngày càng tăng lên.

Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của
sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho
phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật
9
chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm
biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.
Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động
là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử
dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao
động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào
đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của
con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn”
giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là “khí
quan” của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con
người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ
vai trò quyết định đến năng suất lao động.2

Cấu trúc lực lượng sản xuất bao gồm:

2.1.2. Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất -
quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Quá trình sản
xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan

2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO (2021) CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG, GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN (Dành cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc Gia sự thật, Hà Nội,
117-283.
10
hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt
động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.

Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế
- xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản lý và phân
phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của
quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội
nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc
quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.

Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò quyết định trực
tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm
hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội.

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải
vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này có vai trò đặc biệt quan
trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ,
nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc ngược
lại, có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.3

2.1.3. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất

Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội
hóa trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát
triển của người lao động và công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được
thể hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng
dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động và đặc

3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO (2021) CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG, GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN (Dành cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc Gia sự thật, Hà Nội,
117-283.

11
biệt là trình độ phân công lao động xã hội. Trong thực tế, tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất không tách rời nhau.4

2.2. Nội dung và vị trí của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất

2.2.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất

Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ sử dụng những yếu tố vật chất và
trí tuệ để tạo ra những sản phẩm, mà còn thiết lập những quan hệ xã hội với nhau.
Những yếu tố vật chất và trí tuệ gọi là lực lượng sản xuất, còn những quan hệ xã hội
gọi là quan hệ sản xuất. Hai yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại.
Nhưng trong mối liên hệ đó, lực lượng sản xuất là yếu tố then chốt, là động lực thúc
đẩy sự thay đổi quan hệ sản xuất. Bởi vì lực lượng sản xuất luôn phát triển và đổi mới
không ngừng, trong khi quan hệ sản xuất thường có tính bảo thủ và ổn định. Khi lực
lượng sản xuất phát triển vượt qua một ngưỡng nào đó, nó sẽ không còn thích hợp với
quan hệ sản xuất hiện tại, mà trở thành rào cản cho sự phát triển tiếp theo của lực
lượng sản xuất. Lúc này, quan hệ sản xuất phải được thay đổi để thích nghi với trình
độ mới của lực lượng sản xuất, để tạo ra một nền sản xuất xã hội mới, phù hợp với sự
khách quan của quá trình sản xuất. Đây là quy luật phát triển của nền sản xuất xã hội,
mà C.Mác đã khám phá và giải thích: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết
với những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã
hội có nhà tư bản công nghiệp.”5

Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan
hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất.

4
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO (2021) CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG, GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN (Dành cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc Gia sự thật, Hà Nội,
117-283.
5
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 187
12
2.2.3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất

Quan hệ sản xuất là hình thức tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất, là nền tảng
để xác định mục tiêu phù hợp cho lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất không đơn
thuần là kết quả của lực lượng sản xuất mà còn có tác động ngược lại, điều chỉnh mục
đích, hướng đi, phương pháp sản xuất và cách thức phân phối những lợi ích từ quá
trình sản xuất, gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của
quá trình sản xuất cũng như sự cải tiến của công cụ lao động. Sự tương thích giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất diễn ra theo hai hướng, đó là thúc đẩy hoặc cản trở
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất thích hợp với lực lượng sản
xuất thì nền sản xuất phát triển theo đúng quy luật, quy mô sản xuất được mở rộng,
những tiến bộ khoa học được ứng dụng kịp thời, người lao động làm việc nhiệt tình,
lợi ích của người lao động được bảo đảm và thúc đẩy lực lượng sản xuất tiến bộ.
Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời do tính chất ổn định không còn phù hợp với
tính chất vận động của lực lượng sản xuất thì sẽ gây trở ngại, thậm chí phá hủy lực
lượng sản xuất, điều này thường xảy ra trong lịch sử do sự biến động của xã hội. Tuy
nhiên, sự trở ngại đó chỉ xảy ra trong một số điều kiện và một mức độ nhất định. Đây
được coi là quy luật cơ bản, chi phối sự biến động của xã hội loài người và không
ngừng phát triển vượt qua sự tương thích rồi đến sự bất đồng, rồi đến sự tương thích
mới ở mức độ cao hơn.

Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu
thuẫn, thiết lập sự tương thích mới làm cho quá trình sản xuất phát triển lên một bậc
cao hơn. C.Mác nói: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có…trong đó từ trước tới
nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản
xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. 6 Khi cả hai không nhất
quán, phù hợp nhau với sẽ tạo ra mâu thuẫn về mặt xã hội được gọi là mâu thuẫn giai
cấp và chỉ mang tính chất tạm thời, khi đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và

6
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t. 13, Sđd. tr. 15.
13
quan hệ sản xuất cũ sẽ được giải quyết bằng cách thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới thích hợp với lực lượng sản xuất.

2.3. Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề

Mối quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đề cập đến
việc sắp xếp, tổ chức và quản lý quy trình sản xuất sao cho phù hợp với trình độ kỹ
năng, kiến thức và năng lực của người lao động. Điều này có nghĩa là việc sử dụng các
phương pháp, công nghệ và quy trình sản xuất phù hợp với khả năng và trình độ của
người lao động, đồng thời tạo điều kiện để họ có thể phát huy tối đa khả năng của
mình.

2.3.1 Ý nghĩa lý luận

Mối quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất có ý nghĩa lý
luận quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế và xã
hội. Khi lực lượng lao động được đào tạo và phát triển đúng mức, họ có thể tham gia
vào các hoạt động sản xuất một cách hiệu quả, đồng thời góp phần tạo ra giá trị gia
tăng cho nền kinh tế. Điều này cũng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao
động và gia tăng năng suất lao động, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và xã hội.
Do đó, việc xác định và phát triển mối quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất là rất quan trọng và có tầm quan trọng lớn trong việc quản lý nguồn
nhân lực và tối ưu hóa quy trình sản xuất.

2.3.2 Ý nghĩa thực tiễn

Quy luật giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam để xây dựng và phát triển
chúng. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ tạo ra
động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất không ngừng cải tiến, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả của sản xuất. Vì lẽ đó mà đời sống người dân được cải thiện, từ vật
chất cho đến tinh thần. gược lại, khi quan hệ sản xuất không phù hợp, lệch lạc hoặc
tiên tiến hơn so với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ gây ra những mâu thuẫn,
xung đột và đấu tranh trong xã hội. Quan hệ sản xuất sẽ trở thành rào cản, kìm hãm sự

14
phát triển của lực lượng sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản
xuất. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng đối với sự phát triển bền vững
của nền sản xuất xã hội và xã hội loài người.

15
Phần 3

KIẾN THỨC LIÊN HỆ

LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1 Biểu hiện của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong
nền kinh tế Việt Nam

3.1.1 Vài nét về sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước
ta trước đổi mới (1986)

Trong suốt chiều dài lịch sử của công cuộc thúc đẩy xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta trước thời kỳ đổi mới, chúng ta còn khó khăn trong việc vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất trong việc thúc đẩy kinh tế sau chiến
tranh. Điển hình, với tình hình đất nước ta sau chiến tranh chống đế quốc Mỹ nền kinh
tế Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn với trình độ dân trí còn
thấp. Nền kinh tế thuộc dạng tự cấp tự túc, lại còn chịu sự cấm vận của đế quốc Mỹ đã
dẫn đến lực lượng sản xuất nước ta chưa có cơ hội phát triển, tiến độ lao động vẫn dậm
chân tại chỗ. Mà còn là sự tụt hậu trong công cụ lao động quá đỗi thô sơ, cộng thêm
việc trình độ người lao động thấp, chuyên môn tay nghề không cao, họ sản xuất hàng
hóa chủ yếu dựa vào những kinh nghiệm từ cha ông là chính. Ở giai đoạn này đa phần
rõ thấy nhất, nguồn lao động nước ta chủ yếu tập trung vào khu vực kinh tế nông
nghiệp. Tuy nhiên, sự phân hóa lao động và công cụ lao động cũng được biểu hiện rất
rõ từ nông thôn đến những thành phố lớn. Sự phân tầng trình độ trong lao động, đặc
biệt là sự phân bố không đồng đều trong nền kinh tế của đất nước chính là thành phần
quan trọng tiếp sức cho đường lối chính sách còn nhiều lỗ hỏng của Đảng ta trước thời
kì đổi mới năm 1986.

Vốn dĩ chủ trương của ta là thúc đẩy nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhưng với sự
quá độ trong cách thức đã đẩy quan hệ sản xuất lên quá cao mà lực lượng sản xuất
chưa được chú trọng nhiều. Điều này được phản ánh bằng sự hiểu lầm tai hại khi quan
hệ sản xuất được quy với quan hệ sở hữu qua hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể

16
đồng thời xóa bỏ đi chế độ tư hữu. Triển khai quy hoạch kinh tế trung hạn ở cấp đọ
cấp quốc gia. Được xây dựng trên hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc
doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của
nhân dân lao động. Riêng các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn
đầu tư nước nước ngoài lại bị bãi bỏ. Sai lầm này đã hiện rõ lỗ hỏng cơ bản mà Nhà
nước ta gặp phải khi tuyệt nhiên thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong khi nền kinh tế xã hội chủ nước ta bấy giờ chưa đủ
sức thay thế. Đây cũng là một trong những nguyên do quan trọng khiến đất nước ta
càng trở nên trì trệ trong quá trình phát triển kinh tế. Một mặt tối của chính sách nhà
nước đề ra về mặt tổ chức quản lý, khi thực hiện kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp đến cả các hoạt dộng kinh doanh sản xuất của người lao động không dược tuân
theo luật kinh tế thị trường mà phải tuân theo những quy luật mà nhà nước đã đề ra
trong thời kỳ này. Chính nhà nước và các cơ quan nhà nước chính là những thành phần
trực tiếp giám sát, quản lý, chỉ đạo các hoạt động sản xuất kinh tế. Có thể nói kinh tế
Việt Nam đã đi sai luật trong luật kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế ấy hoàn toàn
lệ thuộc vào nền kinh tế nhà nước, đó chính là mối nguy cơ cho nền kinh tế còn quá
non trẻ lúc bấy giờ. Xét về mặt cuối cùng, ở mặt phân phối chúng ta đã thực hiện
nguyên tắc phân phối bình quân, mỗi người mỗi nhà đều được mức lương như nhau dù
cho kẻ dốt hay người khôn, người làm nhiều hay làm ít cũng đều chỉ có một mức
lương duy nhất. Từ đây đã dẫn đến hiện trạng người lao động đùn đẩy trách nhiệm
công việc cho nhau, ý thức trình độ của con người kém đi hiệu quả trong công việc sẽ
đi xuống, mục tiêu phát triển nền kinh tế được đề ra đứng trước nguy cơ phá sản. Như
vậy, lực lượng sản xuất còn yếu kém trong khi quan hệ sản xuất lại được nhà nước đề
bạt quá cao chứng tỏ được Nhà nước chưa có định hướng đúng đắn trong công cuộc
xây dựng đất nước và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản
xuất một cách hiệu quả. Vì lẽ đó đất nước ta phải chịu hậu quả hết sức khôn lường
bằng việc trả giá bởi sự khủng hoảng nặng nề của nền kinh tế xã hội lúc bấy giờ. Mặc
dù vậy nhưng đó cũng là một bài học quý giá, một kinh nghiệm lớn lao mà thế hệ đi
trước viết nên những trang sử cho một nền kinh tế đen tối. Để nay trên những vết chân
lầm đường lạc lối Đảng, Nhà nước ta cả nhân dân Việt Nam đã có những nhận thức
đúng đắn, hoàn chỉnh hơn về con đường vân dụng mối quan hệ sản xuất phù hợp với
17
trình độ của lực lượng sản xuất để những bước chân tương lai có bước đi chuẩn mực
khi vận dụng quy luật nhằm xây dựng một đất nước phát triển vững bền.

Đứng trước hoàn cảnh đất nước kiệt quệ, đời sống đói khổ của người dân Việt
Nam cũng như nền kinh tế sa sút nghiêm trọng khi không được đặt đúng vấn đề của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất để áp dụng vào nền kinh tế
còn quá nhiều chông gai thử thách phía trước. Nay Nhà nước ta đã có những bước đổi
mới tư duy, sáng tạo làm bước đệm cho chúng ta vượt qua được khủng hoảng, đạt
được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của từ đời sống đến kinh tế.

Góp phần cho sự thành công của nền kinh tế - chính trị đã có những bước tiến hồi
phục và đang dần nâng tầm trong thị trường kinh tế thế giới là vai trò cốt yếu bởi sự
xuất hiện của Đại hội Đảng lần thứ VI đó là khởi đầu cho công cuộc xây dựng đổi mới
đất nước. Từ Đại hội lần này Nhà nước ta đã nêu ra những mục tiêu cụ thể của sự kết
hợp giữa mối quan hệ tư hữu với nhiều thành phần xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao
kinh tế làm bước đệm vững chắc cho sự chuyển đổi từ kinh tế thị trường sang nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa tối ưu hơn. Đại hội đã vận dụng và xuất phát từ thực tiễn đất nước,
tại Hội nghị Trung ương 6 khóa kháo VI (3- 1989), Đảng đã khẳng định; “Thực hiện
nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó
mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các
thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho cho nhau, vừa cạnh tranh với
nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật”7.Qua khẳng định của Đại hội như trên,
Đảng và Nhà nước ta đã nắm chắc chính sách và coi đó là mục tiêu để phấn đấu cho
cho nền kinh tế vừa chập chững đổi mới, qua việc phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trước sự quản lý
của Nhà nước. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước đặt nền móng thay đổi
về mặt chính trị nhằm thay đổi về cơ cấu của lực lượng sản xuất sao cho tương ứng với
quan hệ sản xuất về quy mô. Mà cụ thể ở đây chúng ta cần đẩy mạnh thay đổi tư duy
về lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao cơ
sở vật chất kỹ thuật, đẩy mạnh trình độ phát triển xã hội- kinh tế ở nông thôn, nâng cao
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 06-NQ/HNTW của Hội nghị Trung ương 6 khoá VI ngày 29 tháng 03
năm 1989 về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới.
18
tri thức người lao động trong sản xuất, gia tăng mức độ cạnh tranh thị trường từ nông
thôn đến thành thị, mở rộng quy mô sản xuất từ cá nhân cho đến tập thể. Điều đặc biệt
là ưu tiên cho mối quan hệ sở hữu để có thể phân bố, phát triển, duy trì một cách thật
hiệu quả đối với nhiều thành phần kinh tế khác nhau từ kinh tế nhà nước đến tập thể,
tư nhân, hỗn hợp hay là vốn đầu nước ngoài- ngoài nhà nước. Về mặt cách thức hoạt
động, chúng ta tuân thủ theo phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất phải phù hợp với ba yếu tố sau: sở hữu, quản lý và phân phối. Đối với mặt
sở hữu, Đảng ta chú trọng phát triển kinh tế đa thành phần, các doanh nghiệp có sự
giao lưu hội nhập từ trong và ngoài nước, còn là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ
chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp
phần cho sự tích cực trong việc ứng dụng khoa học công nghệ tân tiến ngày nay. Đến
với mặt tổ chức quản lý, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường, quy luật trong kinh doanh tuân theo
quy luật của thị trường do thị trường điều tiết. Cuối cùng, ở mặt phân phối, điều cơ bản
ở cách thức này hãy lấy phân phối lao động làm tiền đề từ đó đẩy mạnh phát triển lực
lượng xuất dẫn đến mối quan hệ sản xuất dần phù hợp hơn với trình độ lực lượng sản
xuất. Qua ba yếu tố đã được phân tích như trên việc nắm bắt thuần thục các yếu tố ấy
sẽ làm cho nền kinh tế- chính trị thêm vững chãi, nâng tầm trong đời sống mới, sức
sống mới.

3.2 Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam

Trải qua thời kì quá độ của Nhà nước Việt Nam khi tiến lên xã hội chủ nghĩa,
việc định hướng cho một nền kinh tế vững chắc tối ưu là một điều hết sức cấp thiết cho
quá trình xây dựng phát triển đất nước ta. Trong đó, kinh tế thị trường đã giữ một vai
trò cứu cánh cho nền kinh tế- chính trị Việt Nam khi nước ta vừa có cừa chưa có đầy
đủ các yếu tố của xã hội chủ nghĩa. Việc chủ trương nền kinh tế thị trường là một giải
pháp hàng đầu đẩy mạnh quá trình phát triển đất nước mà còn là sự lựa chọn sáng suốt
cho con đường phát triển tương lai dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác- Lênin,
nắm bắt đúng quy luật của mối quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của của lực
lượng sản xuất trong thị trường kinh tế thay đổi nhanh chóng hiện nay.

19
3.2.1 Khái quát về nền kinh tế hàng hoá và nền kinh tế thị trường

Khái quát về kinh tế hàng hóa:

Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế trong đó có sự phân công lao động và trao đổi
hàng hóa, dịch vụ giữa cá nhân, tổ chức và quốc gia. Trong đó, hàng hóa là sản phẩm
của lao động, có thể đáp ứng những yêu cầu nào đó của con người thông qua thị
trường.[] Lấy một ví dụ đơn giản ông A trồng lúa tới mùa thu hoạch sản phẩm do ông
trồng bị dư thừa khi không sử dụng hết. Riêng đối với ông B ông ấy nuôi lợn, vì do
nuôi với số lượng nhiều nên cũng đã dẫn đến dư thừa. Thấy thế hai người này trao đổi
lượng sản phẩm đã dư cho nhau. Hình thức ấy gọi là kinh tế hàng hóa và sản phẩm lúa
và thịt lợn thì là hàng hóa.

Khái quát kinh tế thị trường:

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều
loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh
tranh bình đẳng và ổn định. Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị
trường. Theo Xmit (Adam Smith), với lí thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị
trường là nền kinh tế tự điều tiết, vận động theo quy luật của thị trường, hầu như
không có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc độ khác là
có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay hữu hình" mà đại diện cho thuyết này
là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ".[] Đúng
vậy, nền kinh tế thị trường được trình bày như thế, tiếp thu được những chân lý cốt lõi
mà thị trường kinh tế phổ biến ấy mang lại nền kinh tế Việt Nam đã có những ngã rẻ
trong định hướng về việc khắc phục nền kinh tế trong xã hội hiện tại đến tương lai. Mà
ở đây chúng ta đã hướng đến nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa như là một cách
thức của sự vận dụng hai nền kinh tế trên còn là điều chỉnh hoàn thiện mà định hướng
trước đây lẫn nền kinh tế tư bản chủ nghĩa còn nhiều lỗ hỏng.

Khát khao về một nền kinh tế định hướng theo xã hội chủ nghĩa một cách toàn
diện chúng ta không thể không nhắc tới mối liên hệ giữa kinh tế hàng hóa và kinh tế
thị trường đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế kinh tế mà chúng ta đang theo đuổi.
Trong đó, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường là những hình thức kinh tế phổ biến
20
và tiên tiến, có thể góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới, tạo ra nhiều sản phẩm và
dịch vụ đa dạng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Mặt khác,
kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường cũng có những hạn chế và bất cập, như sự bất
bình đẳng, bất công, lãng phí, ô nhiễm môi trường, dao động kinh tế, khủng hoảng tài
chính, vv. Do đó, kinh tế định hướng theo xã hội chủ nghĩa cần phải có sự can thiệp và
điều chỉnh của nhà nước, nhằm hạn chế những mặt tiêu cực, bảo vệ lợi ích của quần
chúng lao động và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

3.2.2 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Khi phân tích về kinh tế thị trường định hướng theo xã hội chủ nghĩa ta có thể
hiểu như thế này. Nền kinh tế ấy được hoạt động dựa trên nền kinh tế có nhiều thành
nhưng đều tuân thủ theo quy luật thị trường. Bên cạnh đó để kinh tế định hướng theo
xã hội chủ nghĩa được vận hành đúng với quỹ đạo của thị trường thế giới Nhà nước
không ngừng điều phối sao cho nền kinh tế trở nên dân chủ, công bằng, văn minh.

Nắm bắt được tính ưu việt của quy luật mối quan hệ sản xuất phù hợp với lực
lượng sản xuất việc lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một bước ngoặc đứng đắn cho con đường hoàn thiện xã hội chủ nghĩa một
cách nhanh nhất. Bởi lẽ quá trình tiếp thu những thành tựu văn minh của nhân loại
được nền kinh tế chúng ta theo đuổi đã phát huy hết công suất cho việc thúc đẩy sản
xuất tiến bộ, trình độ của lao động được cải thiện. Sự giác ngộ trong lý tưởng kinh tế
của Đảng và Nước ta là nền móng vững chắc, là bàn đạp cho việc bay xa trên nền trời
sáng tạo của khoa học công nghệ trong tương lai. Mặt khác, nền kinh tế dịnh hướng xã
hội chủ nghãi là một thử thách cam go để chúng ta có thể đưa ra những quyết định
mấu chốt.Hệ thống sản xuất sẽ được tổ chức theo hình thức tập trung và có kế hoạch.
Các quyết định về sản xuất sẽ được đưa ra dựa trên nhu cầu xã hội chung, chứ không
phải dựa trên lợi nhuận cá nhân. Công nhân sẽ được đặt ở vị trí trung tâm và họ sẽ có
quyền lợi được bảo vệ và được hưởng công bằng trong quá trình sản xuất. Ngoài ra,
nguyên tắc quản lý và sử dụng tài nguyên tự nhiên sẽ được đặt lên hàng đầu, với mục
tiêu bảo vệ môi trường và phục vụ cộng đồng. Ngoài ra, sự đầu tư và phát triển kinh tế

21
sẽ được định hướng theo các mục tiêu xã hội, như cải thiện điều kiện sống của người
lao động, xây dựng cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ cơ bản cho toàn dân. Kinh tế
thị trường sẽ không còn là lực thúc đẩy chính trong quá trình phát triển kinh tế, mà sẽ
được kiểm soát và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu của xã hội và có tính công bằng. Tuy
nhiên, để thực hiện những quyết định này, cần phải có sự tham gia tích cực và hiệp
đồng của toàn bộ xã hội, từ các tầng lớp lao động đến cơ quan quản lý và lãnh đạo.
Điều này đòi hỏi sự thay đổi sâu sắc trong tư duy và hành động của mọi người, và
cũng đòi hỏi sự kiên nhẫn và lâu dài trong việc xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất hiện nay.

3.3 Quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa

3.3.1 Những thành tựu đạt được qua việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế

Sau khi khắc phục được khủng hoảng, kinh tế Việt Nam đã bước vào giai đoạn
phát triển nhanh chóng và toàn diện. Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có những
bước tiến vượt bậc, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Trong đó, ngành nông
nghiệp đã duy trì được sự ổn định, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đặc biệt là
sản xuất lương thực. Sản phẩm công nghiệp đã phát triển ngày càng đa dạng và phong
phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện liên tục, từng bước nâng cao khả năng
cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở
rộng thị trường xuất khẩu.

Cơ cấu kinh tế đã chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, gắn sản xuất với thị trường: nổi bật là thành tích xuất khẩu gạo với khối lượng
lớn, đứng thứ hai thế giới. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống, có bước phát triển theo hướng tiến bộ,
hiệu quả.

Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp nên
Việt Nam đã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về
khoa học - công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn minh của nhân
22
loại. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường,
mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương như
ASEAN, APEC, ASEM, WTO,... góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế.

3.3.2 Những hạn chế qua việc thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Dù kinh tế có tăng trưởng khá trong những năm đổi mới, nhưng vẫn chưa phát
huy được tiềm năng và đáp ứng được yêu cầu, chưa đạt được sự bền vững. Nền kinh tế
còn yếu kém về chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc
gia. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều bất cập, hệ
thống thị trường chưa phát triển đồng bộ; nguồn nhân lực còn thiếu chất lượng.

Trong lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị chưa theo kịp đổi
mới kinh tế, đặc biệt là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính
trị còn nặng nề, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, chưa xứng đáng với nhiệm vụ. Biên
chế của hệ thống chính trị ngày càng phình to, nhưng chất lượng công vụ thấp.

Chính phủ Việt Nam chưa tạo ra môi trường kinh doanh công bằng, lành mạnh.
Hiến pháp đã quy định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhưng cũng quy định
các thành phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh. Thế nhưng, thực
tế cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân bị thiệt thòi về vốn, đất đai, thông tin, cơ hội đấu
thầu và tiếp cận thị trường so với khu vực kinh tế nhà nước. Trong khi đó, doanh
nghiệp nhà nước vẫn được ưu tiên về mọi mặt, nhưng lại lãng phí nguồn lực, gây thất
thoát, thua lỗ, tổn hại cho nhà nước và xã hội.

3.3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất:

Để vận dụng tốt quy luật này, chúng ta cần làm điều đầu tiên là nâng cao chất
lượng, trình độ của người lao động. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đầu tư phát triển
23
giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho
họ. Đảng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của việc “Giáo dục đào tạo cùng với
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư
cho phát triển”.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần thực hiện quyết liệt Chiến lược quốc gia phát triển
kinh tế số, xã hội số đã được ban hành vào đầu năm 2022. Từng người lao động, từng
cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ cần đổi mới, áp dụng công nghệ cao, công nghệ số
vào các mục tiêu của mình. Chính sách cần hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở tất cả
các chủ thể. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để công nghiệp nội địa phát triển, công
nghiệp hỗ trợ ngày một hiện đại.

Do nền kinh tế nước ta có đặc thù là nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng chính, nên
chúng ta không thể bỏ qua giải pháp là đẩy mạnh việc xây dựng nông thôn hiện đại,
nông dân văn minh. Đưa khoa học, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, chế biến
các hàng hóa nông - lâm - thủy hải sản theo hướng an toàn, có lợi cho sức khỏe, từng
bước đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Đồng thời, cần khuyến khích mạnh hơn dòng chảy đầu tư từ các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam và Việt Nam ra nước ngoài. Mở rộng giao lưu nhân dân với các
nước trên thế giới. Tạo thuận lợi để nhân dân Việt Nam dễ dàng đi ra thế giới học hỏi
kiến thức, tư duy kinh doanh, sản xuất.

Giải pháp hoàn thiện các quan hệ sản xuất:

Chúng ta không ngừng nâng cao chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phong phú hóa các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, các hình thức tổ chức kinh doanh và các hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là những nhân tố quan trọng đóng góp cho
sự phát triển của nền kinh tế, được bảo vệ quyền lợi và đối xử công minh trước pháp
luật, cùng phát triển bền vững, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Chúng ta đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế để khai thác và phân bổ hiệu quả
các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ giữa Nhà

24
nước, thị trường và xã hội trong việc phân phối các tư liệu sản xuất, trong việc phát
triển nguồn nhân lực, nguồn vốn, khoa học - công nghệ; bảo đảm bình đẳng thực sự
giữa các khu vực kinh tế; thúc đẩy xã hội hóa các tổ chức trong việc cung ứng các dịch
vụ công và phúc lợi xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống văn hóa, tinh thần cho
nhân dân.

Chúng ta không ngừng khắc phục những tính chất lạc hậu, tiêu cực của các quan
hệ sản xuất đã từng tồn tại ở đất nước; phòng ngừa, khắc phục những tính chất lạc hậu,
tiêu cực của một số quan hệ sản xuất đang tồn tại trên thế giới; vun đắp nhiều giá trị
nhân văn, dân chủ, công bằng. Đó là các quan hệ sản xuất tiên tiến, định hướng phát
triển cho các lực lượng sản xuất hiện đại và chủ động bảo đảm cơ sở vật chất - kinh tế
cho chế độ xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

25
Phần 4

PHẦN KẾT LUẬN

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử triết học là một ngành khoa học của những
khoa học, là đề tài bất diệt trong quá trình nghiên cứu của các triết gia. Hưởng ứng
cũng như tiếp nối nguồn tri thức mà triết học mang lại qua đề tài: “Quy luật của mối
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất”. Đề tài đã cho chúng tôi
nhiều kinh nghiệm đúc kết được qua quá trình phân tích.

Lực lượng sản xuất là một khái niệm trọng yếu trong lịch sử tiến hóa của các
phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau. Nó không đơn thuần là sự kết hợp đơn
giản giữa con người và các công cụ lao động mà còn là sự kết hợp phức tạp, phản ánh
quan hệ biện chứng giữa các yếu tố này. Trong lực lượng sản xuất, người lao động
chiếm vị trí quan trọng nhất, là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất
và của xã hội. Người lao động thể hiện vai trò của mình qua quá trình lao động sáng
tạo, biến đổi thiên nhiên và xã hội theo ý muốn của mình.

Trong thời đại hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - sản xuất đang diễn
ra với tốc độ chóng mặt, tạo ra những đổi mới phi thường trong lực lượng sản xuất.
Điều này đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với người lao động, yêu cầu họ phải có sự
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, kỹ năng và sức sáng tạo. Chỉ có những người
lao động có trình độ cao, có khả năng thích ứng và đổi mới mới có thể đáp ứng được
nhu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại. Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi phải có một lực lượng sản xuất tiên tiến, có năng
lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để thực hiện mục tiêu này, cần có những giải
pháp toàn diện và đồng bộ, trong đó giải pháp phát triển nguồn lao động chất lượng
cao là giải pháp then chốt. Chỉ khi giải quyết được bài toán nguồn lao động chất lượng
cao, Việt Nam mới có thể thực hiện được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh
chóng và bền vững, nâng cao vị thế của mình trên thế giới, từ một cường quốc về lao
động trở thành một cường quốc về kinh tế trong tương lai gần.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo; Giáo trình Triết học Mác - Lênin (dành cho bậc đại học hệ
không chuyên lí luận chính trị); Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia Sự Thật (2021).

2. tapchicongsan.org.vn; Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm
và giải pháp phát triển; 20/12/2023.

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-truong-
dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx

3. truongnamlogistics.com; Kinh tế hàng hoá là gì; 20/12/2023.

https://truongnamlogistics.com/kinh-te-hang-hoa-la-gi/

4. luatminhkhue.vn; Kinh tế thị trường là gì; 20/12/2023.

https://luatminhkhue.vn/kinh-te-thi-truong-la-gi.aspx

5. qdnd.vn; Xây dựng các quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; PGS, TS Nguyễn Viết
Thảo (tác giả); 19/12/2023.

https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/xay-dung-cac-quan-he-san-xuat-tien-bo-phu-
hop-256084

6. congdankhuyenhoc.vn; Phát triển nguồn lao động chất lượng cao – giải pháp đột
phá để phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay; Lê Văn Luận – Phan Thị Lệ
Hương (Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh); 19/12/2023.

https://congdankhuyenhoc.vn/phat-trien-nguon-lao-dong-chat-luong-cao-giai-phap-
dot-pha-de-phat-trien-luc-luong-san-xuat-o-nuoc-ta-hien-nay-
179221128202559132.htm

7. tanchicongsan.org.vn; Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam từ khi đổi mới đến nay; 21/12/2023.

https://tapchicongsan.org.vn/en/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/21694/nhung-thanh-
tuu-co-ban-ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-cua-viet-nam-tu-khi-doi-moi-den-nay.aspx

27

You might also like