Professional Documents
Culture Documents
Đề cương GDH
Đề cương GDH
- Giáo dục học là khoa học nghiên cứu về quá trình giáo dục toàn vẹn con người.
- Quá trình hình thành, phát triển của GDH trải qua các giai đoạn sau:
1. Thời kỳ nguyên thủy: trực tiếp trong LĐSX; thông qua phong tục, tập quán, truyện kể…
2. Khi XH phát triển, GDH học là một bộ phận của triết học.
3. Thời kỳ VH phục hưng: nhiều lý thuyết GD phát triển, nhưng GDH vẫn còn là một bộ
phận của Triết học
4. TK XVII: GDH trở thành một KH độc lập (nhờ lý luận về DH của Komensky - cuốn Lý
luận dạy học vĩ đại).
Câu 2. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của GDH?
- Đối tượng nghiên cứu của GDH: là quá trình giáo dục toàn vẹn (hay QTGD theo nghĩa
rộng).
+ NC nguồn gốc phát sinh, phát triển và bản chất của hiện tượng GD
+ NC dự báo tương lai của giáo dục (các xu thế, chiến lược giáo dục)
+ NC các PP, PT giáo dục mới nhằm nâng cao kết quả GD
Câu 3. Phân tích các khái niệm cơ bản của Giáo dục học
* Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội
dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan
giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Chức năng trội: Phát triển toàn diện nhân cách bao gồm cả năng lực và phẩm chất
* Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ,
tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn
trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
Chức năng trội: Phát triển về mặt phẩm chất
* Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho người học
lĩnh hội những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng lực
hoạt động sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của người
học theo mục đích giáo dục.
Chức năng trội: Phát triển về mặt năng lực
- Giữa các khái niệm của GDH vừa có những điểm chung, vừa có những điểm khác biệt.
+ Điểm chung giữa các khái niệm: đều hướng tới mục tiêu hình thành, phát triển nhân cách cho
con người; đều cần có sự tương tác, phối hợp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục.
Điểm khác biệt:
Chức năng vượt trội
Chức năng trội của GD (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người học sinh
bao gồm cả năng lực và phẩm chất.
Chức năng trội của GD (theo nghĩa hẹp): phát triển về mặt phẩm chất ở người học sinh.
Chức năng trội của DH: phát triển về mặt năng lực ở người học sinh
Thứ hai, về lực lượng tiến hành:
Quá trình dạy học: Chủ yếu được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên bộ môn.
Quá trình giáo dục (nghĩa hẹp): Chủ yếu được tiến hành dưới vai trò của giáo viên chủ
nhiệm lớp phối hợp với các lực lượng giáo dục khác (trong nhà trường và ngoài nhà
trường)
Thứ ba, về cách thức tổ chức:
Quá trình dạy học: Được thực hiện chủ yếu thông qua giờ học trên lớp. Thời gian thực hiện
tương đối ngắn
Quá trình giáo dục (nghĩa hẹp): Được thực hiện thông qua tổ chức hoạt động giáo dục, giao
lưu. Đòi hỏi quá trình lâu dài, thường xuyên, liên tục.
Các khái niệm dạy học và GD tuy có sự khác nhau tương đối về chức năng trội, về lực lượng
tiến hành cũng như cách thức thực hiện, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động biện
chứng với nhau. Kết quả của quá trình dạy học là cơ sở để thực hiện tốt quá trình GD và ngược
lại, việc thực hiện chưa tốt quá trình GD cũng sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định và kém hiệu
quả đối với quá trình dạy học.
Kết luận sư phạm:
➢ Do dạy học và GD đều có những ưu thế riêng trong sự hình thành, phát triển nhân cách
học sinh, nhà GD cần ý thức được vai trò quan trọng của cả QTGD và QTDH khi tác động
đến HS.
➢ Để GD học sinh toàn diện thì bản thân giáo viên không chỉ trau dồi chuyên môn của bản
thân mà còn phải bồi dưỡng và rèn luyện các phẩm chất đạo đức của nhà giáo mẫu mực.
➢ Nhà GD cần thay đổi nội dung phù hợp, hấp dẫn để kích thích hoạt động học của HS
diễn ra sôi nổi, tích cực.
➢ Để đạt được hiệu quả GD, nhà GD cần phải tổ chức tốt hoạt động dạy học, áp dụng
khoa học kĩ thuật trong giảng dạy
b) Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội), liên hệ với thực tiễn
giáo dục ở VN trong giai đoạn hiện nay
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế - xã
hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng
biến đổi theo.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
đáp ứng các yêu cầu kinh tế - xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi
trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục rập khuôn cho
mọi hình thái kinh tế – xã hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế - xã hội cũng
như cho mọi quốc gia, chính vì vậy giáo dục mang tính lịch sử. Ở mỗi thời kì lịch sử khác
nhau thì giáo dục khác nhau về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo
dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn thiện dưới ảnh hưởng của những kinh
nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng
quan trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư
tưởng - văn hóa.
Câu 6: Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách
được thể hiện .
- Khái niệm nhân cách
+ Nhân cách: Là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc
và giá trị xã hội của con người.
+ Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định trình độ
phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân được biểu hiện qua
những dấu hiệu sau.
- Quá trinh hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự tác động của các nhân tố sau:
Yếu tố di truyền; yếu tố môi trường; yếu tố giáo dục; yếu tố tính tích cực hoạt động của cá nhân.
Trong 4 nhân tố nêu trên thì nhân tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và
phát triển nhân cách con người
Vai trò:
- Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn.
VD: Hoạt động ngoại khóa (làm theo tấm gương HCM)
- Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà các yếu tố
di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát. VD:
Trong nhà trường, thầy cô định hướng cho HS thế nào là “lẽ phải”, cách chọn bạn mà chơi còn khi
ra ngoài xã hội, HS gặp nhiều bạn, tốt xấu khó phân biệt.
- Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc không phù
hợp vối yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng của giáo dục lại đối với
trẻ em hư hoặc người phạm pháp. VD: nhà giáo dưỡng, nhà tù
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng do bệnh tật,
tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có phương pháp giáo dục,
rèn luyện đặc biệt cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện khoa học có thể giúp cho người khuyết
tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm bù
trừ những chức năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng. VD: người
bị = phục hồi và hòa nhập, người ko bị = ko kì thị
- Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích ứng với
các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
đó theo một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trường không thể thực hiện được. VD: những
bạn hiếu động = kìm hãm / HS năng khiếu = thúc đẩy
- Đk để giáo dục học giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách.
Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội đưa ra những định hướng đứng đắn
để giáo dục thực hiện tốt chwucs năng đón đầu sự phát tiển
Các yếu tos trong quá trình dạy học phải thống nhất với nhau, nhà giáo dục giữ va trì
chủ đạo, người được giáo dục giữu vai trò là chủ đạo
Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội
Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm sinh lý của người được giáo duc
Nhà giáo dục phải có phẩm chất và năng lực tối để làm công tác giáo dục
Câu 7: Vai trò của yếu tố di truyền đối với sự phát triển nhân cách
+ Nhân tố di truyền giữ vai trò tiền đề vật chất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cách con người. Di truyền là sự tái tạo lại ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là
sự truyền lại từ cha mẹ cho con cái những đặc điểm, những phẩm chất nhất định đã được ghi
lại trong hệ thống gen.
Câu 8: Vai trò của môi trường sống đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh
cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Môi trường sống được chia làm 2 loại:
- Môi trường tự nhiên: bao gồm các điều kiện tự nhiên – sinh thái phục vụ cho hoạt động của
con
người
- môi trường xã hội bao gồm
- Cần đánh giá đúng đắn vai trò của môi trường sống trong sự phát triển nhân cách. tuyệt đối
hóa vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách là sai lầm về mặt nhận thức, cho rằng
mọi cái đều do hoàn cảnh, rơi vào thuyết “định mệnh do hoàn cảnh”. thuyết này hạ thấp, thủ
tiêu giáo dục.
- Hạ thấp, phủ nhận vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách dẫn đến thuyết “giáo
dục là vạn năng”, giáo dục con người theo xu hướng cải lương.
Câu 9. Khái niệm, cấu trúc của quá trình giáo dục
- Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người được
giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
- Quá trình giáo dục là quá trình tác động qua lại một cách biện chứng giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục. Trong quá trình tác động này, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo có nghĩa là vai trò
định hướng, tư vấn, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh, khuyến khích... người được giáo dục tham gia
vào quá trình giáo dục; còn người được giáo dục giữ vai trò chủ động, tự giác, tích cực tham gia
vào quá trình giáo dục trên cơ sở đó tự tổ chức hoạt động giáo dục, rèn luyện của bản thân nhằm
đáp ứng các yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Câu 10: Bản chất của quá trình giáo dục:
- Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người được
giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
a.Là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong xã hội:
Hình thành nhân cách của người có hành vi theo chuẩn mực xã hội thì đòi hỏi quá trình
giáo dục phải tổ chức hoạt động dựa trên cơ sở trên.
b.Mối quan hệ giữa người được giáo dục và người giáo dục trong quá trình giáo dục:
Quá trình giáo dục chỉ đem lại hiệu quả khi nó phát huy được vai trò tự giác của người
được giáo dục từ đó thực hiện các nhiệm vụ giáo dục khác.
a.Quá trình xã hội biến các yêu cầu khách quan thành yêu cầu chủ quan của bản thân:
- QTGD nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành thành viên xã hội phải thỏa
mãn được hai mặt: vừa thích ứng với các yêu cầu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả
năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội làm cho nó tồn tại và phát triển.
- QTGD là quá trình làm cho đối tượng GD ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó,
biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa – xã hội, đạo đức, tôn giáo,
pháp luật, gia đình, ứng xử nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
b.Quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục:
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - bản chất xã hội trong mỗi cá
nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh
nghiệm xã hội.
Bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động và
giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tích cực, độc lập, sáng tạo nhằm
chuyển hoá những yêu cầu của xã hội thành chuẩn mực hành vi và thói quen.
- Cần tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú, hấp dẫn cho học sinh.
- Bồi dưỡng tính tự tin và tinh thần tập thể cho học sinh trong khi tổ chức các hoạt động giáo dục
- Phát huy tính tích cực của học sinh trong các hoạt động do nhường tổ chức….
- Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người
được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo
dục.
a) Quá trình giáo dục diễn ra dưới những tác động phức hợp.
Quá trình giáo dục diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người, do đó quá trình giáo dục
cũng luôn chịu sự tác động của rất nhiều những yếu tố đó.
Yếu tố khách quan là những yếu tố môi trường KT-XH, KHCN ảnh hưởng tới quá
trình giáo dục (GD nhà trưởng), ảnh hưởng tới người được giáo dục.
Ví dụ như: điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội, phong tục, tập quán, các hoạt
động văn hóa, giáo dục, xã hội ngoài nhà trường, các hoạt động thông tin tuyên truyền
qua các phương tiện và các kênh thông tỉn khác nhau...có ảnh hưởng tới.
Yếu tố chủ quan là các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích, nội dung, phương
pháp, phương tiện...) cách tổ chức được chủ thể và khách thể của quá trình giáo dục tác
động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các mối quan hệ sư
phạm được tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học
sinh với các lực lượng giáo dục khác.
Tuy nhiên, các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau, chúng
có thể thống nhất, hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể có mâu thuẫn làm
hạn chế, suy giảm, thậm chí làm vô hiệu hóa kết quả của quá trình giáo dục.
KLSP:
+ Cần tổ chức và phối hợp được tất cả các tác động theo hướng tích cực. Đồng thời ngăn
chặn hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực.
+ Phát huy vai trò chủ thể của học sinh, cung cấp cho các em vốn sống vốn kinh nghiệm
cần thiết để có thể phân tích và đấu tranh chống các tác động tiêu cực.
+ Trong tình hình hiện nay khi xã hội đang có những biến động về giá trị.... Thì việc thống
nhất 3 môi trường giáo dục (NT, GĐ, XH) để thống nhất các tác động giáo dục là vấn đề
cần hết sức quan tâm
b) Quá trình giáo dục là một quá trình diễn ra lâu dài
Trong quá trình giáo dục, người được giáo dục không dừng lại ở chỗ nắm tri thức về các
chuẩn mực mà cần phải hình thành được niềm tin, tình cảm tích cực, nhất là rèn luyện được những
hành vi và thói quen tương ứng. Việc này phải có thời gian lâu dài và liên tục.
- Mặt khác, những nếp nghĩ, những thói quen cũ, lạc hậu tồn tại dai dẵng. Muốn loại bỏ nó
không phải là điều đơn giản. Do đó, cần phải có thời gian, sự kiên trì, nhẫn nại, ý chí và nghị lực.
Vd: Nghiện thuốc lá giáo dục bỏ thói quen đó đòi hỏi nghị lực.
- Trong quá trình giáo dục, tính lâu dài gắn với tính liên tục. Bởi vì, những thói quen tốt mà ta
đãhình thành, nếu không có điều kiện để thể hiện thì dần dần bị mai một. Vd: Thức dậy sớm, tập
thể dục. Nên giữ thói quen tốt này, thường xuyên, liên tục.
+ Nhà giáo dục cần bền bỉ, kiên trì, nhẫn nại, không nôn nóng, vội vàng; phải tác động
thườngxuyên, liên tục, tác động ở mọi nơi, mọi lúc
.+ Phải thường xuyên quan tâm, theo d„i, kịp thời uốn nắn, điều chỉnh cho học sinh khi các emcó
biểu hiện sai trái.
+ Người được giáo dục kiên trì, quyết tâm cao tự rèn luyện thì mới có kết quả tốt.
- Phải đưa ra những điều kiện cụ thể của tình huống giáo dục cụ thể để có những yêu cầu phù hợp.
- Giáo dục trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực nhưng vẫn phải thể hiện được tính cách độc đáo của mỗi
người.
- Bên cạnh những tác động chung, người giáo dục cũng phải đưa ra tác động riêng phù hợp với
từng nhóm đối tượng.
- Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể theo từng đối tượng
Vì GD mang tính cá biệt, cụ thể tức là GD phải phù hợp với từng cá nhân cụ thể, từng điều kiện
hoàn cảnh cụ thể mới có hiệu quả nên trong QTGD, nhà GD phải thực sự thương yêu học sinh,
quan tâm sâu sát học sinh để hiểu tường tận về các em, có vậy mới có thể có cách tác động phù
hợp với từng đối tượng.
d) Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Qúa trình dạy học và quá trình giáo dục là hai quá trình bộ phận của quá trình sư phạm
tổng thể có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất của hai quá trình
này là cùng hướng tới phát triển nhân cách toàn diện cho người học đáp ứng các yêu cầu
của xã hội
Nhiệm vụ của quá trình dạy học không những chi hình thành cho người học tri trứe, kỳ
năng kỹ xảo, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ mà còn hình thành phẩm chất nhân cách
của người công dân, người lao động. Hay ta thường nói: thông qua “dạy chữ” để “dạy
người”.
Ngược lại: nhờ có quá trình giáo dục mà người được giáo dục xây dựng được thế giới quan
khoa học, động cơ thái độ học tập đúng đắn, thói quen hành vi tích cực... Chính kết quả
giáo dục này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động học tập của người học nói riêng, hoạt
động dạy học nói chung vận động phát triển.
Mục đích cuối cùng của giáo dục là phát triển con người có đủ tài và đức để đáp ứng các
yêu cầu của xã hội, đủ sức cạnh tranh và phát triển. Vì vậy trong công tác giáo dục nói
chung, giáo dục ở nhà trường nói riêng tránh tách rời hai quá trình giáo dục và quá trình
dạy học.
b. Kể chuyện
- Là phương pháp giáo viên dùng lời nói với điệu bộ, nét mặt để thuật lại một cách sinh động một
câu chuyện có ý nghĩa giáo dục.
- Tác dụng của phương pháp này là tạo cơ hội cho người được giáo dục hình thành và phát triển
những xúc cảm tích cực và niềm tin đúng đắn; học tập được những gương tốt và tránh được
những gương phản diện nêu trong chuyện kể với óc phê phán, nhận xét đánh giá.
- Để kể chuyện có hiệu quả giáo dục cao, cần chú ý:
+ Lựa chọn nội dung truyện kể (theo mục tiêu giáo dục, nội dung phù hợp).
+ Kể chuyện: phải sử dụng lời nói, điệu bộ, nét mặt phù hợp; Sử dụng tranh ảnh minh hoạ hấp
dẫn, gây ấn tượng; Nêu bật được những chi tiết, tình huống cơ bản; Theo d„i nét mặt, thái độ của
người nghe để kịp thời điều chỉnh cách kể chuyện.
+ Sau khi kể chuyện: cần nêu một số câu hỏi hoặc vấn đề để người nghe dựa vào truyện kể mà
trao đổi ý kiến, rút ra những kết luận giáo dục bổ ích.
c. Giảng giải
- Phương pháp giảng giải là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói để giải thích, chứng minh một
chuẩn mực đạo đức xã hội, nhằm giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa, nội dung và quy tắc thực
hiện các quy tắc này. Nhờ vậy học sinh có cơ hội nắm được một cách tự giác và có hệ thống
chuẩn mực, hình thành niềm tin đối với chúng tránh tình trạng nắm các chuẩn mực một cách mù
quáng, máy móc, không đầy đủ, đi đến chỗ có hành vi sai lầm hoặc không tự giác.
- Để giảng giải, nhà giáo dục cần chú ý:
+ Chuẩn bị nội dung diễn giải về chuẩn mực nào đó cho đầy đủ, chính xác, đáp ứng được những
câu hỏi: Tại sao? Bao gồm những vấn đề gì? Qui tắc thực hiện chuẩn mực đó như thế nào?
+ Khi giảng giải cần chú ý về lời nói r„ ràng, mạch lạc; lập luận chính xác, lô gic, dễ hiểu; sử
dung phương tiện trực quan hỗ trợ; liên hệ với thực tế, với bản thân.
d. Tranh luận
- Là phương pháp hình thành cho học sinh những phán đoán, đánh giá và niềm tin dựa trên sự va
chạm các ý kiến, các quan điểm khác nhau, nhờ đó nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng,
tính mềm dẻo của các tri thức thu được.
- Phương pháp phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh phổ thông trung học, lứa tuổi đang say mê
tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời, đang có khuynh hướng không chấp nhận mọi cái chỉ dựa vào lòng tin
và đang ham mê so sánh các sự kiện để tìm ra chân lí.
- Tranh luận không yêu cầu phải đi đến những giải pháp cuối cùng, những kết luận dứt khóat.
Tranh luận tạo cho học sinh cơ hội phân tích các khái niệm về các lí do bảo vệ quan điểm, những
niềm tin và thuyết phục những người khác tin vào quan điểm đó. Trong khi tranh luận, học sinh
không chỉ phát biểu những quan điểm của mình, mà còn phải phát hiện những điểm mạnh và điểm
yếu trong những phán đoán của đối phương, tìm và chọn các luận chứng để bác bỏ các sai lầm và
khẳng định những chân lí. Tranh luận đòi hỏi những người tham gia phải có dũng cảm dám từ bỏ
những quan điểm không đúng và chấp nhận những quan điểm đúng đắn.
- Những vấn đề đưa ra tranh luận phải có ý nghĩa thiết yếu đối với cuộc sống của học sinh, thực sự
làm cho họ băn khoăn suy nghĩ, xúc động và do đó thúc đẩy họ tham gia ý kiến.
- Cần chuẩn bị chu đáo cho cuộc tranh luận. Trong khi học sinh tranh luận, giáo viên không nên
can thiệp một cách thô bạo, không nên vội vã phê phán những quan điểm sai lầm của học sinh,
không quyết đoán bắt học sinh chấp nhận những quan điểm của mình. Giáo viên phải biết tế nhị,
chờ đợi, nhiệt tình và chân thành, trầm tĩnh, biết hài hước nhưng không xúc phạm đến học sinh,
không làm cho họ mất hào hứng tham gia tranh luận, hoặc không dám tự do phát biểu ý kiến của
mình.
e. Nêu gương
- Phương pháp nêu gương là nhà giáo dục sử dụng các điển hình tiên tiến làm phương tiện tác
động đến tâm tư tình cảm của học sinh làm cho các em thán phục và noi theo.
- Nêu gương có thể nêu gương tốt và cũng có thể nêu gương xấu, song nhà giáo dục phân tích,
đánh giá trên cơ sở đó giúp học sinh biết học tập những gương tốt và tránh những hành vi không
phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Cơ sở khoa học của phương pháp nêu gương là đặc tính tâm lý bắt chước của con người.
- Nêu gương có các hình thức sau:
+ Nêu gương người tốt việc tốt.
+ Nêu gương thông qua truyền thống của tập thể.
+ Tham quan các điển hình tiên tiến.
+ Sự gương mẫu của nhà giáo dục.
- Tác dụng của phương pháp này là:
+ Phát triển được năng lực phê phán, đánh giá những hành vi của người khác, từ đó rút ra những
kếtluận.
+ Biết học tập, làm theo gương tốt, biết tránh những hành vi xấu.
+ Hình thành được niềm tin về các chuẩn mực xã hội và mong muốn có những hành vi phù hợp.
- Để phát huy tác dụng của phương pháp nêu gương cần:
+ Căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục, vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh mà lựa chọn
những tấm gương phù hợp
+ Cho học sinh liên hệ thực tế, nêu lên những tấm gương cần noi theo, những gương xấu cần phê
phán.
+ Tự xây dựng bản thân mình thành một tấm gương sáng trước người được giáo dục.
Như vậy các phương pháp giáo dục trên giúp người được giáo dục có những tri thức cần thiết về
cácchuẩn mực xã hội, từ đó dần dần hình thành được niềm tin về các chuẩn mực xã hội, các giá trị
xã hội này. Kết quả cuối cùng là những tri thức và niềm tin về các chuẩn mực xã hội, các giá trị xã
hội sẽ thống nhất với nhau tạo nên ý thức cá nhân, làm cơ sở cho sự định hướng rèn luyện hành vi
và thói quen tương ứng
+ Nhóm PP hình thành hành vi, thói quen ứng xử của NĐGD (Giao việc, tập luyện, rèn
luyện)
Giao công việc
- Là phương pháp lôi cuốn người được giáo dục vào hoạt động đa dạng với những công việc nhất
định, với nghĩa vụ xã hội nhất định.
- Tác dụng của phương pháp giao việc là học sinh có cơ hội vận dụng những tri thức đã học sinh
củacông việc cụ thể, với những yêu cầu nhất định. Nhờ đó hình thành được hành vi ứng xử phù
hợp, tích lũy được kinh nghiệm ứng xử
Tập luyện
- Phương pháp luyện tập là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thực hiện một cách đều
đặn và có kế hoạch các hành động nhất định, nhằm biến những hành động đó thành kỹ năng, kỹ
xảo,thành thói quen
+ Nhóm PP kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của NĐGD (khen thưởng,
trách phạt, thi đua)
Rèn luyện
- Là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thể nghiệm ý thức, tình cảm của mình
về các chuẩn mực xã hội trong các tình huống đa dạng của cuộc sống qua đó hình thành và
củng cố được những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã được qui địn
Khen thưởng
- Là phương pháp biểu thị sự đánh giá tích cực đối với hành vi ứng xử của người được giáo
dục.
- Tác dụng của phương pháp này làm cho người được khen tình cảm hài lòng, phấn khởi,
có thêm nghị lực, tự tin tiếp tục thực hiện và hòan thiện công việc đó.
Trách phạt
- Là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối, sự phê phán những hành vi sai
trái của người được giáo dục so với các chuẩn mực xã hội
- Xét về mặt lí luận, Nội dung giáo dục là toàn bộ hệ thống kinh nghiệm lịch sử xã hội của
loài người được các nhà sư phạm lựa chọn, chế biến để tổ chức cho đối tượng giáo dục chiếm
lĩnh ở trên ba phương diện: nhận thức – thái độ, tình cảm – hành vi, thói quen nhằm thực hiện
các mục tiêu giáo dục đặt ra.
- Xét về mặt thực tiễn, Nội dung giáo dục là toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường
bởi vì không có nội dung giáo dục thì không có hoạt động giáo dục
- Các nội dung giáo dục cơ bản trong nhà trường bao gồm:
Giáo dục đạo đức và ý thức công dân.
Giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục lao động và hướng nghiệp
Giáo dục thể chất
Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận giáo dục, có vai trò
định hướng trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục, chỉ dẫn việc lựa chọn nội dung, phương
pháp và các hình thức tổ chức nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích
giáo dục đề ra.
3. Đảm bảo sự thống nhất giữa GD Ý thức - tạo lập thói quen hành vi của người được giáo
dục
5. Tôn trọng NC học sinh kết hợp với yêu cầu hợp lý
6. Kết hợp vai trò tổ chức của NGD - tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của NĐGD
8. Đảm bảo thống nhất giữa tính vừa sức chung và tính vừa sức riêng trong GD
9. Thống nhất GD GĐ - NT – XH
Câu 14. Pt vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong nhà trường phổ thông? Theo anh chị
gvcn lớp hiện nay đang gặp những thách thức gì trong quá trình giáo dục học sinh?
GVCN lớp trong nhà trường có vị trí, vai trò to lớn, không thể thay thể.Vậy GVCN cần phải
hiểu rõ vị trí vai trò của mihf để có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của bản thân trong công tác
gdhs
Giáo viên chủ nhiệm là người có chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, có kinh nghiệm giáo dục,
được hiệu trưởng lựa chọn và hội đồng giáo dục nhất trí phân công làm chủ nhiệm lớp học xác
định để thực hiện mục tiêu giáo dục. Họ là người có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm, trung
thực thẳng thắn và tận tình chu đáo ... trong công tác quản lí giáo dục học sinh nói riêng..
Thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch hoạt động giáo dục,thể
hiện rõ mục tiêu, nội dung , phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc
điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và
của từng học sinh.
Đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp. Giáo
viên Chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh
trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh
học sinh của lớp khi tổng kết năm học.
- Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường học sinh. Giáo viên chủ nhiệm có vai trò là
người gắn kết học sinh với nhà trường, tạo mối quan hệ gắn bó giữa các tập thể học sinh, giữa học
sinh với nhà trường
. - Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa gia đình– nhà trường – xã hội. Ở vị trí này, giáo viên chủ
nhiệm đóng vai trò là người thống nhất các tác động và ảnh hưởng của các lực lượng giáo dục
khác nhau theo một phương hướng nhất định, có tác dụng tích cực trong hình thành và phát triển
nhân cách học sinh lớp mình chủ nhiệm
Câu 16: Chức năng, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp
- Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lí toàn diện học sinh
trong phạm vi lớp mình phụ trách.
- Để thực hiện được điều này, giáo viên chủ nhiệm phải làm các công việc như sau:
+ Thiết kế kế hoạch xây dựng và phát triển tập thể học sinh;
+ Phát huy ý thức tự quản của học sinh, xây dựng bộ máy tự quản của lớp;
+ Cố vấn cho bộ máy hoạt động; + Bồi dưỡng những học sinh tích cực một cách có kế hoạch;
+ Tổ chức kiểm tra đánh giá hoạt động của lớp, của từng học sinh
+ Báo cáo, tiếp nhận sự chỉ đạo của hiệu trưởng theo chế độ quy định.
- Giáo viên chủ nhiệm cần tập hợp được học sinh thành một tập thể tự quản, biết đoàn kết,
thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, phấn đấu thực hiện mục tiêu chung, giúp mỗi học sinh có ý thức và
năng lực tham gia vào quá trình giáo dục thành viên khác và giáo dục chính mình.
–Để thực hiện được điều này, giáo viên chủ nhiệm phải làm các công việc như sau:
+ Xác định mục tiêu giáo dục cho cấp học và lớp học mình phụ trách;
+ Tìm hiểu đặc điểm học sinh: đặc điểm của lớp nói chung, của cá nhân học sinh nói riêng;
+ Xây dựng tập thể tự quản của lớp nhằm đảm bảo cho lớp thực hiện được các mục tiêu giáo dục
toàn diện;
+ Thực hiện các tác động giáo dục đảm bảo sự thống nhất giữa tính toàn diện và tính cá biệt;
+ Đánh giá kết quả học tập, tu dưỡng toàn diện của lớp, từng học sinh một cách thường xuyên,
liên tục và hệ thống.
- Yêu cầu: Giáo viên giữ vai trò tổ chức, điều khiển; học sinh giữ vai trò là người chủ động tiếp
nhận tác động giáo dục.
– Người giáo viên chủ nhiệm đại diện cho hiệu trưởng truyền đạt những yêu cầu đối với học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm còn là đại diện cho quyền lợi chính đáng của học sinh trong lớp, bảo vệ học
sinh một cách hợp pháp, phản ánh kịp thời với hiệu trưởng, các giáo viên bộ môn, với gia đình
học sinh, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường về những nguyện vọng chính đáng của học sinh
và của tập thể lớp để cùng có các biện pháp giải quyết phù hợp, kịp thời, có tác dụng giáo dục.
* Chức năng phối hợp và thống nhất các tác động để giáo dục học sinh lớp mình chủ nhiệm
- Giáo viên chủ nhiệm là người có vai trò chính, là cầu nối trong sự phối hợp và thống nhất về yêu
cầu và tác động giáo dục giữa các lực lượng giáo dục nhằm tác động một cách toàn diện đến nhân
cách học sinh.
- Để thực hiện được điều này, giáo viên chủ nhiệm phải làm các công việc như sau:
+ Chủ động tổ chức, phối hợp giáo viên giảng dạy các bộ môn của lớp với các tổ chức đoàn, đội
để điều hoà chương trình, thống nhất về phương pháp, tiến trình giảng dạy – giáo dục theo mục
tiêu giáo dục năm học một cách hiệu quả.
+ Truyền tải những chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước, mục tiêu giáo dục +
đào tạo của nhà trường đến các tổ chức xã hội và đến phụ huynh học sinh, góp phần nâng cao
nhận thức và trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ.
+ Thay mặt cho hiệu trưởng nhà trường liên kết và phối hợp với các lực lượng giáo dục ở địa
phương, các tổ chức chính trị, xã hội để phối hợp và thống nhất trong công tác giáo dục học sinh.
+ Có thể khẳng định, trong nhà trường giáo viên chủ nhiệm như thế nào thì lớp học sẽ như thế.
Hiệu quả công tác của người giáo viên chủ nhiệm được thể hiện chính trong các sản phẩm giáo
dục của mình.
* Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục toàn diện của học sinh lớp mình chủ nhiệm
- Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên cập nhật những thông tin về học sinh qua đó đánh giá
sự phấn đấu toàn diện của mỗi học sinh và tập thể lớp.
- Yêu cầu:
+ Phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình học sinh để báo cáo cho hiệu trưởng và hội
đồng giáo dục về kết quả tu dưỡng, rèn luyện của các em;
+ Việc kiểm tra, đánh giá cần dựa trên nhiều kênh thông tin;
+ Việc thu thập thông tin phải được cập nhật thường xuyên, được ghi chép lại cẩn thận;
+ Đặt ra những tiêu chuẩn cụ thể khi đánh giá học sinh;
+ Thống nhất sự đánh giá của giáo viên chủ nhiệm với sự tự đánh giá của học sinh.
1. Phát triển nhân cách bản thân và năng lực nghề nghiệp;
2. Tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của nhà nước và các nội
quy, quy chế của nhà trường cho học sinh;
3. Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt;
Câu 18. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp
Câu 19. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp