1. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học Tập làm văn 1.1. Vị trí của dạy học Tập làm văn Tập làm văn được hiểu là tập sản sinh, tạo lập ngôn bản. Dạy Tập làm văn là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp học sinh tạo lập, sản sinh ra ngôn bản. Phân môn Tập làm văn có vai trò, vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao dần các kĩ năng sử dụng tiếng Việt đã được hình thành, xây dựng ở các phân môn khác. Nhờ quá trình vận dụng các kĩ năng để tạo lập, sản sinh văn bản trong dạy học Tập làm văn, tiếng Việt trở thành một công cụ sinh động trong quá trình học tập và giao tiếp của học sinh tiểu học. 1.2. Nhiệm vụ của dạy học Tập làm văn Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh tạo ra được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng bộ phận như: xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời (dạng nói, viết bằng câu, đoạn, bài). Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm văn bao gồm: - Cung cấp kiến thức và hình thành, phát triển các kĩ năng bộ phận, góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản. - Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các nghi thức đó. - Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản nghệ thuật như kể chuyện, miêu tả. - Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm văn (kĩ năng quan sát trong văn tả, kể; kĩ năng xây dựng cốt truyện, chi tiết, tình tiết trong văn kể chuyện...). - Ngoài ra, phân môn Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy (tư duy hình tượng, tư duy logic, kĩ năng phân tích - tổng hợp - phân loại - lựa chọn) và hình thành nhân cách (lịch sự, khuôn mẫu trong giao tiếp; bồi dưỡng tình cảm đẹp và vốn sống...) cho học sinh tiểu học. 2. Cơ sở khoa học của việc dạy học Tập làm văn 2.1. Hoạt động giao tiếp và ứng dụng vào dạy học Tập làm văn Trước hết, cần khẳng định rằng: Dạy Tập làm văn là dạy một hoạt động. Công việc đầu tiên của dạy học phân môn này là tạo ra động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào hoạt động giao tiếp (nói, viết). Hoạt động lời nói là một cấu trúc động bao gồm bốn giai đoạn: định hướng, lập chương trình, hiện thực hóa chương trình và kiểm tra. Cấu trúc này đã được vận dụng triệt để khi xây dựng hệ thống kĩ năng làm văn. Theo đó, các kĩ năng làm văn tương ứng được hình thành là: - Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn đề bài bài viết (kĩ năng tìm hiểu đề); kĩ năng xác định tư tưởng cơ bản của bài viết. - Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý. - Kĩ năng diễn đạt, thể hiện chính xác, đúng phong cách bài văn, tư tưởng bài văn; kĩ năng viết đoạn, viết bài theo các phong cách khác nhau (kể chuyện, miêu tả, viết thư…). - Kĩ năng hoàn thiện bài viết (phát hiện và chữa lỗi). Các nhân tố của hoạt động lời nói và các dạng lời nói cũng tác động tích cực đến quá trình tổ chức dạy học các kiểu bài Tập làm văn. Sự tác động đó thể hiện ngay ở khâu ra đề. Đề văn cần đảm bảo các nhân tố giao tiếp, cần gọi dậy ở học sinh hứng thú tạo lập sản phẩm ngôn ngữ. Thay vì yêu cầu “tả một cảnh đẹp ở quê hương em”, giáo viên có thể thiết kế đề tập làm văn bằng các cách sau nhằm kích thích khát vọng sáng tạo và thể nghiệm của học sinh: Đề văn 1: Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay… Quê hương luôn gợi lên trong lòng người niềm thương, nỗi nhớ với những hình ảnh gần gũi, bình dị mà rất đỗi đáng yêu. Hãy tả một cảnh đẹp của quê hương mà em yêu thích. Đề văn 2: Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng: Hà Nội có hồ Gươm nghiêng bóng tháp Rùa; Huế có núi Ngự, sông Hương, có đền đài uy nghiêm, cổ kính… Em hãy tả một cảnh đẹp ở quê hương mà em luôn tự hào, yêu thích. Lời nói được chia thành lời nói miệng (khẩu ngữ) và lời viết (bút ngữ). Tương ứng với hai dạng thức cơ bản của lời nói, kĩ năng tập làm văn được chia thành kĩ năng nói và kĩ năng viết. - Dạy kĩ năng nói trong phân môn Tập làm văn: + Luyện nói là một nội dung quan trọng của phân môn Tập làm văn. Các giờ Tập làm văn nói có nhiệm vụ luyện cho học sinh khả năng độc thoại để trình bày ý tưởng về các vấn đề khác nhau trong rất nhiều thể loại : văn miêu tả, văn kể chuyện, văn tường thuật... Ở lớp 2, bằng loại bài tập tình huống, học sinh được luyện nói theo các nghi thức lời nói như: cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, đề nghị, chối từ, chia vui, an ủi... Bên cạnh đó, hoạt động luyện nói còn được sử dụng 134 trong các bài dạy giúp học sinh tìm ý, triển khai ý thành lời (nói). Bằng cách trả lời câu hỏi, học sinh đề xuất những ý chính, chọn lựa ngôn từ để diễn đạt các ý... Loại bài tập luyện nói theo dàn bài cũng là một đặc trưng của phân môn Tập làm văn. + Căn cứ vào đặc điểm kiểu giao tiếp, hai dạng nói được xác lập là đối thoại và độc thoại. Trong dạy học Tập làm văn, kĩ năng nói đối thoại cũng được chú trọng trong quá trình tổ chức và lựa chọn hình thức học tập tích cực. Học sinh có thể trao đổi, làm việc theo nhóm để hoạch định một nội dung mà giáo viên đề xuất hay tranh luận về một tình huống dạy học được nêu ra trong đề bài. - Dạy kĩ năng viết trong phân môn Tập làm văn: + Kĩ năng viết trong phân môn Tập làm văn cần được so sánh và phân biệt với kĩ năng viết trong phân môn Tập viết, Chính tả. Viết trong Tập làm văn là kĩ năng viết văn bản ở mức độ cao (trong Tập viết, Chính tả là kĩ năng viết chữ hoặc kĩ năng viết văn bản ở mức độ thấp). Để viết được văn bản ở mức độ cao (tạo lập, sáng tạo), cần nắm vững một hệ thống kĩ năng đa dạng: Kĩ năng xác định yêu cầu đề bài Kĩ năng tìm ý, lập ý Kĩ năng phát triển ý Kĩ năng diễn ý thành câu, đoạn, bài Kĩ năng liên kết văn bản Kĩ năng hiệu chỉnh văn bản Đồng thời, học sinh cũng cần nắm được đặc trưng các phong cách chức năng ngôn ngữ, vốn hiểu biết về đề tài bài viết... + Kĩ năng viết trong phân môn Tập làm văn cũng được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn. Lớp 2, 3 chủ yếu luyện các kĩ năng bộ phận; lớp 4, 5 luyện kĩ năng làm bài văn theo các thể tài gắn bó và cần thiết trong hoạt động giao tiếp của học sinh. Tương ứng với các mức độ kĩ năng này là các dạng bài tập căn bản: + Bài tập tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý gắn với từng loại văn bản. + Bài tập xây dựng đoạn, viết bài theo các loại văn bản. 135 2.2. Ngữ pháp văn bản và ứng dụng vào dạy học Tập làm văn Những yếu tố và đặc trưng cơ bản của văn bản ảnh hưởng rất lớn đến dạy học Tập làm văn. Tính thống nhất của văn bản (thể hiện trên hai phương diện: liên kết nội dung và liên kết hình thức) tác động tới việc tìm hiểu, định hướng và rèn các kĩ năng tìm ý, lập dàn ý… Đặc trưng về nghĩa, cấu trúc đoạn văn… cũng là những yếu tố được khai thác, vận dụng vào dạy học Tập làm văn. Trong chương trình Tiếng Việt hiện hành, đoạn có thể xem là đơn vị trung tâm của dạy học Tập làm văn. Về chức năng, có các kiểu dạng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Để tăng cường rèn luyện kĩ năng tạo lập, sản sinh ngôn bản cho học sinh, nội dung dạy học Tập làm văn còn đề cập đến các dạng thức đoạn: mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp; kết bài mở rộng và kết bài tự nhiên (kết bài không mở rộng). 3. Nội dung dạy học Tập làm văn Để hình thành kiến thức và kĩ năng tập làm văn, chương trình chia thành hai mảng lớn: luyện nói và luyện viết. Hệ thống bài tập Tập làm văn có thể được phân loại theo các tiêu chí khác nhau như sau: - Dựa vào các dạng thức lời nói và mục đích rèn kĩ năng: bài tập luyện nói (bài tập hội thoại và bài tập độc thoại) và bài tập luyện viết (bài tập viết lời hội thoại, bài tập viết đoạn bài). - Dựa theo quá trình sản sinh ngôn bản: bài tập tiền sản sinh ngôn bản (bài tập phân tích mẫu; bài tập tìm hiểu đề; bài tập định hướng hoàn cảnh giao tiếp; bài tập tìm ý, lập dàn ý), bài tập sản sinh ngôn bản và bài tập sửa chữa ngôn bản (bài tập chữa lỗi chính tả, bài tập chữa lỗi dùng từ, bài tập chữa lỗi đặt câu, bài tập chữa lỗi dựng đoạn, bài tập viết văn hay...). - Dựa vào mức độ kĩ năng và đặc điểm hoạt động của học sinh: bài tập nhận diện, phân tích, bài tập theo mẫu và bài tập sáng tạo. Về nội dung, thông qua các hoạt động học tập, học sinh được làm quen với các kiểu bài nói theo chủ đề, nói viết phục vụ cuộc sống hàng ngày, viết thư, kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật, tả người, tả cảnh)… Bên cạnh kiểu bài thực hành rèn luyện kĩ năng, phân môn Tập làm văn cũng có kiểu bài lí thuyết. Ngoài ra, do tính chất đặc thù, trong dạy học phân môn này còn có tiết trả bài tập làm văn. 4. Một số kĩ năng cần rèn luyện trong tổ chức dạy học Tập làm văn 4.1. Kĩ năng quan sát Quan sát là một năng lực quan trọng giúp con người khám phá thế giới xung quanh mình. Quan sát có nghĩa là trông, xem xét để thấy rõ, biết rõ. Quan sát là sự vận dụng tất cả các giác quan để nhận biết đặc điểm của thế giới xung quanh: dùng mắt để nhận rõ hình dáng, màu sắc, hình khối của sự vật; dùng tai để nghe âm thanh; dùng mũi phát hiện các loại mùi… Nhờ các nhận xét thu nhận được, người quan sát có thể hiểu biết sâu sắc về đối tượng. Để rèn luyện kĩ năng quan sát, cần chú ý rèn luyện các kĩ năng bộ phận: - Kĩ năng phân chia đối tượng và trình tự quan sát: giúp học sinh có điều kiện tập trung quan sát từng bộ phận một cách tỉ mỉ; dựa trên đối tượng để phân chia, để xác định trình tự quan sát. - Kĩ năng lựa chọn chi tiết để quan sát: là kĩ năng nắm bắt đặc điểm tiêu biểu của sự vật, hiện tượng trong khi quan sát. - Kĩ năng sử dụng các giác quan để quan sát: giúp học sinh hạn chế việc quan sát chỉ dùng thị giác. Giáo viên nên giúp học sinh thu nhận các đặc điểm đặc sắc của sự vật, hiện tượng, thu nhận các cảm xúc, liên tưởng, hồi tưởng,… và tìm tòi các từ ngữ để diễn đạt các điều thu nhận được. - Kĩ năng ghi chép kết quả quan sát: giúp học sinh lưu giữ những cảm xúc về đối tượng quan sát, giúp cho việc làm bài hiệu quả hơn. 4.2. Kĩ năng tìm ý cho đề văn Học sinh tiểu học thường gặp khó khăn trong việc tìm ý, lập dàn ý. Trong thực tiễn, các em thường mắc phải những lỗi cơ bản khi thực hành viết đoạn, viết bài như: thừa ý, thiếu ý, lặp ý, … Chính vì vậy, giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng tìm ý cho học sinh, đặc biệt là khi viết văn miêu tả và văn kể chuyện. Để giúp học sinh tìm ý, giáo viên có thể sử dụng hệ thống câu hỏi định hướng. Một số vấn đề cần chú ý khi xây dựng câu hỏi: - Câu hỏi cần chú ý đến tính hướng đích (khai thác các vấn đề trọng tâm của đề văn, định hướng cho việc cấu trúc bài văn…) và đảm bảo tính hệ thống, tính logic. - Câu hỏi cần bám sát đặc trưng kiểu bài và yêu cầu cụ thể của đề văn. - Câu hỏi phải phù hợp với đặc điểm tâm lí, tư duy của học sinh tiểu học, kích thích được hứng thú sáng tạo. - Số lượng câu hỏi tìm ý cho một đề văn là khoảng 4 – 6 câu. Câu hỏi quá nhiều có thể hạn chế khả năng sáng tạo của học sinh. - Ngoài các câu hỏi khai thác bình diện nghĩa sự vật (tường minh), cần chú trọng xây dựng các câu hỏi khai thác bình diện nghĩa liên cá nhân nhằm phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng của người học. Ví dụ: Xây dựng hệ thống câu hỏi tìm ý cho đề văn: Ước mơ là ngọn lửa thắp sáng tâm hồn con người, là bài ca được viết nên từ cuộc sống. Hãy kể về một ước mơ nhỏ bé và bình dị của em. Câu hỏi gợi ý: - Câu hỏi 1: Ước mơ “nhỏ bé và bình dị” của em là gì? - Câu hỏi 2: Mơ ước đó xuất phát từ đâu? Hướng về ai?... - Câu hỏi 3: Em đã nâng niu, nuôi dưỡng ước mơ đó như thế nào? - Câu hỏi 4: Ước mơ đó có trở thành hiện thực (hay em có tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực) không? - Câu hỏi 5: Cho dù ước mơ không thành (hoặc em biết sẽ không thành), nó có ý nghĩa như thế nào trong tâm hồn em, trong cuộc sống của em? II. CÂU HỎI, BÀI TẬP VÀ GỢI Ý, HƯỚNG DẪN Câu hỏi 1: Hoạt động giao tiếp ảnh hưởng như thế nào đến việc hình thành các kĩ năng tập làm văn cho học sinh tiểu học. Phân tích ví dụ minh họa. Gợi ý: Cần đảm bảo các ý cơ bản sau: - Khái quát về hoạt động giao tiếp. - Trình bày cấu trúc của hoạt động giao tiếp và sự vận dụng vào hình thành các kĩ năng tập làm văn: + Cấu trúc của hoạt động giao tiếp và những kĩ năng tập làm văn tương ứng: Cấu trúc hoạt động lời nói Hệ thống kĩ năng làm văn 1. Định hướng - Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn đề bài bài viết. - Kĩ năng xác định tư tưởng của bài viết. 2. Lập chương trình nội dung biểu đạt - Kĩ năng tìm ý (thu thập tài liệu cho bài viết). - Kĩ năng lập dàn ý (hệ thống hóa, lựa chọn tài liệu). 3. Hiện thực hóa chương trình - Kĩ năng diễn đạt, thể hiện chính xác, đúng tư tưởng, phong cách… - Kĩ năng viết đoạn, bài theo các phong cách khác nhau. 4. Kiểm tra - Kĩ năng hoàn thiện bài viết (chữa lỗi, hiệu chỉnh các dùng từ, viết câu…) + Phân tích các ví dụ để minh họa. 138 Câu hỏi 2: Phân tích vai trò của kĩ năng quan sát trong dạy học kiểu bài văn miêu tả. Cho ví dụ minh họa. Gợi ý: Cần đảm bảo các ý cơ bản sau: - Khái quát về kĩ năng quan sát: Quan sát hiểu theo nghĩa hẹp có nghĩa là trông, xem xét để thấy rõ, biết rõ. Hiểu theo nghĩa rộng, quan sát là sự vận dụng tất cả các giác quan để nhận biết đặc điểm của thế giới xung quanh (dùng mắt để nhận rõ hình dáng, màu sắc, hình khối của sự vật; dùng tai để nghe âm thanh;…). Nhờ các nhận xét thu nhận được, người quan sát có thể hiểu biết sâu sắc về đối tượng. - Phân tích vai trò của kĩ năng quan sát trong dạy học kiểu bài văn miêu tả: + Quan sát là một kĩ năng đặc thù trong dạy học kiểu bài văn miêu tả. Nhờ quan sát, học sinh thu nhận được các thông tin quan trọng, hiểu biết sâu sắc hơn về đối tượng định tả. + Kết quả quan sát quyết định hiệu quả của sản phẩm ngôn ngữ. Cùng với quá trình quan sát, học sinh biết cách sắp xếp các thông tin làm cơ sở cho việc dựng đoạn, viết bài. + Văn miêu tả trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học có sự đa dạng về kiểu loại (tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối, tả người, tả cảnh). Việc rèn kĩ năng quan sát giúp học sinh phân biệt các đối tượng định tả, cấu trúc bài văn và biểu đạt bằng ngôn từ một cách hợp lí, hiệu quả. - Cho ví dụ minh họa. Câu hỏi 3: Để hình thành năng lực quan sát cho học sinh trong dạy học Tập làm văn, cần chú ý rèn luyện những kĩ năng bộ phận nào? Phân tích ví dụ minh họa. Gợi ý: Cần đảm bảo các ý cơ bản sau: - Nêu được các kĩ năng quan sát (kĩ năng bộ phận) cần rèn luyện cho học sinh: + Kĩ năng phân chia đối tượng và trình tự quan sát. + Kĩ năng lựa chọn chi tiết quan sát. + Kĩ năng huy động các giác quan khi quan sát. + Kĩ năng ghi chép kết quả quan sát. 139 - Phân tích mục tiêu của việc rèn luyện từng kĩ năng và lấy ví dụ từ thực tiễn dạy học Tập làm văn để minh họa. Câu 4: Từ gợi ý “Tả một loài hoa”, anh (chị) hãy: a. Xây dựng đề tập làm văn theo định hướng giao tiếp nhằm kích thích hứng thú sáng tạo của học sinh. b. Xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm ý cho đề văn đã xây dựng. Gợi ý: a. Học viên cần nắm vững các yêu cầu của việc xây dựng một đề văn theo định hướng giao tiếp, kích thích hứng thú sáng tạo của học sinh để thiết kế một đề văn khoa học, hấp dẫn. Cụ thể là: - Đề văn cần chú ý đảm bảo các nhân tố giao tiếp cơ bản: đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp… - Đề văn khuyến khích xây dựng theo hướng mở, không giới hạn đối tượng cần tả (một sự vật cụ thể, duy nhất). - Để tăng tính hấp dẫn cho đề văn, có thể sử dụng các trích dẫn văn học hoặc cách thức miêu tả gợi mở. Ví dụ: (1) Để lại sắc vàng trong nắng Cúc vẫy tay chào mùa thu Để lại hương nồng trong gió Ngọc lan khẽ bước qua mùa… Từ ý thơ trên, em hãy tả một loài hoa mà em yêu thích. (2) Mùa thu hoa cúc rực vàng; mùa hè, phượng thắm đỏ trên những vòm lá mượt… Các loài hoa mang đến hương sắc cho mùa. Hãy tả một loài hoa mà em yêu thích. b. Từ đề văn đã xây dựng được, học viên xây dựng câu hỏi tìm ý theo nhưng yêu cầu cơ bản đã nêu ở mục 4.2. Câu 5: Cho đề Tập làm văn: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ ý thơ trên, em hãy tả vẻ đẹp của hoa sen và nêu cảm xúc của mình về loài hoa thanh cao đó. a. Xác định yêu cầu đề và xây dựng hệ thống câu hỏi tìm ý cho đề văn trên. b. Viết mở bài gián tiếp cho bài văn tả hoa sen theo đề bài đã cho. Gợi ý: a. Xác định yêu cầu đề và xây dựng hệ thống câu hỏi tìm ý: - Yêu cầu đề: Tả hoa sen và phát biểu cảm nghĩ về loài hoa thanh cao đó. - Xây dựng hệ thống câu hỏi tìm ý (giới thiệu về loài hoa định tả; vẻ đẹp của hoa sen có gì đặc biệt [màu sắc, dáng hình, vươn lên từ bùn đất nhưng tỏa ngát hương thơm…]; cảm xúc về hoa sen…). b. Viết mở bài gián tiếp cho bài văn tả hoa sen cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Đúng dạng thức mở bài gián tiếp (sử dụng trích dẫn, đi từ khái quát đến cụ thể…) - Diễn đạt trôi chảy, hình ảnh; ngôn từ trong sáng,… Câu 6: Cho đề văn: Một con sẻ non mép hãy còn vàng óng, trên đầu chỉ có một nhúm lông tơ rơi từ trên tổ xuống đất. Con chó săn tiến lại gần. Bỗng sẻ mẹ từ một ngọn cây gần đó lao xuống, lấy thân mình phủ kín sẻ con… Con chó săn bối rối, đứng dừng lại rồi quay đầu bỏ chạy… Em hãy đặt mình trong vai sẻ con để kể lại câu chuyện trên và nói lên cảm nghĩ của mình khi được bảo vệ bằng đôi cánh yêu thương, bằng lòng dũng cảm của mẹ. a. Xác định yêu cầu của đề văn trên. b. Xây dựng một đề tập làm văn theo cấu trúc tương tự với yêu cầu “kể một câu chuyện về lòng nhân ái”. Gợi ý: a. Yêu cầu của đề văn: - Kiểu bài: kể chuyện theo tưởng tượng, kể có chuyển vai. - Nội dung: Đặt mình trong vai sẻ con, kể lại câu chuyện theo gợi ý và phát biểu cảm nghĩ khi được mẹ yêu thương, che chở. b. Khi xây dựng một đề tập làm văn theo cấu trúc tương tự với yêu cầu “kể một câu chuyện về lòng nhân ái”, cần lưu ý một số vấn đề sau: - Đảm bảo tính tương ứng về mục tiêu cơ bản (yêu cầu về kiểu bài, về việc rèn kĩ năng kể theo tưởng tượng…). - Về nội dung, đề bài mới yêu cầu kể một câu chuyện về lòng nhân ái. Do vậy, cần sáng tạo nên một tình huống phù hợp, hấp dẫn. Ví dụ: (1) Kiến nhỏ chới với giữa dòng nước thì một chú chim con nhìn thấy. Chim vội vã cắp một cọng cỏ thả xuống để kiến bám vào. Kiến nhỏ nhờ vậy mà thoát nạn. Hãy đặt mình vào vai kiến nhỏ để kể lại câu chuyện trên và nói lên cảm xúc của kiến nhỏ trước tấm lòng nhân ái của chú chim non đáng yêu. (2) Giữa nắng hè oi ả, một ông lão ăn xin lọm khọm, rách rưới ngồi gục bên vệ đường. Mọi người đi qua vội vã, họ không nhìn thấy ông… Một bạn nhỏ bước tới gần, lo lắng hỏi han rồi vội vã gọi người tới giúp ông lão… Hãy tưởng tượng để kể lại câu chuyện xúc động ấy và phát biểu cảm nghĩ của em về tấm lòng nhân ái của bạn nhỏ. Câu 7: Cho đề văn: Em hãy chọn tả một trong ba cảnh đẹp của quê hương: - Cánh đồng quê bát ngát với hương lúa thơm nồng, với cánh diều no gió… - Dòng sông quê hiền hòa với con đò êm êm khua nước, với những rặng cây xanh mướt nghiêng soi… - Con đường làng với những lũy tre xanh, với tiếng cười của trẻ thơ mỗi giờ đến lớp… a. Xác định yêu cầu của đề văn trên. b. Viết mở bài cho đề văn trên theo hai cách: mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Gợi ý: a. Yêu cầu của đề văn: - Kiểu bài: Văn tả cảnh. - Nội dung: Chọn tả một trong ba cảnh đẹp của quê hương: cánh đồng, dòng sông, con đường. b. Viết mở bài cho đề văn trên theo hai cách: - Mở bài trực tiếp: Chọn cảnh đẹp định tả (chỉ chọn một trong ba cảnh đẹp mà đề bài đã gợi ý), viết mở bài, giới thiệu trực tiếp đến đối tượng sẽ tả. Ví dụ: Dòng sông quê hương êm đềm với mái chèo khua nước, với hàng cây xanh mướt ven bờ luôn để lại trong lòng em những ấn tượng khó phai. - Mở bài gián tiếp: Chọn cảnh đẹp định tả (chỉ chọn một trong ba cảnh đẹp mà đề bài đã gợi ý), viết mở bài gián tiếp (bằng cách sử dụng trích dẫn văn học, so sánh…). Ví dụ: Mời bạn về thăm xứ Huế Có núi Ngự Bình thông reo Có dòng Hương Giang thơ mộng Thuyền ai nhẹ lướt mái chèo… Xứ Huế quê tôi với núi Ngự, sông Hương là mảnh đất đã để lại trong lòng bao người niềm thương, nỗi nhớ. Dòng Hương Giang đôi bờ xanh biếc, nhẹ lướt mái chèo luôn khắc sâu trong lòng tôi nét đẹp yên bình, thơ mộng của quê hương. Câu 8: Cho bài tập Tập làm văn: Sử dụng biện pháp tu từ so sánh hoặc nhân hóa để diễn đạt lại những câu văn dưới đây cho sinh động, gợi cảm: - Bầu trời mùa thu trong xanh. - Gió thổi nhẹ, mây trôi lững lờ. - Mặt trời chiếu những tia nắng qua kẽ lá. a. Xác định mục tiêu của bài tập. b. Phân tích vai trò của các bài tập luyện viết câu có sử dụng các biện pháp tu từ trong dạy học Tập làm văn. c. Sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại câu văn “Mặt trời chiếu những tia nắng qua kẽ lá.” cho sinh động và gợi cảm. Gợi ý: a. Mục tiêu của bài tập: Rèn luyện kĩ năng viết câu có sử dụng biện pháp tu từ. b. Phân tích vai trò của các bài tập luyện viết câu có sử dụng các biện pháp tu từ trong dạy học Tập làm văn: 142 - Bài tập dạng này giúp rèn luyện cho học sinh cách viết câu mang màu sắc tu từ, giàu giá trị gợi tả và biểu cảm. - Các bài tập luyện viết câu giúp khắc phục những hạn chế về khả năng biểu đạt khiến cho câu văn thiếu sự sinh động, gợi cảm. - Đây cũng là kiểu bài tập có tính chất tiền đề để từ đó học sinh phát triển năng lực dùng từ đặt câu, viết đoạn, viết bài, tạo lập những sản phẩm ngôn ngữ có giá trị. c. Học viên sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại câu văn “Mặt trời chiếu những tia nắng qua kẽ lá.” cho sinh động và gợi cảm. Khi viết chú ý một số cách thức nhân hóa cơ bản: - Dùng cách xưng hô của con người để “gọi tên” đồ vật, hiện tượng... Ví dụ: Ông mặt trời vén màn mây mỏng, thả những tia nắng vàng qua kẽ lá. - Dùng những từ ngữ chỉ đặc điểm, tính cách, suy nghĩ… của con người để “gán” cho các sự vật cần nhân hóa. Ví dụ: Những tia nắng tinh nghịch luồn qua kẽ lá