You are on page 1of 12

Bản tin của Trung tâm Mỹ thuật Quốc gia, Tokyo

Picasso của Việt Nam: Cựu Họa Sĩ Quân Đội Phạm Lực

Yoshiaki Tsuboi

Nhà sử học Việt Nam, Giáo sư Đại học Waseda

Ý chính

Ở Việt Nam, có một họa sĩ táo bạo. Ông còn được gọi là "Picasso Việt Nam".
Tên ông là Phạm Lực (1943-). Ông hiện nay 72 tuổi, vẫn rất năng động và dành
hơn 12 giờ mỗi ngày để vẽ trên vải, trung bình khoảng 30 bức tranh. Điều này
tương đương với 10.000 bức trong một năm. Một số bức tranh của ông mang
tính hoang dã, trong khi những bức tranh khác tinh tế và được hoàn thiện kỹ
lưỡng. Ông sử dụng các màu sắc khác nhau theo thời gian. Ông có vẻ nhỏ
người và thân hình mũm mĩm, cao khoảng 162 cm. Mái tóc dài và bộ ria mép
dày của ông vẫn được giữ nguyên từ khi còn trẻ. Ngay cả khi ông phục vụ
trong quân đội, tóc dài và ca hát đều bị cấm, nhưng ông vẫn trung thành với
phong cách của mình. Ông đã kết hôn hai lần. Người thứ hai là một phụ nữ
Pháp. Liệu có phải do ông là một thiên tài từ thuở ban đầu, hoặc là do năng
lượng của ông, hoặc là vì sự tinh tế của ông? Trong quá trình khám phá bí ẩn
này, chúng ta hãy nhìn vào tình hình hội họa đương đại ở Việt Nam thông qua
góc nhìn của Phạm Lực.

1. "Vẻ ngoài nữ tính" là gì?

Phạm Lực sinh ngày 14 tháng 3 năm 1943 tại Huế, miền Trung Việt Nam, thủ
đô của triều đại nhà Nguyễn. Cha ông là một viên quan cấp cao trong triều đình
Huế của nhà Nguyễn. Ông đã có ba cuộc hôn nhân chính thức, nhưng ông cũng
có mối quan hệ với những người phụ nữ khác và không ai biết ông có bao
nhiêu đứa con. Phạm Lực là một trong ba người con trai của người vợ thứ hai.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập cho nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Tuy nhiên, vào cuối
năm 1945, Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bắt đầu giữa Việt Minh (Liên
minh Độc lập Việt Nam) do Hồ Chí Minh lãnh đạo và Pháp.

Để tránh tác động của xung đột quân sự, mẹ của Phạm Lực đã đưa ba người
con trai của bà trở về quê hương ở tỉnh Hà Tĩnh, miền Bắc Trung Việt Nam.
Mẹ của Phạm Lực là cháu nội của Nguyễn Du (1765-1820), nhà thơ vĩ đại nhất
trong lịch sử văn học Việt Nam, tác giả của bài thơ "Truyện Kiều" viết vào thời
kỳ đầu của triều đại Nhà Nguyễn. Nguyễn Du được tôn vinh là nhà văn tiếng
Việt xuất sắc nhất, và Phạm Lực được coi là hậu duệ của Nguyễn Du. Ngay từ
khi mới ba tuổi, Phạm Lực đã cho thấy tài năng và niềm đam mê với hội họa.

NACT số 2 tiếp tục mang đến những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của
Phạm Lực, cũng như những tác động của thời kỳ lịch sử và chính trị tại Việt
Nam vào cuộc sống và sự phát triển của ông.

Thông qua NACT này, chúng ta thấy rằng Phạm Lực đã tỏ ra là một họa sĩ
thiên tài từ khi còn nhỏ, và tài năng vẽ tranh của ông đã thu hút sự chú ý của
nhiều người dân. Ông đã sáng tạo và vẽ tranh ở nhiều nơi khác nhau, trên các
bức tường nhà riêng, các tòa nhà công cộng và các địa điểm khác.

NACT cũng đề cập đến bối cảnh chính trị và xã hội tại Việt Nam trong thời kỳ
1949-1965. Việt Nam đã chọn chủ nghĩa xã hội và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các cuộc đấu tranh giai cấp và cải cách ruộng
đất đã diễn ra, và những người nông dân đã tổ chức các cuộc biểu tình để tố cáo
giai cấp địa chủ bóc lột. Phạm Lực đã bị nhốt vào nhà kho và bị tước quyền tự
do sau khi bị cáo buộc gây rối loạn trong một cuộc biểu tình trừng phạt giai cấp
địa chủ.

Sau khi tốt nghiệp trường đào tạo nghệ thuật và có một thời gian làm công việc
trong lĩnh vực văn hóa, Phạm Lực đã gia nhập Lực lượng Cảnh sát vũ trang và
được giao cho bộ phận quay phim. Sau đó, ông đã trở thành giáo viên dạy vẽ
tại một trường dành cho con em cán bộ đảng và quân đội. Ông cũng đã có trải
nghiệm đáng nhớ tại Chiến trường Hamron và chứng kiến một vụ tai nạn máy
bay Mỹ.

NACT cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu hơn về cuộc sống và sự phát triển
nghệ thuật của Phạm Lực trong bối cảnh lịch sử và chính trị đầy biến động của
Việt Nam.
Năm 1967, Phạm Lực được bổ nhiệm làm giáo viên văn nghệ tại Ban Văn nghệ
Quân đội Tổng cục Quân lực. Nhiệm vụ của ông là dạy cách vẽ áp phích và tạo
ra các tác phẩm tuyên truyền cho binh lính trong các khóa đào tạo kéo dài ba
tháng tại nhiều quân chủng và quân khu khác nhau. Trong bối cảnh chiến tranh
giữa "Bắc Việt Nam" (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và "Nam Việt Nam" (Việt
Nam Cộng hòa), biên giới thực tế được vẽ ở vĩ tuyến 17, được gọi là Đường
ranh giới quân sự. Phạm Lực đã dạy ở Quân khu 4, nơi có mối liên kết gần nhất
với Bắc Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Ông cũng đã làm việc tại sở chỉ huy của Đoàn
559, nơi kiểm soát các tuyến đường rừng núi bí mật để cung cấp tiếp tế và
chăm sóc y tế cho quân đội.

Mặc dù nhiệm vụ của ông như một nghệ sĩ quân đội vẫn tiếp tục, nhưng Phạm
Lực vẫn duy trì vai trò là một nghệ sĩ độc lập. Trong thời điểm đó, chủ đề tâm
điểm chung của các họa sĩ miền Bắc Việt Nam là Đường Hồ Chí Minh, nhưng
Phạm Lực hiếm khi vẽ về chủ đề này. Ông đã từ chối vẽ theo các chủ đề được
chỉ định trong công việc của mình và thay vào đó tạo ra các tác phẩm sáng tạo
bằng các chất liệu khác. Ông sử dụng mọi chất liệu nghệ thuật có sẵn vào ban
đêm hoặc trong thời gian rảnh rỗi, và vẽ những bức tranh theo ý muốn của
mình, dù ông ở trong nội địa hay ở tiền tuyến.

Các bức tranh của Phạm Lực mang tính tinh tế, miêu tả những người khỏa thân
và tình yêu lãng mạn. Trong miền Bắc Việt Nam, những bức tranh này không
bị cấm, nhưng cũng không được khuyến khích và việc trưng bày chúng bị
nghiêm cấm. Đối với Phạm Lực, một sĩ quan quân đội và một đảng viên, việc
sống theo hai tư cách là một nghệ sĩ và một người trong quân đội đầy mạo
hiểm.

Vì lý do này, Phạm Lực đã cẩn thận bảo quản những bức tranh này và chỉ chia
sẻ chúng với một số người bạn đáng tin cậy. Vì nguyên liệu vẽ tranh, như vải
canvas, thiếu hụt nghiêm trọng do không đủ cung cấp từ Liên Xô và Trung
Quốc, Phạm Lực đã phải tìm giải pháp tạm thời. Ông mua những bao gạo rỗng
để vẽ tranh và sử dụng mọi thứ có sẵn trong tay để tạo ra những tác phẩm. Đôi
khi, ông còn sử dụng dầu trục bẩn từ xe tải và xe tăng để thay thế cho sơn đen.
Phạm Lực là một họa sĩ yêu thích vẽ theo bản năng.
Năm 1972, ông đăng ký học chương trình hội họa cấp đại học và tốt nghiệp vào
năm 1977. Trong khi ông còn đang tham gia khóa huấn luyện tại Quân khu 4,
tỉnh Nghệ An, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
Cảm giác của ông khi đó là nhẹ nhõm và vui sướng khi được trở về Hà Nội,
gặp gỡ mẹ thường xuyên hơn và gặp lại những người đã lâu không gặp.

Sau khi chiến tranh kết thúc, ông đã đến Sài Gòn (thủ đô miền Nam Việt Nam
trước đây), một quốc gia từng là kẻ thù. Trên đường đi, ông ghé qua Kobu Huế
ở miền Trung Việt Nam, nơi ông gặp lại cha mình. Trước đó vài tháng, cha ông
đã gửi thư về quê ở Hà Tĩnh để liên lạc với Phạm Lực và gia đình. Sự xuất hiện
của Phạm Lực, lúc đó là một trung tá, đã khiến cha ông và những người anh em
cùng cha khác mẹ vừa vui mừng vừa sợ hãi. Trong gia đình không ai đều hài
lòng với cách mà chiến tranh kết thúc với chiến thắng cho miền Bắc Việt Nam,
vì không phải ai đều tự hào về điều đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
quan hệ huyết thống đã vượt qua mâu thuẫn chính trị. Không lâu sau, ông trở
nên mở lòng và thân thiết hơn với người anh cùng cha khác mẹ của mình,
người mà ông chưa từng gặp trước đây. Sau đó, Phạm Lực đã viết và gửi thư
bảo đảm với tư cách là người bảo lãnh để giúp một trong những người anh
cùng cha khác mẹ của ông, người đã bị đưa vào trại cải tạo vì là một người lính
Việt Nam Cộng hòa, được giải thoát.

Năm 1976, Phạm Lực kết hôn lần đầu và có hai người con trai với vợ đầu tiên.
Tuy nhiên, vào năm 1989, ông kết hôn lần thứ hai với một phụ nữ Pháp. Dù cả
hai không có con và vợ ông làm việc cho UNICEF nhưng sau khi văn phòng
của UNICEF tại Việt Nam đóng cửa, bà trở về Pháp.

Phạm Lực đã phục vụ trong quân đội cho đến năm 1989 và giải ngũ với quân
hàm đại tá. Mặc dù ông đã có nhiều năm kinh nghiệm và đóng góp đáng kể
trong quân ngũ, nhưng ông chưa bao giờ nhận được bất kỳ bằng khen hay huân
chương nào. Lý do ông đưa ra là ông chưa bao giờ viết đơn xin cấp chứng chỉ
hoặc yêu cầu những vinh danh đó. Trong quân đội, việc để tóc dài và ria mép
dày là không được phép, nhưng Phạm Lực không thay đổi phong cách cá nhân
của mình dù có những quy định đó. Ông cũng không tham gia các buổi mít-tinh
có sự hiện diện của các tướng lĩnh được bầu và vinh danh.
Mặc dù Phạm Lực đã vẽ hàng chục nghìn bức tranh, nhưng ông hiếm khi trưng
bày tại các cuộc triển lãm hoặc cuộc thi do các tổ chức chính thống như Hội
Họa sĩ Việt Nam tổ chức.

2. Khái quát hội họa hiện đại Việt Nam

Việt Nam bị Trung Quốc trực tiếp cai trị trong 1.000 năm cho đến khi giành
được độc lập vào thế kỷ thứ 10 (Thời kỳ Bắc thuộc). Sau khi giành được độc
lập, Việt Nam vẫn duy trì một hệ thống triều đại theo kiểu Trung Quốc. Các
triều đại như Nhà Lý (1009-1225), triều đại như Nhà Trần (1225-1400), nhà Lê
(1428-1789) và nhà Nguyễn (1802-1945) đều xây dựng hoàng cung theo mô
phỏng kiến trúc Trung Quốc. Trong giai đoạn này, họa sĩ đã tồn tại và tạo ra
những bức tranh trang trí cho các cung điện hoàng gia, như trang trí trên các
bức tường và trần nhà.

Tuy nhiên, theo nhà sử học mỹ thuật Đào Tế Hùng, các họa sĩ không có truyền
thống làm nghề độc lập như những người thợ vô danh tập thể. Trước năm 1925,
không có trường mỹ thuật đại học chính thức nào tại Việt Nam. Sau khi xã hội
đã ổn định sau thời kỳ Pháp thuộc kéo dài 60 năm, Trường Mỹ thuật Đông
Dương được thành lập tại Hà Nội. Họa sĩ người Pháp Victor Tandieu (1870-
1937) được coi là người sáng lập trường mỹ thuật này. Ông đã đến Việt Nam
sau khi nhận giải thưởng Đông Dương của Hiệp hội Nghệ thuật Thuộc địa
Pháp năm 1920 cho một tác phẩm trưng bày tại Salon Paris. Giải thưởng này có
thể coi là một học bổng để gửi đến Đông Dương, cho phép các họa sĩ nhận giải
đi lại miễn phí giữa Paris và Đông Dương. Mặc dù ông không có đủ kinh phí
để lưu trú, ông đã ở lại khi được giao nhiệm vụ vẽ một bức bích họa lớn tại
trường Đại học Đông Dương đang được xây dựng. Trong thời gian ông ở Đông
Dương, ông đã giao lưu với các nghệ sĩ địa phương và góp phần phát triển nền
nghệ thuật Đông Dương. Sau đó, ông giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Đông
Dương và đề nghị với Toàn quyền Đông Dương Merlin được chấp thuận.

Sắc lệnh ngày 27 tháng 10 năm 1924 xác định việc thành lập Trường Mỹ thuật
Đông Dương. Một năm sau, Trường Mỹ thuật Đông Dương được mở. Sau đó,
tòa nhà và tổ chức được cải thiện, và năm năm sau, sinh viên được nhận vào
hai khoa, Khoa Hội họa và Điêu khắc và Khoa Kiến trúc. Có 50 sinh viên học
vẽ, hội họa và điêu khắc, 40 sinh viên khóa dự bị, 10 sinh viên khóa kiến trúc
và 16 sinh viên khóa dự bị, với tổng số 116 sinh viên. Ngoài khóa học dự bị,
thời hạn học là năm năm. Phần lớn các sinh viên là sinh viên nhận học bổng, và
trong 5 năm, họ có đủ khả năng tài chính và có thể tập trung vào việc học nghệ
thuật của mình.

Giáo sư phụ trách kỹ năng thực hành, tập trung vào các họa sĩ đoạt giải Đông
Dương, và lịch sử nghệ thuật, thẩm mỹ, khảo cổ học, v.v. là giáo sư chính thức
tại Ecole Francaise de l'Extreme Orient EFEO. Bằng cách này, các kỹ thuật hội
họa và điêu khắc của Trường phái Paris, được tích lũy từ thời Phục hưng Ý, đã
được giảng dạy bằng cách sử dụng Trường Mỹ thuật Paris làm hình mẫu.
Nhưng Tardieu có những ý tưởng tiên tiến hơn. Đó là câu hỏi "làm thế nào để
sự phát triển hiện đại có thể được thực hiện trong sự mở rộng của nghệ thuật
truyền thống?" Nói cách khác, sau khi học hỏi tư tưởng và kỹ thuật của trường
phái Paris, thay vì bắt chước phong cách phương Tây, Tonam chuyển sang hiện
đại hóa tư tưởng và kỹ thuật hội họa truyền thống của Tonam.
Những họa sĩ Việt Nam đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương, được
truyền cảm hứng từ Tardieu, đã chấp nhận các kỹ thuật và nguyên tắc của hội
họa Pháp, nhưng chuyển sang các chủ đề truyền thống để thiết lập phong cách
hội họa riêng của mình. Nhóm họa sĩ này được gọi là "trường phái Panoi". Các
họa sĩ nổi tiếng như Nguyễn Phan Chí, Thọ Ngọc Vân, Võ Cao Đàm, Nguyễn
Thế Chi, Shi Pho đã sáng tạo và vẽ các bức tranh kết hợp các yếu tố truyền
thống và hiện đại.

Thành tựu lớn nhất của những họa sĩ này là việc áp dụng các kỹ thuật hiện đại
vào các bức tranh truyền thống của Việt Nam, tạo nên những tác phẩm có giá
trị nghệ thuật cao. Sơn mài chất lượng cao được thu thập từ các vùng núi phía
bắc Việt Nam đã được sử dụng trong các tác phẩm của họ.

Năm 1927, Joseph Angaberti, người phụ trách giáo dục hội họa tại Trường Mỹ
thuật Đông Dương, quyết định mở một lớp dạy hội họa. Sau khi Tardieu qua
đời vào năm 1937, Evaristo Johnsur đã trở thành giám đốc trường nghệ thuật
vào năm 1938, tiếp tục phát triển trường và định hướng giảng dạy.
Trong giai đoạn này, Picasso Phạm Tìm đã mở lớp dạy sơn mài và thành lập
các trường dạy nghề ở nhiều nơi. Nguyễn Phương Chấn, một sinh viên năm thứ
nhất, được Tardieu nhận xét rằng anh ấy thích hội họa truyền thống hơn là sơn
dầu và anh ấy đã nỗ lực để đổi mới tranh của mình bằng các kỹ thuật hiện đại.
Do đó, Trường Mỹ thuật Đông Dương dần dần bắt đầu dạy không chỉ hội họa
sơn dầu mà cả các kỹ thuật hội họa truyền thống của Việt Nam.

Sau đó, vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập và thành
lập nước "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Tuy nhiên, Pháp, một cường quốc
thực dân, không công nhận độc lập của Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương
lần thứ nhất bùng nổ. Năm 1954, quân đội Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ,
nhưng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã thành lập "Việt Nam Cộng
hòa" tại Sài Gòn. Việt Nam bị chia cắt thành hai miền: miền Bắc Việt Nam
("Việt Nam Dân chủ Cộng hòa") và miền Nam Việt Nam ("Việt Nam Cộng
hòa"), và cuộc chiến tranh diễn ra. Trong giai đoạn này, ở mỗi trường trung cấp
mỹ thuật tại Hà Nội, có những họa sĩ được gọi là "thế hệ thứ hai" để phân biệt
với những họa sĩ được đào tạo tại các trường mỹ thuật ở Nhật Bản và Pháp.

Sự tiếp xúc với chủ nghĩa hiện thực xã hội được thể hiện trong việc lựa chọn ý
tưởng có chủ ý, sử dụng các tác phẩm của Liên Xô và Trung Quốc làm hình
mẫu chính. Mô hình này đã đưa các nghệ sĩ vào thực tế cuộc sống và nâng cao
trách nhiệm xã hội của họ. Tuy nhiên, họ cũng bị ràng buộc bởi một thẩm mỹ
cứng nhắc và hạn chế, không cho phép sự đa dạng. Kết quả là các tác phẩm
trong thời kỳ này mang lại nhiều giá trị đóng góp cho công cuộc xây dựng và
đấu tranh xây dựng xã hội mới, nhưng về hình thức thể hiện lại dừng ở những
hình thức đơn điệu, bình thường và thiếu tính độc đáo.
Trong thời kỳ này, các họa sĩ "thế hệ thứ nhất" và "thế hệ thứ hai" tìm kiếm
một phong cách thể hiện độc đáo của Việt Nam và thiên về phong cách hội họa
Ấn tượng châu Âu hơn là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Xô-Trung.

Tuy nhiên, việc triển lãm tranh cá nhân trong thời kỳ này rất hiếm, chỉ giới hạn
trong các triển lãm tranh tập thể do các hội mỹ thuật (thành lập năm 1957) và
các cơ quan văn hóa tổ chức vào các dịp kỷ niệm lớn. Việc chọn lựa các tác
phẩm để triển lãm phải tuân theo các tiêu chuẩn chính thống, và những tác
phẩm đột phá đã nhanh chóng bị "Hội đồng nghệ thuật", gồm các nhà lãnh đạo
của hiệp hội nghệ thuật, bác bỏ.

Các bảo tàng mỹ thuật vào thời điểm đó chủ yếu là những người mua tranh,
nhưng họ tự ý định giá cho từng tác phẩm, trong khi người tạo ra tranh thậm
chí không được quyền tự định giá. Sự tham gia vào câu lạc bộ nghệ thuật được
coi là một vinh dự. Vì tình trạng này, các họa sĩ không thể kiếm sống bằng
nghề vẽ tranh.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam kết thúc và đất nước thống
nhất. Tuy nhiên, sau đó xảy ra cuộc xâm lược Campuchia (Việt Nam gọi là "tấn
công", nhưng cộng đồng quốc tế lên án là "xâm lược") và Chiến tranh Trung-
Việt, đồng thời đầu những năm 1980, nạn đói bao trùm. Cuộc sống trở nên khó
khăn, và thế giới nghệ thuật đang trải qua một giai đoạn khó khăn.
Cuối năm 1986, chính sách Đổi mới được thực hiện, hội họa Việt Nam bắt đầu
một bước phát triển mới. Mặc dù những nỗ lực của các geisha Việt Nam một
phần là do nỗ lực độc lập của họ, nhưng họ cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi
những người đam mê nghệ thuật nước ngoài. Sự phát hiện của các nhà sưu tập
mỹ thuật nước ngoài, đầu tiên là các nước phương Tây, sau đó là các nước châu
Á, đã kích thích động lực sáng tạo của các họa sĩ Việt Nam. Chính họ đã xác
định giá trị của mỹ thuật Việt Nam và hỗ trợ cho sự thành công của những họa
sĩ vô danh trước đây.
Thị trường tranh Việt Nam được mở rộng thông qua các mối quan hệ đã được
xây dựng từ TP.HCM với các họa sĩ Việt Nam sống ở nước ngoài. Trong khi
thị trường tranh ở Hà Nội có số lượng bộ sưu tập nhỏ hơn, một số họa sĩ như
Phú Xuân Fai, Nguyễn Đình Dũng, Đặng Xuân Hòa đã thu hút sự chú ý của
giới sưu tập quốc tế. Hiện tượng Femme Look cũng đang bắt đầu xuất hiện.

3. Phẩm chất của tranh Femme Look

Phẩm chất của tranh Femme Look là sự phản ánh của người dân Việt Nam
sống gần gũi với thiên nhiên và đối mặt với môi trường tự nhiên khắc nghiệt.
Với 70% dân số sống ở nông thôn, họ trải qua bốn mùa trong năm, với mùa hè
nóng và độ ẩm cao, cùng với cơn bão thường xuyên. Cuộc sống của họ cũng bị
ảnh hưởng bởi chiến tranh và các khó khăn về tâm lý, xã hội và kinh tế.

Trong những thời điểm khó khăn như chiến tranh, người dân có những khao
khát như nghe bản nhạc, thưởng thức bữa ăn hoặc nhìn thấy một bức tranh để
tìm lại niềm vui và khôi phục nhân tính của mình. Nghệ thuật, bao gồm âm
nhạc, kịch nghệ, văn học và hội họa, trở thành nguồn cảm hứng và sự gần gũi
trong cuộc sống hàng ngày của họ. Đó là một phần không thể thiếu trong việc
thúc đẩy sự sống và chia sẻ niềm vui với gia đình, bạn bè và những người thân
thiết khác. Nghệ thuật trở thành một phương tiện giải trí và mang ý nghĩa sâu
sắc trong văn hóa và tinh thần của người Việt Nam.
Ngay cả những họa sĩ lớn lên ở thành phố cũng đã tiếp xúc với văn hóa dân
gian truyền thống của nông thôn, điều này giúp họ dễ dàng hiểu và thấu hiểu
tinh thần dân tộc trong mọi biểu hiện nghệ thuật. Âm nhạc của Kinh kịch,
Tuồng truyền thống Việt Nam, những giai điệu dân ca, những bức tranh gỗ
Đông Hồ và các tác phẩm điêu khắc miêu tả cuộc sống của làng quê đã ảnh
hưởng lớn đến những quan niệm của các nghệ sĩ.

Bất kể lĩnh vực nghệ thuật nào, có ý thức hay không, nghệ sĩ Việt Nam có thể
coi sứ mệnh của mình là thỏa mãn những khát khao cơ bản của dân tộc. Trong
lĩnh vực hội họa, tự do biểu đạt được cao hơn so với văn học, sân khấu và âm
nhạc, không bị hạn chế chính trị và ý thức hệ. Do đó, các họa sĩ có sự tự do cao
hơn trong việc thể hiện bản thân. Trong mặt này, Phạm Lực đại diện cho tinh
thần của người Việt Nam.

Hãy nhìn vào điều đó từ góc nhìn của một họa sĩ chuyên nghiệp. Các tác phẩm
của Phạm Lực, mặc dù không tốt nghiệp từ Trường Mỹ thuật Đông Dương, vẫn
nằm trong dòng chảy chính thống của hội họa Việt Nam hiện đại. Điều này có
nghĩa là họ chia sẻ nhận thức chung về việc phát triển hiện đại trong bối cảnh
mở rộng của nghệ thuật truyền thống. Các chủ đề phổ biến trong tranh của họ
là chân dung mẹ và con, phong cảnh làng quê và làng chài, tranh về chăn nuôi
với hình ảnh bò, cũng như tranh tĩnh vật như hoa, trái cây và lọ hoa. Tuy nhiên,
các họa sĩ Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng từ các trường phái nghệ thuật khác
và có thể vẽ những tác phẩm khỏa thân mà họ tìm cách tránh. Họ có ý thức
mạnh mẽ về cái tôi và ý chí mạnh mẽ để lựa chọn những gì họ muốn vẽ. Đối
với Phạm Lực, "tự do" là một giá trị quan trọng.
Ngoài các chất liệu truyền thống như sơn dầu, bút màu và màu nước, Phạm
Lực cũng sử dụng sơn mài trong tranh của mình. Sơn mài là một chất liệu tổng
hợp, không phải từ thiên nhiên Việt Nam, và không được sử dụng theo kỹ thuật
sơn mài bóng truyền thống. Theo họa sĩ Ayako Ando, không thể nói rằng sử
dụng sơn mài là phong cách chính thống, nhưng vẫn có những tác phẩm sử
dụng chất liệu này.

Ngoài ra, vì Phạm Lực là một thành viên của quân đội, trong thời gian chiến
tranh ông đã vẽ những bức tranh về người lính và gia đình của họ bị bỏ lại phía
sau. Tuy nhiên, ngay cả khi sử dụng các chất liệu đó, ông vẫn miêu tả "nỗi
buồn chiến tranh" một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Không có những bức tranh
tuyên truyền cổ vũ tinh thần chiến đấu như những gì một "họa sĩ chiến trường"
thường vẽ.

Với sự ủng hộ của ông Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Tổng thư ký Hội, người là một
nhà sưu tập tranh nổi tiếng và sở hữu nhiều tác phẩm của Phạm Lực, chúng tôi
đã chọn 8 tác phẩm từ 700 kiệt tác của ông. Hãy cùng xem các đặc điểm của
tranh Femme Look qua tám tác phẩm này.
< Khỏa Thân (No.) 1970,
Tác phẩm này được thực hiện vào năm 1970, trong thời điểm chiến tranh Việt
Nam đang diễn ra. Trong thời gian đó, Phạm Lực đang hoạt động như một
nghệ sĩ quân đội. Do thiếu vải canvas, anh đã nhận những bao gạo đã qua sử
dụng từ nông dân, rửa sạch và sử dụng chúng làm vật liệu để vẽ tranh. Đây là
một trong số ít những bao gạo còn tồn tại.

Mặc dù là một đảng viên của Đảng Cộng sản và là một họa sĩ quân đội, Phạm
Lực đã vẽ những bức tranh về thiếu nữ khỏa thân, điều này gần như chưa từng
thấy trong truyền thống hội họa Việt Nam. Có vẻ như anh không vẽ các người
mẫu trực tiếp mà tưởng tượng ra hình ảnh đó. Những người phụ nữ trong tranh
của Phạm Lực mang dáng dấp đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam. Họ có cổ
dài tròn, mái tóc đen dài, đôi bàn tay duyên dáng, và bộ ngực đầy đặn không
quá to, được sơn với hai tông màu hồi. Thay vì chỉ là biểu tượng của Eros, các
tác phẩm này mang trong mình sự tốt đẹp và sự trắc ẩn.
<Mẹ và con trong mơ> [2] 1974, Yuta/canvas

Đây là một trong những bức tượng mẹ con chỉ có hai mẹ con mà Phạm Lực đã
nhiều lần thích vẽ. Không khí khắc khoải khi chồng vắng cha vì chiến tranh
luôn được miêu tả một cách mơ hồ. Đứa trẻ luôn là một cậu bé khoảng từ 3 đến
5 tuổi và luôn ngủ. Mẹ là một phụ nữ xinh đẹp với mái tóc dài và khuôn mặt
trái dưa rất hợp với tà áo dài. Sơn trắng được sử dụng để phân biệt rõ ràng
chiếc cổ dài và đôi tay duyên dáng với phần còn lại. Chỉ có một điểm màu đỏ
được sử dụng cho miệng, như thể màu đỏ được vẽ. Trang phục cô mặc giống
áo dài truyền thống và hòa hợp với khung cảnh xung quanh. Bạn cũng có thể
cảm nhận được sự quyết tâm mà cô ấy đang cố gắng tự mình bảo vệ và nuôi
nấng đứa con của mình một cách vững vàng và trìu mến. Nhưng tông màu tối
của nền cũng gợi ý về độ khó của nó.
Two Water Buffaloes [3] 1979 / Tác phẩm này được vẽ trên bìa cứng thay vì
canvas. Hai con vật, không phân biệt được là bò hay trâu, được xếp thành hàng
dọc và di chuyển mạnh mẽ với đôi mắt hếch lên. Phối màu đơn điệu với màu
đen và trắng làm màu cơ bản, ngoài màu trắng và đen, nó sử dụng các màu quý
phái và màu xanh lá cây, được trộn lẫn với màu trắng và đen. Sự đụng chạm
thô ráp thực sự làm nổi bật sự rắn rỏi và hoang dã của con vật. Chăn nuôi cũng
là một chủ đề yêu thích của Phạm Lực, và mặc dù anh ấy đã vẽ rất nhiều tác
phẩm, nhưng tác phẩm này mạnh dạn thể hiện mong muốn cơ bản của anh ấy là
"vẽ" trên tấm bìa cứng mà anh ấy có trong tay. Đó là một tác phẩm mang đến
cái nhìn thoáng qua về bản năng họa sĩ của anh ấy và khiến chúng ta cảm nhận
được ý chí sống của anh ấy.
《 Bãi biển 》 [4] 1989/canvas Tác phẩm này được vẽ vào năm bắt đầu chính
sách Đổi Mới. Phạm Lực miêu tả cảnh của nhiều làng nông nghiệp và làng chài
Việt Nam. Nhân vật ít xuất hiện. Trong bức tranh này, ở góc bên phải, một
người phụ nữ tên Nôm, đội chiếc mũ rơm truyền thống của Việt Nam, được vẽ
trên một chiếc thuyền, nhưng cô ấy không có mặt. Nó được coi một cách tượng
trưng như một yếu tố đơn giản chứng minh rằng đây là Việt Nam. Đó có lẽ là
một cảnh phổ biến khi tôi thực sự đến một làng chài gần Huế ở miền Trung
Việt Nam. Con thuyền được vẽ bằng một đường màu đen ở phía trước là ba
năm tuổi. Một vùng cát được vẽ ở giữa và ba ngôi nhà nhỏ ở phía sau. Ở phía
bên trái của khu vực cát ở giữa, một cái gì đó giống như nó được làm khô.
Thực tế biển miền Trung nắng gắt, có màu xanh rất đẹp, được sơn màu hỗn
hợp. Tuy nhiên, màu trắng sáng được sử dụng trên các bức tường của ngôi nhà
và giữa thuyền mang lại cho nó một sự yên tĩnh huyền bí và cảm giác Việt
Nam.
“Ru” (5) 1996, Dầu/

Tác phẩm này cũng sử dụng giấy được làm bằng cách tháo dỡ hộp các tông làm
chất liệu nghệ thuật. Khuôn mặt không thể được nhìn rõ trong hình ảnh khỏa
thân này. Các đường nét thô và kém lịch sự hơn so với bức tranh khỏa thân
năm 1970, nhưng bản thân tác phẩm này rất mạnh mẽ và nắm bắt tốt hình thức
phụ nữ. Nhưng bảng màu có màu trắng, đen và xám, và tổng thể tối hơn sáng
hơn. Tuy nhiên, tôi có thể cảm nhận được năng lượng ở đó. Tôi tự hỏi liệu phái
đẹp có muốn vẽ phụ nữ khỏa thân khi có chuyện xảy ra không.

Cái nhìn của Picasso tại Việt Nam


<Tĩnh vật> [6] 2000/canvas

Một tác phẩm mô tả những bông hoa và lọ hoa sử dụng màu đỏ và vàng rực rỡ,
điều hiếm thấy ở vẻ ngoài nữ tính. Ba bông hoa lớn màu đỏ và lá xanh được đặt
ở trung tâm bức tranh, nở rộ mạnh mẽ đến gần người xem đến mức vượt quá
khung hình. Thông thường màu trắng được sử dụng làm điểm nhấn nhưng lần
này màu vàng được sử dụng làm viền ngang bình hoa. Nền có cùng màu với
chiếc bàn đặt bình hoa, hòa quyện vào nhau một cách hỗn loạn. Bạn có đang
thể hiện niềm vui sống?

Tamiko 2002 / Kangoose

Tượng hai mẹ con hoen ố. Lần này, tôi đang vẽ mẹ và con trai của một người
đánh cá. Cô ấy ôm đứa con trai đang ngủ bằng tay phải và hai con cá ở tay trái.
Tôi không biết nếu tôi đang trên đường. So với hình ảnh hai mẹ con những năm
1970, khuôn mặt người mẹ bình thản, bạn có thể cảm nhận được sự hài lòng
khi ôm con trai mình. Tuy nhiên, điều đó vẫn khiến tôi cảm thấy hạnh phúc khi
được ở bên đứa con thân yêu của mình.

<Yuri> [8] 2002/canvas


Matisse vẫn còn sống. So với màu sắc được sử dụng trong chiến tranh, màu sắc
trong tranh của Fam Look sau chiến tranh trở nên tươi sáng hơn. Trong thế kỷ
21, họ sử dụng màu xanh da trời sáng, không phải màu xanh lam hoặc xanh
xám, không được thấy trong thời chiến. Một trong những ví dụ kinh điển về
điều này. Bốn bông huệ trắng cắm trong bình, quýt, chanh, quýt xanh cắm cạnh
bình. Ngoài ra còn có một chiếc khăn trải bàn trải rộng, có hoa văn kẻ sọc xanh
và vàng giống như của miền Nam nước Pháp.

4. Phỏng vấn với Phạm Lực:

Phó Tổng thư ký: Truyền thống hội họa Việt Nam là gì, theo quan điểm của
anh?

Phạm Lực: Truyền thống hội họa Việt Nam theo tôi là sự kết hợp giữa 'đơn
giản' và 'gợi cảm'. Cụ thể hơn, trong hội họa Việt Nam, chúng ta không sử dụng
phối cảnh phức tạp như trong tranh phương Tây, mà thường tập trung vào sự
phẳng. Ví dụ, trong tranh in Đông Hồ, ta thường thấy nền không chi tiết và
thường không vẽ gì. Còn trong việc vẽ tranh, chúng ta sử dụng nhiều kỹ thuật
khác nhau như vẽ màu nước, vẽ sơn dầu và nhiều hơn nữa, nhưng chủ đề trung
tâm thường mang tính tượng trưng và có nhiều ý nghĩa khác nhau. Tôi luôn cố
gắng hiểu chung ý nghĩa của biểu tượng với người xem. Trước khi bắt đầu vẽ,
tôi đã suy nghĩ kỹ về khái niệm và bố cục của tác phẩm. Tôi thường tự hỏi bức
tranh này tượng trưng cho điều gì và tôi có thể thể hiện nó như thế nào để
người xem hiểu được. Khi tôi cầm bàn chải lên và bắt đầu vẽ, tôi không còn
nghĩ về nó nữa. Tôi chỉ đơn giản vẽ những suy nghĩ của mình một cách tự
nhiên cho đến khi hoàn thành tác phẩm.

Phó Tổng thư ký: Cảm ơn anh đã chia sẻ quan điểm của mình về truyền thống
hội họa Việt Nam.
Phó Tổng thư ký: Tại sao anh chọn vẽ về đề tài truyền thống trong hội họa Việt
Nam?

Phạm Lực: Tôi lớn lên trong những làng quê nông nghiệp ở Huế và Hà Tĩnh,
và gần gũi với thiên nhiên đã làm cho tôi thấy thiên nhiên và con người lao
động là những chủ thể quen thuộc. Khi tôi suy nghĩ về điều đó, tôi liên tưởng
đến những khung cảnh của một làng chài ở Hà Tĩnh hoặc hình ảnh của một
người nông dân làm việc trên cánh đồng lúa. Tôi không cảm thấy hứng thú khi
vẽ ô tô hay tòa nhà chọc trời. Đối với tôi, tranh mẹ con cũng là một đề tài
truyền thống trong hội họa Việt Nam. Trong thời gian chiến tranh, khi đàn ông
ra trận, quê hương của tôi chỉ còn lại ông già, phụ nữ và trẻ em. Khi tôi còn
nhỏ, cuộc sống hàng ngày của tôi xoay quanh những người mẹ và những đứa
trẻ, và vì thế tôi bắt đầu vẽ những bức tranh về họ một cách tự nhiên. Khi nghĩ
về nhà, hình ảnh mẹ và các em tự nhiên hiện lên trong tâm trí tôi. Tôi đã vẽ
hàng trăm bức tranh như vậy, và nếu bạn chú ý, bạn sẽ hiểu rằng đó là tranh mẹ
con của Phạm Lực, khác biệt với tranh mẹ con của các họa sĩ Việt Nam khác.
Phó Tổng thư ký: Rất thú vị! Vậy tại sao anh chọn hội họa thay vì văn học, dù
bạn có dòng máu của Nguyễn Du, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử văn học
Việt Nam?

Phạm Lực: Tôi không có năng khiếu về văn chương. Mặc dù có sự liên quan
với Nguyễn Du, tôi không thể làm được nhiều trong lĩnh vực văn học. Các lĩnh
vực khác cũng không phù hợp với tôi, nhưng có lẽ tôi được trời ban cho năng
khiếu hội họa. Dù tôi không có con đường khác, tôi vẫn tiếp tục vẽ. Thực sự,
tôi đam mê hội họa và thích vẽ.
Phó Tổng thư ký: Vậy bạn luôn để ria mép dài như vậy à?

Phạm Lực: Đúng vậy, tôi thích cái nhìn tự do của phụ nữ. Mặc dù trong quân
đội, tóc của tôi phải được cắt ngắn để phù hợp với quy định, nhưng ria mép của
tôi vẫn luôn dài. Đó là phong cách sống của tôi và tôi đã bảo vệ nó cho đến
chết. Tôi cũng thích vẽ chủ đề về phụ nữ khỏa thân, mặc dù việc trưng bày
những bức tranh này ở nơi công cộng bị cấm trong quá khứ. Tuy nhiên, tôi đã
giấu những bức tranh khỏa thân một cách cẩn thận và thực hiện một số bức
trong số đó. Đó là vì tôi đam mê vẽ. Tôi đã vào trường nghệ thuật sau chiến
tranh và trong quân đội, nhiệm vụ chính của tôi là giảng dạy nghệ thuật để vẽ
áp phích và tranh tuyên truyền cho những người lính trẻ. Tôi đã sống một cuộc
sống tự do theo cách mà tôi muốn và tận hưởng việc sử dụng bàn chải hàng
ngày. Tuy nhiên, tôi rất may mắn vì không phải sử dụng súng mà vẫn được tiếp
tục vẽ.

Phó Tổng thư ký: Vậy bạn muốn vẽ loại tranh nào trong tương lai?

Phạm Lực: Trong tương lai, tôi muốn tiếp tục trân trọng những truyền thống
của Việt Nam, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống của người nông
dân, ngư dân, những người mẹ và những đứa trẻ Việt Nam. Tôi muốn vẽ những
bức tranh thể hiện sự cần mẫn của họ. Tôi luôn muốn sống gần gũi với những
người "nghèo khó". Đối với tôi, tiền bạc không quan trọng bằng việc tạo ra
những tác phẩm nghệ thuật và thể hiện sự đóng góp của mình cho xã hội.
Khi bán được, thứ đó sẽ được quyên góp cho trẻ em nghèo và khuyết tật. Tôi
muốn những người này được hạnh phúc, và tôi muốn hội họa giúp xã hội tốt
đẹp hơn một chút. Tôi hy vọng rằng những người như vậy sẽ cảm nhận được
điều gì đó khi họ nhìn vào chủ đề trong tranh của tôi. Trên hết, sẽ thật tuyệt nếu
bạn có thể cho họ một cuộc sống tốt hơn.

* Đào Thế Hùng, “Đi tìm bản sắc trong tranh Việt Nam,” “Đọc sách châu Á để
hiểu cuộc sống ở Việt Nam,” Kawade Shobo Shinsha, 1995, tr. 296-302 “Triển
lãm tranh hiện đại Việt Nam” 2005, tr.17.

Người giới thiệu:

Biên tập bởi Akira Tsuboi "Đọc sách châu Á để hiểu cuộc sống ở Việt Nam"
Kawade Shobo Shinsha, 1995 "Những bức tranh hiện đại ở Việt Nam" Sankei
Shimbun, 2005 Masao "The Japanese Revived Vietnam" Sangokan, 2012 Đàm
Đức Va, Timeline of Bemway, Heritage Fashion, Tháng 4-tháng 5 năm 2015,
Vietnam Airlines, Hà Nội, 2015. tr. 67-68.

You might also like