You are on page 1of 61

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.

BỘ MÔN LƯU TRỮ HỌC VÀ QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG.

Tiểu luận môn: Bảo tồn và phát huy di sản trong sự nghiệp xây dựng
nền văn hóa mới Việt Nam.

Đề tài:

CHÙA GIÁC LÂM.

Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Hồ Sơn Diệp.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Tú Khâm (1356130020).

Nguyễn Thị Ngà (1356130029).

Lê Thị Thanh Nguyên (1356130035).

Đặng Thị Quí (1356130042).

Phan Vũ Phương Quỳnh (1356130044).

Huỳnh Thị Kim Thoa (1356130052).


Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014.
MỤC LỤC.

MỤC LỤC………………………………...............................................trang
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………...trang 3

PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………….trang 4

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI………………………………………………trang 4

2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU………………………………………….trang 6

3.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU…………………………………………trang 7

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………….trang 8

1.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÙA GIÁC


LÂM……………………………………………………………………trang 8

2.GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA CHÙA GIÁC LÂM………...trang 11

2.1.KIẾN TRÚC………………………………………………………..trang 11

2.1.1.KIẾN TRÚC XUNG QUANH VƯỜN CHÙA…………………..trang


11

2.1.1.1.CỔNG NHỊ QUAN…………………………………………….trang


11

2.1.1.2.CỔNG TAM QUAN…………………………………………...trang


14

2.1.2.KIẾN TRÚC CHÙA CHÍNH…………………………………….trang


15

2.1.2.1.CHÍNH ĐIỆN…………………………………………………..trang
16

2
2.1.2.2.NHÀ TRAI……………………………………………………..trang 20

2.1.2.3.NHÀ GIẢNG…………………………………………………...trang
23

2.2.TƯỢNG THỜ………………………………………………………trang
24

2.2.1.BÀN THỜ CHÍNH……………………………………………….trang


25

2.2.2.BỘ TƯỢNG THẬP BÁT LA HÁN……………………………...trang


28

2.2.3.BỘ TƯỢNG THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG……………………..trang


33

2.2.4.CÁC TƯỢNG KHÁC……………………………………………trang


35

2.3.TÁC PHẨM MỸ THUẬT PHẬT GIÁO KHÁC.…………………trang 38

2.3.1.HOÀNH PHI……………………………………………………..trang
39

2.3.2.BAO LAM………………………………………………………..trang 40

2.3.3.LIỄN ĐỐI………………………………………………………...trang
41

2.3.4.PHÁP KHÍ………………………………………………………..trang
42

2.3.5.LƯ HƯƠNG……………………………………………………...trang
43

2.3.6.BÀN THỜ………………………………………………………..trang 44

3
3.NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ -
VĂN HÓA CỦA CHÙA GIÁC LÂM…………………………………trang 46

3.1.THỰC TRẠNG CHÙA GIÁC LÂM………………………………trang 46

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ -
VĂN HÓA CỦA CHÙA GIÁC LÂM…………………………………trang 49

PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………….trang 51

LỜI CẢM ƠN………………………………………………………….trang 52

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1.Tiến sĩ Hồ Sơn Diệp – Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệp, “Đình, chùa, lăng,
miếu, di sản văn hóa vật thể của người Việt tại Thành phố Hồ Chí Minh”.

2.Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”.

3.Tiến sĩ Phan Anh Tú, ’’Góp thêm ý kiến về hướng bảo tồn di tích kiến
trúc nghệ thuật Chùa Giác Lâm’’.

4.Giáo sư – Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, “Truyền thống dân tộc
trong công cuộc đổi mới hiện đại hoá đất nước Việt Nam”.

5.“Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 62”.

4
PHẦN MỞ ĐẦU.

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Di sản văn hóa, di tích lịch sử Việt Nam ta mang những giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc được lưu giữ qua bao thời kỳ, có ý nghĩa và
vai trò to lớn, quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới.
Theo thời gian và sự vận động phát triển không ngừng trong công cuộc
xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay, đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến di sản văn hóa, đặc biệt là
các di sản văn hóa vật thể như đình, chùa, lăng, miếu - là nơi luôn gắn
bó mật thiết với đời sống tinh thần mỗi người dân Việt Nam, đây không
chỉ là không gian văn hóa tôn giáo, nơi phục vụ các hoạt động thờ cúng
tâm linh mà còn là nơi sinh hoạt công đồng, in dấu những hương ước,

5
lệ làng, những thiết chế lâu đời - thì liệu những giá trị truyền thống quý
báu ấy có còn được bảo tồn và phát huy cùng với sự phát triển của đất
nước ngày nay?

Chùa là một nhân tố rất phổ biến, đặc trưng, tạo nên nền văn hóa
truyền thống cho cộng đồng các dân tộc. Những ngôi chùa như một
phần không thể thiếu trong bức tranh làng quê của chúng ta ngày xưa,
và ngày nay, ở các thành phố lớn, chúng ta vẫn thấy sự hiện diện của
các ngôi chùa cổ giữa đô thị nhộn nhịp. Bởi vì, chùa luôn gắn bó mật
thiết với đời sống tinh thần của mỗi người dân chúng ta, nó không chỉ có
vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn hóa truyền thống của nước ta mà
còn tác động sâu sắc toàn diện đến nhiều mặt của xã hội Việt Nam.
Chùa với người Việt không chỉ là không gian văn hóa tôn giáo, nơi phục
vụ các hoạt động thờ cúng tâm linh mà còn là nơi sinh hoạt cộng đồng,
nơi in dấu những thiết chế lâu đời của xã hội xưa. Hồ Chí Minh – một
thành phố đầy năng động, một trung tâm kinh tế trọng điểm ở phía Nam
của nước ta. Nhưng chúng ta cũng không khó để thấy được các ngôi
chùa cổ trong lòng thành phố. Giác Lâm là một trong những ngôi chùa
cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh, đã được Bộ Văn hóa – Thông tin
công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia của Việt Nam theo
quyết định số 1288- Vh/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.

Chùa thu hút hàng triệu lượt khách trong và ngoài nước đến tham
quan, chiêm bái, lễ phật, và sự quan tâm, nghiên cứu của các học giả
khoa học trên các lĩnh vực. Đến với chùa Giác Lâm, mọi người đều
mang trong lòng sự hiếu kỳ, khám phá về vẻ đẹp của lối kiến trúc cổ
xưa, tìm hiểu nền văn hóa Phật giáo và cũng như là tìm về cội nguồn và
bản sắc văn hóa của người dân Nam Bộ. Ngoài những vẻ đẹp về mặt
hình thức, chùa Giác Lâm còn mang trong mình những vẻ đẹp có giá trị
nhân văn sâu sắc, là nơi lưu giữ những dấu ấn về lịch sử, tôn giáo, tín

6
ngưỡng của dân tộc. Nhưng bên cạnh đó, chùa Giác Lâm còn phải đối
mặt với những thực trạng về việc bảo tồn các cổ vật, di vật,... và những
yếu tố tác động khách quan, chùa được trùng tu lại nhiều lần nên kiến
trúc chùa lại mang thêm những đặc điểm mới. Đây cũng chính là lý do
mà nhóm chọn đề tài nghiên cứu về chùa Giác Lâm nhằm hiểu rõ về
những giá trị di sản văn hóa chùa, cũng như là phương thức bảo tồn và
phát huy di sản.

2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.

Tìm hiểu di sản văn hóa vật thể chùa Giác Lâm nhằm hiểu rõ hơn
những giá trị mà tiền nhân đã hun đúc và lưu truyền lại cho chúng ta.

Hy vọng đóng góp vào nguồn tài liệu nghiên cứu về chùa cho các
công trình nghiên cứu khoa học về sau.

7
Góp phần phục vụ cho công tác bảo tồn di sản, công tác tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức tôn trọng và giữ gìn di
sản cho mọi người.

3.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.

Thông qua nghiên cứu khảo sát, tiếp cận thực tế đã dặt ra những
nhiệm vụ cần thiết là phải nắm rõ tình hình các cổ vật, di vật văn hóa,
kiến trúc, cảnh quan trong khuôn viên chùa cũng như là những thực

8
trạng về việc bảo tồn các loại di sản trong chùa và những yếu tố tác
động bên ngoài.

Từ đó đưa ra các giải pháp thực tiễn để bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa.

PHẦN NỘI DUNG.

1.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÙA GIÁC LÂM.

9
“Ở địa phận xã Phú Mỹ Thọ, huyện Bình Dương, trên chỗ gò bằng,
có gò kim đôi rộng độ ba dặm, trên gò cỏ thơm mọc dày như trải nệm,
cây cao bóng mát như lọng che. Sáng chiều mây khói nổi bay quanh
quất, địa thế tuy nhỏ mà có nhã thú. Mùa xuân năm Giáp Tý (1744), đời
vua Thế Tôn thứ bảy, người xã Minh Hương là Lý Thụy Long quyên của
xây dựng nhà chùa trang nghiêm, cửa thiền u tịch”(Nguồn: Tiến sĩ Trần
Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”). Đó là cảnh
quan thơ mộng và thanh tịnh, nơi đã được chọn để xây dựng một ngôi
chùa mang tên Cẩm Sơn, Sơn Can hoặc Cẩm Đệm, là tiền thân của
ngôi chùa Giác Lâm sau này. Vị trí này hiện nay là số 565 (số cũ 118)
đường Lạc Long Quân, phường 10, quận Tân Bình.

Từ năm 1774, khi Thiền sư Viên Quang về trụ trì chùa Cẩm Đệm,
đã đổi tên thành chùa Giác Lâm. Chùa Giác Lâm từ đó đến nay đã trải
qua gần 300 năm. Đó là một khoảng thời gian khá dài, ngôi chùa được
trùng tu và được 11 đời Thiền sư kế thế trụ trì: Tổ sư, Tổ tông (Viên
Quang) đời thứ 36, Tiên Giác (Hải Tịnh), Minh Vi, Minh Khiêm, Như Lợi,
Như Phòng, Hồng Hưng, Nhựt Dần, Lệ Sành(Nguồn: Bảng tóm tắt của
chùa Giác Lâm).

Vào những năm 1799 – 1804, sau hơn nửa thế kỷ trôi qua từ ngày
dựng chùa, Thiền sư Viên Quang đứng ra tiến hành cuộc đại trùng tu
lần thứ nhất ngôi chùa Giác Lâm. Những năm 1906 – 1909, Thiền sư
Hồng Hưng Thạnh Đạo, thuộc đời thứ 40, đã đứng ra trùng tu lần thứ
hai ngôi chùa Giác Lâm.

Chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích
Lịch sử - Văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 1288 – VH/QĐ ngày 16
– 11 – 1988.

10
Chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

11
Bảng tóm tắt của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

Bảng chứng nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa của chùa Giác Lâm.
(Ảnh: tự chụp)

12
2.GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA CHÙA GIÁC LÂM.

2.1.KIẾN TRÚC.

2.1.1.KIẾN TRÚC XUNG QUANG VƯỜN CHÙA.

2.1.1.1.CỔNG NHỊ QUAN.

Nét đặc sắc trong kiến trúc chùa, từ ngoài nhìn vào là cổng nhị
quan, được dựng lên vào năm 1939(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên,
“Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”). Từ trước, chùa không có
cổng tam quan, do đó cổng nhị quan được xem như cổng chính của
chùa. Cổng được dựng lên theo phong cách đặc biệt, độc đáo, có lẽ là
cổng đặc biệt nhất so với các chùa ở Nam Bộ, cũng như cả nước.

Hai cổng sắt hai bên được ngăn cách bởi hai hàng rào và một tấm
bình phong bằng gạch cao khoảng gần sáu mét(Nguồn: Tiến sĩ Trần
Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”). Bình phong có
chân đế trang trí dạng chân quỳ tiếp nối với bức chắn bằng gạch trơn
không có hoa văn. Đầu tiên là dòng chữ Hán khắc theo chiều ngang:
“Bảo trụ thần phan”(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di
tích Lịch sử - Văn hóa”)ở mặt trước. Nối với phần này là dạng kiến trúc
tựa mái che, hai bên có hai sư tử ngồi dạng chầu hầu. Tầng trên là một
bức bình phong có kích thước nhỏ hơn, trang trí đầu rắn Naga cách
điệu. Bức bình phong này có mặt trước và sau khắc dọc hàng chữ Hán:
“Ô Quang thái tử” và “Ô Minh thái tử”(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên,
“Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”). Trên bình phong là mái
ngói nhỏ có đặt một bình bằng sứ. Toàn bộ cổng nhị quan nổi bật trên
nền xanh um tùm của cây bồ đề phía sau.

13
Để thấy hết giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hóa của cổng nhị quan,
chúng ta cần tìm hiểu về những hàng chữ Hán, cũng như chức năng
của cổng này. Tam quan là cổng vào của phần lớn các ngôi chùa. Cổng
nhị quan tại chùa Giác Lâm được xây dựng, bỏ đi phần cửa ở giữa.
Thông thường, đây là lối vào chính. Nay thiết kế cổng vào hai bên, chắn
lại phần cửa chính, điều đó thể hiện một sự phản kháng đặc biệt. Đó là
sự phản kháng lại ách áp bức, nô dịch dân tộc dưới thời Pháp, mà cụ
thể là những quan Tây đã đến chùa, không có cổng chính để vào, bắt
buộc phải đi bằng lối nhỏ hẹp hai bên. Sự phản kháng còn thâm thúy
hơn khi tìm hiểu hang loạt chữ Hán được chạm khắc trên bức bình
phong. “Ô Quang thái tử” và “Ô Minh thái tử” đều đồng nghĩa như con
trời, ý nói cả con trời cũng không được đi bằng lối giữa này, còn lâu mới
tới lượt quan Tây!(Tham khảo: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm,
Di tích Lịch sử - Văn hóa”).

Cổng nhị quan của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

14
Mặt trước bức bình phong của cổng nhị quan ở chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

15
Mặt sau bức bình phong của cổng nhị quan ở chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

2.1.1.2.CỔNG TAM QUAN.

Cổng tam quan chùa Giác Lâm được xây dựng vào năm 1955, gồm
ba lối vào, tượng trưng cho “không quan, giả quan, trung quan” và còn
có ý nghĩa của “tam giải thoát ấn”, “tam pháp ấn” (không, vô tướng, vô
nguyện). Mỗi cổng đều có mai che, lợp ngói, các đầu đao gắn hoa văn
trang trí, diềm mái lá đề màu xanh thẫm nổi bật bên cạnh hàng ngói đỏ.
Trên cổng giữa khắc ba chữ Hán: “Giác Lâm tự”(Nguồn: Tiến sĩ Trần
Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”), hai bên chạm
hai câu đối có chữ đầu và chữ cuối hợp lại là “TỔ ĐÌNH GIÁC LÂM”:

“GIÁC ngộ quảng khai từ thiện đồng lai qui hướng TỔ,

LÂM tuyền phổ nhuận ngộ mê cộng hưởng tuệ vi ĐÌNH.”

Dịch là:

16
“Giác ngộ thênh thang đón khách thiện từ về hướng Tổ,

Lâm tuyền tĩnh tịch đưa người mê ngộ tới vi Đình.” (Tín Phủ dịch)

Cổng tam quan của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.1.2.KIẾN TRÚC CHÙA CHÍNH.

Chùa có cấu trúc hình chữ tam (三), gồm ba dãy nhà ngang nối liền
nhau (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và nhà trai.
Sườn nhà đâm trính cột kê. Mái lợp ngói âm dương.

Mặt bằng hình chữ tam của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

17
Sườn nhà đâm trính cột kê của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.1.2.1.CHÍNH ĐIỆN.

Mái hình bánh ít. Phía trên mái chính điện có tượng ’’Lưỡng long
tranh châu’’. Mỗi đầu kèo đều tạc đầu rồng. Sau lưng bàn thờ chính
trong chính điện là bàn thờ Tổ, treo ảnh các vị Tổ từ thế hệ 33 đến
41(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử -
Văn hóa”), các bài vị được đặt rất trang trọng.

18
Chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

19
Mái lợp ngói âm dương và tượng “Lưỡng long tranh châu” ở chính
điện của chùa Giác Lâm.

Kèo tạc đầu rồng ở chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

20
Bàn thờ Tổ ở chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

Bàn thờ Tổ ở chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

21
Bàn thờ Tổ ở chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

22
2.1.2.2.NHÀ TRAI.

Nơi đây đặt hai dãy bàn theo chiều dọc thờ Phật tử quá vãng, có
ảnh và bài vị. Ngoài ra, tại đây còn đặt ba dãy bàn dài dùng tiếp khách,
đãi ăn vào các ngày lễ lớn, bàn cho chư Tăng dùng cơm mỗi ngày. Đầu
bàn chư Tăng thọ thực là bàn thờ Chuẩn Đề.

Dãy bàn thờ Phật tử quá vãng ở nhà trai của chùa Giác Lâm. (Ảnh:
tự chụp)

23
Dãy bàn thờ Phật tử quá vãng ở nhà trai của chùa Giác Lâm. (Ảnh:
tự chụp)

24
Ba dãy bàn dài ở nhà trai của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

Bàn thờ Chuẩn Đề ở nhà trai của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

25
2.1.2.3.NHÀ GIẢNG.

Tiếp nối nhà trai, cách một sân Thiên Tĩnh, là nơi học tập của các
Tăng sĩ.

Sân Thiên Tĩnh có hòn non bộ, phía sau là nhà giảng của chùa Giác
Lâm. (Ảnh: tự chụp)

26
2.2.TƯỢNG THỜ.

Được xây dựng cách đây gần 300 năm, trải qua hai lần trùng tu lớn
vào năm 1799 – 1804 và 1906 – 1909(Nguồn: Bảng tóm tắt của chùa
Giác Lâm), số lượng tượng của chùa Giác Lâm khá nhiều. Do diện tích
được mở rộng, một số tượng nhỏ tỏ ra không cân xứng, chùa đã cho
tạo tác nhựng tượng to lớn hơn. Hiện còn lưu giữ tại chùa là 113 pho
tượng cổ, trong đó có bảy tượng đồng(Nguồn: Bảng tóm tắt của chùa
Giác Lâm).

27
2.2.1.BÀN THỜ CHÍNH.

Ở bậc cao nhất trên bàn thờ trong chính điện chùa Giác Lâm là bức
tượng Phật A Di Đà, bên trái (nằm ngoài bàn thờ chính điện) là tượng
Bồ tát Quán Thế Âm, bên phải là tượng Bồ tát Đại Thế Chí, đây chính là
bộ tượng Di Đà Tam Tôn. “Phật A Di Đà là pho tượng lớn nhất trong
chùa, cao hai mét và cũng là pho tượng duy nhất được tạo tác theo
phong cách tạc miền Bắc. Tượng bằng gỗ, đắp đất sét và giấy bản bên
ngoài một lớp mỏng, sau đó mới sơn son thếp vàng.”(Nguồn: Tiến sĩ
Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”)

Ở hàng dưới tượng Phật A Di Đà là tượng Phật Thích Ca ở chính


giữa, bên trái là tượng Ca Diếp, bên phải là tượng A Nan. Dưới bức
tượng này là tượng Cửu Long, thể hiện lúc Đức Phật Thích Ca mới
chào đời có chín con rồng tới phun nước để tắm cho Người. Nằm trong
số bảy pho tượng bằng đồng hiếm hoi, Cửu Long là một pho tượng quý.

Bên dưới tượng Cửu Long là tượng Phật Thích Ca đản sinh, bên
trái là tượng ông Ác, bên phải là tượng ông Thiện. Phía dưới cùng của
bàn thờ chính là bộ tượng Ngũ Hiền Thượng Kỳ Thú gồm tượng Thích
Ca ở giữa, ngồi trên tòa sen nên cao hơn các tượng khác, hai bên là Bồ
tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù và Phổ Hiền. Bốn tượng Bồ Tát
đều ngồi trên lưng một con vật: Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên mình voi, tay
cầm nhánh sen; Đại Thế Chí Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát cưỡi sư tử,
tay cầm cuốn thư; Văn Thù Bồ Tát cũng cưỡi sư tử nhưng tây cầm
nhành như ý. Các con vật đều nằm trong tư thế phủ phục. Các tượng
này, tay đều trong thế bắt ấn, thể hiện tư thế đang hoằng hóa chúng

28
sinh. Bộ tượng này được tạc bằng gỗ mít nài, thếp vàng, cao
0,08cm(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử
- Văn hóa”).

Bàn thờ chính trong chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

29
Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. (Ảnh: tự chụp)

30
Tượng Bồ Tát Đại Thế Chí. (Ảnh: tự chụp)

31
2.2.2.BỘ TƯỢNG THẬP BÁT LA HÁN.

18 vị La Hán chùa Giác Lâm được đặt dọc hai bên hành lang chính
điện. Bộ lớn đặt trên, bộ nhỏ đặt dưới, trên bàn thờ nhị cấp (hai tầng).
Mỗi bên hành lang đặt chín vị lớn và chín vị nhỏ. “Bộ nhỏ cao 50cm,
ngang giữa hai gối 32cm, đặt trên bệ cao bảy cm, được tạo tác vào giữa
thế kỷ XVIII, từ khi lập chùa. Bộ lớn cao 80cm, ngang giữa hai gối 45cm,
bệ cao 15cm, được tạo tác vào đầu thế kỷ XIX, trong lần trung tu lần thứ
nhất của chùa. Cả hai bộ tượng đều được tạc bằng gỗ mít nài.”(Nguồn:
Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”). Bộ
tượng La Hán nhỏ, nhiều đường nét tạo tác thể hiện sự ảnh hưởng của
mỹ thuật Phật giáo Trung Quốc. Bộ tượng La Hán lớn, những đặc điểm
ảnh hưởng của mỹ thuật Phật giáo Trung Quốc đã giảm hẳn. Tượng La
Hán chùa Giác Lâm, mỗi vị một tư thế: có vị tay cầm cây như ý, có vị
nâng tháp bốn tầng, có vị cầm bình hồ lô, có vị ngồi ngoáy tai, có vị ngồi
tư thế “tay xé ngực chỉ Phật tại tâm”,...

Bộ tượng La Hán chùa Giác Lâm có một giá trị lịch sử lớn. Là hiện
vật trong ngôi cổ tự lâu đời nhất thành phố nên tượng La Hán chùa Giác
Lâm cũng cao tuổi hơn so với các tượng La Hán khác. Bộ tượng còn
chứng minh cho quá trình phát triển của Phật giáo ở Nam Bộ, từ những
ảnh hưởng nặng nề của Phật giáo Trung Quốc, đã dần dần xác lập
được một dòng mới, mang đặc điểm dân tộc và hoàn toàn của người
Việt.

32
Hai dãy hành lang trong chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

33
Hai dãy hành lang trong chính điện của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

34
Tượng La Hán của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

35
Tượng La Hán của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

Tượng La Hán của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

36
Tượng La Hán của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

37
Tượng La Hán của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.2.3.BỘ TƯỢNG THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG.

Hai bên trái, phải của chính điện, mỗi bên đặt năm vị Diêm Dương.
Khuôn mặt của những ngườ đang xét xử nên không vui cũng không
buồn mà toát lên vẻ trang nghiêm, trang trọng. Cùng một kiểu tay, một
thế ngồi, một kiểu áo, nhưng không tượng nào giống tượng nào, vì hoa
văn trên áo và mão. Sự thêm bớt hoa văn trên áo và mão, tuy tiểu tiết
nhưng chính sự thay đổi đó đã làm cho bộ tượng thêm sinh động, mềm
mại hơn.

38
Bộ tượng Thập điện Diêm Vương của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

39
Bộ tượng Thập điện Diêm Vương của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

40
2.2.4.CÁC TƯỢNG KHÁC.

Trong chùa còn phối trí một số bức tượng khác như tượng Hộ
Pháp, Tiêu Diện Đại Sĩ, Quan Thánh, Bồ Đề Đạt Ma, Địa Tạng,…

Tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện Đại Sĩ được đặt đối xứng với bàn thờ
chính, ngay phía cửa chính điện. Hộ Pháp là người có uy lực và quyền
năng to lớn, có nhiệm vụ hộ trì Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).

Tượng Quan Thánh được đặt giữa hai tượng La Hán lớn, trên bàn
thờ cuối cùng của dãy hành lang bên phải bàn thờ chính (từ bàn thờ Hộ
Pháp, Tiêu Diện nhìn vào). Ngài là vị thánh chuyên chống lại quỷ quái
ma tà, trấn áp hung sát khí.

Tượng Bồ Đề Đạt Ma được đặt phía trước một bức tranh của Ngài,
giữa hai tượng La Hán lớn, trên bàn thờ cuối cùng của dãy hành lang
bên trái bàn thờ chính (từ bàn thờ Hộ Pháp, Tiêu Diện nhìn vào). Tương
truyền, Đức Bồ Đề Đạt Ma có tên tục là Bồ Đề Đa La, là con trai thứ ba
của quốc vương nước Hương Chí, nam Thiên Trúc. Sau nhiều năm tu
hành, với trí thông minh và ngộ tính tuyệt vời của mình, Bồ Đề Đạt Ma
trở thành vị tổ thứ 28 của Phật giáo. Nhớ lời thầy dặn phải xuất dương
truyền pháp thì mới nên sự nghiệp vĩ đại nên Ngài đã xuống thuyền ra
khơi rao truyền Phật pháp.

Tượng Địa Tạng bằng đồng(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa
Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”)được đặt giữa hai tượng La Hán
lớn, trên bàn thờ đầu tiên của dãy hành lang bên phải bàn thờ chính (từ
bàn thờ Hộ Pháp, Tiêu Diện nhìn vào). Địa Tạng Vương Bồ Tát được
hầu hết mọi người biết đến và cầu nguyện, nhất là trong những buổi cầu
siêu, vì lời đại nguyện vang lừng các cõi của Ngài: “Địa ngục vị không,

41
thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề” (Địa ngục
chưa trống, thề không thành Phật, độ hết chúng sinh, mới chứng bồ đề).

Tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện Đại Sĩ của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

42
Tượng Quan Thánh của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

43
Tượng Bồ Đề Đạt Ma của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

44
Tượng Địa Tạng của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.3.TÁC PHẨM MỸ THUẬT PHẬT GIÁO KHÁC.

Trải qua thời gian tồn tại dài lâu cùng dòng chảy lịch sử nhiều biến
động, chùa Giác Lâm hiện nay còn lưu giữ nhiều tác phẩm mỹ thuật
Phật giáo độc đáo. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến những hoành phi,
bao lam, liễn đối, pháp khí, lư hương, bàn thờ,…

45
2.3.1.HOÀNH PHI.

Chùa có tất cả 19 bức hoành phi(Nguồn: Bảng tóm tắt chùa Giác
Lâm). Hầu hết các bức hoành này đều được các nơi (chùa, Hòa
thượng, Phật tử, các quan chức trong vùng,…) gửi đến biếu cúng nhân
dịp chùa có trai đàn, cúng lễ lớn, đặc biệt là các lễ lạc thành sau hai đợt
trùng tu. Một vài bức hoành phi tiêu biểu là “Đạo Mạch Trường Hưng”,
“Bồ Đề Thọ Trưởng”, “Tả Phất Vi Chân”, “Tổ Ấn Trùng Quang”, “Hữu Vệ
Vi Chính”, “Cảnh Tự Trường Xuân”, “Phật Pháp Trường Hưng”, “Đạo
Tràng Vĩnh Thịnh”, “Vĩnh Thụy Đức Trạch”,…

Phần lớn các bức hoành phi có niên đại sớm nên mang phong cách
Trung Quốc rất đậm; điều này thể hiện qua tên gọi, chữ viết, hoa văn,…;
đa số các chữ, cả chính và phụ, đều bằng chữ Hán, lối viết từ phải sang
trái, từ trên xuống dưới; hoa văn thể hiện bửu bối trong bát bửu còn nói
lên sự phối hợp, ảnh hưởng của Đạo giáo với Phật giáo. Một số ít
hoành phi có niên đại muộn đã có sự phá vỡ phong cách cũ, trong nội
dung đã đưa vào một ít chữ Việt, năm tháng tạo tác,… Như vậy, toàn bộ
các bức hoành đều có giá trị lịch sử, góp phần vào việc chứng minh cho
sự mờ dần của ảnh hưởng Trung Quốc trong các hiện vật, trong tư
tưởng người biếu cúng. Mặt khác, các bức hoành còn có giá trị văn hóa,
nói lên tính “Tam giáo đồng nguyên” (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo) của
giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến nay và đặc biệt là tính chất dung hợp cao
của Phật giáo ở Việt Nam cũng như Nam Bộ.(Tham khảo: Tiến sĩ Trần
Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”)

46
Hoành phi “Bồ Đề Thọ Trưởng” của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.3.2.BAO LAM.

Chùa có tất cả chín bao lam(Nguồn: Bảng tóm tắt chùa Giác Lâm).
Những bao lam này phong phú về đề tài, sinh động trong đường nét thể
hiện. Về thực vật có sen, phù dung, hoa tạng, mai, lan, cúc, trúc, giác,…
Về động vật có long, lân, quy, phụng, nai, công, dơi, sâu, cào cào,…

Bao lam trên bàn thờ chính của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)
47
2.3.3.LIỄN ĐỐI.

Chùa có tất cả 86 câu đối(Nguồn: Bảng tóm tắt chùa Giác Lâm).

Cầu mong cho “lợi lạc quần sinh”, “phong điều vũ thuận”, “quốc thái
dân an”,… là chủ đề chính trong các câu đối ở chùa Giác Lâm. Điều này
góp phần đem lại cho các câu đối một giá trị lịch sự to lớn. Đó là mối
quan hệ gắn bó giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa (thờ
cúng Thần Nông, cầu mong mưa thuận gió hòa,…). Về giá trị văn hóa,
các câu đối cũng thể hiện mối quan hệ, sự kết hợp của tư tưởng Phật
giáo và Nho giáo. (Tham khảo: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm,
Di tích Lịch sử - Văn hóa”)

48
Cặp câu đối ở bàn thờ chính của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.3.4.PHÁP KHÍ.

Một trong những tác phẩm mỹ thuật Phật giáo có đóng góp giá trị
vào di tích lịch sử - văn hóa chùa Giác Lâm ngày nay chính là những
pháp khí. Từ những phương tiện dùng để sử dụng trong nghi lễ, các
pháp khí đã trở thành những dấu ấn về sinh hoạt Phật giáo tại vùng đất
Gia Định xưa. Có nhiều loại và mỗi loại còn có nhiều hình dáng, chất
liệu khác nhau, góp phần mang lại nét mới mẻ, sinh động cho văn hoá
Phật giáo ở Gia Định, góp phần làm rõ thêm tính lịch sử, tính dân tộc,
tính địa phương.
49
Một trong số những bộ pháp khí của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.3.5.LƯ HƯƠNG.

“Các lư hương trong chùa (33 cái) thuộc loại lớn, trung và nhỏ, đều
bằng đồng và mặt trước lư có khắc nổi ba chữ Hán: “Giác Lâm tự”, mặt
sau có ba chữ: “Giác Viên tự”.(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa
Giác Lâm, Di tích Lịch sử - Văn hóa”)

50
Lư hương ở bàn thờ chính của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

2.3.6.BÀN THỜ.

“Trong chùa có tất cả 45 bàn thờ, đa số đều được tạo tác tại chùa,
vào đầu thế kỷ XIX, được làm bằng cây gõ (bàn Phật) và cây thau lau
(bàn vong).”(Nguồn: Tiến sĩ Trần Hồng Liên, “Chùa Giác Lâm, Di tích

51
Lịch sử - Văn hóa”). Trừ một số ít bàn vong không chạm khắc hoa văn,
tất cả các bàn thờ khác đều có bao lam.

Các bàn thờ này là những hiện vật quý, có giá trị về mặt lịch sử,
cung cấp cho nhà nghiên cứu nhiều loại hiện vật phong phú về kiểu
dáng chạm khắc.

Bàn thờ không chạm khắc hoa văn của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự
chụp)

52
Bàn thờ có bao lam của chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

53
3.NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ -
VĂN HÓA CỦA CHÙA GIÁC LÂM.

3.1.THỰC TRẠNG CHÙA GIÁC LÂM.

Dù Điều 13, Chương 1 của Luật Di sản Văn hóa đã quy định rõ:
“Nghiêm cấm các hành vi chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa, hủy
hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa, xây dựng trái phép, lấn
chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hóa,…”; dù đã được nhà chùa
dốc sức bảo quản, gìn giữ; nhưng từ nhiều năm qua vẫn còn xảy ra tình
trạng một số người dân xung quanh xâm lấn khuôn viên chùa. “Theo đại
đức Thích Từ Trí, Phó trụ trì chùa Giác Lâm, trước năm 1975, nhà chùa
có cho một đơn vị mượn một phần đất đặt văn phòng ngay trong khuôn
viên. Về sau, đơn vị này không hoạt động nhưng người của đơn vị cũ
không trả mặt bằng mà còn cho một số hộ thuê lại. Chưa kể một số hộ
dân khác (phía đường Lạc Long Quân) xây cất nhà diện tích hàng trăm
mét vuông xâm lấn khuôn viên di tích”.(Nguồn: sggp.org.vn)

Ngôi chùa được gìn giữ và tôn tạo khang trang. Tuy nhiên, việc tôn
tạo không đúng phương pháp đã làm mất giá trị cổ xưa của ngôi chùa.
Ví dụ rõ nhất của việc tôn tạo sai phương pháp là ở khu mộ tháp cổ phía
sau chùa. Toàn bộ khu mộ tháp được sơn mới. Một giảng đường lớn
được xây lên ngay bên cạnh chính điện, dù nằm ngoài khu di tích nhưng
ít nhiều làm ảnh hưởng đến cảnh quan của ngôi chùa cổ. Bước chân
vào ngôi chùa này, nếu không biết qua tiểu sử của nó, ít ai nghĩ ngôi
chùa có từ thế kỷ XVIII. Bản thân nhóm chúng em, lần đầu tiên đến
chùa, thay vì vào chính điện, đã đi nhầm sang giảng đường này, vì
tưởng ngôi giảng đường to lớn, đẹp đẽ đó chính là chính điện.

Ngoài ra, chùa còn bị người dân lấn chiếm làm nơi buôn bán. Bên
ngoài cổng chùa, mặc dù có biển báo “CẤM TỤ TẬP, BUÔN BÁN, DE

54
XE, ĐẬU VÀ ĐỂ XE CÁC LOẠI”, nhưng hàng rong vẫn tấp nập, tiếng
chèo kéo khách í ới.

Dù treo bảng “KHU VỰC THÁP CỔ, CHỈ ĐƯỢC THẮP NHANG,
KHÔNG TỤ TẬP, NGỒI, NẰM NƠI NÀY” nhưng tháp không hề cổ vì đã
bị sơn mới hoàn toàn. (Ảnh: tự chụp)

55
Giảng đường lớn được xây lên ngay bên cạnh chính điện của chùa
Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

Giảng đường lớn được xây lên ngay bên cạnh chính điện của chùa
Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

56
Bảng cấm trước cổng chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ -
VĂN HÓA CỦA CHÙA GIÁC LÂM.

Các ban/ngành của Nhà nước cùng kết hợp với Giáo hội và cộng
đồng Phật tử để đề xuất kiến nghị, xây dựng kế hoạch bảo vệ không
gian nhà chùa nhằm hạn chế tối đa việc xây dựng các công trình cao
tầng xung quanh di tích vì việc xuất hiện ngày càng nhiều các tòa nhà
cao tầng sẽ làm hạn chế tầm nhìn đối với di tích, ngăn cản các luồng gió
hay không khí đối lưu cho không gian sống của cây cối, hoa cỏ trong
khuôn viên nhà chùa.

Cần trùng tu, tôn tạo đúng theo quy trình của ngành Di sản, hạn chế
việc xây thêm những công trình phụ bằng bê tông hay chất liệu hiện đại.
57
Về màu sắc, cần tránh sơn tường bằng những màu bóng bẩy, chói lóa,
sẽ gây cảm giác làm mới di tích cho người tham quan, viếng chùa. Các
pho tượng thờ cần bảo tồn theo hướng tượng gốc (sơn son thiếp vàng),
việc làm mới tượng bằng các loại sơn hiện đại sẽ xóa đi giá trị của cổ
vật, đó là xóa đi lớp bụi thời gian hàng trăm năm của hiện vật cổ.

Nhà chùa cần trưng bày tập trung hơn vào việc mô tả tội trạng mà
linh hồn phải gánh chịu khi phá phách chùa chiền, chứ không phải chỉ
trưng bày đơn lẻ ở nhà giảng, lại khuất tầm mắt nên không được chú ý.
Đây là cách giáo dục tâm linh học cho cộng đồng trong việc bảo tồn di
tích lịch sử - văn hóa chùa Giác Lâm có hiệu quả hơn.

Bên cạnh nhà chùa, các cơ quan chức năng cũng cần nâng cao
nhận thức xã hội về vai trò của việc bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử -
văn hóa của chùa Giác Lâm, hoạt động truyền thông cần được tiến hành
thường xuyên và đa dạng hóa, cả về nội dung lẫn hình thức.

Cần quan tâm đầu tư nguồn kinh phí cho công tác bảo tồn và phát
huy giá trị lịch sử - văn hóa của chùa Giác Lâm, bao gồm ngân sách nhà
nước, nguồn tài trợ và đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước.

Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá
nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản và giới thiệu
rộng rãi giá trị lịch sử - văn hóa của chùa Giác Lâm, đồng thời tập trung
đào tạo đội ngũ những người làm công tác văn hóa, kiện toàn tổ chức
bộ máy quản lý di tích lịch sử - văn hóa này.

58
“Thập Điện Diêm Vương Cảnh” được trưng bày tại nhà giảng của
chùa Giác Lâm. (Ảnh: tự chụp)

PHẦN KẾT LUẬN.

Chùa Giác Lâm là nơi chứa đựng nhiều tư liệu quý báu về lịch sử,
văn hóa, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Trải qua nhiều lần trung tu,
bảo dưỡng, chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa bên ngoài nhưng
chùa Giác Lâm vẫn lưu giữ được những dấu ấn trong một số đường nét

59
kiến trúc, mỹ thuật của hệ thống các tượng thờ, bao lam, hoàng phi, liễn
đối,... Trong cuộc sống hôm nay, cần ra sức giữ gìn, phát huy giá trị của
chùa Giác Lâm nói riêng và di sản văn hóa nói chung, nhằm phục vụ
các nhu cầu xã hội, phục vụ các đối tượng đến tham quan nghiên cứu,
phục vụ nhu cầu phát triển du lịch, giúp con người hướng về cội nguồn,
về những nét đẹp truyền thống, nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hoá tinh thần trong đời sống văn hoá dân tộc Việt,…

LỜI CẢM ƠN.

Chúng em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Hồ Sơn Diệp đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình chúng em học tập và
nghiên cứu.

60
Dù đã có rất nhiều cố gắng, song do khả năng còn hạn chế nên
trong tiểu luận chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng
em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy.

61

You might also like