You are on page 1of 38

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

ĐỀ TÀI : NÉT VĂN HÓA VIỆT NAM


QUA LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM TỈNH AN GIANG

Nhóm sinh viên thực hiện:

STT HỌ VÀ TÊN MSSV

1 BÙI THỊ NGỌC LAN 48.01.608.030

2 LÊ THÙY LINH 48.01.608.034

3 TRẦN NGUYỄN BẢO NGÂN 48.01.608.045

4 NGUYỄN HỮU PHƯỚC 48.01.608.059

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: HUỲNH VĂN MINH


MÃ HỌC PHẦN: LITR191213

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
TRONG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM .............................................................. 3
1.1. Khái niệm tín ngưỡng .............................................................................. 3
1.2. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu ................................................................ 4
1.2.1. Nguồn gốc hình thành ........................................................................ 4
1.2.2. Lịch sử phát triển ............................................................................... 5
1.2.3. Tục thờ Mẫu ở ba miền Việt Nam (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ) ....... 6
CHƯƠNG 2: LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM Ở NAM BỘ VÙNG
CHÂU ĐỐC, AN GIANG ............................................................................... 11
2.1. Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ của người dân vùng Châu Đốc, An Giang ....... 11
2.1.1. Nguồn gốc tục thờ Bà Chúa Xứ của người dân vùng Châu Đốc, An
Giang ......................................................................................................... 11
2.2. Các nghi lễ trong lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam ................................. 16
CHƯƠNG 3: GIỮ GÌN GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA
XỨ NÚI SAM ................................................................................................. 20
3.1. Vai trò của lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đến đời sống người dân ở
vùng Châu Đốc, An Giang ............................................................................ 20
3.1.1. Trong đời sống văn hóa - xã hội ....................................................... 21
3.1.2. Trong đời sống tinh thần và truyền thống đạo đức ............................ 21
3.1.3. Trong quá trình hội nhập kinh tế và văn hoá ..................................... 23
3.2. Thực trạng và giải pháp để giữ gìn giá trị văn hoá của Lễ Hội Vía Bà
Chúa Xứ Núi Sam ......................................................................................... 24
3.2.1. Thực trạng những vấn đề còn tồn đọng trong công tác tổ chức Lễ Hội
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam ........................................................................... 24
3.2.2. Một số giải pháp để giữ gìn giá trị văn hoá của Lễ Hội Vía Bà Chúa
Xứ Núi Sam ............................................................................................... 26
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 33
LỜI MỞ ĐẦU

Lịch sử phát triển của loài người cho thấy văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội của các quốc
gia. Văn hóa là một từ có hàm nghĩa rất rộng, bao gồm lịch sử, giáo dục, xã hội...
và các lĩnh vực khác. Văn hóa giúp lịch sử nhân loại nhận thức không gian và
mọi sự vật xã hội hướng tới chân, thiện, mỹ. Trải qua biết bao biến động của lịch
sử, nếu có một điều mà nhân loại nói chung rất tự hào thì đó chính là những thành
tựu về văn hóa. Lịch sử trên thế giới đã chứng minh: lớp bụi thời gian sẽ làm phai
mờ tất cả, trừ giá trị văn hóa vẫn mãi mãi lưu truyền. Với sự phát triển của kinh
tế và sự kết nối ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới, văn hóa dân
tộc đã trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Trong những năm gần đây, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu “Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, làm sâu sắc thêm bản sắc dân tộc”.

Mỗi quốc gia đều có một bản sắc văn hóa riêng, bản sắc của dân tộc ta gắn
liền với những sắc thái văn hóa của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước đó.
Đối với mỗi đơn vị hành chính (tỉnh, huyện) của một quốc gia, ngoài những khác
biệt văn hóa của các dân tộc hiện có, còn có một số địa danh, di tích lịch sử, lễ
hội truyền thống tạo nên bản sắc văn hóa rất bình dị và rất đặc sắc cho đơn vị
hành chính này. đơn vị. Vì vậy, nếu biết phát huy và phát triển lành mạnh các giá
trị văn hóa của mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi di tích lịch sử, mỗi lễ hội truyền
thống thì chúng ta sẽ thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và giải quyết tốt
những vấn đề xã hội tiềm ẩn.

Việt Nam có 64 tỉnh, thành, từ Bắc vào Nam, hầu như nơi nào cũng có di
tích, thắng cảnh riêng. Mỗi di tích, thắng cảnh như một bông hoa rực rỡ trên cánh
đồng hoa văn hóa, mang đậm bản sắc dân tộc. An Giang thuộc miền Tây Nam
Bộ, là vùng đất có lợi thế về thiên nhiên, vùng đồng bằng bỗng dưng có núi. Đây

1
cũng là vùng đất giàu di sản lịch sử, văn hóa. Vùng đất này đã trở thành trung tâm
du lịch hành hương tiêu biểu và là biểu tượng của miền Tây.

An Giang có tục thờ Bà Chúa Xứ vì Bà được coi là vị nữ thần vô cùng linh


thiêng, luôn ban phép màu cho con người và cứu dân độ thế, Bà luôn đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong lòng người dân An Giang. Người ta kính trọng Bà không
chỉ vì Bà là nữ thần linh thiêng mà còn vì hình ảnh của Bà mang nhiều ý nghĩa
giáo dục cho con người. Sự kết tinh của yếu tố thẩm mỹ dường như thể hiện hết
những vẻ đẹp mà cô đã trải qua thông qua yếu tố giáo dục “đạo đức” trong tâm
hồn, đức hạnh được thể hiện trong lòng người. Trong cuộc sống, bạn phải biết
cách đối xử với người khác, điều đó thể hiện ở việc kính trọng ông bà, cha mẹ ở
nhà. Đối với đất nước thì phải biết yêu quý đất nước cũng như cuộc sống này -
cuộc sống đã mang chúng ta đến được với nhau để cùng nhau vượt qua những
thứ khó khăn làm nên cái gọi là những giá trị bất hủ “chân - thiện- mỹ”.

Bà Chúa Xứ núi Sam không chỉ là tín ngưỡng của người dân nơi đây mà
còn từ đây tổ chức các lễ hội mang đậm nét văn hóa địa phương, vùng miền.
Ngoài ra, người dân nơi đây còn tạo dựng cho mình một cuộc sống tươi đẹp xuất
phát từ niềm tin vào nữ thần, hướng tới mưu cầu một cuộc sống thịnh vượng, sức
khỏe, may mắn và giàu có. Điều ấn tượng hơn cả là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi
Sam còn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản Văn
hóa di vật thể quốc gia năm 2014.

Như chúng ta đã biết, thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ.
Vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp
thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Vì lý do này, nhóm chúng em muốn giới
thiệu nét đẹp văn hóa của lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam tỉnh An Giang đến với các
bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Vì vậy, nhóm chúng em chọn “ Nét văn hóa Việt Nam
qua lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam tỉnh An Giang” làm đề tài cho luận văn.

2
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU


TRONG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tín ngưỡng

Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ
nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh
thần cho cá nhân và cuộc sống.

Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian. Tín ngưỡng có tổ chức không chặt
chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của
một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì thường
là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ
chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu
phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo.

Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức
xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.

Một số nhà thần học xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng
cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một
quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc
và sự bình yên.

Theo Đào Văn Tập trong Tự điển Việt Nam phổ thông : “ Tín ngưỡng là
lòng tin, ngưỡng mộ một tôn giáo hay một chủ nghĩa”.

Trong Hán - Việt tự điển, Đào Duy Anh đã giải thích: “Tín ngưỡng là lòng
ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa”.

Tín ngưỡng là sự tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái những thần thánh, vật
thiêng hoặc linh hồn người chết do con người tưởng tượng ra hoặc do con người

3
suy tôn, gán cho những phẩm chất siêu phàm. Tín ngưỡng là một thành tố của
văn hóa tổ chức cộng đồng, thuộc phạm vi đời sống cá nhân, được hình thành tự
phát nhưng có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người.

Tín ngưỡng của người Việt thể hiện ở các mặt: tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Ra đời trên nền tảng
xã hội nông nghiệp cổ truyền, tố chất nông dân mạnh về tư duy tổng hợp, thiếu
tư duy phân tích nên tín ngưỡng của người Việt là tín ngưỡng dân dã đang ở giai
đoạn hình thành mầm mống của tôn giáo sơ khai, nghĩa là tín ngưỡng Việt Nam
chưa chuyển được tôn giáo.

1.2. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu

1.2.1. Nguồn gốc hình thành

Tín ngưỡng thờ hình tượng người phụ nữ (làm nền tảng đầu tiên cho tín
ngưỡng thờ Mẫu) xuất hiện từ thời kỳ nguyên thủy sơ khai, khi con người có ý
niệm về linh hồn người chết. Đã có nhiều lời giải cho sự ra đời, nguồn gốc hình
thành tín ngưỡng thờ Mẫu. Có ý kiến cho rằng: “nguyên nhân khởi phát tín
ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ mẫu hệ. Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người
phụ nữ đóng vai trò là chủ gia đình, là người có quyền quyết định mọi vấn đề to
lớn trong gia đình, bộ tộc thì họ cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của xã
hội”.[2,tr.12]

Tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của xã hội nông nghiệp, ở đó còn những
tàn dư của xã hội mẫu hệ, và vai trò của người phụ nữ được đề cao. Tín ngưỡng
thờ Mẫu tôn vinh các nhân vật như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu… Tín
ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn, đó là tín ngưỡng Mẫu
Tam phủ - Tứ phủ.

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những
ảnh hưởng ngoại lai từ Đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần

4
tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người. Tín ngưỡng
mà ở đó đã được giới tính hóa mang khung hình của người mẹ là nơi mà người
phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những
thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến.

Cho tới nay, người ta chưa biết chính xác tín ngưỡng thờ Mẫu có từ khi
nào, nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III hoặc thứ II trước Công nguyên. Tín ngưỡng
thờ Mẫu có nguồn gốc ở miền Bắc từ lúc người Việt khai thác đồng bằng Bắc Bộ.
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu lưu giữ kho
tàng văn hóa dân gian của nhiều dân tộc, trong kho tàng đó có nhiều truyện kể về
nguồn gốc ra đời của các tộc người. Ví dụ, có truyện kể rằng, “quả bầu mẹ” sinh
ra các tộc người; có truyện kể về “đôi chim thần” đẻ trứng trăm, trứng nghìn, nở
ra người Việt, người Mường, người Xá, người Thái, người Lư; có truyện kể về
“bọc trăm trứng” nở trăm trai [3,tr.30] . Trên cơ sở đó, họ cho rằng, huyền thoại
noãn sinh chính là cội rễ của mọi tục thờ “Thần Nữ”, “Thần Mẫu”, “Thánh Mẫu”,
“Mẹ Trời”, “Mẹ Đất”, “Mẹ Nước”, “Mẹ Lúa”, “Mẹ Rừng”, “Mẹ Núi”.

1.2.2. Lịch sử phát triển

Quá trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu đã trải qua 3 giai đoạn.

Ở giai đoạn thứ nhất, nhận thức được vai trò của người phụ nữ trong đời
sống văn hóa của dân tộc, người Việt đã có một bước chuyển biến mang tính sáng
tạo trong việc đưa những nữ thần sang một vị thế mới: Mẫu thần với danh xưng
“Thánh Mẫu”. Sự chuyển biến này là do dạng thức tín ngưỡng bản địa này đã tiếp
nhận yếu tố của Đạo giáo (Phù thủy). Học giả Ngô Đức Thịnh cũng từng nhận
định xác đáng: “Mẫu đều là Nữ thần nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu
thần, mà chỉ một số Nữ thần được tôn vinh là Mẫu thần…”. Bước thay đổi trong
tư duy này đã giúp cho tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành một dạng tín ngưỡng độc
nhất vô nhị trên thế giới, bởi lẽ trong văn hóa của nhiều quốc gia đều có tôn thờ

5
nữ thần, song đưa nữ thần lên tôn thờ như một người Mẹ (Mẫu) thì chỉ có ở Việt
Nam.

Ở giai đoạn thứ hai, trên cơ sở tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu, người Việt
sau đó tiếp nhận sự du nhập của Phật giáo và sự giao lưu và tiếp biến văn hóa đã
diễn ra như một quy luật. Lúc ấy, tín ngưỡng thờ Mẫu lại bước gần hơn trên con
đường biến chuyển thành một tôn giáo sơ khai, với sự xác lập một hệ thống thần
linh và điện thờ có lớp lang rõ ràng. Thờ Tứ pháp ở Bắc Bộ là một biểu hiện của
sự giao lưu văn hóa giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với văn hóa Phật giáo rất rõ nét. Đó
là dấu hiệu cho thấy việc tôn thờ tự nhiên, phụ nữ kết hợp với Phật giáo. Các Mẫu
thần lúc này chính là một sự hiện sinh cho tầm ảnh hưởng to lớn của người Mẹ
Việt Nam mà theo Phạm Đức Mạnh, ông gọi đấy là sản phẩm của yếu tố nội sinh
và ngoại sinh từ Phật giáo và Đạo giáo. Vì vậy, có thể xem đây là một hệ thống
phát triển cao hơn, trên cơ sở thờ nữ thần, Mẫu thần bản địa và tiếp nhận các
hưởng về quan niệm vũ trụ luận và hệ thống thần linh của Đạo giáo Trung Hoa.

Giai đoạn thứ ba khởi phát từ những biến thiên của lịch sử. Trên bước
đường di cư, những lưu dân Việt từ Bắc Bộ – địa bàn phát tích của tín ngưỡng
này đã đem theo hành trang là tâm thức tôn thờ các Mẫu để vào vùng đất mới
Nam Bộ. Trên bước đường di cư ấy, cộng đồng người Việt phải đi qua “một trạm
trung chuyển”, đó là vùng (duyên hải) Nam Trung Bộ. Tại đây, họ đã tìm thấy
điểm chung với cộng đồng người Chăm trong tục thờ Mẫu. Vì vậy mà một vị
Mẫu mới đã xuất hiện – Thiên Yana Thánh Mẫu (Diễn Ngọc Phi). Đây là vị Mẫu
thần của hai tộc người Việt – Chăm được hình thành trên cơ sở tích hợp hình
tượng Yang Po Inư Nưgar (“Mẹ Xứ sở” của người Chăm) với tâm thức thờ Mẫu
của người Việt.

1.2.3. Tục thờ Mẫu ở ba miền Việt Nam (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ)

Tục thờ Mẫu ở Bắc Bộ

6
Về mặt nghi lễ, ở đồng bằng Bắc Bộ, nghi thức cúng tế trong các đền phủ
thờ Mẫu diễn ra hết sức sôi động. Hệ thống nghi thức thờ cúng ở đồng bằng Bắc
Bộ được coi là đã được chuẩn hóa, trong đó, nổi bật nhất là nghi lễ hầu đồng nghi
lễ chính của thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Nghi lễ Hầu đồng chuẩn mực ở Bắc Bộ
là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của nhiều vị thần linh. Mỗi lần một vị thần linh
nhập hồn ( nhập đồng, giáng đồng), rồi làm việc quan ( thực hiện các nghi lễ,
nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất hồn ( thăng đồng) được gọi là một giá
đồng. Một buổi hầu đồng nếu đầy đủ phải hầu 36 giá, tuy nhiên người ta thường
không hầu đầy đủ các giá như vậy, chỉ một số vị thánh có thánh tích rõ ràng và
có vai trò phù trợ của họ đối với người trần. Đặc biệt hầu đồng đã sản sinh ra
những giá trị văn hóa tiêu biểu của đồng bằng Bắc Bộ như âm nhạc và hát chầu
văn.

Hầu đồng ở Đồng bằng Bắc Bộ gắn chặt với hệ thống lễ hội “tháng Tám
giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Lễ hội thờ mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ thường được tổ
chức vào mùa xuân và mùa thu, tương ứng với lịch tiết xuân thu nhị kỳ vốn là
thời điểm chuẩn để tổ chức lễ hội của cư dân nông nghiệp. Lễ hội thờ Mẫu vốn
không chỉ là lễ hội của một tín ngưỡng mà còn là hội làng, hội vùng và từ lâu đã
trở thành những Quốc lễ tiêu biểu cho hệ thống lễ hội Việt Nam. Ngày hội Mẫu
ở đồng bằng Bắc Bộ cũng là lúc những giá trị văn hóa dân gian độc đáo được phô
diễn, các nghi lễ rước đa dạng (cả trên cạn và trên sông), các trò diễn, hội đua
thuyền, hội Kéo chữ …. tạo nên màu sắc độc đáo, rộn ràng cho các lễ hội thờ mẫu
làng quê Bắc Bộ.

Đối với không gian thờ cúng, thờ mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ tương đối đa
dạng, thường là trong các đền, phủ, cộng đồng hay tại điện thờ tư gia. Các đền
phủ thờ Mẫu nổi tiếng ở đồng bằng Bắc Bộ như Phủ Dày, Phủ Tây Hồ, đền Kiếp
Bạc, đền Đồng Bằng, đền Bảo Lộc. Không gian thờ mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ
phân bố rộng khắp nhưng có một đặc trưng rất tiêu biểu là thường được đặt gần

7
nguồn nước (sông, hồ, suối, cửa biển), điều này vốn dĩ xuất phát từ tâm thức nông
nghiệp vốn rất coi trọng vai trò của yếu tố nước.

Không gian thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ cũng rất đa dạng từ những đền
phủ lớn, nhỏ, các điện thờ tư gia hay đền phủ tư nhân. Đặc biệt thờ Mẫu ở đồng
bằng Bắc Bộ còn xuất hiện trong các quán của Đạo Giáo hay trong các chùa chiền
theo mô thức “tiền Phật hậu Mẫu”. Đặc biệt mô thức “ tiền Phật hậu Mẫu” là
môn thức rất phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở
nông thôn Miền Bắc đều có điện thờ Mẫu. Người ta đi chùa vừa để lễ Phật vừa
để cúng Mẫu.

Như vậy thờ Mẫu ra đời trên nền tảng hạ tầng nông nghiệp - nông thôn xã
hội Bắc Bộ truyền thống, chính nền tảng này đã làm nên sự khác biệt tương đối
rõ nét giữa thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ với các vùng miền khác.

Tục thờ Mẫu ở Trung Bộ

Đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Trung Bộ là không có sự hiện
diện của mẫu Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần.
Hình thức thờ Nữ thần như thờ Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và hình thức
thờ Mẫu thần như thờ Thiên YA Na (Bà Chúa Ngọc - Po Ino Nagar).

Phật Giáo là một tín ngưỡng dân gian của Huế, tích hợp Đạo giáo Trung
Hoa đã thoái hóa với tín ngưỡng thờ Mẫu và nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác của
người Việt. Sự ra đời của tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo ở Huế xuất phát từ
sự gắn kết của Hội Sơn Nam với ngôi điện Huệ Nam thời Nguyễn. Hội Sơn Nam
là những người dân từ Nam Định di cư vào Huế từ thời tiền Nguyễn. Tín ngưỡng
đặc trưng của hội này là tín ngưỡng thờ Mẫu kết hợp với việc thờ Đạo giáo đã
thoái hóa. Còn Huệ Nam điện vốn là ngôi đền thờ PoNagar của người Chăm. Tiếp
nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc đáo, người Việt đã “bản địa hóa”
nữ thần PoNagar thành nữ thần Thiên YA Na, tôn làm "thượng đẳng thần".

8
Tục thờ Mẫu ở Nam Bộ

Ở Nam bộ, tín ngưỡng thờ Mẫu có ít nhiều thay đổi so với tín ngưỡng thờ
Mẫu ở miền Bắc. Tục thờ Mẫu Liễu ở miền Bắc khi vào đến miền Nam dần biến
đổi thành tục thờ các vị nữ thần gắn bó với cuộc sống đời thường của người dân
miền Nam như: bà Đen, bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành… Nếu như ở Bắc Bộ, tục thờ
Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định thì ở Nam Bộ ít có sự phân biệt
hơn. Có thể thấy, thờ mẫu ở Nam bộ, không mang tính khuôn mẫu như ở Bắc Bộ,
mang tính thông thoáng cởi mở, đã tích hợp nhiều loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu
khác nhau. Từ nữ thần một số bà đã nâng lên, phổ biến với tên gọi Thánh Mẫu,
có liên quan đến các yếu tố đất, nước, trời.

Người Kinh lấy việc thờ cúng tổ tiên làm trọng và thờ cúng tổ tiên ba đời.
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Kinh còn thờ bà Đen, bà Chúa Xứ, bà Ngũ
Hành, bà Chúa Ngọc, các vị Thánh Mẫu… Và do có sự giao lưu văn hóa cộng
đồng nên các vị nữ thần hầu như được thờ phụng. Nếu đất Bắc có vị tổ tiên chung
là các vua Hùng, nhưng không có vị thần xứ sở chung, thì vào đến Miền Trung,
người Việt gặp vị nữ thần xứ sở của người Chăm, Poh Yang Inư Nưgar hay Po
Ino Nogar, người Việt tiếp thu và gọi là bà Thiên Y A Na hay bà Thánh Mẫu
Chúa Ngọc. Vào đến Nam Bộ, một vị nữ thần mới, không ai biết lai lịch, tên tuổi,
nhưng quan trọng là tìm được tượng ở mảnh đất này, người Việt coi là vị thần
bản địa, hiển lộ qua đồng cốt cho biết mình là Bà Chúa Xứ sở, và dân chúng lập
tức tôn thờ.

Về mặt nghi lễ, ở Nam Bộ, nếu nơi nào có tục thờ Nữ thần và Mẫu thân thì
thường có diễn xướng múa bóng, còn nơi có đền phủ thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
thì có diễn xướng hầu bóng (lên đồng). Đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các
thần linh vào thân xác các ông, bà đồng nhằm cầu sức khoẻ, tài lộc, một dạng
thức của shaman giáo tồn tại ở nhiều nước trên thế giới. Để thực hiện nghi thức
mang tính shaman này, các hiện tượng văn hóa nghệ thuật như hát văn và nhạc

9
chầu văn, múa thiêng… đã được sản sinh và tích hợp tạo nên một thứ sân khấu
tâm linh, tượng trưng cho sự tái sinh và hiện diện của thần linh Tam phủ, Tứ phủ
thông qua thân xác các ông đồng, bà đồng. Bên cạnh đó, thường thì tín ngưỡng
dân gian gắn liền với lễ hội. Có thể nhận diện được những hình thức tín ngưỡng
thông qua các lễ hội như: lễ hội Chùa Bà ở Bình Dương, Tây Ninh, lễ hội Bà Thu
Bồn ở Duy Xuyên-Quảng Nam, lễ hội Kỳ Yên ở các đình làng ….

10
CHƯƠNG 2: LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM Ở NAM BỘ VÙNG
CHÂU ĐỐC, AN GIANG

2.1. Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ của người dân vùng Châu Đốc, An Giang

An Giang là tỉnh phía Tây Nam của tổ quốc, nằm giữa sông Tiền và sông
Hậu. Là tỉnh có dân số đông nhất khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long với thành
phần dân cư chủ yếu gồm bốn dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer. Chính quá trình
cộng cư của bốn dân tộc đã tạo nên sự phong phú và đa dạng về phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, lễ hội trên vùng đất An Giang. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là
hình thức tín ngưỡng của người Kinh, người Hoa và của cả người Khmer ở Nam
Bộ. Bà Chúa Xứ là vị nữ thần quan trọng trong tâm thức của người dân nơi đây.
Ở Núi Sam (An Giang) truyền thuyết về Bà Chúa Xứ đã có hàng trăm năm nay,
Bà Chúa Xứ được cư dân nơi đây vô cùng tôn kính, thể hiện rõ nhất qua việc xây
dựng cơ sở thờ tự, cách bày trí tượng thờ, qua trang phục, lễ vật dâng cúng, đặc
biệt là nghi thức cúng và long trọng tổ chức lễ hội Vía Bà hàng năm.

Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam và lễ hội Vía Bà không chỉ là sản
phẩm văn hóa độc đáo và là một phần tất yếu trong đời sống tâm linh của người
dân An Giang mà ngày nay, cùng với sự phát triển của lĩnh vực du lịch, tín ngưỡng
ấy đã được các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý và các doanh nghiệp khai thác như
một sản phẩm du lịch độc đáo của An Giang. Sự linh ứng của Bà Chúa Xứ vang
xa, một đồn mười, mười đồn trăm…, người trong tỉnh đồn người ngoài tỉnh, người
trong nước đồn người ngoài nước và như thế là hàng năm người dân, du khách từ
khắp các tỉnh thành, từ nhiều vùng miền trong và ngoài nước tìm đến viếng Bà Chúa
Xứ, tham quan miếu bà. Miếu Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành điểm hành hương
– tâm linh có ý nghĩa vô cùng quan trọng của vùng đất An Giang.

2.1.1. Nguồn gốc tục thờ Bà Chúa Xứ của người dân vùng Châu Đốc, An
Giang

Tên gọi Bà Chúa Xứ

11
Tên gọi "Bà Chúa Xứ" thường được sử dụng để chỉ một thần linh, thần
thánh có tầm ảnh hưởng lớn trong văn hóa dân gian ở Việt Nam. Tên gọi này
thường được dùng để tôn vinh và thờ cúng một số thần linh liên quan đến địa
phương cụ thể. Người ta thường tin rằng Bà Chúa Xứ là thần bảo vệ và phù trợ
cho người dân trong cuộc sống hàng ngày.

Nguồn gốc của tên gọi này không có một câu chuyện hay một hệ thống
thần thoại chính thức cụ thể, mà thường xuất phát từ truyền thống và niềm tin dân
gian. Tên gọi thường mang ý nghĩa về một vị thần linh, thánh nữ nào đó có quyền
năng bảo vệ và phù trợ cho cộng đồng.Tuy nhiên, có một số giả thuyết và ý kiến
phổ biến trong cộng đồng nghiên cứu và dân gian:

Truyền thuyết kể rằng, vào những năm đầu thế kỷ XIX, quân Xiêm thường
sang nước ta quấy nhiễu, cướp bóc. Mỗi khi giặc đến, người dân quanh vùng lại
bồng bế nhau chạy lên núi lánh nạn. Có lần quân giặc đuổi lên tận đỉnh núi Sam,
chúng phát hiện tượng Bà trên đỉnh núi Sam, dù cố gắng khiêng tượng Bà đi
nhưng không tài nào di chuyển được pho tượng Bà . Một hôm dân làng lên núi
gặp được tượng Bà , họ bàn nhau cùng khiêng pho tượng xuống núi để lập miếu
thờ. Thế nhưng, dù đã tập hợp mấy mươi thanh niên lực lưỡng, họ vẫn không sao
nhấc nổi pho tượng. Bỗng nhiên, một phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ
và bảo phải có chín cô gái đồng trinh lên khiêng tượng Bà xuống. Dân làng làm
theo và thật kỳ diệu, các cô gái này khiêng được tượng Bà một cách nhẹ nhàng.
Đến chân núi, tượng Bà bỗng dưng nặng trịch, không xê dịch được nữa. Dân làng
cho rằng Bà muốn ngự nơi này nên lập miếu thờ Bà.

Một truyền thuyết khác kể rằng, khi Thoại Ngọc Hầu về nhận lãnh Khâm
sai thống chế án thủ Châu Đốc đồn, lãnh bảo hộ Cao Miên quốc ấn. Thoại Ngọc
Hầu phải ngày đêm phòng thủ biên cương, chống giặc ngoại xâm. Phu nhân ông
là Bà chánh phẩm Châu Thị Tế nghe đồn có miếu Bà Chúa Xứ rất linh thiêng liền
đến cầu nguyện cho chồng được bình an, chiến thắng khải hoàn, giữ yên bờ cõi.

12
Sau khi thắng giặc trở về, nghe vợ kể về câu chuyện cầu nguyện với Bà Chúa Xứ,
Thoại Ngọc Hầu cho xây dựng lại ngôi miếu khang trang hơn để tạ ơn Bà.
Những truyền thuyết về Bà Chúa Xứ được ghi chép qua nhiều tài liệu, vì
vậy nguồn gốc Bà Chúa Xứ hiện nay có nhiều lí giải khác nhau. Trong niềm tin
tâm linh của người dân bản địa, Bà Chúa Xứ là người đã che chở, phù hộ cho sự
bình an, may mắn và phát đạt của cộng đồng. Vì thế, họ còn có cách gọi thành
kính khác là “Chúa Xứ thánh mẫu”. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc đã
trở thành một bộ phận trong hệ thống thờ Mẫu ở Nam Bộ từ lâu. Như vậy việc
thờ Bà Chúa Xứ là sự tổng hợp nhiều lớp văn hóa kế tiếp nhau như: văn hóa Phù
Nam, lớp văn hóa cổ Khmer, lớp văn hóa Chăm và lớp văn hóa Việt. Đặc biệt,
Bà Chúa Xứ được xem là vị thần hội tụ đủ các vị nữ thần ở Việt Nam và của cộng
đồng các dân tộc khác như: Chúa Liễu, Tam phủ và Tứ phủ của người Việt; bà
Po Inư Naga của người Chăm, Thiên Ana Thánh mẫu nửa Chăm nửa Việt; Bà
Đen (Neang Khmau), Bà Trắng (Neang Hingthori) của Khmer và bà Thiên Hậu
của người Hoa – tất cả đều hội tụ trong một Mẹ duy nhất là Bà Chúa Xứ ở Châu
Đốc – An Giang. Thần tượng Bà Chúa Xứ đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống tinh thần và văn hóa tâm linh của người dân địa phương và khách
thập phương.

Truyền thống thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam

Miếu Bà Chúa Xứ nằm dưới chân núi Sam, được lập vào năm 1820. Lúc
đầu miếu được cất bằng tre lá đơn sơ. Năm 1870 được xây dựng lại bằng gạch và
đến năm 1962 được trùng tu bằng xi măng và lợp ngói âm dương. Dáng vẻ khang
trang như hiện nay là kết quả của đợt trùng tu vào các năm 1972 - 1976 (Trần
Ngọc Thêm, 2014, tr. 223). Ngôi miếu thờ Bà Chúa Xứ được nhân dân trong vùng
biết đến từ lâu. Họ truyền tụng nhau về sự linh thiêng mầu nhiệm của Bà. Mỗi
truyền thuyết là một câu chuyện kỳ bí, sự bí ẩn này đã thu hút khách thập phương
tới viếng và thu hút các nhà nghiên cứu đến tìm hiểu về pho tượng Bà. Nhà khảo
cổ học người Pháp Malleret đến đây nghiên cứu vào năm 1941 cho rằng pho

13
tượng cao 1,25m, được đúc liền với một thiết bị sơn và tượng là một nam thần,
tạc dáng một người đàn ông ngồi nghỉ ngơi một cách vương giả. Đây là loại tượng
thần Vishnu thường thấy ở Ấn Độ, Myanmar, Lào,…Tượng được tạc vào cuối
thế kỷ VI và rất có thể là một trong số hiện vật của nền văn hóa Óc Eo còn sót
lại. Vishnu là thần Bảo tồn thuộc Bà La Môn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Pho
tượng đá trên núi Sam có lẽ là của người Khmer bỏ quên trên đỉnh núi không biết
từ bao giờ, được phát hiện vào khoảng năm 1820 - 1825, sau khi lưu dân Việt đến
khai phá và lập nghiệp ở đây. Họ đã mang tượng thần xuống chân núi, sửa sang,
tô điểm thành tượng Bà và lập miếu thờ. Miếu dần dần trở thành tâm điểm của
tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ. Miếu Bà Chúa Xứ là một tòa tháp với kiến trúc theo
hình chữ “Quốc” có dạng bông sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói ống màu
xanh. Chánh điện gồm hai lớp. Lớp trong là nơi thờ tượng Bà ở chính giữa, bên
phải tượng Bà (nhìn từ ngoài vào) là một linga bằng đá cao khoảng hơn 1 mét đặt
trên hương án, dân chúng gọi là “Bàn thờ Cậu”. Bên trái có một tượng gỗ chạm
hình yoni được gọi là “Bàn thờ Cô”. Lớp ngoài là bàn thờ Hội đồng, hai bên là
bàn thờ Tiền hiền khai khẩn (bên trái) và bàn thờ Hậu hiền khai cơ (bên phải).
Các hình chạm khắc và hoa văn trang trí trong miếu là sự phối hợp tổng hòa của
các luồng văn hóa: Việt, Hoa, Chăm, Khmer. Miếu Bà Chúa Xứ nằm trong quần
thể khu di tích lịch sử - văn hóa Núi Sam thuộc thành phố Châu Đốc, tỉnh An
Giang và được xem là điểm du lịch văn hóa độc đáo, đồng thời đây còn được xem
là điểm đến tham quan, chiêm bái, cầu nguyện về một ước muốn, sự thỏa mãn
tâm linh,…tất cả tạo nên tính hấp dẫn du khách thập phương đến.

Núi Sam - ngọn núi mà ngay từ thời khẩn hoang đã được Thoại Ngọc Hầu
ca ngợi là nơi thắng địa. Núi Sam không chỉ nổi tiếng với sự tươi đẹp của cảnh
quan thiên nhiên mà còn được nhiều người biết đến với sự linh thiêng mầu nhiệm
của Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam luôn là tâm điểm thu hút
hàng triệu lượt khách hành hương đến viếng Bà và kết hợp tham quan - du lịch.
Đã trở thành thông lệ, hàng năm vào tháng 4 Âm lịch, mùa lễ hội Vía Bà lại bắt

14
đầu. Mặc dù lễ hội chính thức được diễn ra vào những ngày cuối tháng 4 (Âm
lịch) những từ sau Tết Nguyên Đán, khoảng độ từ rằm tháng Giêng, dòng người
từ khắp các tỉnh ĐBSCL, thậm chí ở cả miền Đông, miền Trung, miền Bắc bắt
đầu đổ về thành phố Châu Đốc (An Giang) để viếng Bà Và Tham quan, du lịch.
Khách hành hương đến lễ hội Vía Bà có thể đi theo đường bộ từ Long Xuyên lên
Châu Đốc theo quốc lộ 91, rẽ vào 7km là đến Miếu Bà hoặc có thể đi bằng đường
thủy từ Cần Thơ, Sóc Trăng lên hay từ thành phố Hồ Chí Minh xuống. Cho đến
ngày nay, vẫn không ai biết chính xác tại sao lễ Vía Bà được diễn ra từ ngày 23
đến 27 tháng 4 Âm lịch. Theo dân gian, thời gian đó là ngày dân địa phương phát
hiện ra tượng Bà hoặc là ngày an vị tượng Bà sau khi Bà được khiêng từ trên núi
xuống. Có tài liệu cho rằng, khi Thoại Ngọc Hầu cho trùng tu lại ngôi miếu, lễ
khánh thành được tổ chức long trọng trong ba ngày để tạ ơn Bà, từ đó dân làng
chọn thời gian đó để làm lễ Vía Bà và kéo dài cho đến ngày nay. Theo thông lệ,
lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam trước đây diễn ra từ đêm 23 đến 27 tháng 4 Âm
lịch, ngày vía chính là ngày 25 tháng 4 Âm lịch (Hội Văn nghệ Châu Đốc, 2000,
tr.26).
Lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam là sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp
dẫn ở Nam Bộ, có sức cuốn hút mãnh liệt đối với mọi tầng lớp. Đó là sự gặp gỡ
nhau giữa các tôn giáo, tín ngưỡng trong một tâm thức chung về Mẹ Đất, tín
ngưỡng thờ nữ thần của những người đi mở cõi ở phương Nam. Họ tìm thấy ở đó
một điểm tựa tâm linh vững chãi khi tìm đến với Bà. Người dân đi lễ hội để cầu
tài lộc, cầu mong Bà phù hộ cho việc làm ăn buôn bán được hanh thông, sức khỏe,
bình an trong cuộc sống...

Bắt đầu từ năm 2001, khi lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được Bộ Văn
hóa Thông tin và Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội cấp quốc gia,
chính quyền thành phố Châu Đốc nói riêng và tỉnh An Giang nói chung đã quyết
định tổ chức thêm lễ phục hiện rước tượng Bà trên đỉnh núi Sam xuống miếu thờ
vào ngày 22 tháng 04 Âm lịch nhằm giúp du khách gần xa hồi tưởng lại cảnh

15
người dân đưa tượng Bà xuống miếu thờ. Từ đó đến nay, lễ hội cấp quốc gia Vía
Bà Chúa Xứ Núi Sam chính thức được bắt đầu từ ngày 22 đến ngày 27 tháng 4
Âm lịch hàng năm.

2.2. Các nghi lễ trong lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc đã có từ rất lâu
đời, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của cư dân vùng sông nước Nam bộ.
Ngày 19/12/2014, Lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được Bộ Văn hóa Thể thao
và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Ngoài ra, vào
năm 2016 hoạt động này đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam chứa đựng những dấu ấn lịch sử giai đoạn
người Việt đến vùng đất An Giang. Đây là lễ hội truyền thống được giữ gìn và
thực hành qua nhiều thế hệ, thể hiện bản sắc và sự kế tục của cộng đồng người
Kinh trong tiến trình giao lưu văn hóa, chính trị, kinh tế với người Hoa, Khmer,
Chăm. Thông qua Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam góp phần gắn kết với đời
sống tinh thần của người dân Châu Đốc, đồng thời giúp lưu giữ những giá trị lịch
sử của cha ông trong hành trình khai mở vùng đất phía Tây Nam của Tổ quốc.

Lễ tắm Bà

Vào đúng 24 giờ đêm ngày 23 và rạng sáng ngày 24 tháng 4 Âm lịch sẽ bắt
đầu khai lễ từ việc tắm Bà. Nói là Tắm Bà nhưng thực tế là chỉ lau chùi những
mảng bụi bặm trên tượng thờ và thay xiêm y (áo Mão) cho tượng bà. Nước dùng
để tắm tượng Bà là loại nước thơm, còn bộ y phục cũ của Bà sẽ được cắt ra từng
mảng nhỏ để phân phát những người đến trẩy hội và đó được coi như lá bùa hộ
mệnh của Bà ban cho giúp người dân giúp họ khỏe mạnh và trừ tà ma quỷ.

Nghi thức đầu tiên của "lễ tắm Bà" là thắp sáng hài cây đèn sáp to trước
tượng Bà, sau đó ông chánh bái và hai vị bô lão sẽ niệm hương, dâng rượu, trà,

16
kế đến sẽ là ban quản trị lần lượt niệm hương cầu nguyện, lễ tất. Bức màn vải có
viền ren thêu chữ, hoa nhiều màu sặc sỡ được kéo ngang bệ thờ, che khuất khu
vực đặt tượng Bà, sẽ có một nhóm 4 - 5 phục nữ vào vén màn và chuẩn bị tắm
Bà. Trước tiên là cởi mão, khăn đội trên tượng, rồi lần lượt đến đai áo, áo ngoài,
áo trong, để lộ toàn thân pho tượng bằng đá sa thạch ở tư thế ngồi, phía dưới chân
Bà sẽ được đặt một chậu nước hoa xông lên thơm ngát rồi sẽ lần lượt từng chiếc
khăn thấm vào lau lên pho tượng Bà. Sau khi tắm Bà bằng nước thơm thì sẽ có
một mâm cỗ đựng đầy nước hoa được dâng lên, mỗi lọ sẽ được xịt một ít lên
tượng Bà, sau đó sẽ được trả lại cho chủ nhân đem về làm vật gia bảo. Cuối cùng
sẽ là một bộ xiêm y đẹp nhất, lộng lẫy nhất được dâng cúng rồi khoác lên tượng
Bà, thắt đai và đội mão lên đầu. Kết thúc nghi thức tắm Bà, bức màn vải sẽ được
vén lên, mọi người đến trẩy hội sẽ chen nhau đến gần chiêm ngưỡng và xin lộc
từ Bà và sau đó sẽ được tự do bái lễ, dâng hương.

Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về Miếu Bà:

Lễ này sẽ diễn ra vào lúc 15 giờ ngày 24 tháng 4 Âm lịch. Các bô lão trong
làng và Ban Quản trị lăng miếu sẽ mặc lễ phục chỉnh tề để thực hiện lễ Thỉnh Sắc
rước bốn sắc (bài vị) của Ngọc Hầu, Nguyễn Văn Thoại, bà nhị phẩm Trương Thị
Miệt và bài vị Hội Đồng ở lăng Thoại Ngọc Hầu nằm đối diện với miếu Bà.

Đoàn Thỉnh Sắc sẽ có đoàn múa lân miếu Bà đi trước, tiếp sau đó sẽ là ông
chánh bái, hai vị bô lão và những vị chức sắc khác, theo sau là các học trò lễ xếp
thành hai hàng dọc, tay cầm cờ phướn đi hầu trước và sau long đình do bốn người
khiêng. Sau nghi thức dâng hoa, niệm hương tế lễ, đoàn Thỉnh sắc sẽ rước bốn
bài vị Thoại Ngọc Hầu lên long đình về miếu Bà. Cuối cùng Ban Quản trị sẽ dâng
hương thỉnh an, lễ thỉnh sắc sẽ kết thúc.

Lễ Túc yết:

Phần lễ thứ ba nằm trong năm phần lễ của Lễ Hội Bà Chúa Xứ đó là Lễ


Túc yết, lễ cúng này sẽ được diễn ra vào lúc 00 giờ ngày 25 và rạng sáng ngày 26

17
tháng 4 Âm Lịch. Tất cả các bô lão và Ban Quản trị sẽ mặc lễ phục chỉnh tề, sau
đó đứng xếp hàng hai bên trước tượng Bà, theo sau là bốn học trò lễ và bốn đào
thầy, đứng chính diện với tượng Bà sẽ là ông chánh bái. Chuẩn bị hành lễ, vật lễ
cúng sẽ bao gồm một con heo trắng (đã được cạo sạch lông và mổ bụng sạch sẽ,
chưa nấu chín), một đĩa đựng huyết heo và ít lông heo gọi chung là "mao huyết",
một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau và một đĩa gạo muối. Tất cả
lễ vật được chuẩn bị sẽ được bày trên bàn, đặt trước tượng Bà Chúa Xứ.

Vào nghi thức lễ, ông chánh bái và các vị bô lão sẽ đến niệm hương trước
bàn thờ, kế tiếp sẽ là phần "khởi cổ". Khi ba hồi trống và ba hồi chiêng được vang
lên là lúc nhạc lễ bắt đầu trỗi lên sẽ là lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà. Từng
diễn biến của buổi lễ sẽ được hai người xướng lễ, một xướng nội, một xướng
ngoại - xướng to lên. Sau khi hành lễ dân hương, dâng hoa thì tiếp theo sẽ là lễ
dâng ba lần rượu (tức là chúc tửu), dâng ba lần trà (tức là hiến trà), sau đó theo
lệnh của người xướng lễ thì bản văn tế sẽ được mang đến trước bàn thờ, một
người trong Ban Quản trị sẽ đại diện đọc bản văn tế. Vừa dứt đoạn bản văn tế thì
ông chánh bái sẽ đốt bản văn tế này cùng với một ít giấy vàng mã, rồi sau đó sẽ
lật ngửa con heo trắng trước khi khiêng đi, phần cúng Túc yết sẽ kết thúc tại đây.

Lễ Xây Chầu:

Sau khi kết thúc cúng Túc yết thì sẽ đến Lễ Xây Chầu. Đầu tiên người ta
sẽ khiêng bàn thờ tổ ra ngoài và thay vào đó là một cái Trống Chầu, sau đó vào
lễ người xướng nội sẽ hô to "ca công tựu vị", vừa dứt tiếng hô thì ông chánh bái
ca công liền bước đến vái bàn thờ đặt giữa võ ca, tay cầm hai dùi trống nâng lên
ngang trán và bắt đầu khấn vái. Sau khi khấn vái thì ông chánh bái ca công sẽ
cầm nhánh dương nhúng vào tô nước thánh vừa đọc lời cầu nguyện vừa vảy nước
xung quanh.

Đọc xong, ông chánh bái ca công sẽ đánh ba hồi trống Chầu và xướng tiếp
"ca công tiếp giá", lập tức đoàn hát bộ nối chiêng trống rộ lên và chương trình hát

18
bội chính thức bắt đầu. Phần hát bội này nhằm cầu nguyện cho quốc thái dân an,
mưa thuận gió hòa. Và những vở tuồng được diễn tại Miếu Bà như: Trần Bình
Trọng, Sát Thát, Lưu Kim Đính, Trưng Nữ Vương,...

Lễ Chánh tế và Lễ Hồi sắc:

Phần lễ cuối cùng đó là lễ Chánh Tế. Nghi Lễ sẽ được diễn ra vào lúc 4 giờ
sáng ngày 26 tháng 4 Âm lịch, và nghi thức giống cúng Túc yết. Đến chiều ngày
27 tháng 4 Âm lịch sẽ đưa sắc Thoại Ngọc Hầu về lại lăng và kết thúc Lễ Hội Bà
Chúa Xứ.

Lễ Hồi sắc: chiều ngày 27 tháng 4 Âm lịch, Ban Quản trị làm lễ Hồi sắc,
tức đưa bốn bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, bà Trương Thị Miệt
và bài vị Ban Hội đồng về lại lăng ông Thoại Ngọc Hầu, chính thức kết thúc lễ
hội.

19
CHƯƠNG 3: GIỮ GÌN GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA LỄ HỘI VÍA BÀ CHÚA
XỨ NÚI SAM

3.1. Vai trò của lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đến đời sống người dân ở
vùng Châu Đốc, An Giang

Lễ hội Vía Bà ngoài các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng hướng tới chủ điện
thờ là một nhân vật huyền thoại, còn gắn với những nhân vật lịch sử - những
người có công khai phá và bảo vệ vùng đất này - là vợ chồng danh tướng Thoại
Ngọc Hầu cùng các bộ tướng và binh sĩ. Những hành trang đích thực được gắn
kết với đời sống văn hóa tâm linh, đã góp phần lưu giữ những giá trị lịch sử phát
triển vùng đất phía tây - nam của Tổ quốc trong xã hội đương đại.

Lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của cư dân vùng sông nước Nam
Bộ, thu hút hàng chục ngàn người dân và du khách tham gia. Thông qua các hoạt
động trong Lễ hội Vía Bà, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam chứa đựng những cứ
liệu sinh động về dấu ấn lịch sử thời kỳ người Việt đến vùng đất An Giang. Với
sự giao lưu, hội nhập về các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị và quân sự cùng các
dân tộc Khmer, Chăm, Hoa đã tạo nên sự đồng thuận trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Sự hài hòa trong quan hệ cộng đồng về mặt văn hóa, vừa kế tục được
sự nghiệp văn hóa của người cổ xưa, vừa tôn tạo, bồi đắp được nền văn hóa mang
bản sắc Việt độc đáo. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam ở thành phố Châu Đốc nói
riêng, tỉnh An Giang nói chung với tiềm lực về danh lam thắng cảnh, di tích lịch
sử, văn hóa, con người Châu Đốc và An Giang... Qua đó, thu hút hàng triệu khách
du lịch gần xa đến tham quan và đầu tư cho vùng đất An Giang thân thiện và mến
khách.1

1
HN. (2022, May 26). Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam - Nét tín ngưỡng tâm linh #vùng Tây
Nam Bộ. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam.

20
3.1.1. Trong đời sống văn hóa - xã hội

Lễ hội Bà Chúa Xứ không chỉ là một sự kiện văn hóa tôn giáo mà còn đóng
vai trò tích cực trong đời sống xã hội. Thông qua việc tổ chức lễ hội, cộng đồng
được kết nối và củng cố, tạo ra không gian giao lưu và hòa mình vào truyền thống
lâu dài. Người dân tham gia không chỉ để thể hiện lòng tôn kính đối với thần linh
mà còn để thể hiện sự đoàn kết cho cộng đồng.

Lễ hội là cơ hội để mọi tầng lớp xã hội gặp gỡ, chia sẻ niềm vui, và xóa đi
những rào cản xã hội. Ngoài ra, thông qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
truyền thống, lễ hội còn góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa đặc
sắc của cộng đồng. Do đó, vai trò của lễ hội Bà Chúa Xứ không chỉ là tâm linh
mà còn là nguồn động viên tích cực cho sự phát triển trong đời sống xã hội.

Những giá trị văn hóa của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam cũng được xem
là có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng, nếu gạt bỏ
những tiêu cực thì lễ hội Vía Bà đã góp phần đáng kể cho bản sắc văn hóa Việt
Nam: Từ truyền thuyết, văn chầu, trang phục trong điện thần đều là nét độc đáo
về văn hóa, nghệ thuật. Ngoài ra, bên cạnh hát chầu văn theo nhạc điệu còn có
múa đồng. Đó là những di sản văn hóa dân tộc rất quý giá cần được đánh giá đúng
mực, cần bảo tồn và phát triển.

3.1.2. Trong đời sống tinh thần và truyền thống đạo đức

Lễ hội Bà Chúa Xứ là dịp quý báu để xây dựng mối quan hệ xã hội tích
cực. Việc cùng nhau chia sẻ niềm vui, tham gia vào các nghi lễ và hoạt động văn
hóa không chỉ tạo ra không khí giao lưu mà còn củng cố lòng đồng lòng trong
cộng đồng. Những giá trị tinh thần và đạo đức không chỉ là di sản quý giá của quá
khứ mà còn là nền tảng vững chắc cho sự đoàn kết và phồn thịnh trong tương lai.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam nhằm thể hiện lòng tôn kính Bà Chúa Xứ
– một trong sáu vị Thánh Mẫu theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Do dân làng

21
Vĩnh Tế tôn sùng Bà như vị thần làng nên các lễ nghi và tế tự trong lễ hội được
thực hiện tương tự như lễ cúng Kỳ yên tại các đình làng thờ Thần Thành Hoàng
Bổn Cảnh. Người dân đến dâng lễ, cầu mong Bà phù hộ, độ trì, đem lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho cá nhân, gia đình, cộng đồng. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi
Sam có sức sống mãnh liệt trong tâm thức và đời sống tinh thần của cộng đồng
dân cư sở tại và là một thực hành nghi lễ quan trọng trong đời sống tinh thần của
người dân trong vùng.2

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam còn là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, là
chỗ dựa tâm linh cho một bộ phận dân cư khi họ tin và đi theo. Ngoài ra, lễ hội
còn mang tính thiêng liêng, phản ánh tình cảm, sự ngưỡng mộ về vai trò của người
mẹ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hoạt động của lễ hội đã giúp liên
kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của tư tưởng định kiến tôn giáo
hoặc sự cục bộ địa phương để cùng hướng về một đối tượng linh thiêng, với một
lễ hội thống nhất. Nó còn phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong các
mối quan hệ xã hội.

Khi con người tin vào một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào đó thì người
ta tin rằng với không gian và thời gian linh thiêng đó, mọi lời cầu xin sẽ được
thiêng hóa vì đã có Bà Chúa Xứ núi Sam chứng giám. Họ tin vào điều đó, có thể
đời họ chưa thực hiện được, nhưng đời con cháu họ sẽ đạt được. Trong chiều sâu
tâm thức của con người, niềm tin đã đánh thức và thúc giục họ đến một nhu cầu
hiện thực hóa những đối tượng họ tin dưới dạng lý tưởng nhất. Mặt khác, người
Việt luôn tâm niệm rằng con cái được hưởng phúc từ người mẹ nên có câu “phúc
đức tại mẫu”. Vì vậy lễ hội đã góp một phần vào việc giáo dục và hướng con
người đến với Chân – Thiện – Mỹ.

2
(Giá Trị Của Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam Phù Hợp Các Tiêu Chí Trở Thành Di Sản Văn Hóa Phi Vật
Thể Đại Diện Nhân Loại, 2021)

22
3.1.3. Trong quá trình hội nhập kinh tế và văn hoá

Lễ hội Bà Chúa Xứ ở An Giang không chỉ mang đến không khí lễ hội sôi
động mà còn đóng góp một cách quan trọng vào giá trị kinh tế của địa phương.
Lễ hội thu hút hàng ngàn du khách từ khắp nơi đến tham gia, tạo ra một làn sóng
du lịch tích cực. Những người dân trong khu vực thường xuyên có cơ hội kinh
doanh tăng cường do nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong thời gian diễn ra lễ hội.

Ngoài ra, các hoạt động thương mại như buôn bán đặc sản, đồ trang sức và
các sản phẩm lưu niệm cũng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Những người
làm nghệ thuật dẫn dụ cũng có cơ hội trưng bày và bán các tác phẩm của mình,
góp phần vào nền văn hóa và nghệ thuật địa phương. Đồng thời, việc tổ chức lễ
hội cũng tạo ra cơ hội việc làm cho người dân địa phương, từ việc phục vụ ẩm
thực đến việc tổ chức sự kiện và giữ gìn an ninh trật tự. Những nguồn thu nhập
này giúp cải thiện đời sống kinh tế của cộng đồng, đồng thời thúc đẩy phát triển
bền vững trong lĩnh vực du lịch và văn hóa. Do đó, giá trị kinh tế của lễ hội Bà
Chúa Xứ không chỉ là sự vui mừng và linh thiêng mà còn là động lực quan trọng
cho sự phát triển của địa phương.

Bên cạnh tổ chức phần lễ hội truyền thống còn có các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục, thể thao, đáp ứng nhu cầu chiêm bái của đông đảo du khách
trong và ngoài nước, là một điểm nhấn để thành phố Châu Đốc quảng bá, giới
thiệu các điểm di tích, thắng cảnh nổi tiếng, giới thiệu những tiềm năng về thế
mạnh du lịch, thương mại, thu hút đầu tư.3

3
(Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được Vinh Danh Là Hoạt động Văn Hóa Tiêu Biểu Châu Á – Thái Bình
Dương, 2023)

23
3.2. Thực trạng và giải pháp để giữ gìn giá trị văn hoá của Lễ Hội Vía Bà
Chúa Xứ Núi Sam

Trong bối cảnh xu thế mở cửa và hội nhập như hiện nay, du lịch đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế lẫn văn hoá của Việt Nam.
Tuy nhiên, người lãnh đạo cùng người dân Việt Nam đang đối mặt với thách thức
trong việc làm sao để giữ gìn được nền văn hoá đặc sắc của Việt Nam trong khi
phát triển kinh tế. Người làm du lịch nếu vừa muốn làm kinh tế vừa muốn bảo vệ
và giữ gìn cần phải phát triển du lịch theo hướng bền vững, chú trọng khai thác
các giá trị văn hoá từ nhiều bình diện khác nhau. Để làm được như thế, lãnh đạo
địa phương cùng người dân cần phát triển Núi Sam cùng lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
Núi Sam thành một địa điểm có những giá trị tổng hòa giữa các tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên văn hoá để thu hút du khách. Trong những năm gần đây, xu
hướng của khách du lịch với những chuyến đi du hành không chỉ để thưởng ngoạn
mà họ luôn muốn hòa mình vào thiên nhiên, đời sống sinh hoạt văn hoá cộng
đồng.

3.2.1. Thực trạng những vấn đề còn tồn đọng trong công tác tổ chức Lễ Hội
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam

Hàng năm, An Giang thu hút hàng triệu lượt khách hành hương, khách du
lịch cả trong và ngoài nước đến tham gia lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam. Qua
lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, du khách có thể tìm hiểu được niềm tin của
người dân vào Bà Chúa Xứ Núi Sam cùng với các giá trị lịch sử - văn hoá của hệ
thống di tích nơi đây. Yếu tố tâm linh và linh thiêng của Bà Chúa Xứ Núi Sam
bắt nguồn từ truyền thuyết chín cô gái đồng trinh khiêng tượng Bà xuống núi theo
lời mách bảo của Bà xuống đến chân núi. Chính nhờ vào việc Bà lựa chọn vị trí
để ngự khi xuống đến chân núi đã tạo nên một niềm tin tâm linh vững chắc về sự
mầu nhiệm mà trời đất đã ban tặng. Cùng với Núi Sam – là thắng địa mà Thoại
Ngọc Hầu đã ca ngợi ngay từ thời khai khẩn đất hoang, nổi tiếng bởi sự tươi đẹp

24
của cảnh quan thiên nhiên và sự thiêng liêng, nhiệm mầu của Bà Chúa Xứ đã
khiến cho An Giang trở thành điểm đến lý tưởng cho nhiều du khách đến hành
hương, cầu xin bình an, suôn sẻ trong công việc và cuộc sống kết hợp tham quan
và du lịch. Điều này mang đến cơ hội cho lãnh đạo cùng người dân An Giang
khai thác phát triển loại hình tour du lịch lễ hội. Để phát triển tốt loại hình du lịch
này, bên cạnh việc phát triển kinh tế và gìn giữ bản sắc dân tộc, người dân cùng
lãnh đạo của tỉnh An Giang cần phải giải quyết những vấn đề còn tồn đọng ở địa
phương để đảm bảo những trải nghiệm tốt nhất dành cho khách du lịch khi đến
đây.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam thu hút đông đảo du khách gần xa đến
tham dự chính là nhờ vào niềm tin tâm linh to lớn của mỗi người. Tuy nhiên, một
số người lại lợi dụng niềm tin tâm linh của người khác để trục lợi. Trong đó,
không thể không kể đến sự biến tướng của một số hoạt động tâm linh trong cả
phần lễ và phần hội, khi càng ngày càng xuất hiện nhiều những hoạt động tín
ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan, tổ chức gian lận cờ bạc. Chính những tệ nạn
này đã tác động tiêu cực đến văn hoá truyền thống của dân tộc và làm mất niềm
tin của du khách.

Thờ cúng đơn giản là xuất phát từ tấm lòng thành kính dâng lên các vị thần
linh, do đó chúng ta không cần phải chuẩn bị những lễ vật có giá trị lớn mới là có
lòng thành. Tuy nhiên, nhiều khách hành hương vẫn chưa hiểu điều này nên vẫn
chuẩn bị nhiều lễ vật xa xỉ như: tiền, vàng bạc, trang sức, sản vật,.., điều này làm
lãng phí và ảnh hưởng đến đời sống của khách hàng hương. Bên cạnh đó, nó còn
làm sai lệch ý nghĩa cao đẹp và đơn thuần của văn hoá tâm linh.
Trong đó, vấn đề về con người còn là vấn đề khá nan giải trong quá trình
giữ gìn nét đẹp và nâng cao trải nghiệm cho du khách đến tham gia lễ hội Vía Bà
Chúa Xứ núi Sam. Do nhiều hành vi ứng xử thiếu văn hoá ở nơi công cộng của
bộ phận người dân như: nâng giá thành vật phẩm, trộm cắp, đeo bám để mồi chài

25
khách du lịch,…đã làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục chốn linh thiêng, giao
thông trong khu vực và sự an toàn cho khách du lịch.
Khi đến tham gia lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, khách du lịch thường ở
lại An Giang trong vài ngày, tuy nhiên công tác hỗ trợ nâng cao trải nghiệm cho
khách du lịch đến tham dự lễ hội còn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa thể đáp
ứng nhu cầu của du khách vì chất lượng còn thấy, dẫn đến việc chưa tạo được
niềm tin cho du khách tiếp tục tham gia những lần tổ chức lễ hội tiếp theo. Điều
này thể hiện ở việc không có hệ thống quản lý các dịch vụ bổ sung cho quá trình
du khách đến tham dự lễ hội từ địa điểm lưu trú, ăn uống, giao thông, giải trí,…đã
tạo nên một số bất cập trong việc quản lý chất lượng địa điểm hỗ trợ cho du khách.

3.2.2. Một số giải pháp để giữ gìn giá trị văn hoá của Lễ Hội Vía Bà Chúa
Xứ Núi Sam
Từ việc xác định những vấn đề còn tồn đọng trong công tác tổ chức Lễ Hội
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, lãnh đạo địa phương trước hết cần xác định rõ mục
tiêu phát triển cho công tác tổ chức Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam hàng năm.
Phải đảm bảo bên cạnh việc mang lại lợi ích kinh tế vừa có thể đảm bảo giữ gìn
được các nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc. Đồng thời sau khi xác định
rõ mục tiêu, xây dựng chiến lược khai thác các giá trị tâm linh, công tác tổ chức
và quản lý để phục vụ cho du khách là việc lãnh đạo địa phương cần tiến hành
song song. Do đó, việc quan trọng nhất cần thực hiện đầu tiên là tập trung hoàn
thiện quy hoạch tổng thể phát triển các ngành cho phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện để các bên liên quan có thể hỗ trợ nhau trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
Khác với sự tiện nghi và thuận lợi ở các thành phố lớn, một số nơi ở An
Giang còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận mạng lưới điện, nước, bưu chính
viễn thông… Điều này phần nào đã mang đến bước thụt lùi trong công tác hỗ trợ
nâng cao trải nghiệm cho du khách. Vậy nên, việc xây dựng cơ sở hạ tầng - kỹ
thuật hợp lý chiếm phần lớn sự quyết định trong việc thành công thực hiện kế

26
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Lãnh đạo địa phương cần đầu tư cả nhân lực và
vật lực vào việc xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng - kỹ thuật. Cơ sở hạ tầng -
kỹ thuật chiếm phần quyết định trong thang đo mức độ trải nghiệm của du khách
đến tham gia lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.

Đầu tư toàn diện trong mặt nhân lực và vật lực trong việc xây dựng cơ sở
hạ tầng - kỹ thuật là đầu tư vào việc nâng cấp hệ thống giao thông, phương tiện
vận chuyển, hệ thống điện, nước và bưu chính viễn thông. Bên cạnh việc xây
dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng - kỹ thuật, việc bảo tồn và giữ gìn các công trình
kiến trúc cùng các hoạt động tín ngưỡng, vui chơi, ẩm thực để đáp ứng tối đa các
nhu cầu của du khách cần được chú trọng thực hiện bởi cả lãnh đạo và người dân.

Du khách đến hành hương tại miếu thờ Bà Chúa Xứ với một niềm tin tâm
linh to lớn, do đó khách hành hương thường không chỉ đến vào dịp lễ mà còn kéo
dài cả năm tuỳ theo kế hoạch của riêng mỗi người. Vậy nên, để đảm bảo đáp ứng
được nhu cầu của du khách, việc giữ gìn các công trình kiến trúc cần được thực
hiện tốt và nghiêm túc giám sát, kết hợp với định kỳ trùng tu bởi các cán bộ quản
lý. Trong đó, khi xây dựng tu bổ các công trình kiến trúc, công trình phúc lợi,
dịch vụ công cộng, lưu trú cần đảm bảo kiến trúc phù hợp với phong tục tập quán,
không làm đổi cấu trúc không gian và cảnh quan của khu miếu Bà Chúa Xứ. Xây
dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng - kỹ thuật hiện đại nhưng cần chú trọng bảo tồn
được những nét riêng của truyền thống, văn hoá.

Ngoài thời điểm tổ chức lễ hội hàng năm từ 23/4 đến 27/4 âm lịch, hoạt
động tâm linh và các hoạt động dịch vụ khác vẫn cần được duy trì ở đây như một
hoạt động sinh hoạt văn hoá cộng đồng thường xuyên để khai thác hiệu quả các
giá trị tâm linh và các dịch vụ đã được đầu tư xây dựng. Với khu di tích quanh
chân núi Sam là khu di tích nổi tiếng gồm có: Tây An tự, Miếu Bà Chúa xứ, lăng
Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang (Phước Điền tự). Đây là những di tích có kiến trúc
đẹp, gắn liền với lịch sử khai hoang, đào kinh mở đất, lập làng cũng như công

27
cuộc chống ngoại xâm bảo vệ biên cương, đã được xếp hạng cấp quốc gia. Cần
tận dụng thế mạnh về khu di tích lịch sử cùng hoạt động tâm linh để kết hợp tổ
chức các chuyến tham quan, du lịch quanh tỉnh An Giang thúc đẩy việc phát triển
kinh tế ở việc buôn bán đặc sản, cung cấp khu lưu trú cùng các dịch vụ phục vụ
cho khách du lịch khi đến đây.

Để thực hiện được những mục tiêu trên vai trò của người cán bộ quản lý là
vô cùng quan trọng, người cán bộ quản lý cần nhận thức được trách nhiệm của
mình trong việc bồi dưỡng, giáo dục ý thức cho cộng đồng dân cư địa phương,
các doanh nghiệp du lịch và du khách về việc chủ động, tự giác bảo vệ, duy trì
các giá trị văn hoá tâm linh. Các giá trị văn hoá tâm linh gắn chặt với truyền thống
con người Việt Nam trong suốt chặng đường lịch sử hình thành và xây dựng phát
triển đất nước.

Văn hoá tâm linh thường đa dạng theo từng vùng miền, từ đó cán bộ quản
lý cùng các doanh nghiệp du lịch có thể phát huy tiềm lực này để xây dựng nên
các chương trình du lịch tâm linh xuyên suốt, có thể kết hợp với các cơ sở hoạt
động tâm linh ở các địa phương trong tỉnh và các tỉnh, thành phố của vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Việc này còn thúc đẩy được quá trình trao đổi, hỗ trợ lẫn
nhau trong công tác tổ chức, quản lý điều hành, xây dựng các chương trình du
lịch tâm linh giúp du khách hiểu thêm nét khác biệt và đặc trưng văn hoá tâm linh
của các vùng miền trong khu vực nói riêng và trên toàn lãnh thổ nói chung.

Để lan tỏa được những giá trị tốt đẹp và ý nghĩa trong văn hoá tâm linh của
vùng, người cán bộ quản lý cần từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp trong
công tác quản lý, điều hành các hoạt động để nâng cao được chất lượng và xây
dựng nên một đội ngũ chuyên nghiệp phục vụ trong các hoạt động lễ, hội và các
dịch vụ hỗ trợ nâng cao trải nghiệm của du khách. Từ đó, người cán bộ quản lý
cần phải không ngừng trau dồi kiến thức về lịch sử địa lý, văn hoá tâm linh ở địa

28
phương, ngoại ngữ, các kỹ năng xử lý vấn đề, ứng xử trong những tình huống
khác nhau,...

Để những điểm sáng và đặc biệt của vùng có thể tiếp cận gần hơn với những
du khách trong và ngoài nước, người cán bộ quản lý cần kết hợp với các doanh
nghiệp du lịch để xúc tiến quá trình quảng bá văn hoá tâm linh, những chuyến du
lịch kết hợp các hoạt động tâm linh rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để
thu hút được nhiều du khách hơn. Bên cạnh đó, cán bộ quản lý địa phương còn
cần thường xuyên cập nhật tình hình các hoạt động đặc biệt ở các khu di tích nổi
tiếng để du khách có thể cập nhật và nắm bắt thông tin nhanh chóng và đầy đủ
nhất.

Người cán bộ quản lý cần chú ý xây dựng nên thể chế cùng các quy định
pháp lý và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín ngưỡng, lễ hội
truyền thống để kịp thời ngăn chặn những biến tướng trong khi tổ chức các hoạt
động tín ngưỡng như: mê tín dị đoan, tệ nạn cờ bạc, nạn ăn xin, trộm thương mại
hoá hoạt động tín ngưỡng, sử dụng ngân sách sai quy tắc, không đúng chức năng
vì lợi ích nhóm. Cần thiết lập điểm đến có môi trường tự nhiên sạch đẹp phù hợp
với không gian tâm linh, môi trường xã hội văn minh, an toàn, an ninh để tạo nên
sự an tâm và tin tưởng từ phía du khách.

Trong công tác tổ chức và quản lý của cán bộ quản lý ở địa phương, cần
liên tục thực hiện những khảo sát về nhu cầu của du khách để thực hiện những
nghiên cứu về phương án thay đổi, phát triển và cải thiện chất lượng của các dịch
vụ cùng các cơ sở hoạt động tâm linh sao cho đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của
du khách và sáng tạo được những sản phẩm độc đáo và hấp dẫn hơn.

Cần đạt được sự thống nhất ký kết thực hiện những cam kết pháp lý giữa
chính quyền địa phương (chủ sở hữu quản lý di sản) với các bên liên quan là
doanh nghiệp du lịch; cư dân địa phương; quản lý ngành du lịch về trách nhiệm,
quyền lợi, nghĩa vụ trong đầu tư, bảo quản, tu bổ, khai thác; bảo đảm bình đẳng,

29
công bằng về lợi ích kinh tế với việc bảo tồn được giá trị các di sản văn hóa phục
vụ du lịch cho hiện tại và tương lai.

30
KẾT LUẬN

Với địa thế đắc địa, đa dạng dân tộc cùng sinh sống và những câu chuyện
ly kỳ được lưu truyền qua bao ngàn đời như vậy, An Giang nói chung và vùng
Châu Đốc nói riêng mang trong mình rất nhiều nét đẹp văn hoá cần được lan
truyền đến nhiều người dân ở các vùng miền khác nhau trên đất nước Việt Nam
và bảo tồn gìn giữ qua nhiều thế hệ hơn nữa. Lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam nổi
tiếng với các hoạt động lễ hội sôi động, như hợp múa, hát văn, diễu hành và chầu
văn truyền thống. Con người tham gia vào lễ hội không chỉ thể hiện lòng kính
trọng đối với Bà Chúa Xứ mà còn tạo ra một không khí sôi động và náo nhiệt.
Ngoài ra, lễ hội còn góp phần duy trì và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc.

Hoạt động tâm linh tại miếu Bà Chúa Xứ đã trở thành một điểm du lịch
tâm linh hấp dẫn và nổi tiếng với du khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong
quá trình phát triển còn kéo theo những vấn đề phát sinh trong công tác tổ chức
lễ hội, cần sự hỗ trợ của cán bộ quản lý cùng người dân và các doanh nghiệp du
lịch cùng du khách trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
Cấp quản lý cùng cộng đồng dân cư địa phương cần tập trung đầu tư bảo quản, tu
bổ, bảo tồn mới có thể duy trì được lòng tin của du khách khi tham gia vào hoạt
động trong lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Thực hiện tốt việc gìn giữ các giá trị
văn hoá truyền thống kết hợp với những chính sách phát triển là điều quan trọng
cần thực hiện tốt để phát triển được hoạt động du lịch tâm linh bền vững và phục
vụ cho việc phát triển ngành du lịch của Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Ngày càng nhiều những hình thức du lịch mới lạ xuất hiện, để tạo được những
nét riêng đặc sắc và độc đáo trong ngành du lịch ở An Giang nói chung, lãnh đạo
cùng cộng đồng dân cư cần giữ gìn được nét đẹp của văn hóa của địa phương
trong khi khai thác các hoạt động tâm linh, các đặc sản địa phương để tận dụng
vào việc tổ chức các chuyến du lịch tâm linh kết hợp với việc tham gia lễ hội Vía
Bà Chúa Xứ núi Sam.

31
Sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và quản lý cộng đồng cần được diễn ra
một cách nhuần nhuyễn, hài hòa theo cơ chế có lợi đôi bên. Tuy nhà nước và cộng
đồng có vai trò khác nhau trong công tác tổ chức lễ hội, song cả hai cùng hướng
đến mục tiêu chung là bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương,
sáng tạo thêm những nghi thức mới phù hợp với bối cảnh xã hội hiện tại, đưa vào
khai thác và phát triển du lịch, phát triển kinh tế xã hội vùng Châu Đốc. Có thể
nói, từ cái “vốn” là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam và tín ngưỡng Bà Chúa Xứ,
Châu Đốc đã xây dựng và phát triển thành một thành phố năng động, với nhịp
phát triển dồi dào, sung sức thông qua ngành kinh tế mũi nhọn - du lịch, mà trọng
tâm là du lịch tâm linh. Làm được những điều này, chính là từ giá trị của việc
khai thác di sản văn hoá phi vật thể - lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam trong mối
quan hệ tương hòa giữa nhà nước và cộng đồng.

Tổng kết, lễ hội Bà Chúa Xứ không chỉ là một dịp vui chơi giải trí mà còn
là một biểu tượng của sự kết nối giữa con người và văn hóa Việt Nam. Qua các
nghi lễ và hoạt động, lễ hội này đã góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn
hóa, tâm linh và du lịch của đất nước. Sự gắn kết cộng đồng, sự đa dạng trong các
nghi lễ, và vai trò quan trọng của lễ hội trong việc bảo tồn và phát triển truyền
thống là những điểm đáng chú ý. Khi xã hội phát triển, nhu cầu về đời sống tinh
thần của người dân ngày càng cao, nắm bắt được nhu cầu đó, ngành du lịch đã và
đang khai thác tín ngưỡng và lễ hội Vía Bà tạo ra một sản phẩm du lịch vô cùng
độc đáo, thu hút hàng triệu lượt khách du lịch đến tham quan, tìm hiểu. Chính vì
những lý do đó, công tác bảo tồn và phát huy giá trị của tín ngưỡng thờ Bà Chúa
Xứ Núi Sam trong thời gian tới cần đạt được nhiều hiệu quả để tín ngưỡng thờ
Bà Chúa Xứ Núi Sam, miếu Bà và lễ hội Vía Bà luôn được giữ gìn và là trọng
điểm thu hút khách du lịch tỉnh An Giang.

32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Phạm Thị Mai. (2017). Tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay - giá trị văn hóa, tinh
thần và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Giáo dục Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh. Truy xuất ngày 20/12/2023 từ
https://tapchigiaoduc.moet.gov.vn/vi/magazine/download/?download=1&catid=
277&id=4253

[2]. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển
của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3].Võ Văn Sen, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Văn Lên (Đồng chủ biên) (2014). Tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ: Bản sắc và giá trị, Nxb Đại học Quốc gia, Tp. Hồ
Chí Minh.

[4]. Nguyễn Thị Thọ. (10/07/2021). Đạo thờ Mẫu của văn hóa Việt. Truy xuất

ngày 21/12/2023 từ https://luocsutocviet.com/2019/06/14/316-dao-tho-mau-cua-


van-hoa-viet/

[5]. Nguyễn Thị Hiền.(2014). Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo đến tín

ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo

học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

[6]. Phạm Xuân Hậu, Nguyễn Thị Diễm Tuyết. (2020). Hoạt động tâm linh ở
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, An Giang và việc khai thác phục vụ du lịch. Tạp chí
khoa học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 117-129.

[7]. Nhiều tác giả (2013), Địa chí An Giang, Uỷ ban Nhân dân tỉnh An Giang.

[8]. Hồ Thị Đào, Nguyễn Quốc Bình. (2021). Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ
Bà Chúa xứ Núi Sam trong phát triển du lịch tỉnh An Giang. Tạp chí Khoa học
Đại học Đồng Tháp.

33
[9]. HN. (2022, May 26). Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam - Nét tín ngưỡng tâm
linh #vùng Tây Nam Bộ. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam.

34
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

Họ và tên Nội dung công việc Mức độ hoàn thành


Bùi Thị Ngọc Lan Tìm hiểu nội dung. 100%
Lê Thùy Linh Tìm hiểu nội dung. 100%
Trần Nguyễn Bảo Ngân Tìm hiểu nội dung. 100%
Nguyễn Hữu Phước Tìm hiểu nội dung, tổng hợp word. 100%

35

You might also like