You are on page 1of 32

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA LỊCH SỬ
LỚP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH K03.
------------------

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
Đề tài:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, sự
vận dụng của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2012

DẪN NHẬP
Việt Nam nằm trong cửa ngõ lưu thông thương mại của thế giới. Chính vì
vậy, từ xa xưa người Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với nhiều luồng tư tưởng
văn hóa, tôn giáo từ ngoài du nhập vào. Ngay từ thế kỉ III trước công
nguyên, Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc truyền vào Việt Nam, đến thế kỉ
XVI Ki_tô giáo từ phương Tây truyền vào trong nước ta.

Các tôn giáo vào Việt Nam đã được nhân dân ta tiếp nhận và dung hòa với
văn hóa truyền thống. Trong quá trình phát triển của lịch sử, thế kỉ XIX
trong nước Việt Nam đã xuất hiện tôn giáo mới là Hòa Hảo và Tin Lành.
Trong cộng đồng dân tộc Chăm của Việt Nam, Islam giáo đã được du nhập
vào từ rất lâu . Các tôn giáo ở Việt Nam dường như chung sống hài hòa

1
cùng dân tộc .Tôn giáo ở Việt Nam trở thành bữa ăn tinh thần của nhân dân
liên quan đến mọi mặc trong đời sống của nhân dân, như Các Mác đã viết:
“Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. 1. Tuy vậy, các thế lực thù
địch vẫn lợi dụng cộng đồng cư dân tôn giáo nhằm chống phá chính quyền.
Bởi, tôn giáo là mãnh đất chính trị màu mỡ mà ít ai để ý đến. Nơi đây có
lực lượng chính trị quần chúng rất đông đảo. Do đó, việc xây dựng lực
lượng đoàn kết trong tôn giáo là vấn đề cấp bách đặc biệt, trong thời kì
Việt Nam dân chủ cộng hòa, kháng chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong thời này, chủ
tịch Hồ Chí Minh còn sống, Người đã làm rất tốt công tác xây dựng hệ
thống chính trị tôn giáo nhằm đoàn kết toàn dân để bảo vệ chính phủ lâm
thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, kháng chiến chống Pháp chống Mĩ. Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến việc đoàn kết nội bộ Đảng tại những vùng đa
tôn giáo nhằm cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc vì mục mục tiêu lí tưởng
chung của dân tộc. Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.

Trong thời kì hiện nay, tình hình tôn giáo và dân tộc đã và đang có nhiều
diễn biến phức tạp. Vì thế, để đảm bảo cho sự ổn định chính trị của mình, các
quốc gia đã giành sự quan tâm cần thiết cho việc hoạch định cũng như tổ chức
thực hiện chính sách đối với tôn giáo. Nước ta đang bước sang thời kỳ phát
triển mới là thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. Trước những thời cơ
cũng như thách thức, trước những âm mưu mới của các thế lực thù địch, phản
động thì việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là cực kỳ sáng suốt,
thể hiện tính đúng đắn của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng cách mạng
Việt Nam muốn đi đến thắng lợi thì phải tập hợp nhân dân vào khối đại đoàn kết

1
Các Mac_ Ăng ghen toàn tập, tập 20, tr 437, 570
2
toàn dân tộc, trong đó vấn đề đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiến lược, lâu dài của
Đảng và Nhà nước ta. Thời kỳ này đòi hỏi chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo
phải được cụ thể hóa sao cho phù hợp, để góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa .

Hồ Chí Minh đã để lại tư tưởng và kinh nghiệm phong phú trong xây
dựng lực lượng đoàn kết dân tộc trong tôn giáo cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đó
là tư tưởng mang giá trị trường tôn của dân tộc Việt Nam. Đó là lí do mà nhóm
chúng tôi chọn đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đoàn kết tôn giáo và
việc vận dụng của Đảng trong thời kì hiện nay. Muốn nhận thức và giải quyết
tốt vấn đề tồn giáo phải nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo. Tuy nhiên, cũng không thể vận dụng một cách máy
móc, giáo điều phi thưc tế.

CHƯƠNG 1

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO

1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết tôn giáo

1.1.1 Truyền thống cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn
liền với ý thức đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố,
tạo thành một truyền thống bền vững.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm
văn hóa Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn

3
giáo có lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hòa
đồng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau.

Ở Việt Nam không có xung đột, chiến tranh tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên
hệ giá trị truyền thống vô cùng quý báu, trong đó yêu nước là giá trị hàng đầu.
Trong lịch sử dân tộc đã từng có sự đồng điệu giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu
nước, Trần Nhân Tông vừa là ông vua yêu nước có công lãnh đạo quân dân ta
hai lần đánh thắng quân Nguyên, vừa là nhà thiền học tiêu biểu của thiền phái
Trúc Lâm. Sự đồng điệu ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc trong suốt cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước. Kế thừa truyền thống
ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo
không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù theo
tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với dân tộc, đất
nước. Như vậy, đặc điểm văn hóa dân tộc nói chung, truyền thống yêu nước nói
riêng là cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo.

Đối với mỗi người Việt Nam khi hòa bình thì xây dựng đát nước, còn khi
đất nước gặp họa xâm lăng thì họ cùng nhau đoàn kết lại với nhau không phân
biệt tín ngưỡng, tôn giáo để cứu nước, cứu giống nòi.Hồ Chí Minh đã sớm hấp
thu và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn
kết của dân tộc không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo.

Người khẳng định: “dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn”. Người luôn
thấm nhuần câu nói của ông bà ta ngày xưa: “đạo nào cũng dạy con người làm
lành, làm phải cả”. Hồ Chí Minh nhận thấy tôn giáo là một vấn đề cực kì nhạy
cảm và quan trọng trong quá trình cách mạng. Từ truyền thống yêu nước, truyền
thống đoàn kết, cấu kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam chính là cơ sở cho sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và trên cơ sở đoàn kết
dân tộc, vào những năm 20 của thế kỷ XX Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng
đoàn kết tôn giáo.
4
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội

Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, có
nhiều vấn đề nảy sinh: Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng xác đinh phải tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi công dân.
Công dân có tôn giáo hay không tôn giáo đều bình đảng trước pháp luật, đều có
quyền lợi như nhau. Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm
cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công
dân.

Thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có
tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những
người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo

Phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo

1.1.3 Những bài học kinh nghiệm thành công và thất bại của các
phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới

Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh luôn chú ý
nghiên cứu tổng kết các kinh nghiệm phong trào yêu nước Việt Nam và thế giới.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của cuộc cách
mạng tháng 10 Nga, đó là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng để
làm cách mạng , giành và giữ chính quyền. Người thấy cần phải đoàn kết toàn
dân trong đó đoàn kết tôn giáo là vấn đề quan trọng.

Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí
Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho
Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến
5
hành cách mạng. Các phong trào yêu nước thất bại trong lịch sử Việt Nam vì lí
do không giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc vào mặt trận dân tộc thống nhất.
Chính đó là bài học kinh nghiệm để Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trong đó có vấn đề đoàn kết tôn giáo mà nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo tín ngưỡng là tự do tín ngưỡng tôn giáo, Lương – Giáo
đoàn kết.

1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
1.2.1. Đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiến lược, lâu dài bảo đảm thắng lợi
của cách mạng

Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX bị thất bại có nguyên sâu xa là cả nước đã không đoàn
kết được thành một khối thống nhất, không đoàn kết các tôn giáo lại với nhau.

Muốn cách mạng thành công cần có một lực lượng cách mạng hiện đại,
đoàn kết, quy tụ mọi thành phần dân tộc, đoàn kết lương giáo với nhau. Do vậy
chỉ một ngày sau khi đọc lời tuyên ngôn độc lập, khi đặt ra những nhiệm vụ cấp
bách của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người đã đề ra 6 nhiệm vụ là:
“Thực dân phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào
Lương để dễ thống trị. Tôi đề ngị chính phủ ta tuyên bố: “ tín ngưỡng tự do và
lương giáo đoàn kết”1.

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh hình thành từ những năm
20 của thế kỷ XX và tư tưởng về khối đoàn kết không phân biệt tín ngưỡng, tôn
giáo cũng bắt đầu hình thành từ đây. Nguyên nhân do hoàn cảnh đất nước lúc
bấy giờ không cho phép:
1
. Hồ Chí Minh toàn tập (2009), tập 4, CTQG, HN, tr. 9.
6
ü Dân trí yếu (chưa giác ngộ)

ü Chính sách chia rẽ của Thực dân

Từ sau Cách Mạng tháng 8/1945, tình hình đất nước hoàn toàn đổi khác,
từ đây việc xây dựng khối Đại Đoàn Kết toàn dân và bảo về thành quả của cách
mạng và kiến thiết đất nước trở thành nhiệm vụ hàng đầu. Cũng từ đây, những
yêu cầu cấp bách về đoàn kết tôn giáo đặt lên hàng đầu.

Hồ Chí Minh khẳng định đường lối chính sách lâu dài và nhất quán của
Đảng và nhà nước là đoàn kết tôn giáo và tự do tín ngưỡng, nhằm xây dựng khối
Đại Đoàn Kết toàn dân, đại hòa hợp dân tộc vào mặt trận thống nhất.

Để khẳng định cho tư tưởng đoàn kết lâu dài Người đã khẳng định dứt
khoát trước hội nghị Mặt trận liên Việt toàn quốc (10/1/1955): “ Đoàn kết của ta
không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân
tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc; ta phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có đức, có sức có lòng
phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”2.

Vài tháng sau, trong hội nghị những người công giáo yêu Tổ quốc yêu
hòa bình (8/3/1955), Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định chính sách lâu dài và
chân thành của Đảng và Chính phủ đối với Tôn giáo: “Hiến pháp đã ghi rõ
chính sách tự do tín ngưỡng. Chính phủ nhất định làm đúng như vậy. Phải vạch
trần những luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc và bè lũ tay sai hòng lừa dối,
cha rẽ đồng bào, như chúng nói “Chính phủ cấm đạo”, và nhiều điều vô lý
khác”3.

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết để điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng phù hợp với những đối

2
. Hồ Chí Minh toàn tập (2009), tập 7, CTQG, HN, tr. 438.
3
. Xem: Viện nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, KHXH, tr. 41.
7
tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết toàn dân, đặc biệt là đoàn kết tôn giáo
được Hồ Chí Minh nhận thức là vấn đề chiến lược và lâu dài.

Ngày 14/6/1955 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về vấn đề Tôn giáo. Nội dung
cơ bản của sắc lệnh thể hiện tính chất lâu dài, chân thành của chính sách Tôn
giáo. Đó là chiến lược của cách mạng chứ không phải là đối sách nhất thời. Để
làm được điều đó Người yêu cầu Đảng và Nhà nước phải có chính sách đúng
đắn, phù hợp vời giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, đảng phái trên cơ sở lấy lợi ích
chung của Tổ quốc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, làm “mẫu số
chung” cho sự đoàn kết.

1.2.2. Đoàn kết Tôn giáo đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tự do Tôn giáo

Đường lối đoàn kết Tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng cũng
chính là bắt nguồn từ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh.

Tự do tín ngưỡng, tự do Tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp
với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam trong bối cảnh xây dựng khới đại đoàn
kết toàn dân. Hồ Chí Minh cho rằng muốn đoàn kết Tôn giáo lại với nhau thì
trước hết phải tự do tín ngưỡng, tự do Tôn giáo. Phải chăm lo đến đời sống Giáo
dân, từ đó làm cho họ tin tưởng chính quyền. Địch và những kẻ phản động luôn
rêu rao rằng chính phủ HCM không tự do tín ngưỡng, vi phạm nhân quyền làm
cho đồng bà Giáo dân nghi ngờ chính sách của Đảng. Chính vì vậy cuối 1946
Hồ Chí Minh chỉ đạo sát việc soạn thảo Hiến pháp. Ngày 8/11/1946 Hiến pháp
được thong qua, được công nhận và chính thức từ ngày 9/11/1946. Chương II: “
quyền lợi và nghĩa vụ” có mục B (quyền lợi) khẳng định mọi công dân Việt
Nam có các quyền trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.

Báo cáo tại Hộ nghị Trung ương III (5 – 12/9/1960) Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“phần lớn đồng bào Tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động yêu nước, kháng
chiến… một phần bị địch lợi dụng như ngụy quân Cao Đài, Hòa Hảo, Công
8
giáo Nam Bộ. Một số đồng bào Tôn giáo tuy có bản chất thì tốt, nhưng bị bọn
cầm đầu phản động lung lạc, nên họ hoài nghi chính sách của Đảng và Chính
phủ”4.

Tự do tín ngưỡng tôn giáo là vấn đề quan trọng trong đoàn kết tôn giáo vì
vậy mà Hồ Chí Minh trong bất kì văn bản nào về tôn giáo luôn đề ra tự do tín
ngưỡng tôn giáo.

Để cho đường lối chính sách của Đảng đi vào nếp sống ngày thường của
cán bộ, bộ đội. Hồ Chí Minh đã soạn ra 12 điều răn, với lối viết súc tích dễ nhớ
trong đó có 6 điều răn không nên và 6 điều nên làm. Cùng 12 điều răn là 8 mệnh
lệnh, trong đó điều thứ 4 đề cập: “bảo vệ đền chùa nhà thờ, trường học, nhà
thương và các cơ quan văn hó xã hội khác… Chính quyền, quân đội và đoàn thể
phải tôn trọng tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào”5.

Hội nghị Trung ương người Công giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình
(8/3/1955) Hồ Chí Minh khẳng định lại quyền tự do tín ngưỡng của Đảng và
Nhà nước đối với Tôn giáo: “Hiến pháp đã ghi rõ chính sách tự do tín ngưỡng.
Chính phủ nhất định làm đúng như vậy. Phải vạch trần những luận điệu xuyên
tạc của bọn đế quốc và bè lủ tay sai hòng lừa dối, chia rẽ đồng bào, như chúng
nói “Chính phủ cấm đạo” và nhiều điều vô lý khác”. Hồ Chí Minh muốn
khẳng định cho đồng bào giáo dân rằng những chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn đề cao tự do tín ngưỡng và luôn luôn
bảo đảm quyền lợi cho họ và tự nhận những sai phạm của Đảng và Chính phủ
làm.

Ngày 5/7/1955 Học sinh chủng viện và Tiểu chủng viện xã Đoài (địa phận
Vinh) đã gửi kiến nghị lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, thừa nhận: “vấn đề tự do tín
ngưỡng từ trước đến nay luôn luôn được chính phủ ta tôn trọng và đảm bảo.
Nay sắc lệnh về vấn đề Tôn giáo công bố, càng chứng tỏ thêm chính sách của

4
. Hồ Chí Minh toàn tập (2009), tập 6, CTQG, HN, tr. 461.
5
. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (1995), tập 5, CTQG, HN, tr. 260.
9
chính phủ là lâu dài và chân thành, trước sau như một và có sự đảm bảo chắc
chắn về pháp luật”6.

1.2.3. Đức tin Tôn giáo và lòng yêu nước là nhân tố xây dựng đoàn kết
Tôn giáo

Hồ Chí Minh cho rằng: “đối với người tín hữu, đức tin tôn giáo và lòng
yêu nước không có gì mâu thuẫn”.

Theo Hồ Chí Minh mỗi người có thể là công dân tốt, vừa là tín đồ chân
chính. Là công dân thì có Tổ quốc, là tín đồ thì có Đức Chúa, Đức Phật và các
đấng tối cao khác mà mỗi tôn giáo có một cách gọi, một người có thể đồng thời
hoàn thành nghĩa vụ đối với Tổ quốc, quê hương và làm tròn bổn phận đối với
các đấng tối cao mà mình tôn thờ.

Mối quan hệ giữa Tôn giáo và Tổ quốc không phải là quan niệm mới mẻ
gì của Hồ Chí Minh mà ở đây Người đã biết khai thác được tính đúng đắn của
nó. Chính tư tưởng, quan niệm của Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đức tin tôn
giáo và lòng yêu nước đã động viên giữa lực lượng của hang triệu đồng bào các
tôn giáo ở Việt Nam đoàn kết lại với nhau trong sự nghiệp cứu nước và xây
dựng Đất nước.

Đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không có gì trái ngược nhau. Hồ Chí
Minh nhiều lần nói đến sự trùng hợp giữa mục đích ý nguyện của Đức Chúa,
Đức Phật và lý tưởng, mục tiêu của những người yêu nước nói chung. Chính vì
vậy không có già ngăn cản Đồng bào ta đoàn kết lại với nhau để bảo vệ Tổ quốc
và kiến thiết một nhà nước tự do hạnh phúc hoàn toàn, đập tan luận điệu phản
động của kẻ thù rằng Chính phủ ta là “không gia đình, không tôn giáo, không tổ
quốc”.

6
. Xem: Viện nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, KHXH,HN, tr. 43.
10
Nước không đôc lập thì tôn giáo không được tự do, cho nên chúng ta phải
cùng nhau làm cho nước độc lập đã vì vậy để tập hợp lực lượng đông đảo trong
mặt trận thống nhất, Hồ Chí Minh đề cao đoàn kết tôn giáo với nhau vì chúng ta
cùng có chung một mục tiêu.

CHƯƠNG 2

CHÍNH SÁCH ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam không chỉ là
quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời mà còn là một dân tộc đa tôn giáo.
Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc có những tín ngưỡng, tôn
giáo riêng gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhà nước Việt Nam
khẳng định chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của đồng bào các dân tộc và điều đó đã được minh chứng trên thực tế.

Tuy nhiên thời gian qua, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tìm mọi cách lợi
dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại công cuộc đổi mới của nhân dân
ta. Thông qua các trang web, một số người cố tình bóp méo sự thật, phản ánh
không đúng thực tế tình hình tôn giáo cũng như chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta. Để thực hiện những tham vọng cá nhân, núp dưới chiêu bài “tự do
tôn giáo”, họ đã cố tình không hiểu hoặc phớt lờ những tiến bộ về tự do tôn giáo
ở Việt Nam. Để giải quyết vấn đề tôn giáo với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo trong tình hình hiện nay cực kỳ quan trọng.

2.1. Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam


2.1.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam

Một là, Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện nay, ở
nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận về mặt tổ chức là: Phật

11
giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hòa hảo với khoảng hơn 20 triệu
tín đồ. Ngoài ra có hàng chục triệu người khác vẫn giữ tín ngưỡng giân gian,
truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thủy.

Tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tôn giáo. Nhiều
tín đồ tôn giáo tuy khá sung đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập đạo nhiều do
lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tôn giáo ở phần lớn tín đồ
không thật sự sâu sắc.

Hai là, các tôn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hòa đồng, không
kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo.

Các tín ngưỡng truyền thống và tàn dư tôn giáo nguyên thủy in dấu khá
sâu đậm vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử,
đó là cái nền tâm linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các tôn giáo khác. Sự
khoan dung, lòng độ lượng, nhân ái của dân tộc Việt Nam, cùng với yêu cầu
phải đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập, thống nhất lãnh thổ, nên người
Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác nhau một cách tự nhiên, miễn là nó không
trái với lợi ích dân tộc – quốc gia và truyền thống văn hó, tín ngưỡng cổ truyền.

Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bất là giáo dân của các tôn
giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng nhỏ, các cộng đồng tôn giáo khác
nhau có thể sống xen kẻ nhau. Ở nhiều nơi, trong một làng, xã cũng có các
nhóm tín đồ của các tôn giáo khác nhau sống đan xen, hòa hợp nhau, hoặc xen
kẻ với người không theo tôn giáo nào.

Ba là, các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều du
nhập từ bên ngoài, ít nhiều đều có sự biến đổi mang và mang dấu ấn Việt Nam.

Các tôn giáo từ bên ngoài vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự nhiên
qua giao lưu kinh tế, văn hóa như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp đặt song
hành với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như Công giáo, Tin

12
lành… Quá trình giao du, gặp gỡ các tôn giáo vừa thâm nhập, bổ sung, vửa cải
biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tôn giáo đều có sự biến đổi phù hợp với đặc điểm
địa lý, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Bốn là, sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng truyền
thống và tình cảm, phong tục tập quán và nhân dân.

Tín ngưỡng nổi bất nhất là phong tục thờ cúng tổ tiên, đã dung hợp với
các tôn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm tình cảm, tâm hồn, tính cách người Việt
Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng cổ
truyền và tình cảm, phong tục tập quán đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người
Việt Nam, làm cho một bộ phận không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng
tiếp nhận tình cảm, ý thức tôn giáo mới.

2.1.2. Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay

Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với đời số lượng tín đồ
và tác động chính trị - xã hội không giống nhau¸đồng bào các tôn giáo đã góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng
chục vạn thanh niên có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người anh dũng hi
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nhiều tín đồ và giáo sỹ đã nhận thức đúng đắn chính sách, luật pháp của
Nhà nước, làm tốt cả “việc đạo” và “việc đời”. Tình hình kinh tế, an ninh chính
trị và trật tự xã hội ở nhiều vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo còn băn
khoăn, lo lắng cả phần đạo và phần đời.

Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ, đình
chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài liệu, đào

13
tạo các chức sắc….Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia tăng. Những
hoạt động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều màu sắc khác nhau,
cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên một mặt phản
ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng. Từ khi đổi mới và dân chủ
hóa tự do tín ngưỡng ngày càng có điều kiện thể hiện, đáp ứng nguyện vọng của
một bộ phận nhân dân. Mặt khác nó cũng nói lên điều không bính thường vì
trong đó không chỉ sinh hoạt tôn giáo thuần túy, mà còn biểu hiện lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo để phục vụ cho mưu mô chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.

2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong việc đề ra chính
sách tự do tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, trong đó, các tôn giáo lớn
trên thế giới như: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành đều có mặt ở
Việt Nam. Bên cạnh đó còn có một số tôn giáo ra đời trong lòng dân tộc như:
đạo Cao đài, đạo Hòa hảo… cũng xuất hiện khá sớm càng làm cho “bức tranh”
tôn giáo ở nước ta đa dạng nhiều màu sắc. Đồng bào theo tôn giáo chiếm số
lượng khá đông. Đại đa số đồng bào có Đạo là người lao động, luôn “đồng
hành” cùng dân tộc và có nhiêu công lao đóng góp và bảo vệ Tổ quốc Xã hội
Chủ nghĩa ngày nay. Tuy nhiên, tôn giáo là một lĩnh vực tinh tế và nhạy cảm
trong đời sống xã hội, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo để chống phá
cách mạng Việt Nam. Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch chống phá cách mạng Việt Nam, chúng luôn sử dụng vấn đề “dân tộc, tôn
giáo” để gây mất ổn định chính trị, chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo,
hòng làm suy yếu và tiến tới lật đổ chế độ Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong việc đề ra chính sách tự do tôn
giáo của Đảng và nhà nước trong tình hình hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định quan điểm, chính sách tôn giáo nhất quán là: “Đồng bào các
tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật.
14
Đoàn kết đồng bào các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo…”7

2.2.1. Quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta về tôn giáo trong tình hình
hiện nay

Chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, một mặt, được xây
dựng dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, căn cứ vào tình hình quốc tế,
đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và nhu cầu của cách mạng trong từng
thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên, tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà
nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, đoàn kết tôn giáo, hòa
hợp dân tộc. Mặt khác, mọi người – kể cả có hay không có tín ngưỡng cũng như
có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau – cần đề cao cảnh giác chống mọi âm mưu,
thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.

Đảng và nhà nước ta thể hiện tinh thần trên mặt bằng hệ thống chính sách
phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Trên cơ sở phân tích đặc điểm tín ngưỡng, tôn
giáo ở nước ta và những bài học rút ra từ thực tiễn cách mạng, những yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời đề ra những chủ trương
chính sách phù hợp với yê cầu của cách mạng mới. Điều đó được thể hiện qua
các văn kiện sau:

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta khẳng
định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện
bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái đô hẹp
hòi, thành kiến phân biệt đối xử đối với đồng bào có đạo, chồng những hành vi

7
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, CTQG, HN, tr. 122.
15
lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã
hội, ngăn cản tín đồ làm nhiệm vụ công dân”8.

Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 24 – NQ/TW về tăng


cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, thì ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ
trưởng ra Nghị định số 69 – HĐBT quy định về hoạt động tôn giáo.

Ngày 2/7/1998, Bộ chính trị ra Chỉ thị số 37 - NQ/TW về công tác tôn
giáo trong tình hình mới, thì ngày 19/4/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành
nghị định 26/1999/NĐ – CP về các hoạt động tôn giáo.

Ngày 12/3/2003, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng
ra nghị quyết số 25 – NQ/TW về công tác tôn giáo. Sauk hi có nghị quyết 25,
ngày 29/6/2004, Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký lệnh công bố Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo, đã được Ủy ban Thường vụ Quộc hội khóa XI thông qua ngày
18/6/2004. Đến ngày 1/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ –
CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

Ngày 4/2/2005, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 01/2005/CT – TTg, về
một số công tác đối với đạo Tiin lành.

Mọi chủ trương, quan điểm của Đảng về tôn giáo đều được nhà nước ta
kịp thời thể chế hóa bằng các văn bản pháp quy.

Do thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề tôn giáo và sự cần thiết phải hoàn
thiện chính sách đối với tôn giáo, Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII của Đảng có hẳn một mục “Chính sách văn hóa đối với
tôn giáo”. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục
khẳng định những quan điểm đã được nêu ra trong các kỳ đại hội trước, đồng
thời bổ sung một sổ điểm mới:

8
. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sự thật, tr. 78.
16
“Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
thực hiện chính sách nhất quán và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và
không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống của
đồng bào. Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn giáo có nhiệm vụ làm tròn trách
nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đới đẹp đạo”, phát huy những giá trị
tốt đẹp về văn hó và đạo đức của tôn giáo. Từng bước hoàn thiện luật pháp về
tín ngưỡng tôn giáo.

Nghiêm cấm lợi dụng vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ các dân tộc, xâm phạm
an ninh quốc gia”9.

Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết
đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện địa
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Do đó, để góp phần vận dụng và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề tôn giáo trong việc thực hiện chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện:

Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn
giáo, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc và các giá trị văn hoá tốt đẹp
của đất nước.

Đây là giải pháp có vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức, trình độ hiểu
biết cho nhân dân, là cơ sở quan trọng để nhân dân hiểu rõ hơn về nguồn gốc,

9
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, CTQG, HN, tr. 128.
17
bản chất của tôn giáo, trên cơ sở đó có hành động đúng đắn, phù hợp. Thông qua
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần định hướng nhận thức cho nhân
dân, giúp nhân dân hiểu được giá trị, vị trí to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội nước ta. Đặc biệt, phải hết sức coi
trọng tuyên truyền giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về tôn giáo để nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng và thực hiện tốt, tạo niềm tin
của nhân dân không phân biệt tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.

Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị để thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Đây là giải
pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sự vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam. Bởi vì, tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc trước hết
vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò, trách nhiệm của các
tổ chức chính trị - xã hội trong toàn bộ hệ thống chính trị các cấp. Đảng, Nhà
nước ta luôn bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời đề ra những chủ trương, biện
pháp thích hợp để thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn
giáo... nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng.

Sau hơn 20 năm đổi mới, những chủ trương, biện pháp đúng đắn, kịp thời
của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo đã có ý nghĩa quyết định tới việc củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo, củng cố niềm tin của đồng
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo vào đường lối đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn
dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân ta vận dụng, thể
nghiệm thành những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ
qua. Điều đó đã khẳng định tính đúng đắn và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh qua thực tiễn cách mạng.

18
Ba là, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao
đời sống nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng
bào theo tôn giáo.

Đây là giải pháp cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa mang tính
chiến lược lâu dài đối với công tác tôn giáo. Bởi vì, nước ta với hơn 2/3 dân số
là nông dân, điều kiện kinh tế - xã hội tuy đã được cải thiện song còn không ít
khó khăn. Đặc biệt trong đó đồng bào theo tôn giáo phần đông là người lao
động nghèo (chủ yếu là nông dân) đời sống còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp
so với mặt bằng chung của toàn xã hội. Chỉ có ổn định và phát triển kinh tế, xã
hội, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đưa ánh sáng của Đảng
đến với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng
bào theo tôn giáo thì mới là giải pháp hữu hiệu nhất, giúp nhân dân cảnh giác
với sự tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù, không bị thủ đoạn truyền đạo trái phép
lừa bịp.

Cùng với việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ, Đảng đã
có nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đến đời sống của bà con giáo dân. Các
bộ, ban, ngành, đoàn thể và các địa phương đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước bằng nhiều chương trình hành động và kế hoạch thực
hiện phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tập trung giải quyết
vấn đề an sinh xã hội, phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo của đồng bào. Công tác tuyên truyền, vận động các chức sắc,
đồng bào có đạo tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, sống "tốt
đời, đẹp đạo", đồng hành cùng dân tộc và tham gia các hoạt động xã hội từ
thiện, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm trật tự an toàn xã hội được đẩy mạnh.

Bốn là, ngăn chặn kịp thời và kiên quyết trừng trị những âm mưu hành
động lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.

19
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán: tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo và
tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân, kiên quyết trừng trị các âm mưu
hành động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của kẻ thù. Quan điểm trên
chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng
tôn giáo nói chung, về đoàn kết tôn giáo nói riêng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của cách mạng nước ta hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo cho đến nay vẫn còn nguyên
giá trị, là cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước ta vận dụng trong thực hiện chính
sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tư tưởng của Người chính là góp
phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh.

2.2.2 Chính sách của Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo trong quá
trình đổi mới
 Những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối với tôn giáo

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để
phát huy sức mạnh toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Bộ chính trị yêu cầu các cấp ủy Đảng và
chính quyền động viên đồng bào các tôn giáo phát huy truyền thông yêu nước,
hăng hái tham gia công cuộc đổi mới, làm tốt việc đạo, làm trọn nghĩa vụ công
dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng tiếp tục thực hiện tốt các chính sách của
Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo theo những nguyên tắc chung sau:

Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Mọi công dân đều bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật, không phân
biệt người theo đạo và không theo đạo cũng như giữa tôn giáo khác nhau.

Đoàn kết gắn bó đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân.

20
Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ Hiến
pháp và Pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; gìn gữ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

Những hoạt động tôn giáo, ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.

Mọi hành vi lợi dụng hoạt đông tôn giáo để lảm mất trật tự an toàn xã hội,
phương hại đền nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân,
chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị
đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ chức sắc các tôn giáo
thực hiện nghĩa vụ công dân… đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín
phải bị phê phán và loại bỏ.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể, các tổ chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác
vận động quần chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của đảng và
Nhà nước.

 Những chính sách cụ thể đối với các tôn giáo

Đối với tín đồ các tôn giáo: Đồng bào có đạo được sinh hoạt bình
thường, nghĩa là nơi thờ tự và thực hiện nghi lễ tôn giáo, có kinh sách, đồ dung
việc đạo và có chức sắc hướng dẫn việc đạo làm cho đồng bào hiểu rõ chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; làm cho mọi người phân
biệt được tự do tín ngưỡng và lợi dụng tín ngưỡng để họ tự giác đấu tranh chống
mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của những thế lực phản động.

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi công dân. Mọi công dân đều
có quyền theo tôn giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo mình. Mọi hành vi xâm
phạm quyền tự do ấy… đều bị xử lý theo pháp luật, không phân biệt đối xử vì lý

21
do tín ngưỡng trong những hoạt động xã hội. Xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiện,
thường xuyên củng cố tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không có
đạo, giữa tín đồ các tôn giáo với nhau.

Đối với các chức sắc tôn giáo: Mọi chứ sắc tôn giáo được pháp luật thừa
nhận đều có quyền bình đẳng trước pháp luật và được đối xử tương xứng với vị
trí, trách nhiệm trước pháp luật về nội dung, phạm vi hoạt động của mình; được
hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật tại nơi mình phụ trách; các giáo
hội được đào tạo, phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc và nhà tu hành
theo quy định của luật pháp và sự quản lý của Nhà nước; được hoạt động vì lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân. Các chức sắc và nhà tu hành tiến bộ gắn bó với
dân tộc, tuân thủ luật pháp được tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt động xã
hội với tư cách là một công dân. Những chức sắc, nhà tu hành có hành vi vi
phạp pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật.

Đối với các tổ chức tôn giáo: Các tổ chức tôn giáo có đường hướng hành
đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với luật pháp Nhà
nước, có cơ cấu về hai mặt: đạo và đời thì được xem xét từng trường hợp cụ thể
để được hoạt động.

Đối với cơ sở hoạt động kinh tế, xã hội từ thiện của tôn giáo: Khuyến
khích những chức sắc, nhà tù hành và tín đồ tham gia vào việc thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội, các phong trào của mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể, các tổ chức xã hội, hoạt động từ thiện, nhân đạo trong khuôn khổ chủ
trương chung, nhưng không lập tổ chức riêng mà gia nhập hệ thống phúc lợi xã
hội công cộng.

Giải quyết các vấn đề cơ sở vật chất của tôn giáo trên tinh thần vửa bảo
đảm nhu cầu chính đáng của tín đồ vừa đảm bảo lợi ích chung của toàn dân, phù
hợp với việc quy hoạch về kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

22
Đối với quan hệ quốc tế của tôn giáo: Quán triệt đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa theo tinh thần Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước vì hòa bình và tiến bộ xã hội trong quan hệ quốc tế của
các tôn giáo. Quan hệt quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có lien quan đến
tôn giáo phải tuân thủ, chế độ chung về quan hệ quốc tế và đối ngoại của Đảng
và Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích Tổ Quốc, giữ vững độc lập và chủ quyền quốc
gia.

Các tổ chức tôn giáo muốn đặt quan hệ chính thức hoặc tham gia tổ chức
tôn giáo nước ngoài phải xin phép Nhà nước. Tổ chức tôn giáo nước ngoài đặt ra
những vấn đề liên quan đến tổ chức tôn giáo trong nước phải có sự thỏa thuận
của Nhà nước ta trước khi triển khai. Giáo hội trong nước khi nhận được chủ
trương của tổ chức tôn giáo nước ngoài phải báo cáo với Nhà nước và chỉ thực
hiện sau khi được Nhà nước cho phép.

Tín đồ người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam được sinh
hoạt tín ngưỡng cá nhân theo quy định của luật pháp Việt Nam. Cấm người
nước ngoài vào truyền đạo bất hợi pháp ở nước ta. Xuất cảnh, nhập cảnh vì lý do
tôn giáo và viện trợ thuần túy tôn giáo đều phải tuân theo luật pháp và sự quản
lý nhà nước.

Những thành tựu và hạn chế của Đảng và Nhà nước ta trong đoàn kết tôn giáo
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thành tựu và nguyên nhân

 Thành tựu

Một là, đã khắc phục được một bước nhận thức lệch lạc, phiến diện về
tôn giáo trong cán bộ, đảng viên, từ đó tạo ra xu thế những người có tôn giáo

23
đồng hành với dân tộc, tán thành và tham gia công cuộc đổi mới đất nước với
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Hai là, Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đã quan tâm đến đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo, từ đó, gây được lòng tin tưởng,
phấn khởi của chức sắc và tín đồ các tôn giáo.

Mọi sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều diễn ra bình thường, không gặp
bất cứ sự cản trở nào. Đặc biệt, những ngày lễ của các tôn giáo được tổ chức
trọng thể theo đúng nghi thức tôn giáo, thu hút sự tham gia đông đảo của các tín
đồ với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng vào chính sách tôn giáo và
pháp luật của Nhà nước Việt Nam, đồng thời bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Dư
luận trong nước và quốc tế đánh giá rất cao việc Việt Nam đã tổ chức thành
công Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc vào tháng 5-2008 với sự tham dự của hàng
vạn chức sắc, tín đồ và gần 2.000 đại biểu quốc tế đến từ 71 quốc gia, vùng lãnh
thổ và tổ chức quốc tế. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam được chọn là nước
đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới vào năm 2010.

Ba là, đã tạo ra xu thế chủ đạo trong quần chúng tín đồ và đội ngũ chức
sắc là hành đạo trong khuôn khổ của Pháp luật nhà nước và tuân thủ sự quản lý
của chính quyền.

 Nguyên nhân đạt được:

Thứ nhất, có được thành tựu to lớn nói trên của công tác tôn giáo trong
những năm đổi mới vừa qua, trước hết là do Đảng ta đã đề xướng đường lối đổi
mới đúng đắn, toàn diện, sâu sắc; đã lãnh đạo quá trình thực hiện đường lối đổi
mới đó thành công.

24
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta sớm đưa ra các chủ trương, chính sách tôn
giáo theo tinh thần đổi mới đúng đắn và kịp thời; đã chủ động, sáng tạo trong
quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách đó.

Thứ ba, đã tích cực xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ máy và đội ngũ các
bộ làm công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân
và các lực lượng vũ trang nhân dân theo yêu cầu của tình hình mới.

Những thành tựu của Việt Nam trong thực hiện chủ trương, chính sách về
tự do tôn giáo được đông đảo cá nhân và các tổ chức quốc tế thừa nhận. Thượng
nghị sĩ Mỹ Jim Webb đánh giá: Cho dù vẫn còn những quan điểm cá nhân về
một vài vụ việc cụ thể liên quan đến tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhưng không
thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhất là từ năm 1991
đến nay. Ông đã nói như vậy trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam trung
tuần tháng 8 năm 2009. Và trước đó đoàn Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa
Kỳ (USCIRF) do Phó chủ tịch Ủy ban Michael Lewis Cromartie dẫn đầu đến
thăm và làm việc tại Việt Nam cũng nhận xét: Tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt
Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ...

2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân

 Một số hạn chế:

Một là, một số nơi cấp ủy Đảng, chính quyền và một số cán bộ làm công
tác tôn giáo, do chưa nhận thức đầy đủ chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước đối với tôn giáo nên chưa làm tốt việc hướng dẫn, vận động tín đồ
và các chức sắc các tôn giáo.

Hai là, trong quản lý hoạt động tôn giáo vừa có biểu hiện cứng nhắc, lại
vừa có biểu hiện buông lỏng, chưa kiên quyết đấu tranh với những hành vi lệch
lạc, sai trái của một số người lợi dụng tôn giáo hoạt động vi phạm pháp luật,
xâm phạm đến lợi ích của nhân dân.

25
Ba là, hoạt động tôn giáo của một số tín đồ, chức sắc ở một số nơi chưa
theo đúng pháp luật, như: tổ chức sinh hoạt tôn giáo, in ấn, xuất nhập, lưu hành
Kinh thánh, sử dụng đất đai, xây dựng, sửa chữa nơi tờ tự, huy động sức dân
không đúng quy định của luật pháp. Một bộ phận tín đồ, chức viên, chức sắc lợi
dụng chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước để đòi hỏi được tự
do hoạt động tôn giáo vượt qua khuôn khổ của pháp luật và điều kiện kinh tế, xã
hội, chính trị cho phép.

Bốn là, còn có người lợi dụng nơi thờ tự tôn giáo để hành nghề mê tín dị
đoan và một số người không phải là người tu hành cũng truyền đạo trái phép, vi
phạm pháp luật; vẫn có tình trạng truyền đạo vi phạm pháp luật và lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các hoạt động ôn giáo gây phương hại đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, trái với lợi ích của tôn giáo hoặc thu lợi cá nhân.

Nguyên nhân:

Thứ nhất, nguyên nhân nhân dẫn đến các thiếu sót trên là do không nhận
thức và hiểu ro tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, đặc biệt công tác nghiên cứu
cơ bản về đời sống tín ngưỡng nói chung, đời sống tôn giáo nói riêng ở nước ta
chưa được đầu tư thỏa đáng.

Thứ hai, do công tác tổng kết thực tiễn làm chưa sâu và chưa gắn liền với
quá trình nghiên cứu, ban hành kịp thời văn bản pháp luật để kiện toàn, phát huy
công cụ quản lý xã hội bằng pháp luật.

Với những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế trong việc đề ra
chính sách tự do tôn giáo của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo, nó thật sự đã mang lại cho người dân, đặc biệt là những người theo đạo
thấy được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Từ đó đồng bào có đạo cùng
đồng bào lương cùng nhau đoàn kết lại để xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh, đập tan âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, nói xấu
Đảng Cộng sản. Với tư cách là một sinh viên, tôi nhận thấy rằng vấn đề tôn giáo
26
là cực kỳ nhạy cảm, nếu Đảng và Nhà nước không nắm vũng chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo thì không thể giải quyết được, đồng
thời phải dựa vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thê để xem xét đưa ra cách giải
quyết, các chính sách phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo.

Những hạn chế cho thấy sự yếu kém về mặt tổ chức, cũng như đạo đức
cách mạng của một số đảng viên. Đặc biệt do thế lực thù địch kích động, dùng
tiền “để” dụ giỗ, mua chuộc phá hoại chính sách tự do tôn giáo của Đảng. Đây
là một vấn đề cực kỳ bức xúc, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, bài
học về một số nước như các nước châu Phi (Ai Cập, Libya…) sẽ làm cho Đảng
và Nhà nước có cách nhìn cũng như hành động hợp lý trước khi quá muộn. Tự
do tôn giáo chính là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó là vấn đề chiến lược ảnh hưởng đến sự thành
công của cách mạng. Hiện nay trong công cuôc đổi mới đất nước việc đề ra các
chính sach hợp lý và hiệu quả về tự do tôn giáo để đoàn kết nhân dân vào một
khối thống nhất xây dựng đất nước giàu mạnh, để các tín đồ sống “tốt đời, đẹp
đạo” xem lý tưởng xã hội chủ nghĩa đồng nhất với lý tưởng tôn giáo.

KẾT LUẬN
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo trong việc đề ra chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình hiện nay chính là quay lại với tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong tình hình thế giới ngày càng biến động, hệ thống xã
hội chủ nghĩa bị tan rã, trật tự hai cưc Ianta sụp đổ; các thế lực thù địch, phản
động ngày càng ra sức chống đối Đảng và Nhà nước, đặc biệt chúng chú trọng
khoét sâu vào vấn đề tôn giáo, tự do tôn giáo để làm mất ổn định đất nước, tiến
tới lật đổ nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tôn giáo là vấn đề cực kỳ nhạy
cảm vì vậy Đảng và Nhà nước phải đề ra chính sách thật khôn khéo, mềm mỏng
mà cứng rắn để tôn giáo được tự do, đồng bào giáo dân yên tâm công hiến, phát
triển đất nước.
27
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, chính là cẩm nang, là kim chỉ
nam cho Đảng và Nhà nước ta hành động, hoạch định chính sách tự do tôn giáo
trong tình hình mới. Chính nhờ ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với sự
sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong hoàn cảnh thế giới mới đã đoàn kết
nhân dân vào khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó đoàn kết tôn giáo là một bộ
phận quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Đảng ta xem tôn giáo luôn
đồng hành với sự phát triển đất nước, luôn luôn tôn trọng, xóa bỏ mọi sai lầm
của đồng bào giáo dân để hướng tới tương lai tốt đẹp. Tất cả ai cũng có gia đình,
có tôn tín ngưỡng, tôn giáo (hay không theo tôn giáo nào), có tổ quốc. Vì vậy
chúng ta không phân biệt tôn giáo, phải cùng nhau đoàn kết với nhau để xây
dựng đất nước.

Mỹ và thế lực thù địch cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền, không có
tự do tôn giáo, mặc dù luận điệu đó là vô cớ, nhưng Đảng và Nhà nước ta phải
hết sức xem xét, phải ra sức bảo vệ chính kiến của mình. Tự do tôn giáo chính là
vấn đề mà trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất chú
trọng, chính vì vậy hiện nay Đảng và Nhà nước cần phải kế thừa, phát huy sáng
tạo để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo.

Quyền tự do theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào của công
dân được quy định rõ ràng trong hệ thống pháp luật Việt Nam và được đảm bảo
trên thực tế. Đó là điều mà Nhà nước Việt nam luôn khẳng định. Mục đích của
hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo ở Việt Nam là tăng cường đoàn kết toàn
dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những ai không xuất phát từ lý do tôn giáo, vì mục đích tôn giáo, mà lợi dụng
tôn giáo để gây mất ổn định xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc là vi phạm
pháp luật Việt Nam và họ sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi của
mình.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam Đản (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (1995), tập 5, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2009), toàn tập, tập 4, 6, 7, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29
8. Đỗ Quang Hưng (2008), Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Nguyễn – Bàn về tôn
giáo. Nghiên cứu, sưu tầm, chú giải, Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
9. Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo – quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam hiện nay, Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
10.Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11.Viện nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín
ngưỡng, Khoa học Xã hội, Hà Nội.

MỤC LỤC

DẪN NHẬP..................................................................................................................................2

CHƯƠNG 1..................................................................................................................................4

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO....................................4

1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết tôn giáo....................................4

1.1.1 Truyền thống cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.........................................................4

1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội..................................................................................................................................5

1.1.3. Những bài học kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới.....................................................................................................................6

1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo.................................................6

1.2.1. Đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiến lược, lâu dài bảo đảm thắng lợi của cách mạng.....6
30
1.2.2. Đoàn kết Tôn giáo đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do Tôn
giáo 9

1.2.3. Đức tin Tôn giáo và lòng yêu nước là nhân tố xây dựng đoàn kết Tôn giáo...............10

CHƯƠNG 2................................................................................................................................12

CHÍNH SÁCH ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.....................................................................................................................12

2.1. Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam....................................................................12

2.1.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam....................................................................................12

2.1.2. Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay........................................................................14

2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong việc đề ra chính sách tự do tôn
giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay...................................................................................15

2.2.1. Quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta về tôn giáo trong tình hình hiện nay.............16

Những thành tựu và hạn chế của Đảng và Nhà nước ta trong đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.....................................................................................................................................25

Thành tựu và nguyên nhân..........................................................................................................25

2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân...................................................................................26

KẾT LUẬN................................................................................................................................29

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................31

31
32

You might also like