You are on page 1of 30

TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH
VỀ TÔN GIÁO
NHÓM 6

Vũ Minh Dũng - 20205179 Vũ Minh Dũng - 20205179


Vũ Minh Dũng - 20205179 Vũ Minh Dũng - 20205179
Vũ Minh Dũng - 20205179 Nguyễn Duy Linh- 20216168
NỘI DUNG BÀI
Khái niệm về tôn giáo
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về tôn giáo
• Tự do tín ngưỡng

• Đoàn kết tôn giáo

• Giải quyết hài hòa vấn đề tôn giáo và lợi ích quốc gia, dân tộc

Kết luận
01.
KHÁI NIỆM VỀ TÔN GIÁO
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ CÁCH NHÌN NHẬN VỀ TÔN GIÁO

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi các giá trị nhân bản của các tôn giáo là những di sản vǎn hoá tinh thần quý
báu của nhân loại, bằng tri thức cách mạng, vốn hiểu biết về vǎn hoá sâu sắc và cái nhìn duy vật biện
chứng, Người đã phát hiện và tiếp nhận cái thiện, cái mỹ, cái cốt lõi nhân vǎn trong các tôn giáo.
Người đã viết:"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân .Tôn giáo
Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc
biện chứng.Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ
nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học
trò nhỏ của các vị ấy ".
Vì vậy, không ngạc nhiên khi Hồ Chí Minh - Người cộng sản, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam
không dưới một lần ca ngợi những người sáng lập ra các tôn giáo một cách thành kính: Chúa Giê su
dạy đạo đức và bác ái. Phật thích ca dạy đạo đức và từ bi. Khổng Tử dạy đạo đức và nhân nghĩa.

Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết có
tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Đây là một đặc điểm lớn được Hồ Chí Minh
khai thác một cách triệt để và tài tình trong giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
VẬY TÔN GIÁO LÀ GÌ?

Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hoá, tín ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi
và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải
thị, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với
các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh .
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, có liên quan và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Những năm gần đây, trên thế giới cũng như ở nước ta, tôn giáo có chiều hướng phục hồi,
phát triển và đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải cả về lý luận cũng như thực tiễn. Do đó, việc tìm
hiểu những luận điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng có ý nghĩa
quan trọng trong công tác nghiên cứu lý luận, góp phần thực hiện tốt công tác tôn giáo của Đảng.

Đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo và xử lý các vấn đề về tôn giáo là những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
02.
TƯ TƯỞNG CỦA
HỒ CHÍ MINH
VỀ TÔN GIÁO
TỰ DO TÍN NGƯỠNG

Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo là


một trong những quyền cơ bản của con
người và quyền ấy được cộng đồng
quốc tế thừa nhận.
Trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, có đoạn viết: “Tất cả mọi người sinh
ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Người đã kế thừa và phát
triển những giá trị tư tưởng tiến bộ về quyền con người trong các cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên
thế giới. Chỉ một ngày, sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh nêu lên 6 vấn đề cấp bách cần
làm ngay, trong đó, vấn đề thứ 6 là: “Thực dân phong kiến thi hành chính sách đồng bào Giáo và đồng
bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương
Giáo đoàn kết”.Ngày 09-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; trong đó ghi nhận: “Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng”.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng là một trong những quan điểm quan trọng nhất trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Tư tưởng đó của Người được thể hiện nhất quán cả trong lý luận
và các hoạt động thực tiễn, trong cách mạng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã trở
thành nguyên tắc xuyên suốt trong chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Sắc lệnh số
234/SL ngày 14-6-1955 đã quy định những hoạt động tôn giáo trong chế độ mới. Với 5 chương, 16
điều, Sắc lệnh đã chi tiết và cụ thể hóa về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và được
đồng bào theo đạo và không theo đạo nhiệt liệt hoan nghênh, tiếp thu.
ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO

Việt Nam là một nước đa dân tộc, đa tôn


giáo. Có những tôn giáo được hình thành từ
nước ngoài rồi du nhập vào nước ta và có
những tôn giáo được hình thành ngay tại
Việt Nam. Nhìn chung các tôn giáo ở Việt
Nam có truyền thống đoàn kết, hòa đồng,
gắn bó với dân tộc, góp phần làm phong
phú bản sắc văn hóa của dân tộc ta.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đại đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn kết dân tộc và tôn giáo là
yếu tố cơ bản đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong mọi giai đoạn. Tư tưởng ấy nằm trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc được thể hiện rõ qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao và giáo dục ý thức trong cộng đồng: “Lực lượng toàn dân tộc là lực
lượng vĩ đại hơn ai hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”.
Để tập hợp và đoàn kết Lương - Giáo, Người thường xuyên nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước
phải quan tâm, chăm sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo và mong sao: “Sản
xuất ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui”.

Năm 1962, khi nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ Mặt trận, Người căn dặn: “Phải đoàn kết chặt chẽ
giữa đồng bào Lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây
dựng Tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng đối với tất cả các tôn
giáo”.
Tôn trọng tự do, tín ngưỡng cần đi đôi với việc phân biệt rõ nhu cầu tín ngưỡng chân chính của quần
chúng với âm mưu lợi dụng tôn giáo chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, xâm hại đến độc lập dân tộc.
Chia rẽ dân tộc là thủ đoạn xảo quyệt của thực dân, đế quốc, của các thế lực phản động, Người nói:
“Địch âm mưu chia rẽ thì ta nêu lên khẩu hiệu: đoàn kết toàn dân”

Nhờ nâng cao tinh thần đoàn kết Lương - Giáo, hòa hợp dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp
được nhiều chức sắc, tín đồ các tôn giáo và họ cũng hết lòng phấn đấu cho sự nghiệp cứu nước. Từ đó,
những định kiến, mặc cảm về vấn đề tôn giáo do lịch sử để lại được xóa dần và âm mưu chia rẽ tôn
giáo của các thế lực thù địch bị thất bại. Theo Người, đoàn kết Lương - Giáo là đoàn kết lâu dài, toàn
diện, là vấn đề chiến lược, tạo sức mạnh cho cách mạng Việt Nam trong bất cứ giai đoạn nào.
Với tình cảm chân thành, cởi mở, bao dung và luôn thấu hiểu nỗi trăn trở, suy tư của đồng bào, Bác đã
để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng tín đồ các tôn giáo. Tình cảm của đồng bào các tôn giáo được thể
hiện sâu đậm qua phát biểu tại Đại hội đại biểu của những người Công giáo Việt Nam xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc lần thứ III, tại Hà Nội, ngày 30-12-1997: “Người Công giáo Việt Nam hết lòng biết ơn
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ân cần chăm sóc đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Công
giáo. Cũng nhờ chính sách đại đoàn kết của Người, những ngăn cách giữa các tôn giáo bị xóa bỏ, hiện
nay tình đoàn kết giữa các tôn giáo ngày càng tốt hơn, thân ái hơn để giúp nhau xây dựng cuộc sống
tốt đạo, đẹp đời”.
GIẢI QUYẾT HÀI HÒA VẤN ĐỀ TÔN GIÁO VỚI LỢI ÍCH
QUỐC GIA, DÂN TỘC

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng việc vận động mọi người tôn trọng niềm tin; giáo dục những người
theo đạo và không theo đạo đoàn kết để đạt mục đích giải phóng dân tộc và cùng nhau xây dựng cuộc
sống hạnh phúc. Do vậy, phải có thái độ mềm dẻo, hiểu đúng bản chất để giải quyết; có cách nhìn
nhận, đánh giá về tôn giáo một cách đúng đắn, khách quan và biện chứng.

Năm 1958, trong buổi tiếp xúc cử tri tại Hà Nội, khi trả lời câu hỏi: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn
giáo có bị hạn chế không?”, Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc lại và khẳng định thái độ của người Cộng
sản đối với tôn giáo ở Việt Nam: “Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở
Việt Nam cũng vậy”.
Là một hiện tượng xã hội phức tạp, tôn giáo cũng có những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Hồ Chí Minh
khuyên mọi người giữ gìn và phát huy cái tốt; đồng thời hạn chế và loại bỏ cái xấu có trong tôn giáo.
Người nêu ra những giá trị đạo đức và văn hóa vốn có của tôn giáo để những người theo đạo và không
theo đạo biết và làm theo ý của Người, như sau: “Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca
dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”.
Người coi tôn giáo là di sản văn hóa của nhân Người kêu gọi đồng bào cả Lương lẫn Giáo cũng vì tự
loại, do đó, phải tôn trọng, chấp nhận sự khác do hạnh phúc của toàn dân mà hy sinh phấn đấu. Người
nhau về nhận thức; phải biết khai thác sự tương nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với dân tộc
đồng để tìm ra mẫu số chung về mục tiêu để hết sức giản dị, dễ hiểu và khái quát nên những nét độc
cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ cao cả là độc đáo, sâu sắc: Kính Chúa gắn liền với yêu nước, nước có
lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước vinh thì đạo mới sáng, nước có độc lập thì đạo mới có
mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người tự do. Bởi vì, đối với người theo đạo, đức tin tôn giáo
chân chính yêu nước đồng thời cũng là những và lòng yêu nước không hề mâu thuẫn. Kẻ chống lại Tổ
tín đồ trung thành của Chúa Giê-su . Bởi Chúa quốc cũng chính là kẻ phản Chúa - đó là mẫu số chung
Giê-su hy sinh vì mong muốn cho loài người mà Hồ Chí Minh đưa ra để giải quyết hài hòa vấn đề tôn
được tự do, hạnh phúc. giáo.
03.
KẾT LUẬN
Với chủ trương tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết, theo Hồ Chí Minh công tác tôn giáo phải
nhằm mục tiêu là đoàn kết giữa người có đạo và người không có đạo, đoàn kết đồng bào có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Từ tư tưởng đó của Người, trong suốt tiến trình cách mạng của đất nước
ta luôn tạo được ra khối đại đoàn kết dân tộc, tạo được sức mạnh tổng thể để chiến thắng mọi kẻ thù
cũng như phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Từ tư tưởng đó, Nhà nước ta đã vận dụng để đưa lên
thành các quy định pháp luật để mang tính phổ quát cho toàn xã hội và Luật Tôn giáo năm 2018 quy
định cụ thể về định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ
chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến; hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tôn giáo.
Thực hiện tốt đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào có đạo và đồng bào không có
đạo. Không ngừng phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đồng bào có đạo, các chức sắc tôn giáo
thực hiện tốt trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt
đẹp văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Đấu tranh chống lại các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng, để hoạt động trái với luật tôn giáo của Nhà nước, kích động, chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh quốc gia.
THANK
YOU

You might also like