You are on page 1of 32

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

CHUYÊN ĐỀ: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO

ĐỀ TÀI:

HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TÔN GIÁO VỚI CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI

TP.HCM, Tháng 10 năm 2012

Mục lục

A. Mở đầu
B. Nội dung

Chương 1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn
giáo và chủ nghĩa xã hội

1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo với chủ
nghĩa xã hội

2.1. Tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có những điểm tương đồng

2.2. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo
đảm

2.3. Thực hiện “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” tạo nên động lực, sức
mạnh cho công cuộc thống nhất đất nước và xây dựng xã hội mới

Chương 3. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo
và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới

3.1. Tình hình tôn giáo nước ta hiện nay

3.2. Chính sách đối với tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay

3.3. Công tác tôn giáo ở nước ta

C. Kết luận

Tài liệu tham khảo


Mở đầu

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có
truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc sống trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời
sống kinh tế và tâm linh của mình.

Như chúng ta đã biết, tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì sẽ
không thể tạo dựng được nền tảng tư tưởng cho xã hội mới. Nhưng nếu giải quyết
một cách vội vã bằng biện pháp cưỡng bức, bạo lực thì chắc chắn sẽ gây ra những
bất ổn cho xã hội, và càng kéo dài hơn sự tồn tại của tôn giáo trong lòng nhân dân.
Do đó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đã chỉ rõ nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của nhân dân, không nên phê phán tôn giáo mà cần phê phán cái
hiện thực làm nảy sinh tôn giáo.

Nhận thức được vấn đề đó, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người luôn luôn vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Do đó ngay từ rất sớm Người đã đưa ra
những quan điểm của mình về mối quan hệ giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội đồng
thời đưa ra nhiều chính sách tích cực nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chương 1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn
giáo và chủ nghĩa xã hội

1.1. Cơ sở lý luận

Tôn giáo là hệ thống các tư tưởng, quan điểm giải thích về thế giới mang
màu sắc huyền bí, thần thoại. Xét trên phương diện khoa học và nhận thức thì nó
kìm hãm sự phát triển của nhân loại, kìm hãm sự phát triển của tư duy con người
trong những bức tường chật hẹp của những sách kinh, giáo điều. Song tôn giáo
cũng được coi như là một phương thuốc giảm đau cho những con người đang bất
lực trước thế giới tự nhiên đầy bí ẩn, đang rên siết trong gông cùm của sự nô dịch,
đàn áp và bất công.

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hiện tượng xã hội đa dạng, phức
tạp gắn liền với những lĩnh vực xã hội khác nhau của đời sống con người; là một
hình thái của ý thức xã hội do con người sáng tạo ra, nó phản ánh cách giải quyết
mối quan hệ giữa con người với cái siêu nhiên, cái hiện thực với cái hư ảo, cái trần
tục với cái thiêng liêng, cái trần gian với cái siêu trần gian.

Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm
và có nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng thừa nhận tính chất cũng
như vai trò của tôn giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Theo các ông, để giải quyết vấn
đề tôn giáo cần một thời gian dài, gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải
biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng.

Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, nên các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin chưa có điều kiện để luận giải một cách hệ thống và toàn diện về mối quan
hệ giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội. Song các ông cũng bước đầu đưa ra những
quan điểm của mình về mối liên hệ đó.
Trong "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844", C. Mác đã viết: chủ nghĩa vô
thần là phủ nhận Thượng đế và đặt làm định đề cho sự tồn tại của con người thông
qua sự phủ định đó: nhưng chủ nghĩa xã hội như chính nó không cần đến cầu nối
đó.

Ph. Ăng-ghen đã từng phê phán gay gắt những phần tử tả khuynh vô chính
phủ khi họ muốn ghi vào cương lĩnh của đảng công nhân việc công khai thừa nhận
chủ nghĩa vô thần theo cái nghĩa là tuyên chiến với tôn giáo. Năm 1877, trong tác
phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph. Ăng-ghen lại lên án tư tưởng cách mạng giả hiệu của
Đuy-rinh, khi ông ta chủ trương cấm tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.

V.I Lê-nin cũng đã từng tỏ thái độ không đồng tình đối với những phần tử
tả khuynh vô chính phủ muốn phủ nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã
hội và những hành vi thô bạo của họ. Ông cho rằng: Đối với chúng ta, sự thống
nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo
một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những
người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường. Theo ông, điều mà người cộng sản
cần và có trách nhiệm là: Đoàn kết họ lại vì cuộc đấu tranh thực sự nhằm giành lấy
một cuộc đời tốt đẹp hơn trên trần thế.

Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt phản đối
những hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản
thân tôn giáo không có tội và vì vậy, không nên phê phán tôn giáo mà cần phê
phán cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo.

Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân và đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, theo chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước xã
hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
không được chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Kế thừa tư tưởng của các nhà sáng lập học thuyết Mác-Lênin về vấn đề tôn
giáo trong chủ nghĩa xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh không lập lại nguyên xi những
gì đã có, mà Người có sự vận dụng rất sáng tạo dựa vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam. Người nói rằng: Mác xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất
đinh của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là toàn bộ nhân loại...vậy nên
chúng ta phải bổ sung những tư liệu mà ở thời của Mác không có được, xem xét cơ
sở lịch sử và củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông.???? Nguồn???? Hơn nữa
Mác, Ăngghen và Lênin tập trung nghiên cứu ki tô giáo trong bối cảnh cuộc đấu
tranh hệ tư tưởng diễn ra còn gay gắt và giai cấp công nhân lúc này còn chưa
giành được chính quyền.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan
điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hóa Việt Nam -
một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn giáo có lịch sử hình
thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hòa đồng, tồn tại đan xen, ảnh
hưởng lẫn nhau.

Ở Việt Nam không có sự xung đột, chiến tranh tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên hệ
giá trị truyền thống vô cùng quý báu, trong đó yêu nước là giá trị hàng đầu. Trong
lịch sử dân tộc đã từng có sự đồng điệu giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu nước,
Trần Nhân Tông vừa là ông vua yêu nước có công lãnh đạo quân dân ta hai lần
đánh thắng quân Nguyên-Mông, vừa là nhà thiền học tiêu biểu của thiền phái Trúc
Lâm. Kế thừa truyền thống ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, lòng yêu
nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với
nhau. Một người dù theo tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công dân, có
nghĩa vụ với dân tộc, đất nước.
Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam khác với tôn giáo ở thời kỳ của Mác- Ăngghen
và Lênin, vì vậy Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng tôn giáo nước ta đồng hành cùng
với dân tộc và có mối quan hệ chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội. Người rất chú ý khai
thác điểm tương đồng giữa tôn giáo với CNXH để thu hút, tập hợp, đoàn kết quần
chúng có tôn giáo cùng tiến hành sự nghiệp cách mạng, giành độc lập cho dân tộc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

1.2. Cơ sở thực tiễn

Hoàn cảnh thế giới: Từ cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản trở thành giai cấp phản động toàn diện,
chúng tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa ở khắp nơi trên thế giới. Bằng việc
câu kết với các thế lực phản động trong đó có việc lợi dụng Giáo hội Thiên chúa
giáo, giai cấp tư sản đã chà đạp lên dân chủ và chủ quyền của tất cả các dân tộc
trên thế giới.

Năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra một thời đại mới-
thời đại các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, nhưng do hoàn cảnh ở mỗi nước khác nhau nên quá trình đấu tranh
giải phóng dân tộc cũng khác nhau.

Khác với lịch sử của nhiều dân tộc trên thế giới, trong lịch sử Việt Nam
không có chiến tranh giữa các tôn giáo, mà lại diễn ra quá trình đồng nguyên, đồng
quy giữa các tín ngưỡng tôn giáo ngoại nhập với tôn giáo tín ngưỡng bản địa. Sự
đấu tranh giữa các giáo lý của các tôn giáo với nhau không gay gắt, nổi trội mà
thường có sự liên hệ mật thiết giữa tôn giáo và dân tộc, sự đồng điệu giữa đức tin
tôn giáo và lòng yêu nước. Chính sự đồng điệu ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc trong suốt cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước.

Trong giai đoạn thực dân Pháp lợi dụng Thiên chúa giáo xâm lược nước ta
thì mới bắt đầu phát sinh sự đụng độ gay gắt giữa hai nếp sống tâm linh khác nhau,
nhất là sự đụng đầu giữa một dân tộc đang có nguy cơ mất chủ quyền, độc lập dân
tộc với một giáo hội đang ra sức câu kết với bọn thực dân đế quốc để thôn tính
nước ta. Trong hoành cảnh hết sức khó khăn như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
ra vấn đề dân tộc lúc này là quan trọng hàng đầu. Có độc lập dân tộc, nhân dân mới
được ấm no hạnh phúc, các tôn giáo mới có điều kiện hoạt động và phát triển.

Như vậy trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử khác nhau, hoàn cảnh đất nước
cũng khác nhau, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin một cách đúng đắn. Tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa tôn giáo và
chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện rất đầy đủ qua đường lối chính sách, cách hành
động ứng xử của người đối với tôn giáo nước ta. Tất cả những điều đó để khẳng sự
đồng hành của tôn giáo đối với dân tộc, tôn giáo ở nước ta luôn gắn liền với quá
trình đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chương 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo với chủ
nghĩa xã hội

2.1. Tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có những điểm tương đồng

Mặc dù có sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội như: Nếu như
những người theo tôn giáo hướng công cuộc giải phóng cho con người ở thế giới
"bên kia", tức là họ chỉ thực sự được giải phóng, được sống trong cảnh tự do, hạnh
phúc ấm no thực sự khi họ chết đi. Còn những đại biểu của chủ nghĩa xã hội thì
chủ trương giải phóng con người thoát khỏi nô lệ, đem lại cuộc sống tự do, ấm no,
hạnh phúc ở ngay thế giới hiện hữu mà họ đang sống.
Như vậy, sự khác biệt giữa lý tưởng tôn giáo và chủ nghĩa xã hội cơ bản
nằm trong khuôn khổ của thế giới quan cũng như phương pháp và lực lượng thực
hiện sứ mệnh giải phóng con người. Tôn giáo hứa hẹn xã hội hoàn thiện ở "thế giới
bên kia", trong khi những người cộng sản chủ trương thay đổi cái nhà nước ấy và
xã hội hiện tại ấy bằng một xã hội khác cao hơn, công bằng hơn, trong đó, chế độ
người bóc lột người sẽ bị thủ tiêu, thay vào đó là xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Tuy có sự khác biệt giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội như trên, thế nhưng
Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng của các nhà sáng lập học thuyết Mác – Lênin,
Người đã rất chú ý tập trung khai thác điểm tương đồng giữa tôn giáo với chủ
nghĩa xã hội để thu hút, tập hợp quần chúng có tôn giáo cùng tiến hành sự nghiệp
cách mạng của nhân dân. Và điều này cũng được thể hiện rất rõ trong hai cuộc đấu
tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thông qua những bài nói, bài viết, lời
kêu gọi của mình Hồ Chí Minh vận dụng rất tốt những điểm tương đồng này để tập
hợp, đoàn kết đồng bào có đạo cũng như đồng bào không có đạo tạo thành sức
mạnh tổng hợp để đánh đuổi thực dân, đế quốc.
Có thể nói, Hồ Chí Minh không chỉ thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong
chủ nghĩa xã hội mà còn thấy sự tương đồng nhất định giữa lý tưởng tôn giáo với
lý tưởng của những người cộng sản. Theo Người, không chỉ không loại người có
tôn giáo trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, mà còn sẵn sàng kết nạp.
Nói với đồng bào có đạo vốn còn ít hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích
rất cụ thể, thiết thực và rõ ràng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao
động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ ví
dụ như: Lấy vợ, lấy chồng quá sớm, cúng bái, liên hoan, lười biếng…
Bởi theo Hồ Chí Minh, xét từ góc độ đấu tranh cho sự công bằng, bình đẳng
thì chủ nghĩa xã hội và tôn giáo nguyên thủy có nét tương đồng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh phân biệt rõ tôn giáo nguyên thủy với tôn giáo đã bị giai cấp bóc lột lợi dụng,
và Người đã tìm thấy sự tương đồng giữa tôn giáo nguyên thủy với chủ nghĩa xã
hội qua hai nhân vật huyền thoại là Giêsu và Thíchca cùng với các giáo lý gốc của
đạo Thiên Chúa và đạo Phật.
Như vậy, sự tương đồng giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội đó là điều hướng
con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
không còn người bóc lột người, con người sẽ được sống cuộc sống tự do, ấm no
hạnh phúc. Tất cả đều nhằm vì hạnh phúc cho con người. Chính cái nhân bản ấy
mà mục tiêu chung của chủ nghĩa Mác và tôn giáo mà bấy lâu nay chúng ta bỏ
quên và tự khoác cho mình sứ mệnh giải thoát khỏi sự giàng buộc thần linh cho
con người khỏi ảo tưởng.
Chủ nghĩa xã hội không những không hạn chế mà trái lại là môi trường tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
chân chính của nhân dân. Gắn đạo với đời, phát huy truyền thống yêu nước và đại
đoàn kết dân tộc, đồng hành cùng sự phát triển của đất nước hướng tới xây dựng
cuộc sống giàu đẹp,văn minh, hiện đại. Và chính điều này, cũng lại tạo cơ hội cho
các tôn giáo ở Việt Nam đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ngày càng vững mạnh.
2.2. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo
đảm

Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến, mọi quyền cơ bản của
người dân Việt Nam đều bị tước đoạt. Còn tôn giáo thì bị thực dân Pháp lợi dụng
để làm công cụ phục vụ cho việc bóc lột cũng như cho việc đàn áp các phong trào
đấu tranh của nhân dân ta. Điều này đã được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nêu
rõ qua nhiều bài viết, bài báo của Người mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp được viết vào năm 1925. Các bài viết của Người đã tố cáo và lên
án một cách mạnh mẽ cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân Pháp, trước nhân dân
Việt Nam cũng như trước nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.

Từ lúc chuẩn bị đến khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, giai
cấp tư sản Pháp đã lợi dụng việc đi truyền đạo của một số giáo sĩ trong giáo hội
Thiên chúa, thực hiện chức năng do thám, gián điệp. Người đã viết: “Trong cuộc
xâm chiếm Đông Dương thì chính những nhà truyền đạo Thiên chúa đã đi do thám
để báo cho đội quân chiếm đóng biết những kế hoạch phòng thủ… cũng chính các
nhà truyền đạo đã dẫn đường những đội quân tấn công…”1.

Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo
giai cấp tư sản Pháp sử dụng tôn giáo để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân
ta, lột trần bộ mặt giả tạo, gián điệp của các vị truyền giáo, bọn họ “Kẻ thì tiết lộ
những bí mật mà con chiên đã nói ra khi xưng tội và nộp những người An Nam
yêu nước cho bọn chiến thắng đem lên máy chém hay giá treo cổ. Kẻ thì tỏa đi
khắp nơi để vơ vét những tín đồ bị bắt buộc phải theo đạo…”2. Thông qua tác
1
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr. 210.

2
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr. 101.
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc cũng lên án thực dân Pháp
lợi dụng tôn giáo để cướp bóc của cải, ruộng đất của nhân dân ta, đẩy nhân dân lao
động, chủ yếu là nông dân đến chỗ bần cùng, nghèo khổ “giáo hội Nam Kỳ chiếm
một phần năm; giáo hội Bắc Kỳ, chỉ riêng ở Hà Nội đã chiếm một phần tư đất
đai… Không cần nói cũng biết là phần rất lớn tài sản ấy, giáo hội giành được bằng
những thủ đoạn mà họ không thể và cũng không bao giờ thú nhận”3.

Nguyễn Ái Quốc cũng tố cáo chủ nghĩa đế quốc lấy tôn giáo làm cho dân
ngu, lấy pháp luật trói buộc dân… khi giai cấp tư sản lợi dụng và đẩy cuộc đấu
tranh thế giới quan sang cuộc đấu tranh chính trị. Người đã viết: “Chúa đầy lòng
nhân ái và toàn năng. Là đấng sáng thế tối cao, Người đã nặn ra một chủng tộc gọi
là thượng đẳng để đặt lên lưng một chủng tộc gọi là hạ đẳng cũng do Người nặn
ra”4.

Như vậy, có thể thấy, giai cấp tư sản thực dân Pháp đã cấu kết chặt chẽ với
giáo hội Thiên chú trong quá trình xâm lược và thống trị nước ta, đẩy dân tộc ta tới
nguy cơ bị diệt vong. Giải phóng dân tộc trở thành nhu cầu bức thiết. Bởi vì, dân
tộc ta sẽ không thể phát triển được nếu không tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết
chống chủ nghĩa thực dân Pháp, và khách quan dẫn đến đấu tranh chống các thủ
đoạn lợi dụng tôn giáo của giai cấp tư sản Pháp, chống lại một bộ phận giáo sĩ tiếp
tay cho thực dân Pháp chống lại độc lập dân tộc, chống lại nhân dân. Chủ nghĩa
thực dân Pháp và giáo hội Thiên chúa là lực cản chính trên con đường giành lại
độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam, cản trở con đường phát triển của đất nước
ta.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta
– thời kỳ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám
3
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr. 102, 103.

4
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr. 103.
đưa tới sự thành lập nhà nước của nhân dân lao động và đưa nhân dân ta từ thân
phận nô lệ thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của dân tộc mình. Có
thể thấy, từ sau khi đất nước ta giành được độc lập cũng như khi cả nước bước vào
hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thì vấn đề tôn
giáo luôn được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm giải
quyết. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có những
điểm tương đồng, chủ nghĩa xã hội không bao giờ phủ nhận hay tiêu diệt tôn giáo.
Bởi vậy, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tôn giáo, tín ngưỡng được hoàn toàn tự do
và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng chỉ được bảo đảm trong mối quan hệ với
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và với khối đại đoàn kết toàn dân
ở nước ta.

Năm 1954, khi miền Bắc được giải phóng hoàn toàn khỏi ách thực dân, bước
vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng lại
được chủ thể lãnh đạo, quản lý tiếp tục khẳng định một cách kịp thời. Điều đó một
mặt là để khẳng định về việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo khi cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã có sự chuyển biến về chất sang cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, rằng đó là quan điểm thống nhất, xuyên suốt của những
người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặt khác, có tác dụng chống lại những âm
mưu tuyên truyền lừa bịp của bọn phản động khi đó đã dụ dỗ đồng bào Kitô giáo di
cư vào Nam, rằng Cộng sản và tôn giáo không thể chung sống… Ngày 28-4-1955,
gửi thư cho đồng bào Hồng Quảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào các
tôn giáo chớ mắc mưu những kẻ tuyên truyền lừa bịp”5.

Để củng cố niềm tin của đồng bào có tôn giáo về vấn đề tự do tôn giáo trong
chủ nghĩa xã hội như thế nào, ngày 10-5-1958, Hồ Chí Minh trong khi trả lời
những câu hỏi của cử tri Hà Nội rằng: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị

5
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 528.
hạn chế không?” Người đáp: “Không, ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng
hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam cũng vậy”6. Người còn nói rõ thêm, người cộng sản
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Chẳng
những không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo. Đảng cộng sản chỉ tiêu diệt
tội ác người bóc lột người”7. Từ đó, Người kêu gọi tất cả mọi người không phân
biệt lương – giáo tích cực tham gia vào sự nghiệp thống nhất, xây dựng đất nước
giàu mạnh.

Tóm lại, từ sự kế thừa một cách sáng tạo những quan điểm chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã
khẳng định: trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tôn giáo không những được thừa nhận
mà quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được bảo đảm thực hiện.

2.3. Thực hiện “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” tạo nên động lực, sức
mạnh cho công cuộc thống nhất đất nước và xây dựng xã hội mới

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chủ nghĩa xã hội quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được bảo đảm. Bên cạnh đó, việc thực hiện tôn giáo
tự do và lương giáo đoàn kết góp phần quan trọng tạo nên động lực, sức mạnh to
lớn cho công cuộc đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc cũng như trong xây
dựng xã hội chủ nghĩa.
6
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.176.

7
7. Báo Nhân dân, số ra ngày 27-1-1955.
Mục tiêu và bản chất của chế độ ta là giải phóng tất cả những người lao
động khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả
về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.

Có thể thấy, mục tiêu cách mạng tự nó tạo nên cơ sở cho khối đại đoàn kết
toàn dân và chỉ có khối đại đoàn kết toàn dân mới có đủ lực lượng để thực hiện
mục tiêu cách mạng cao cả ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề tôn giáo trong
mối quan hệ mới của cách mạng nước ta “Tự do tín ngưỡng và tôn giáo, bình đẳng
và đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc”. Đó là tư tưởng nhất quán
của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội thể hiện ngay
khi Người nêu ra “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa” ngày 3-9-1945. Tư tưởng cơ bản đó là “Tín ngưỡng tự do và lương giáo
đoàn kết”8.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo đảm thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng phải gắn liền với sự đoàn kết lương giáo, đoàn kết các tôn giáo với nhau.
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, bởi vì đây chính là cơ sở của việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp một phần hết sức quan trọng trong việc
tạo nên động lực, sức mạnh cho công cuộc thống nhất đất nước và xây dựng xã hội
mới.

Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc theo chính sách cổ truyền “chia để trị” của chúng. Vì vậy, chúng ta phải thực
hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân tộc để tạo nên sức mạnh chống lại
những âm mưu thâm độc của kẻ thù. Có thể nói, sự nghiệp cách mạng của dân tộc
ta tạo cơ sở cho việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tạo sự nhất trí đồng tâm như
con một nhà. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng xu hướng phát triển khách
quan, được tổng kết thành chân lý:
8
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.9
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”

Người cũng đã có lời kêu gọi: “Tôi mong các vị tăng ni và đồng bào tín đồ
đã đoàn kết thì càng đoàn kết hơn để góp phần xây dựng hòa bình chóng thắng
lợi”9

Tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện tự do tín ngưỡng và
lương giáo đoàn kết có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tại nên sức mạnh, động lực to lớn cho công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa của nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Như vậy, từ sự nhận thức được những điểm tương đồng giữa tôn giáo với
chủ nghĩa xã hội, mà trong đó điểm tương đồng cơ bản nhất và cũng chính là cái
hạt nhân cho việc đoàn kết lương giáo, đó chính là sự giống nhau ở mục tiêu
hướng tới của tôn giáo và chủ nghĩa xã hội đều là mong muốn mang đến cho con
người sự tự do, bình đẳng và một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thì Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đi đến những nhận định quan trọng là: trong chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo,
tín ngưỡng chẳng những được thừa nhận mà quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng còn
luôn được bảo đảm. Bên cạnh đó, Người cũng xác định một cách đúng đắn về tầm
quan trọng của việc đoàn kết lương giáo đối với sự nghiệp thống nhất đất nước
cũng như công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có thể thấy, những
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo với chủ nghĩa
xã hội đã để lại cho Đảng ta một tài sản vô giá về mặt lý luận, quan điểm đó đã trở
thành ngọn hải đăng soi sáng cho nhận thức của các cán bộ, đảng viên, là kim chỉ
nam cho mọi chính sách về tôn giáo của Đảng ta hiện nay.

9
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 8, tr. 290.
Chương 3. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo
và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới

3.1. Tình hình tôn giáo nước ta hiện nay

Việt Nam là một nước đa tôn giáo và đa dân tộc, có người từng ví nước ta
như một bảo tàng về tôn giáo tín ngưỡng của thế giới, ở đây có đủ các tín ngưỡng
truyền thống, bên cạnh những tôn giáo nội sinh còn có sự du nhập của rất nhiều các
tôn giáo khác trên thế giới.

Theo số liệu của Ban Tôn giáo chính phủ, tính đến năm 2011 trên phạm vi
cả nước có 13 tôn giáo trong đó có 6 tôn giáo lớn như: Phật giáo, Công giáo, Hòa
hảo, Cao đài, Tin lành, Đạo Hồi. Số lượng tín đồ hiện nay đã hơn 25 triệu chiếm
hơn ¼ dân số. Số lượng chức sắc và các tổ chức giáo hội cũng không ngừng tăng
lên đáp ứng nhu cầu chính đáng của một bộ phận đồng bào, quần chúng nhân theo
đạo. Đặc biệt các trường đào tạo chức sắc tôn giáo cũng ra đời, hiện nay có khoảng
hơn 20 trường trong cả nước ngày càng góp phần tích cực vào đời sống tinh thần
của nhân dân.

Điểm thuận lợi của tôn giáo nước ta đó là, các tôn giáo ở nước ta đều có xu
hướng đồng hành cùng dân tộc, họ cùng với toàn dân cả nước tích cực tham gia
công cuộc đổi mới vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh. Bước vào thời kỳ đổi mới, đất nước ta có nhiều thay đổi, đời sống của
đồng bào tôn giáo không ngừng được nâng cao, những giá trị đạo đức tốt đẹp của
các tôn giáo ngày càng in đậm trong đời sống xã hội, trở thành một nét văn hóa của
dân tộc. Điều đặc biệt trong điều kiện mở cửa, hội nhập của xu thế toàn cầu hóa,
các tôn giáo không ngừng biến đổi, chấn hưng theo đường hướng “ đạo pháp dân
tộc và chủ nghĩa xã hội” của đạo Phật, “ sống phúc âm trong lòng dân tộc để mưu
cầu hạnh phúc cho đồng bào” của Thiên Chúa giáo, hay “ phụng sự thiên chúa
phụng sự tổ quốc” của Hội thánh Tin lành, trên cơ sở đó Cao đài, Hòa hảo cũng
nêu cao “ nước vinh đạo sáng”.

Bên cạnh những thuận lợi tôn giáo nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Tình
hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định. Một số người tổ chức truyền đạo trái phép, lôi kéo quần chúng, lợi dụng tôn
giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc tranh chấp, khiếu nại liên quan đến đất đai,
cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt phức tạp gây ảnh
hưởng đến an ninh xã hội. Đặc biệt ở những vùng dân tộc thiểu số, do đời sống dân
cư còn nghèo, không có điều kiện tiếp xúc với thông tin đại chúng, những chính
sách của Đảng nên bị một số phần tử phản động lợi dụng kích động, nhằm phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định chính trị. Các tôn giáo hiện nay đang
có tính thế tục nhiều hơn, chủ trương nhập thể đi với người nghèo, đẩy mạnh các
hoạt động xã hội nhưng rất dễ bi thương mại hóa, vận động quyên cúng quá
nhiều...nhà thờ, chùa chiền xây dựng to nhưng ít mang tính nghệ thuật, ít mang bản
sắc dân tộc.

Một vấn đề lớn đối với tôn giáo nước ta là luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng để
phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện diễn biến hòa bình, phá hoại an ninh
làm cho nước ta suy yếu. Trên cơ sở ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin đặc biệt là
tư tưởng Hồ Chí Minh, những kinh nghiệm của Đảng đã được tích lũy trong hơn
70 năm qua, Đảng ta phải có sự vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh mới, phải đề ra
được các chính sách đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tôn giáo và chủ
nghĩa xã hội, đưa nước ta tiến theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

3.2. Chính sách đối với tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.

Trong quá trình đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo tiếp
tục được bổ sung, hoàn thiện trong các chỉ thị, nghị quyết, pháp luật. Chỉ thị 37 của
Bộ Chính trị (2/7/1998) chỉ rõ: "Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn
giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy” 10. Nghị quyết số 24 NQ/TW (16-
11-1990) của BCH trung ương Đảng khóa VI về “tăng cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới” . Tới Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ 7 năm 1991, Nghị

10
. Viện nghiên cứu Tôn giáo và tín ngưỡng: Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (tài
liệu tham khảo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.323.
quyết đã chỉ rõ tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu của quần chúng nhân dân và
Đảng cộng sản Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân.

Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới đối với tôn giáo, tổng kết thực tiễn đồng
thời xem xét vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh đất nước và thế giới có nhiều thay
đổi quan trọng. Ngày 12-3-2003 hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 7 khóa
IX, đã ban hành Nghị quyết số 25 NQ/TW về công tác tôn giáo...nghị quyết đã
khẳng định đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về chính sách tôn giáo
trong thời kỳ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó trở thành nền tảng chính sách
của đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.

Hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ cũng đã nêu rõ quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân như: Điều 72 Hiến pháp năm 1992 khẳng định công
dân có quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo bất kỳ một tôn giáo nào, các
tôn giáo được bình đẳng trước pháp luật và các cơ sở thở tự của tôn giáo được nhà
nước bảo hộ. Ngoài ra các vấn đề của tôn giáo còn được thể hiện ở pháp lệnh về tín
ngưỡng, tôn giáo của UB Thường vụ quốc hội thông qua ngày 18-6-2004. Chính
phủ ban hành nghị định số 22/2005/ NĐ-CP ngày 1-3-2005 về hướng dẫn thi hành
một số điều về pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo...Mới đây nhất vấn đề tôn giáo được
nêu trong báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011 đã
làm rõ nét hơn lộ trình đổi mới tư duy của Đảng về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng.

Như vậy qua rất nhiều chủ trương, nghị quyết, pháp lệnh của Đảng về vấn đề
tôn giáo ta thấy quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng là: thừa nhận sự tồn tại
của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội. Bởi Đảng xác định rằng vấn đề tôn giáo còn
tồn tại lâu dài, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức này của Đảng ta có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nó thể hiện sự
dứt khoát, rõ ràng của Đảng trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời nó tránh
được những tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội cho rằng tôn giáo sẽ mất đi
nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy chúng ta đang xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng những mâu thuẫn trong xã hội, tệ nạn, trộm cướp, sự
phân chia giàu nghèo, bệnh tật, ô nhiễm môi trường... vẫn là cơ sở khách quan cho
tôn giáo tồn tại và phát triển trên những phạm vi nhất định.

Bên cạnh việc thừa nhận các giá trị tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội, Đảng và
Nhà nước ta cũng khẳng định những điểm tương đồng giữa tôn giáo và mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới đó là "Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” như tinh thần của nghị quyết 25 đã chỉ rõ. Điểm
tương đồng đó chính là mạch kết nối, nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn
giáo với giá trị nhân văn của chủ nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước. Tín ngưỡng hay
không tín ngưỡng là quyền tự do lựa chọn của mỗi công dân. Phấn đấu cho sự
phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng thiêng liêng chung
cho mọi người, là mục tiêu mà công cuộc xây dựng xã hội mới của chúng ta đang
hướng tới, đồng thời cũng chính là ước vọng mà các tôn giáo theo đuổi. Đó chính
là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các tôn giáo với toàn thể nhân dân trong khối
đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để phát huy những
điểm tương đồng đó, đảng và nhà nước cần phải có sự quan tâm đến cả hai mặt vật
chất và tinh thần của đồng bào có đạo, tức là làm cho đồng bào “phần xác ấm no
phần hồn thong dong”, có như vậy đồng bào có đạo mới chủ động tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, gắn bó chặt chẽ với công cuộc đổi mới xây dựng đất
nước.
Thông qua việc khẳng định tôn giáo sẽ còn tồn tài lâu dài và tín ngưỡng tôn
giáo là nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng nhân, chúng ta thấy trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo không những không bị hạn chế mà còn được tự do
phát triển trong khuôn khổ của pháp luật. Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo bất kỳ một tôn giáo nào.
Đồng thời Đảng tiến hành đoàn kết rộng rãi tôn giáo với nhau, giữa tôn giáo này
với tôn giáo khác, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo. Đó
chính là thái độ của những người cộng sản vô thần đối với vấn đề tôn giáo, không
kỳ thị mà luôn tôn trọng nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích
thực, chính đáng của quần chúng có đạo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu
cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo
đảm các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do,
nhân quyền, dân chủ v.v.

Đảng không chỉ thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức,
văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. .
Mà còn thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Quan điểm này của Đảng đã góp
phần khơi dậy, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt
đẹp, mặt tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy
tinh thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống
lại những luận điệu xuyên tạc âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch
chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Như vậy thông qua tất cả các chính sách, nghị quyết, pháp lệnh của Đảng,
chúng ta có thể khẳng định rằng Đảng luôn quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng tôn
giáo của nhân dân và các giá trị tốt đẹp của tôn giáo luôn được tồn tại trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những chính sách đúng đắn đó của Đảng đã đáp
ứng cơ bản nguyện vọng của đồng bào có đạo, tạo sự phấn khởi trong đa số các tín
đồ, các chức sắc nhà tu hành trong tôn giáo ở nước ta. Lòng dân ý Đảng hòa
quyện, đoàn kết tạo ra sức mạnh trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.

Thực tế trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các hoạt động tôn giáo
ở nước ta ngày càng phát triển, cơ sở thờ tự cũng được tu bổ và xây dựng mới
nhiều. Những vấn đề về tranh chấp đất đai, khiếu kiện, các tệ nạn xã hội đã có xu
hướng giảm, điều đó chứng tỏ sự yên tâm tin tưởng của các tín đồ tôn giáo đối với
sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Các tôn giáo đang góp phần rất lớn vào công
cuộc xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực, nhất là hoạt động từ thiện, họ đã
góp phần cùng với chính quyền xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, chăm lo cho
người nghèo, người già cô đơn, trẻ mồ côi khuyết tật, xây dựng nhà tình thương,
cứu trợ thiên tai... những ngày lễ lớn trong năm của các tôn giáo như lễ Nôen của
Thiên chúa giáo, lễ Phật đản của Phật giáo, hay chương trình Phật giáo với 1000
năm Thăng Long Hà nội, được chính quyền nhà nước hết sức quan tâm, tạo điều
kiện tố chức và được các lãnh đạo nhà nước đến tham dự chúc mừng. Tất cả những
hình ảnh đó về tôn giáo ở Việt Nam đã chứng minh cho đường lối đúng đắn của
Đảng, đồng thời cũng là lời phản bác mạnh mẽ đối với những luận điệu cho rằng
Việt Nam không có tự do tôn giáo hay là cộng sản vô thần sẽ tiêu diệt tôn giáo.

3.3. Công tác tôn giáo ở nước ta.

Chính sách tôn giáo của Đảng giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó tác
động đến tất cả các mặt đời sống xã hội. Việc đề ra chính sách đã khó, thực hiện
những chính sách đó hài hòa với thực tiễn càng khó hơn. Chính vì vậy để giải
quyết tốt các vấn đề tôn giáo nhạy cảm và phức tạp này cần sự nỗ lực của cả hệ
thống chính trị từ trung ương đến địa phương, trong đó công tác tôn giáo giữ vai
trò hết sức quan trọng.
Trong những năm qua công tác tôn giáo đã có nhiều đóng góp to lớn, đạt
những thành quả đáng khích lệ. Trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước sự xuất
hiện của các cán bộ là người theo đạo ngày càng tăng, tạo điều kiện cho việc triển
khai chính sách của Đảng, đồng thời góp phần phòng ngừa đấu tranh có hiệu quả
với những thế lực lợi đụng tự do tôn giáo để hoạt động.

Bên cạnh những thành tựu đạt được công tác tôn giáo ở nước ta vẫn còn có
nhiều hạn chế bất cập, điều này xuất phát từ nhận thức, cách hoạt động không hợp
lý của một số cán bộ làm công tác tôn giáo và những bất cập trong hệ thống chính
trị. Từ đại hội VII năm 1991 đến đại hội X năm 2006 các luận điểm về đường lối
đổi mới chính sách tôn giáo của nghị quyết 24 gần như được lặp lại, điều đó cho
thấy việc thực hiện vẫn chưa có hiệu quả. Sự phối hợp thiếu đồng bộ của các cơ
quan trong hệ thống chính trị, sự lẫn lộn chức năng của các cơ quan làm công tác
tôn giáo dẫn đến tình trạng khi sảy ra chuyện thì không một cơ quan nào đứng ra
chịu trách nhiệm, Ban dân vận, Mặt trận tổ quốc hay là Công an...Bộ phận làm
công tác tôn giáo còn khập khiễng, không thống nhất, nơi có nơi không, nơi làm
theo mô hình này, nơi làm theo mô hình kia. Cấp trên đưa ra chỉ thị nhưng cấp
dưới luôn chậm trễ, hoặc không thực hiện, nhiều khi bất lực vì thiếu kinh phí.

Thực trạng cán bộ làm công tác tôn giáo hiện nay theo khảo sát còn yếu và thiếu,
chủ yếu là do thiếu chuyên môn, ít được đào tạo bồi dưỡng và lực lương vẫn đang
còn mỏng. Ở các địa phương thiếu các cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo, họ
thiếu thông tin chưa nắm vững nội dung các chính sách của đảng và nhà nước nên
nóng vội chủ quan, không thống nhất trong cách giải quyết. Một số cán bộ làm
công tác tôn giáo còn chưa thân dân, nói mà không làm, cách tuyên truyền không
đúng nên gây ra mất lòng dân, việc tuyên truyền còn mang nặng tính hình thức,
chưa sâu rộng chưa sát đối tượng, chưa phù hợp với tâm lý trình độ phát triển của
đồng bào có đạo ở vùng sâu vùng xa. Những vấn đề khó khăn này không sớm giải
quyết và đổi mới sẽ gây không ít khó khăn trong quản lý tôn giáo, ảnh hưởng
không nhỏ đến tư tưởng của đồng bào có đạo, mất lòng tin vào Đảng và Nhà nước

Quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo trong tình hình mới cần phải:

Thứ nhất: công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng
của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế phá
hoại cách mạnh. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với
nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của
quần chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, tin vào chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nước, hiểu rõ âm mưu thủ đoạn lợi
dụng tôn tạo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ "tự giác đấu tranh
chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an
ninh Tổ quốc". Ngược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn
giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, không bị địch lợi dụng để
quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo.

Thứ hai: phải làm tốt công tác vận động quần chúng có đạo, đây là nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo. Phải làm cho đồng bào có đạo “phần xác âm no, phần
hồn thong dong” như chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Có làm được điều này chính
là đã tạo điều kiện để đồng bào có đạo tích cực tham gia xây dựng cuộc sống "tốt
đời, đẹp đạo", góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Thứ ba: công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, bao
gồm gồm Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị,... mỗi ngành tuỳ
theo chức năng có những nhiệm vụ cụ thể, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo công tác tôn giáo thông qua chủ trương, đường lối mang tính định hướng đối
với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể. Đồng thời phải có sự phối
hợp, thống nhất hơn nữa về công tác tôn giáo, quy định chức năng nhiệm vụ làm
công tác tôn giáo của cơ quan các cấp, trong đó đặc biệt là cấp cơ sở.

Thứ tư: Đảng và Nhà nước ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn nữa, để
quản lý các hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo nhằm giữ vững ổn
định chính trị, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của mình. Việc theo đạo,
truyền đạo và hoạt động tôn giáo phải tuân thủ theo quy định của Hiến pháp và
Pháp luật.

Thứ năm: phải xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác tôn
giáo vững mạnh. Các cán bộ làm công tác tôn giáo phải đọc kỹ tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, học chủ trương pháp luật, cách ứng xử với
tôn giáo theo tư tưởng của Người. Có như vậy mới có thể nói chuyện tư vấn cho
tín đồ, tránh những sai lầm không đáng có. Hơn nữa các cấp ủy phải bố trí đúng
người làm công tác tôn giáo, ngoài những đãi ngộ về vật chất và tinh thần họ cũng
phải được lãnh đạo động viên khen thưởng.

Một vấn đề nữa đối với công tác tôn giáo ở nước ta đó là Đảng và Nhà nước
cũng cần phải quan tâm hơn nữa công tác đối ngoại tôn giáo. Thực tiễn trong
những năm gần đây, đối ngoại tôn giáo đang góp phần nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế. Một số tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua đã đăng cai tổ
chức nhiều hội nghi, hội thảo về tôn giáo quốc tế lớn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc
trong lòng bạn bè quốc tế, góp phần làm cho họ hiểu thêm về chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và nhà nước ta, đó cũng là cơ sở để bác bỏ những luận
điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch đối với chính sách tôn giáo của
nước ta.

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, trong giai đoạn đổi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều quan tâm đến tôn giáo, tín
ngưỡng và công tác tôn giáo. Điều đó chứng minh rằng Đảng ta luôn khẳng định
sự tồn tại của các giá trị tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội. Những người cộng sản là
vô thần nhưng không chống đối tôn giáo, chỉ đấu tranh chống lại những hành vi lợi
dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến sự phát triển
của đất nước. Có thể trong Chính sách, pháp luật của Nhà nước ta còn một số hạn
chế, chưa thể hiện đầy đủ những tư tưởng đổi mới của Đảng về vấn đề tôn giáo
cũng như chưa phù hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo đang đặt ra ở nước ta trong
thời kỳ mở rộng, hội nhập quốc tế. Nhưng Đảng luôn cố hoàn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, tạo mọi điều kiện để các tôn giáo phát triển, tích
cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, góp phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới.

A. Kết luận

Tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì sẽ không thể tạo dựng
được nền tảng tư tưởng cho xã hội mới. Tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân và đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, tự do.

Có thể nói, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh luôn luôn vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể ở nước ta. Do đó ngay từ rất sớm Người đã đưa ra những quan điểm của
mình về mối quan hệ giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội đồng thời đưa ra nhiều
chính sách tích cực nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

Kế thừa tư tưởng của các nhà sáng lập học thuyết Mác-Lênin về vấn đề tôn
giáo trong chủ nghĩa xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh không lặp lại nguyên xi những
gì đã có, mà Người có sự vận dụng rất sáng tạo dựa vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam. Người nói rằng: Mác xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất
đinh của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là toàn bộ nhân loại...vậy nên
chúng ta phải bổ sung những tư liệu mà ở thời của Mác không có được, xem xét cơ
sở lịch sử và củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông.

Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng tôn giáo nước ta đồng
hành cùng với dân tộc và có mối quan hệ chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội. Người rất
chú ý khai thác điểm tương đồng giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội để thu hút, tập
hợp, đoàn kết quần chúng có tôn giáo cùng tiến hành sự nghiệp cách mạng, giành
độc lập cho dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Bởi theo Hồ Chí Minh, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do tôn giáo,
tín ngưỡng được bảo đảm. Giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có những điểm tương
đồng, chủ nghĩa xã hội không bao giờ phủ nhận hay tiêu diệt tôn giáo. Bởi vậy,
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tôn giáo, tín ngưỡng được hoàn toàn tự do và quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng chỉ được bảo đảm trong mối quan hệ với quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và với khối đại đoàn kết toàn dân ở nước ta.

Cũng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chủ nghĩa xã hội
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được bảo đảm. Bên cạnh đó, việc thực hiện
tôn giáo tự do và lương giáo đoàn kết góp phần quan trọng tạo nên động lực, sức
mạnh to lớn cho công cuộc đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc cũng như trong
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy, mục tiêu cách mạng tự nó tạo nên cơ sở
cho khối đại đoàn kết toàn dân và chỉ có khối đại đoàn kết toàn dân mới có đủ lực
lượng để thực hiện mục tiêu cách mạng cao cả ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề tôn giáo trong mối quan hệ mới của cách mạng nước ta “Tự do tín ngưỡng
và tôn giáo, bình đẳng và đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc”. Đó
là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo và chủ nghĩa
xã hội.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định việc thực hiện tự do tín
ngưỡng và lương giáo đoàn kết có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tại nên sức mạnh, động lực to lớn cho công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa của nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Mặc dù có sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội, thế nhưng Hồ Chí
Minh trên cơ sở kế thừa tư tưởng của những nhà sáng lập học thuyết Mác – Lênin
thì Người đã nhận thức được những điểm tương đồng giữa tôn giáo với chủ nghĩa
xã hội, mà trong đó điểm tương đồng cơ bản nhất và cũng chính là cái hạt nhân cho
việc đoàn kết lương giáo, đó chính là sự giống nhau ở mục tiêu hướng tới của tôn
giáo và chủ nghĩa xã hội đều là mong muốn mang đến cho con người sự tự do,
bình đẳng và một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến
những nhận định quan trọng là: trong chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo, tín ngưỡng
chẳng những được thừa nhận mà quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng còn luôn được
bảo đảm. Bên cạnh đó, Người cũng xác định một cách đúng đắn về tầm quan trọng
của việc đoàn kết lương giáo đối với sự nghiệp thống nhất đất nước cũng như công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Như vậy trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử khác nhau, hoàn cảnh đất nước
cũng khác nhau, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin một cách đúng đắn. Tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa tôn giáo và
chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện rất đầy đủ qua đường lối chính sách, cách hành
động ứng xử của người đối với tôn giáo nước ta. Tất cả những điều đó để khẳng
định sự đồng hành của tôn giáo đối với dân tộc, tôn giáo ở nước ta luôn gắn liền
với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Và những quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
tôn giáo với chủ nghĩa xã hội đã để lại cho Đảng ta một tài sản vô giá về mặt lý
luận, quan điểm đó đã trở thành ngọn hải đăng soi sáng cho nhận thức của các cán
bộ, đảng viên, là kim chỉ nam cho mọi chính sách về tôn giáo của Đảng ta hiện
nay.

Thực tiễn cho thấy trong những năm gần đây, chính sách đối ngoại tôn giáo
đang góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Một số tôn giáo ở
nước ta trong thời gian qua đã đăng cai tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo về tôn giáo
quốc tế lớn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn bè quốc tế, góp phần làm
cho họ hiểu thêm về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và nhà nước
ta, đó cũng là cơ sở để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực
thù địch đối với chính sách tôn giáo của nước ta.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, trong giai đoạn đổi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều quan tâm đến tôn giáo, tín
ngưỡng và công tác tôn giáo. Điều đó chứng tỏ rằng Đảng ta luôn khẳng định sự
tồn tại của các giá trị tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội. Những người cộng sản là vô
thần nhưng không chống đối tôn giáo, chỉ đấu tranh chống lại những hành vi lợi
dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến sự phát triển
của đất nước. Chủ nghĩa xã hội không những không hạn chế mà trái lại còn tạo mọi
điều kiện, tạo môi trường thuận lợi để việc thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ng-
ưỡng, tôn giáo chân chính của nhân dân. Gắn đạo với đời, phát huy truyền thống
yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, đồng hành cùng sự phát triển của đất nước
hướng tới xây dựng cuộc sống giàu đẹp,văn minh, hiện đại. Và chính điều này,
cũng lại tạo cơ hội cho các tôn giáo ở Việt Nam đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ngày càng vững mạnh.

Tài liệu tham khảo

1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của Đại hội XI
PGS, TS. Nguyễn Trọng Tuấn - Học viện Kỹ thuật quân sự. Ngày 7/5/2012.
2. Báo Nhân dân. Ngày 27-1-1955.
3. Đỗ Quốc Hưng, Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam – Lý luận và
thực tiễn, 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Hồ Chí Minh toàn tập, 2002, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, tập 1, 2, 4, 8,
9, 10.
5. GS-TS. Lê Hữu Nghĩa và PGS. TS Nguyễn Đức Lữ( đồng chủ biên), 2003,
tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Tôn giáo, Hà
Nội.
6. Về tôn giáo, tập 1, Nxb KHXH ,Hà Nội, 1994, tr.91.
7. Xem Báo Sự Thật, số 105, ngày 25/12/1948 và số 110, ngày 1/5/1949.

You might also like