Professional Documents
Culture Documents
Mông
Mông
- Người Mông được coi là con cháu của những dân cư bản địa cổ ở
Nam Trung Quốc. Từ 9 – 16 người Mông phải thường xuyên đi về
phía Nam , Tây Nam và Đông Nam để tránh sự áp bức bóc lột của
phong kiến. Từ XVII đến đầu TK XX dưới sự thống trị của nhà
Mãn Thanh, chế độ thổ ty cha truyền con nối có từ thời Minh đã
được thay bằng chế độ bổ nhiệm làm tăng thêm mâu thuẫn giữa
người Mông , các dân tộc thiểu số với bọn thống trị. Dưới thời
quốc dân Đảng người Mông cũng không tránh khỏi bị áp bức bóc
lột nặng nề và phải đấu tranh không ngừng.
- Từ Tây Nam TQ người Mông đã di cư đến VN trong những thời
gian và nhiều đợt khác nhau.Nguyên nhân của các cuộc di cư như
đã nói là mong muốn thoát khỏi tình trạng áp bức bóc lột của bọn
địa chủ phong kiến , muốn thoát khỏi sự tàn sát sau những cuộc
phản kháng, muốn có nơi sống tốt hơn.
- Những khu vực tậo trung đông người Mông nhất ở miền Bắc nước
ta: Cao nguyên Đồng Văn, Hoàng Su Phì- Bắc Hà- Mường
Khương, Mù Căng Chải- Trạm Tấn- Bắc Yên, Sapa- Phong Thổ-
Sìn Hồ- Tủa Chùa Điện Biên và các khu vực tiếp giáp các huyện
Thuận Châu và Tuần Giáo
- Người Mông cư trú xen kẽ với nhiều dân tộc anh em nhưng không
giống với nhiều dân tộc như: Dao, Lô Lô, Pu Péo... Họ tập trung
thành từng vùng rõ rệt.
- Vùng cư trú của người Mông thường là những sườn núi có độ cao
từ 800-1500m so với mặt biển, địa hình hiểm trở, vách núi dựng
đứng, chia cắt mạnh giữa các vùng.
- Đất vùng dân tộc Mông cư trú là đất feralit nhưng chia thành 2
vùng: vùng núi đá ở tả ngạn sông Hồng và vùng núi đất ở hữu ngạn
sông Hồng.
+ Vùng núi đá cơ bản hết rừng -> thiếu nước sản xuất và sinh hoạt
+ Vùng núi đất còn rừng, còn những cánh rừng gỗ quý, còn nhiều loại
thú rừng ->nhưng cả rừng và thú rừng đều đang bị khai thác quá mức.
- Khí hậu vùng đồng bào Mông sinh sống là khí hậu cận nhiệt đới,
nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15°C đến 20°C
- Người Mông tự làm mọi nghề thủ công phục vụ cuộc sống.
+ Nghề rèn : nghề rèn của đồng bào Mông rất nổi tiếng, kỹ thuật tôi,
khoan đạt đỉnh cao của nghề thủ công này. Đồng bào tự rèn lấy dao,
cuốc, tự đúc lưỡi cày, làm súng kíp, rèn đúc các đồ trang sức của phụ nữ,
đúc nhạc ngựa, chồng bò. Nghề rèn của đồng bào Mông còn góp phần
cung cấp công cụ lao động cho các dân tộc khác như Thái, Dao, Khơ
Mú, Kháng, Cờ Lao, Pu Péo.
Không phải bản nào cũng có người biết làm rèn. Có nơi cả xã hoặc vài
ba xã mới có người thành thạo nghề rèn. Tuy là nghề thông dụng nhưng
đồng bào lại quan niệm rằng muốn rèn tốt phải có “ bí quyết ” phù phép
cầu xin thần thánh phù hộ. Không biết bí quyết thì ko thể làm được.
Những bí quyết đó thì gia truyền không cho người ngoài biết. Thực chất
bí quyết là kỹ thuật tôi. Tôi non, công cụ bị quăn; tôi già công cụ bị mẻ.
Để tiếp thu được thì phải là cả 1 quá trính phụ và hành nghề. Một trong
những biểu hiện trình độ cao là kỹ thuật khoan làm nòng súng kíp. Họ
mua các loại nòng súng của dân tộc khác hoặc mua các vòng tay lái xe
con bị hỏng rồi rèn, tôi lại, sau đó khoan lại cho phù hợp với yêu cần kĩ
thuật.
+ Nghề Mộc :
Nghề mộc của đồng bào Mông hiện nay chủ yếu làm các đồ dùng bằng
gỗ trong gia đình như thùng gỗ, chậu gỗ, bát gỗ, thìa gỗ. Để làm thùng
gỗ đồng bào dùng kĩ thuật bào, ghép,đóng đai; đối với các loại chậu gỗ,
bát gỗ thì dùng kĩ thuật tiện. Từ một khúc gỗ tiện thành chiếc chậu gỗ,
bát gỗ rất đẹp. Hình tròn của chậy gỗ, bát gỗ, độ ghép kín của những
chiếc thùng, chiếc thìa... chứng tỏ nghệ thuật và kĩ thuật mộc của đồng
bào Mông phát triển đến trình độ cao của thời kì tiền công nghiệp.
+ Nghề đan lát :
Người Mông dùng dạt dang để đan gùi và giỏ đựng cơm đi nương. Nghề
đan lát rất phổ biến, rất nhiều người biết đan và hầu như năm nào người
ta cũng đan những chiếc gùi, chiếc giỏi mới để dùng.
+ Nghề dệt :
Người Mông dệt vải để thỏa mãn nhu cầu may mặc. Ở mỗi dân tộc, do
điều kiện tự nhiên khác nhau, trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác
nhau, cái mặc cũng rất khác nhau. Với truyền thống lâu đời của mình
người Hmong dùng sợi lanh để dệt vải mặc.
Ở người Mông nghề dệt phát triển từ xa xưa. Mỗi gia đình đều có khung
cửi và hàng năm họ vẫn dệt vải. Trước đây họ tự dệt vải cung cấp đầy đủ
nhu cầu vải mặc, vải làm chăn màn,... cho cả gia đình. Dệt vải lanh mất
rất nhiều thì giờ, tốn nhiều công sức, song ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý
nghĩa xã hội. Sự khéo tay chăm chỉ trong dệt vải là một trong những tiêu
chí đánh giá tài năng, đạo đức làm ăn của chị em phụ nữ. Vì vậy chị em
phụ nữ nhất ở người ở độ tuổi xây dựng gia đình thường rất bận rộn với
việc dệt vải, để thông qua đó chứng tỏ phẩm chất của mình.
5. Kinh tế trao đổi mua bán :
- Một trong những khâu quan trọng trong kinh tế trao đổi – mua bán
là việc hình thành những trung tâm để tiến hành việc trao đổi, mua bán
định kỳ - tức là chợ phiên. Ở vùng đồng bào Mông, do điều kiện phát
triển kinh tế- xã hội khác nhau, việc hình thành chợ phiên ở từng vùng,
có những đặc điểm khác nhau. Vùng biên giới quốc gia với Trung Quốc
nơi có sự giao lưu kinh tế chặt chẽ giữa ta và bạn, các chợ phiên được
hình thành, đó là các chợ Đồng Vân, Mèo Vạc, Yên Minh ( Hà Giang ),
Mường Khương, Bắc Hà ( Lào Cai ). Còn những vùng nằm sâu trong nội
địa chưa hình thành các nơi họp chợ định kì. Nhiều nơi ở Tây Bắc, vùng
cao Thanh Hóa, Nghệ An, cho đến những năm 70 của thế kỷ này vẫn
chưa có thói quen họp chợ định kì. Phải chăng điều này phản ánh tính
chất tự túc, tự cấp, du canh du cư còn đang ngự trị trong nền kinh tế.
- Ở chợ vùng đồng bào ta thấy các mặt hàng do đồng bảo tự sản xuất
như lưỡi cày, lưỡi cuốc, dao chậu gỗ, bát gỗ; các mặt hàng lương thực
như ngô, thóc và các loại bánh được làm từ bột ngô, bột gạo; các loại
thực phẩm như thịt bò, thịt lợn, gà, trứng gà. Đặc biệt ở chợ hay bán “
thắng cố ” – một món canh được đồng bào Mông ưa thích. Ngoài ra, ở
chợ còn bán các loại lâm sản, dược liệu. Hàng mang từ nơi khác đến bán
ở chợ vùng Mông có muối, dầu hỏa, nồi, xoong, chảo, vải các loại,...
Chợ phiên còn là điểm hò hẹn giao tiếp định kỳ của anh em sống xa
nhà, của bạn bè. Phiên chợ nào cũng có những cuộc hội ngộ hẹn trước và
những cuộc hội ngộ bất ngờ. Họ hồ hởi chào mời nhau điếu thuốc, thiết
đãi nhau chén rượu, bát thắng cố. Chợ cũng là nơi những đôi trai gái gặp
nhau, lứa đôi hẹn hò, tình yêu nảy nở; là trung tâm thông tin, loan báo tin
vui buồn của họ hàng, xóm làng.
- Người Mông Việt Nam có các nhóm địa phương , như Mông Trắng
, Mông Hoa, Mông Đen, Mông Xanh…..mà sự khác biệt giữa họ thể
hiện qua lời ăn tiếng nói , tập tục sinh hoạt, trong đó trang phục là điều
dễ nhận biết hơn cả.Nói như vậy không có nghĩa giữa họ là hoàn toàn
khác biệt, mà những khác biệt ấy chẳng qua chỉ là khác biệt trên một cái
nền chung.
- Tất cả các nhóm địa phương của người Mông đều mặc vải lanh
nhuộm chàm, cho dù một vài bộ phận trang phục nào đó như váy của
người Mông Trắng vẫn để nguyên vải mộc. Chính chất liệu vải lanh này
đã tạo cho y phục Mông những nét riêng so với các dân tộc khác về
đường nét, màu sắc, hoa văn...Cũng là màu chàm như các dân tộc miền
núi khác ,nhưng màu chàm của vải lanh có vẻ cứng cỏi , ánh sắc hơn so
với sắc chàm của vải bông hay vải sồi.Cũng là váy xếp nếp tương tự như
một số dân tộc khác, nhưng nếp vải lanh khoẻ khoắn, mạch lạc, óng anh
hơn so với nếp của vải thường.
- Tuy màu sắc và hoa văn trang trí có đôi chút khác biệt , nhưng kiểu
cách y phục của các nhóm đều cùng kiểu loại. Đàn ông thì mặc quần
đũng thấp, quần chân què cạp lá quạ, ống rộng áo cài vạt sang một bên,
ngắn lửng để hở một khoang bụng.Nữ thì mặc váy nhiều nếp là chính,
phủ ngoài là đôi tạp dề cả trước và sau ( màu sẫm để váy trắng k bị bẩn),
áo mặc may kiểu ngắn, cài khuy sang một bên , trên tay có ghép nhiều
khoanh vải mầu, bao dây lưng với nhiều kiểu loại có trang trí.
- Nét chung đặc sắc hơn cả vẫn là màu sắc và các đường nét trang trí
trên y phục và các đồ trang sức.Tuy sắc độ và liều lượng dùng màu trang
trí có khác nhau đôi chút, nhưng cái chung vẫn là bộ nữ phục Mông giàu
màu sắc sặc sỡ,có lúc gây cho ta cảm giác dư thừa.Tuy nhiên , nếu đặt họ
vào môi trường rừng núi khắc nghiệt , thì màu sắc rực rỡ ấy lại tạo nên
sự tương phản hài hoà, bừng lên sức sống của con người.
- Trên nền y phục, màu sắc trang trí khai thác tối đa sắc độ các màu
nguyên : đỏ, vàng,xanh ,đen.Về kỹ thuật tạo hình, họ tận dụng tối đa các
kỹ thuật vừa dệt, thêu, ghép mầu và vẽ sáp ong. Có lẽ người Mông là
một trong số rất ít ỏi dân tộc ở nước ta biết tận dụng và thành thạo
những phương tiện tạo hình trên y phục như vậy .
- Dường như màu sắc chưa đủ, người Mông còn tận dụng tối đa các
vật trang sức. Dùng bạc , cườm , tua màu để gắn trên mặt vải, dùng các
đồ trang sức đeo, như các loại vòng, dây chuyền, xà tích,hoa tai, nhẫn…
Bởi thế, bộ trang phục Mông không chỉ giàu màu sắc mà còn vang lên
những âm thanh theo nhịp bước vốn mạnh mẽ của các cô gái Mông,
chúng đánh thức các đường nét về màu sắc , tạo nên một sự hài hoà
không phải là tĩnh lặng mà luôn sống động.
- Người Mông cũng có cách nuôi tóc, chải tóc độc đáo.Đàn bà để tóc
dài, cạo hết phần tóc gáy, tóc mai, tết những sợi tóc thành những dải tóc
nhỏ, sau đó mới cuộn gọn tóc trên đầu trước khi đội khan.Đây cũng là
nét trang sức đầu tóc mang đặc trưng rõ nét của vùng Trung Á và Bắc Á.
- Có lẽ nam phục Mông giữ lại nhiều nét chung nhất giữa các nhóm
Mông.Nếu như bộ váy, thắt lưng của phụ nữ may bằng vải lanh thì bộ
quần áo nam giới lại “ hợp ’’ hơn vải bông nhuộm chàm hay đen của
người Thái , Tày hay vải lanh , vải láng đen mua ở ngoài chợ.
- Bộ nam phục gồm quần, áo ngắn, thắt lưng, và khăn bịt đầu. Quần
của nam giới may kiểu chân què , cạp rộng lá toạ, đũng quần rất thấp ,
khi mặc cạp được dắt sang một bên rồi dùng thắt lưng vải hay da thắt lại
cho chặt.Vì là quần đũng thấp, ống lại rộng nên khi mặc, quần của nam
giới Mông có dáng nét riêng, không thể pha trộn với bất cứ dân tộc nào.
Trước nhất, chiếc áo đó rất ngắn, phía trước chỉ đủ che một phần ngực,
còn một khoảng bụng từ gấu áo xuống tới cạp quần vẫn để hở.Để “ bổ
khuyết ” , họ mặc một chiếc áo lót bên trong màu trắng dài hơn áo ngoài,
nên khi mặc áo ngoài vào thì giữa gấu áo ngoài và cạp quần vẫn để hở
một khoảng bụng áo bên trong , tạo nên một kiểu mặc rất “ Mông ”.Về
cơ bản đây là loại may kiểu xẻ ngực, tay áo dài, có đáp những khoanh
vải màu , tuy nhiên giữa các nhóm cũng có một vài khác biệt.
- Thỉnh thoảng cũng thấy nam giới Mông dùng khăn, nhất là ở nhóm
Mông Trắng.Đó là tấm khăn vải màu chàm dùng để chít lên đầu.Ngày
hội hè, nam giới cũng hay dùng các loại khăn len mua ở chợ về để quàng
cổ , vừa cho ấm vừa để diện.Thường ngày nam giới đeo một cái vòng cổ
xoắn lại từ những dây đồng ( 3 sợi ) , nhà giàu thì đeo thêm vòng
bạc.Nhưng tới ngày cưới xin , lễ tết, đi chơi chợ thì nam giới đeo đủ bộ
vòng cổ, từ 2-7 chiếc, ngoài ra còn có vòng tay, nhẫn.Cũng có những
người đàn ông vào tuổi trưởng thành bịt vàng hai răng nanh hàm trên.
b) Những sắc thái riêng
Ẩm thực
a) Nếp ăn
Ngày thường họ ăn hai bữa sớm và tối, ngày mùa ăn thêm một bữa
trưa .Khi không ăn cơm thì ăn bột ngô đồ gọi là mèn mén.Bột ngô đồ
xong dỡ ra rá, mỗi người xúc ăn bằng thìa gỗ.Các món ăn rau thường
xào mỡ cho thêm nước vào thành canh. Khi ăn thịt họ thích nhất là món
xáo : thịt , lòng , gan , tiết trâu hoặc dê cho nước vào đun nhừ gọi là
món thắng cố , chan cả cái lẫn nước vào cơm hoặc bột ngô đồ là cách
đồng bào thích nhất.
Ngày lễ tết , đồng bào thường mổ lợn to , gà thiến béo ăn theo cách luộc
hoặc xáo.Phụ nữ Mông cũng khéo tay làm ra nhiều thứ bánh chưng ,
bánh rán , bánh hấp từ bột ngô , bột gạo với đỗ , đường , mật.Người
Mông uống rượu bằng bát, rượu cất từ ngô, gạo. Họ hút thuốc lá bằng
điếu cày làm bằng ống nứa to, nạp thuốc vào điếu mời khách hút được
coi là một cử chỉ đẹp , hiếu khách.
b) Các món đặc sản
- Thắng cố :
Có người giải thích chữ thắng cố theo âm Hán Việt- thắng cố có nghĩa là
thang cốt, tức là canh xương.
Chế biến thắng cố thật đơn giản. Con bò hoặc ngựa sau khi giết mổ,
người ta lọc thăn bắp và các phần nạc riêng ra để bán. Còn phần xương
xẩu được chặt nhỏ, gân cốt bạc nhạc, mỡ và các loại thịt vụn được lọc ra
cùng với tiết đông cắt thành miếng nhỏ cộng với tim gan phèo phổi, thế
là đủ nguyên liệu cơ bản để làm nên món thắng cố.
Sau khi nổi lửa cho nước trong chảo sôi, người ta cho các thứ nói trên
vào chảo đun liên tục. Rồi vừa đun vừa vớt váng bẩn bỏ đi. Thắng cố
được múc ra bát cho thực khách luôn nóng hổi, phải vừa ăn vừa thổi.
Muối hoặc bột canh để ngoài, khi ăn mới chấm cho vừa miệng mỗi
người.
Chảo vơi nước cạn, người ta tra thêm nước, bỏ thêm gân xương đun tiếp.
Những chợ huyện như Đồng Văn (Hà Giang), Bắc Hà, Mường Khương
(Lào Cai) vào phiên chính chủ nhật vẫn luôn luôn có chảo thắng cố nóng
hổi. Khi chợ đã vãn, ấy là lúc mọi người ngồi quây quần bên chảo thắng
cố, từng bát, từng bát thắng cố được múc ra, rượu ngô thơm lừng... cuộc
vui xuống chợ lúc này mới bắt đầu.
Bên chảo thắng cố nghi ngút khói, đàn ông tập trung uống rượu là hình
ảnh thường thấy tại các phiên chợ vùng cao.
- Mèn mén :
Để chế biến món mèn mén người Mông thường sử dụng các giống ngô
địa phương rất dẻo và thơm. Các giống ngô lai, ngô hàng hóa không làm
được món này. Ngô sau khi thu hoạch về được tách lấy hạt, rồi đem xay,
dùng sàng lọc bỏ các hạt ngô to và vỏ ra ngoài. Trước đây, phần lớn các
gia đình Mông đều dùng cối đá hai thớt chồng lên nhau để xay ngô nên
mất rất nhiều thời gian. Công việc này chủ yếu do những người phụ nữ
trong gia đình đảm nhiệm. Sau khi bột ngô đã được xay nhỏ người nấu
sẽ tính toán lượng bột sao cho vừa đủ với bữa ăn của gia đình rồi cho
một ít nước vào đảo đều cho bột ngô ngấm nước. Đây là công đoạn quan
trọng, người chế biến phải tính toán cho lượng nước vừa đủ để bột ngô
không bị khô hoặc bị nhão sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và hương vị của
món ăn.Bột ngô sau khi được đánh tơi cho vào một chiếc chõ đồ bằng gỗ
rồi bắc lên chảo đun. Mèn mén bao giờ cũng được đồ hai lần. Đồ lần thứ
nhất nhằm để hơi nước dưới chảo bốc lên để ngấm đều bột ngô, đồng
thời làm bột ngô nở ra. Thời gian đồ lần thứ nhất khoảng 20 - 30 phút,
khi nắp chõ bốc hơi và khi mở ra thấy bột ngô trong chõ đã ngấm đều
nước thì họ bắc xuống đổ ra nia để nguội dần rồi dùng tay đảo đều cho
bột ngô thật tơi với tác dụng để khi đồ hơi nóng sẽ tỏa đều các góc để bột
ngô chín đều, đồng thời tạo độ dẻo và thơm cho món ăn. Sau đó đổ vào
chõ đồ lần thứ hai. Bếp sao cho vừa đủ nhiệt cần thiết, không đun to quá
hoặc nhỏ quá. Thời gian đồ lần thứ hai kéo dài hơn một tiếng, đến khi
thấy mùi thơm bốc ra, kiểm tra thấy bột ngô trong chõ dẻo, mềm thì bắc
chõ ra ủ khoảng 30 phút rồi mới bỏ ra dùng. Mèn mén khi chín có hương
vị thơm ngọn đậm đà. Do là món ăn khô nên mèn mén thường được ăn
với một số món canh như rau bí đỏ, rau cải, canh su su, nước thắng cố...
tạo hương vị thơm ngon, đậm đà.
Còn một món nữa nếu ăn mèn mén không có nó thì mất cả ngon đó là ớt
nướng, do điều kiện thời tiết ở vùng cao rất giá lạnh nên người Mông ăn
ớt để chống rét, ớt càng cay càng tốt, đúng vị nhất phải là ớt thóc, quả
nhỏ xíu như hạt thóc, đem nướng lên giã với muối, ăn cùng với mèn mén
cứ gọi là ngon tuyệt.
Ngày nay, khi cuộc sống của người Mông đã sung túc đầy đủ hơn, mèn
mén đã không còn là món ăn chính trong bữa ăn hàng ngày nhưng mỗi
dịp lễ, tết trong mâm cỗ cúng ông bà tổ tiên mèn mén là món ăn không
thể thiếu được.
Nhạc cụ
Người con trai Mông ngoài việc giỏi cày nương còn phải biết thổi sáo,
múa khèn. Khèn Mông được cấu tạo bởi nhiều ống trúc ghép lại, là loại
nhạc cụ đặc trưng. Trong lễ tang, ngày hội Gầu tào, tỏ tình nam nữ, đều
thổi khèn, múa khèn. Người thổi khèn giỏi là người có uy tín trong bản.
Ngày nay trên 60% thanh niên Mông không biết thổi khèn và múa khèn.
- Người Mông cũng cố kết tôn thờ thần chung của giao với ý niệm là
thần thổ địa(thủ ti). Thần được thờ bên một gốc cây to hay 1 hòn đá lớn
trong khu rừng cấm. Ở một số vùng như thượng nguồn sông Chảy- Lào
Cai, thần giao là ông Hoàng Síu Dần, một thủ lĩnh người Mông có công
lãnh đạo nhân dân chống giặc Hán Cờ vàng. Huyện Bắc Hà- Lào Cai,
ông Giàng Chín Hùng- thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp xâm lược được
thờ làm thần ở nhiều giao người Mông. Một số vùng người Mông như ở
Sa Pa, Tả Phìn, những người có công khai phá lập giao cũng được dân
bản thờ làm thần, nơi thờ trong hang đá, mái đá hoặc bên gốc cây to
trong rừng cấm; nhiều nơi dựng hẳn thành quán thờ thần như ở Tả Phìn –
Sa Pa, quán đền Ngài ở Bắc Hà. |Hằng năm vào ngày thìn tháng 2, đại
diện các gia đình trong giao tập trung cúng thần bằng lợn, gà; cầu thần
hộ dân bản thịnh vượng. Tín ngưỡng thần giao tạo ra ý thức nhớ về cội
nguồn.
--HẾT--