You are on page 1of 51

DÂN TỘC TÀY

I.Khái quát chung.


Tên gọi các nhóm thuộc dân tộc Tày: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lan, Pa Pi.
Tiếng nói dân tộc Tày thuộc hệ ngôn ngữ Thái, nhóm ngôn ngữ Tày –
Nùng (Nhóm ngôn ngữ Thái phía Đông).
1. Dân số.
Dân tộc Tày là dân tộc thiểu số đông nhất ở miền Bắc nước ta, dân số tính
đến năm 2009 có khoảng 1.626.392 người, chỉ sau dân tộc Kinh.
2. Địa bàn cư trú.
Dân tộc Tày hiện nay cư trú ở nhiều tỉnh thuộc khu Việt Bắc: Lạng Sơn,
Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái,
Quảng Ninh, Bắc Giang. Ở các tỉnh trên, người Tày thường cư trú ở các thung
lũng lòng chảo, thung lũng các dòng sông, nơi đất tương đối bằng phẳng, thuận
tiện cho sản xuất và cho giao thông đi lại, tương đối dễ dàng tiếp xúc với bên
ngoài. Sau này thống nhất đất nước năm 1975, một bộ phận khá lớn dân tộc Tày
từ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn đã di cư tự do vào các tỉnh Lâm Đồng, Đắk
Lắk, Đồng Nai,… làm ăn sinh sống.
3.Lịch sử hình thành.
- Về lịch sử hình thành của dân tộc Tày đã được nhiều nhà dân tộc học đề
cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. Nhiều ý kiến thống nhất
rằng,người Tày và người Nùng là những cư dân có chung nguồn gốc lịch sử,
cùng thuộc khối Bách Việt trước kia.Tày là tên gọi đã xuất hiện từ lâu đời, có
thể vào nửa cuối thiên niên kỉ thứ nhất trước công nguyên. Người Tày cổ đã
tham gia vào việc thành lập nước Âu Lạc, hiệu là An Dương Vương đóng đô ở
Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Mặc dù quốc gia Âu Lạc tồn tại
không bao lâu nhưng có vai trò rất quan trọng trong lịch sử hình thành cộng
đồng người Tày, sự liên minh ngày càng vững chắc của các dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ xưa đến nay, các dân cư thuộc ngôn ngữ Tày – Thái đã giữ một vai trò
rất quan trọng trong lịch sử miền Nam Trung Quốc và các nước ở Đông Nam Á.
Những người Tày – Thái cổ đã góp phần sáng tạo nên nền văn hóa bàn ở vùng
này, thường được gọi là văn hóa Nam Á. Hiện nay, số đông các nhà khoa học
ghi nhận có nhiều yếu tố văn hóa Tày – Thái cổ được truyền bá đến các dân tộc
xung quanh như dân tộc Hán, các dân tộc thuộc ngôn ngữ Tạng Miến, Việt
Mường, Môn Khmer, Mông Dao và Malayo – Polinesia. Ngược lại người Tày
cũng tiếp thu những yếu tố văn hóa của dân tộc láng giềng. Chính sự giao lưu
qua lại về văn hóa này đã thúc đẩy các dân tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái ngày
càng phát triển với một nền văn hóa phong phú và đồng thời cũng làm bộ mặt
cấc dân tộc ngôn ngữ Tày – Thái ngày nay phát triển nhiều sắc màu khác nhau.
Trong lịch sử của Việt Nam, thời nhà Mạc gặp khó khăn đã chạy lên Cao
Bằng một thời gian dài. Ngày nay có một số người Tày mang họ Ma, sinh sống
ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Đây chính là con cháu nhà Mạc xưa. Mặc khác do người
Tày cư trú lâu đời với người Nùng và một số lưu quan người Kinh ( đưa cả vợ
con lên miền núi) việc giao lưu kinh tế, văn hóa, quan hệ hôn nhân giữa ba dân
tộc này diễn ra mạnh mẽ, hệ quả của nó là một số người Kinh biến thành người
Tày, người Nùng; một số người Nùng biến thành người Tày và ngược lại một số
người Tày biến thành người Nùng,… tùy theo từng vùng miền.
4.Văn hóa mưu sinh.
4.1. Trồng trọt.
Trồng trọt là nghề sinh sống chính của người Tày. Đồng bào có truyền
thống lâu đời về nghề này, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc chọn đất
canh tác, chọn thời vụ cho từng loại giống cây trồng, có kinh nghiệm trong khâu
làm đất, bón phân, trồng xen canh, gối vụ.

2
Cây lương thực chính là cây lúa nước. Đồng bào trồng các giống lúa tẻ
và lúa nếp. Lúa tể được trồng nhiều hơn lúa nếp. Người Tày trồng lúa trên các
cánh đồng lòng chảo, thung lũng các dòng sông, trong đó những cánh đồng nổi
tiếng trong vùng Việt Bắc như cánh đồng Hòa An (tỉnh Cao Bằng), cánh đồng
Thất Khê, cánh đồng Lộc Bình (tỉnh Lạng Sơn), cánh đồng Phủ Thông (Tỉnh
Bắc Kạn), cánh đồng Bắc Quang (tỉnh Hà Giang). Người Tày có truyền thống
lâu đời về trồng trọt, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất từ khâu chọn đất,
chọn thời vụ cho từng loại giống cây trồng, cho đến kỹ thuật làm đất, bón phân,
trồng xen canh gối vụ. Đồng bào chọn đất màu mỡ ruộng ngay dưới nhà (làng)
để cấy lúa nếp còn ruộng giữa các cánh đồng thường cấy lúa tẻ đại trà. Kỹ thuật
làm đất bằng cày, dùng trâu, bò làm sức kéo, làm tơi đất bằng kĩ thuật bừa, cùng
do trâu, bò kéo; sử dụng phân chuồng làm phân bón cho ruộng và các cây trồng
khác. Tuy làm ruộng trên các cánh đồng lòng chảo, thung lũng nhưng diện tích
ruộng nước ít hơn ruộng chờ mưa. Vì vậy, để chủ động được nước tưới cho cây
lúa theo nhu cầu của từng thời kì sinh trưởng, đồng bào Tày, cũng như nhiều dân
tộc khác sinh sống và làm ruộng nước ở vùng thung lũng, rồi làm cọn nước, để
đưa nước từ dưới sông lên cao hàng chục mét, rồi chảy theo mương vào các
chân ruộng trên cao, đảm bảo nước cho sự sinh sống của cây lúa, nhất là lúc cây
lúa thời con gái. Trước kia, cây lúa nước chỉ được gieo cây một vụ là vụ hè thu.
Đồng bào Tày có tập quán, sau khi gặt chất lúa thành đống và tổ chức
giúp nhau đập lúa tại ruộng. Lúa được đập trên hai đầu loỏng – máng gỗ to, có
phên che hai bên sườn cho hạt lúa khỏi vung vãi ra ngoài. Rơm được thu gom
đưa về nhà, chất đống trên sàn, cao vừa tầm cho trâu bò ngẩng đầu rút ăn dần
trong mùa đông.
Bên cạnh ruộng nước, đồng bào Tày còn làm nương. Việc canh tác trên
nương cũng phổ biến như canh tác trên ruộng. Nương được khai khẩn ở trên đồi
với độ dốc không cao lắm. Trên nương đồng bào trồng những cây chịu hạn như
cây ngô, khoai, sắn, các loại đậu đỗ, cây bông, cây chàm,…. Cây ngô, cây khoai
lang, cây sắn được sản xuất để phòng khi mùa màng thất bát., thì dùng làm
lương thực; còn những được mùa bình thường, chúng được sử dụng làm thức ăn
chăn nuôi: nuôi lợn, nuôi gà, nuôi vịt hoặc đem bán ở chợ nông thôn.
Với đồng bào Tày, cây rau xanh được trồng phổ biến trong vườn cạnh
nhà, rau xanh được trồng theo vụ: có rau vụ xuân hè với các loại bầu, bí, mướp,
rau đền, mồng tơi, cà tím, dưa chuột, cà chua, ớt, các loại đậu đỗ như: bắp cải,
su hào, rau cải, cải làn, rau diếp, hành tỏi và các loại rau gia vị như: rau húng,
rau mùi,…
Cây ăn quả được người tày quan tâm trồng vườn nhà như cây mận, cây
đào, cây vải, cây nhãn, cây bưởi hoặc trồng trên rừng như: cây quýt, cây hồng,

Đồng bào Tày trồng một số cây công nghiệp như: trẩu, lai, sờ, mía,
thuốc lá,… Ở những vùng chất đất thích hợp như: Lạng Sơn dân tộc Tày còn
trồng cây hồi. Cây hồi được trồng thành rừng thay thế rừng tự nhiên.

3
Nhìn tổng thể về nghề trồng trọt của người Tày từ các loại cây trên
ruộng, trên nương, trên vườn của các gia đình, cho đến trình độ kĩ thuật canh
tác: chọn đất phù hợp với các loại cây rồng khác nhau chọn thời vụ, kĩ thuật bón
phân, xen canh gối vụ; về hệ thống công cụ sản xuất và thủy lợi,… có thể đánh
giá rằng người Tày đã đạt đỉnh cao của kĩ thuật canh tác thời kĩ thuật tiến công
nghiệp và nghề trồng trọt của họ đạt hiệu quả cao.
4.2. Chăn nuôi.
Nghề trồng trọt có nhu cầu phát triển chăn nuôi để lấy sức kéo và lấy phân
bón cho cây trồng. Do vậy, chăn nuôi gia súc, gia cầm được tiến hành ở trong
từng hộ gia đình. Gia súc được nuôi là trâu, bò, ngựa, dê, lợ, chó, mèo; gia cầm
có gà, vịt, ngỗng, ngan. Mỗi gia đình thường nuôi dăm ba con trâu hoặc bò; một
số gia đình còn nuôi thêm ngựa, dê. Nuôi trâu, bò để kéo cày, kéo xe, kéo gỗ làm
nhà. Người Tày không dùng trâu, bò làm vật hiến sinh cho thân linh, nhưng
trong đời thường họ lại ăn thịt trâu, thịt bò, thịt chó. Những laoji thịt của ba con
súc vật này người Nùng không ăn, không cho mang vào nhà nấu nướng, thậm
chí lúc đi đường gặp mổ trâu, bò họ còn tránh không muốn giáp mặt với thịt
trâu, bò. Còn ngựa được nuôi để cưỡi, kéo xe. Thời trước, những người có chức
sắc trong làng, những gia đình giàu có đi có việc thường đi bằng ngựa. Con lợn,
con dê nuôi làm vật hiến sinh, vừa để ăn thịt. Thịt lợn được sử dụng nhiều nhất
trong các loại gia súc, gia cầm. Do vậy, gia đình nào cũng nuôi vài con lợn bột.
Gà được nuôi phổ biến nhất, mỗi gia đình thường nuôi vài chọn con. Gà được
nuôi vừa để phục vụ cho việc cúng bái trong các ngày lễ tết, giỗ chạp, cưới xin,
ma chay lại vừa để ăn thịt, ăn trứng. Con vịt cũng được nuôi phổ biến, nhưng ít
nuôi hơn trong từng hộ gia đình.
Bên việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, người Tày còn nuôi cá ở ao, nuôi
vài ba con ong ngay dưới mái hiên nhà ở.
Phương thức chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu là chăn thả, ban ngày thả
trâu, bò vào rừng tự kiếm ăn, ban đêm lùa chúng về chuồng ở cạnh nhà. Lợn,gà,
vịt, ngỗng…cũng chủ yếu chăn nuôi theo phương thức nửa nuôi, nửa tự kiếm ăn.
Những con vật này,chủ cho ăn bữa sáng xong mới thả chúng ra khỏi chuồng để
tự kiếm ăn. Sau đó, chiều tối chúng khi lên chuồng ngủ, chủ nhà lại cho ăn bữa
nữa
Mỗi loại gia súc, gia cầm đều có chuồng trại riêng .Chuồng trại cho mỗi
loại gia súc khác nhau có tên khác nhau. Phải chăng điều này cũng nói lên sự
phát triển có tính chuyên nghiệp của nghề nghiệp chăn nuôi của dân tộc Tày.
4.3. Ngành nghề thủ công.

4
Nền kinh tế tự túc, tực cấp đòi hỏi nghề thủ công phát triển để đáp ứng
nhu cầu các vật dụng khác trong gia đình. Những nghề thủ công thông thường
như: dệt, đa lát, mộc, ép dầu, chưng cất dầu. Nghề dệt là nghề của phụ nữ, nhất
là con gái. Con giá được mẹ truyền cho nghề dệt từ khi lên mười – mười hai tuổi
và mười lăm, mười sáu tuổi con gái đã thành thạo nghệ dệt, phụ nữ con gái,
trồng bông, dệt vải, cung cấp vải mặc, vải làm chăn, vải màn cho gia đình, làm
túi đeo, túi to, thay cho đôi dậu trong trường hợp cần thiết. Đàn ông thường hay
đan lát mây tre, các đồ dùng gia đình như: cót để phơi thóc, bồ để đựng thóc ăn
cả năm, dậu để gánh, rổ, vung chảo “trâu”, đan các công cụ đánh bắt cá như
nơm đơm, đó, giỏ. Với nghề mộc, người Tày tự làm nhà, làm bàn ghế, giường
ngủ, tủ đựng quần áo, hồm gỗ, bàn ghế trúc. Đồng bào cũng ép dầu thực vật để
ăn, để thắp sáng. Riêng ở Lạng Sơn nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống
từ lâu. Nghề làm gạch, ngói, nung vôi còn có ở nhiều nơi. Nghề thủ công là
nghề phụ trong gia đình, không có thợ chuyên nghiệp, đồng bào chỉ làm nghề
thủ công trong mùa nông nhàn.Ngoài ra, khi thoát ly đồng áng có một số người
còn làm nghề rèn, đúc, bản đồ thiếc.
4.4. Khai thác tự nhiên.
Người Tày cũng như các dân tộc khác sinh sống ở miền núi, mặc dù kỹ
thuật canh tác đạt trình độ khác cao, nhưng việc hái lượm và săn bán trên rừng,
dưới nước vẫn là một nguồn thu nhập quan trọng, đóng góp có ý nghĩa đối với
đời sống vật chất của đồng bào. Thu hái lâm thổ sản được thực hiện quanh năm
và theo mùa, mùa nào thức ấy. Mùa xuân hè, là mùa các loại cây cối đâm chồi
nảy lộc đồng bào thường hay hái măng rừng, rau rừng: rau ngót rừn, rau bò khai.
Đây là loại rau ngon, đồng bào không chỉ thu hái mà còn chăm sóc, nên nhiều
nơi mọc thành bãi rộng. Ngoài ra người Tày còn hái lá ngải cứu về làm bánh lá
ngải hoặc đi đào củ nâu về nhuộm vải, đào củ mài về ăn. Khi mùa thu đông đến,
đồng bào thu hái nấm hương, mộc nhĩ, mạt ong, nhộng ong rừng, lấy gỗ, tre để
làm nhà, làm các công trình chuồng trại chăn nuôi, rào vườn. Củi đun và nước
sinh hoạt hàng ngày cũng tăng giảm theo mùa: mùa đông dùng củi nhiều hơn
mùa hè vì ngoài nấu ăn còn dùng để sưởi ấm; mùa hè dùng nước nhiều hơn mùa
đông vì phải tắm, giặt, rửa nhiều hơn. Ngoài thu hái lâm sản phục vụ cho nhu
cầu đời sống bình thường còn thu hái các loại thảo dược như: ngũ gia bì gai, ba
kích, hà thủ ô trắng, ké đầu ngựa, cây chàm tím,…
Người Tày cũng tích cực săn bắn thu rừng nhằm mục đích trước tiên là
bảo vệ mùa màng, bảo vệ gia cầm và sau đó, là lấy thịt ăn cải thiện đời sống.
Những con thú thường săn bắn là cầy, cáo, hươu nai để lấy thịt ăn, lấy nhung;
những nơi có có rừng già đồng bào còn làm bẫy bắt hổ, báo để lấy xương nấu
cao, săn gấu để lấy mật chưa bệnh. Ở những nơi ít rừng, người Tày thường hay
bắn chim, bẫy chim phá hoại mùa màng.

5
Ngoài thú rừng, người Tày tìm đánh bắt thủy hải sản như: cá, lươn,
tôm, tép, cua, ốc,… ở các sông, suối. Ở những vùng gần suối,đánh bắt cá phát
triển. Bốn mùa đều có thể quăng chài, nhà nào cũng có dụng cụ đánh bắt.Cần
phao phát triển ở những nơi lắm cá. Nhiều người lấy nghề đánh bắt cá làm
nguồn sống quan trọng. Đôi khi họ còn tổ chức đi đánh cá dài ngày.
Việc thu hái lâm thổ sản và săn bắt thú rừng, thủy sản thường được kết hợp
với các công việc trên ruộng đồng, trên nương rẫy.
4.5.Trao đổi, mua bán.
Việc trao đổi, mua bán diễn ra phổ biến ở đồng bào Tày. Khắp nơi đồng
bào Tày cư trú đều có chợ, trừ một vài vùng thuộc các tỉnh Hà Giang và Lào
Cai.
Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng. Trừ một vài nơi thuộc Hà Tuyên,
Hoàng Liên Sơn thì nhiều nơi đã có chợ,cứ 5 ngày họp 1 phiên, là nơi trao đổi,
mua bán hàng hóa sầm uất. Thường ngày họp chợ phiên là mùng 1, 6, 11, 16,
21, 26 âm lịch. Họp chợ biên giới không chỉ có cư dân địa phương mà còn có cả
người xuôi, người Trung Quốc, đã có lúc có cả thương nhân người Ấn Độ đến
đây mua vải. Đã có một số người Tày làm nghề buôn bán,nhất là buôn chuyến
nhưng không nhiều, và cuộc sống của họ vẫn gắn với sản xuất nông nghiệp.
Việc mua bán chủ yếu thông qua hóa tệ:Tiền giấy đã đươc dùng phổ biến. Bạc
trắng chỉ còn giá trị như phương tiện tàng trữ. Tuy vậy việc trao đổi với nhau
bằng hiện vật vẫn còn; những lái buôn mang các thứ như thuốc lào,đồ sành
sứ,...đổi lấy thóc và các loại nông lâm sản,...hình thức trao đổi như vậy càng phổ
biến ở những nơi không có chợ.
III.Văn hóa vật thể.
Văn hoá vật thể là tổng thể các sản phẩm chứa đựng vật chất do
con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vật chất của
con người nó có thể cầm, nắm, sờ, mó được.
1. Nhà ở và các công trình kiến trúc.
a. Nhà ở.
Người Tày thường ở nhà sàn hoặc nhà đất hoặc nhà nửa sàn nửa đất tùy
theo điều kiện địa hình, trong đó nhà sàn là kiểu nhà ưa thích của họ. Nhà
thường khá to, rộng, có 3 gian, vách thường bằng gỗ và lợp ngói âm dương.

6
Nhà được chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối đi ở gian giữa.
Phần trong đặt bếp là nơi sinh hoặt chủ yếu của phụ nữ trong gia đình. Phần
ngoài dành cho nam giới và đặt bàn thờ tổ tiên. Phía sau nhà có cầu thang phụ, ở
đấy có máng nước dùng để tắm rửa. Phân chia này cũng đều áp dụng với khách
nam và nữ.
Nhà của người Tày có đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong
cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình
thành trên cơ sở các kiểu Vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ
yếu đều bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm 1
hoặc 2 cột vào 2 bếp, vì kèo 3 cột trở thành vì kèo 5 hoặc 7 cột. Song không có
vì kèo nào vượt quá con số 7.
Bộ khung nhà có 2 đặc trưng:
- Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa 2 cột có một trụ ngắn hình "quả
bí" (hay quả dưa) đấu đầu vào thân kèo.
- Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người
ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các
cột.
Mặt bằng sinh hoạt nhà của người Tày cơ bản là giống nhau, mặt sàn chia
làm 2 phần đó là: Một là dành cho sinh hoạt của nữ và một dành cho sinh hoạt
của nam. Các phòng ngủ và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp vách
tiền và hậu.
Nói đến nhà Tày có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt đó
là "nhà phòng thủ". Thường có sự kết hợp giữa nhà đất và nhà sàn (đúng hơn là
nhà tầng). Tường xây bằng gạch hoặc trình bằng đất rất dày (40-60cm)để chống
đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến
đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía Bắc để phòng chống
trộm cướp.

7
Qua rất nhiều thế hệ, bà con dân tộc Tày ở Lạng Sơn hay sống dọc biên
giới Việt-Trung, thường xây dựng nhà ở giữa lưng chừng núi, với những kiểu
nhà mang tính chất phòng thủ. Kiểu nhà này thường được gọi là nhà pháo đài.
Nhà pháo đài vừa để ở, vừa có thể trở thành một lô cốt giúp người dân tự bảo vệ
mình. Bởi do đặc thù của các tỉnh miền núi, biên giới phía Bắc nên bà con các
dân tộc Tày sống rải rác ở các vùng núi cao, đồi núi và thưa thớt. Mỗi thôn, bản
chỉ vài nóc nhà, mỗi nhà cách nhau vài cây số.
Nhà của người Tày gồm có một nhà chính để ở, các bộ phận khác như
bếp, chuồng trại nuôi gia súc, gia cầm được nối liền với nhà chính bằng một
hành lang khép kín toàn bộ. Người Tày thường làm nhà theo kiểu trình tường
bằng đất hoặc xây bằng gạch mộc, nhưng phổ biến nhất là nhà trình tường. Ðể
chuẩn bị làm được nhà, phải chuẩn bị trước vài năm. Quá trình làm nhà bắt đầu
từ khâu san nền nhà, xây tường bằng cách đóng khuôn với hai tấm gỗ dài hơn
hai mét, chiều cao 40 cm, rộng từ 30 đến 35 cm. Khi trình thì đổ đất vào khuôn
sau đó từ ba đến bốn người dùng chày gỗ nện thật chặt, rồi dùng những thanh tre
vào giữa khuôn để kết nối với các khuôn khác... Nhà dạng này thường làm hai
mái, mái lợp bằng ngói âm dương.
Thông thường nhà pháo đài được làm thành hai tầng: tầng trên và tầng
dưới, chung quanh tường nhà có lỗ châu mai. Kết cấu nhà pháo đài gồm có
nhiều gian, ngăn này thông ra ngăn kia, có cửa gỗ kiên cố chia cắt từng ngăn.
Thông thường nhà nào có gác bằng gỗ ván. Nhà ở chính bao giờ cũng có hiên ở
đằng trước xây thành một hành lang phòng thủ có cửa sổ và lỗ châu mai. Phía
chính cửa gia chủ còn làm một giàn đá tảng rất chắc và có bẫy để phòng bị. Ở
những nhà phòng thủ kiểu này, tường nhà thường dày 30 đến 35 cm. Ðặc điểm
của những ngôi nhà này rất ấm về mùa đông và mát về mùa hè.
* Cầu thang
Cầu thang lên nhà sàn ngoài chức năng kỹ thuật còn có ý nghĩa tinh thần
lớn lao. Cầu thang lên nhà sàn làm bằng gỗ và luôn có số bậc lẻ, thông thường là
7 bậc, số ít gia đình làm 5 bậc với sàn nhà thấp hoặc 9 bậc với sàn nhà cao. Có
nơi quan niệm 9 bậc là mỗi bậc tượng trưng cho một vía của người phụ nữ Tày.
Nó tượng trưng cho sự lên xuống của người trần, nên theo quan niệm của người
Tày thì cầu thang phải làm số lẻ.
Còn chiều cao của cột phổ biến là làm theo kích thước nhất định trong
toàn vùng: Mặt sàn cao khoảng 2m, vì vậy mà số bậc cầu thang giữa các nhà
tương đối thông nhất.
Khi đón khách quý, chủ nhà phải xuống tận chân cầu thang chào mời
khách lên nhà, khi khách lên cầu thang chủ nhà cũng phải đi sau để bảo vệ và
hướng dẫn cho khách.
* Không gian bếp

8
Người Tày thường đặt 3 bếp: Một bếp đặt ở gian chính giữa ngôi nhà, đây
là bếp chính dùng để tiếp khách và là nơi giữ lửa cho tất cả các bếp khác cũng
như sưởi ấm cho cả gia đình. Bếp thứ hai được đặt cạnh giường của người già
với mục đích giữ ấm trong mùa đông và bếp cuối cùng dùng để chế biến thức
ăn, bếp này thường được dựng ở một gian riêng.

b. Các công trình kiến trúc.


Tại vùng cư trú của người Tày xưa kia có đình, chùa và hàng năm ở đó tổ
chức lễ hội.
Tại nhiều trường học, người ta còn xây dựng những cầu vòm bằng gỗ
nghiến kiên cố, mái lợp ngói. Đó cũng là nơi trú chân cho người đi đường và
chỗ nghỉ trưa cho những người làm việc ngoài đồng.
2. Trang phục.
a. Trang phục nam giới.
Trang phục nam của người Tày cũng giống như nhiều dân tộc miền núi
khác gồm: áo cánh ngắn bốn thân, cổ tròn, áo dài năm thân buông vạt dài đến đầu
gối quần ống rộng đũng chân què, khăn quấn hay chít theo kiểu chữ nhân. Chúng
đều được may, cắt bằng vải bông nhuộm chàm với những hoa văn giản dị.

9
- Áo cánh ngắn:mặc thường ngày của nam giới. Được may bằng cách
ghép hai thân, hai thân trước và hai thân sau, xẻ ngực, hai bên nẹp áo đính hàng
cúc vai gồm 7 cái, cổ tròn dựng cao, hai túi nhỏ ở hai vạt trước, tay nối với thân
áo ở vai, rộng vừa phải. Quanh cổ áo khâu lót trong miếng vải hình vành khuyên
giữ cho cổ áo đứng, phẳng, bền, tiện cho việc mang vác trên vai. Tà áo hai bên
nách xẻ cao.
Trước nam giới còn mặc áo dài năm thân bằng vải chàm hoặc lụa đen, gấu
áo phủ qua đầu gối, áo cài cúc bên ngực trái. Loại áo mang tính nghi lễ, mặc
trong dịp lễ tết, hội hè…
- Quần: Nam giới Tày mặc quần bằng vải sợi bông, nhuộm chàm. Quần
may kiểu đũng chéo, chân què, gấu quần phủ tới mắt cá chân, cạp quần may
rộng. Khi mặc vắt mối quần về phía trước rồi dùng dây thắt lại cho chặt.
- Khăn đội đầu: dệt bằng sợi bông hay sợi tơ tằm, rộng khoảng 0.3m, dài
khoảng 2m, màu chàm, quấn trên đầu hình chữ “nhân”.
- Giày: Xưa kia dù đi chân đất nhưng họ vẫn chế ra thứ giày vải để đi
trong những dịp hội hè lễ tết. Đế giầy làm bằng bẹ măng rừng, bẹ móc hay khâu
chắp từ những mảnh vải chồng lên nhau cho cứng. Thâm giày may bằng vải
chàm, mũi tròn, cổ cao, có lỗ khuyết để gài dây buộc. Khi đi đường xa họ đi dép
rơm (của người Hoa).
- Nam giới Tày xưa kia cói thói quen bịt răng vàng hay bạc cho đẹp. Xăm
hình mặt trời hoặc hình chữ trên cánh tay, vừa đẹp lại mang tính nghi lễ cổ
truyền.
Hiện nay, đa số trang phục nam giới của người Tày đã tiếp thu kiểu ăn
mặc của người Kinh và họ cũng lựa chọn nhiều loại vải công nghiệp có màu
sáng hơn, nhiều màu sắc phong phú.
b. Trang phục nữ giới.
Bộ nữ phục Tày gồm: Áo cánh ngắn áo dài; váy hoặc quần mang thắt lưng
khăn đội đầu, chân đi giày vải và mang đồ trang sức.
- Áo cánh bốn thân: may từ vải bông nhuộm chàm hay để trắng, xé ngực,
hai túi nhỏ ở hai vạt trước,cổ cao và đứng, xẻ tà…Áo phụ nữ may vừa vặn với
cơ thể hơn, nhấn thêm eo, ống tay nhỏ hơn.
- Áo dài năm thân: Mặc áo dài năm thân, cài khuy áo bên nách phải và
mang nét riêng của mình nhờ thân áo dài chấm gót, tay áo hẹp bó sát, cổ áo
không ôm khít vòng cổ mà để hở một khoảng tạo cảm giác chiếc áo mềm mại
hơn. Đặc biệt hơn cả màu sắc áo của người Tày, đó là màu vải chàm đậm đen
ánh tím hay màu tím hồng. Người phụ nữ dùng hàng vải lụa hay nhung đen để
may áo dài, càng tôn thêm vẻ duyên dáng của người phụ nữ.
- Quần/ Váy: Hiện tại, theo từng nhóm Tày mà người phụ nữ mặc quần
hay váy.

10
Phụ nữ Tày ở Cao Bằng, Lạng Sơn mặc quần may bằng vải chàm, dài
chấm gót, khi mặc với áo dài thì áo dài phủ gàn kín quần. Cạp quần không buộc
rút mà khi mặc dùng dây vải thắt phủ ra ngoài cho chặt.
Phụ nữ ở các tỉnh phía Tây như Tuyên Quang, Hà Giang… thì vẫn còn
những người già mặc váy. Máy vay bằng vải chàm đồng màu với áo, không có
trang trí gì trên thân váy, có chăng cạp váy thường may bằng miếng vải xanh
khác màu, phía trong gấu váy thì đắp thêm miếng vải đỏ, bình thường ít khi nhìn
thấy nhưng khi bước đi có một chút ánh đỏ lấp ló nơi chân váy.
- Thắt lưng: Cùng màu với xống áo là chiếc thắt lưng. Thắt lưng được
phụ nữ tày dệt nguyên bằng sợi bông hay tơ tằm nhuộm chàm. Phụ nữ Tày thắt
lưng ra ngoài áo dài và xõa mối ra phía sau.
- Tóc: Phụ nữ Tày chải tóc, vấn khăn gần giống người Kinh. Tóc chải rẽ
ngôi giữa, lọn tóc đợc bó gọn trong dải khăn vấn, rồi quấn quanh đầu, dùng
những sợi chỉ tết bằng chỉ mày buộc ra ngoài lọn tóc cho vừa và đẹp. Bên ngoài
khăn vấn là khăn xếp nếp, người phụ nữ Tày bao giờ cũng đội khăn vải ra ngoài.
Khăn là tấm vải vuông đồng màu với trang phục, dệt bằng sợi bông hay sợi tơ
tằm. Khi đội người ta gấp chéo khăn vuông lại, phủ khăn bên ngoài khăn vấn,
thắt múi khăn về phía sau. Trong những dịp lễ hội các cô gái còn ưa trang điểm
trên khăn những sợi màu xanh, đỏ, mối chỉ màu xõa ra phía sau.
- Nón: Nón cũng là một bộ phận quan trọng tạo nên nét duyên dáng của
người Tày. Nón làm bằng nan tre và lá cọ, chóp nón hình tam giác, mái bằng và
rộng. Phía trong và nón là hai lớp nan tre đan dày, giữa là lá cọ. Đỉnh nón ghép
đai tròn bằng mo cau cho vừa đầu người đội. Quai nón làm bằng dây mây mềm
hoặc bằng vải. Ngoài ra, họ còn dùng ô che nắng. Ô được cán bằng song, nan ô
bằng kim loại, phủ ngoài bằng vải chàm xanh hay đen.
- Trang sức:Phụ nữ Tày thường đeo trang sức bằng bạc như vòng cổ,
vòng tay, vòng chân, xà tích, túi thổ cẩm…..
- Lễ phục: Bộ lễ phục người Tày khá độc đáo. Trước nhất, người Tày mặc
kín đáo che kín toàn thân, từ đầu xuống chân, chỉ để hở khuôn mặt, hai bàn tay
và hai bàn chân. Thứ hai, bộ nữ phục chỉ tuyền một màu chàm sậm hay tím
hồng, hầu như không trang trí hoa văn.Việc phủ gần kín cơ thể bằng một màu
đậm đã làm tôn nên nét đẹp của người phụ nữ Tày.

Phụ nữ Tày Pa Dí Phụ nữ Tày Thu Lao

- Khăn & Mũ: Ngoài phần cốt - Khăn: Mảnh vải chàm dài
mà rìa trước trán có đính hàng miếng 4m, rộng 0,2m. Khi đội gấp làm 4
bạc thì 2 bên mũ tạo thành hình mái theo chiều dài quấn thành chóp trên
nhà, rìa phủ xuống sát 2 bên tai và đỉnh đầu, 2 mối khăn xõa dài, rủ từ
gáy. gáy xuống thắt lưng (Người Tày
- Áo ngắn: Vải xanh chàm, xẻ khăn nhọn).
nách và cài cúc phải, mảng trang trí - Áo: Chàm, 5 thân, cài cúc

11
chéo trước ngực xuôi theo nẹp áo từ nách phải, gấu áo phủ quá mông, đáp
cổ xuống nách phải là những cúc bạc thêm khoanh vải trắng cánh tay áo.
đính sít nhau thành mảng. Cánh tay - Váy: Dáng xòe màu chàm,
áo và cửa tay cũng đính. ghép bằng nhiều miếng vải hình
- Váy: Màu xanh chàm, tạp dề thang cân, chu vi gấu váy dài 5m,
choàng ngoài váy, mép và gấu đáp chu vi cạp váy 0,0m. Phần vải thừa
dải vải màu trắng. túm lại 1 túm phía sau.

12
So sánh y phục phụ nữ Tày Pa Dí – phụ nữ Tày Thu Lao
c. Y phục trẻ em.
Quần áo trẻ em cơ bản cũng được cắt may theo kiểu người lớn nhưng có
phần đơn giản và giản tiện hơn. Dưới 5-6 tuổi, cả bé trai và gái đều mặc quần
thúng trôn, kẹp áp đính khuy vải hay dải vải để tiện buộc lại.Trẻ em thường
được đeo các loại vòng cổ, vòng tay, vòng chân vừa cho đẹp và để giữ vía cho
trẻ, tránh dịch bệnh, xua đuổi ma quỷ.
Chiếc mũ của trẻ em là loại mũ vải, được ghép từ nhiều mảnh vải nhỏ
màu sắc khác nhau. Khi đội nó bao trọn đầu đứa trẻ, trên đỉnh mũ đính túm tua
vải hay bông nhiều màu.
Quần áo trẻ nhỏ thường không dùng được lâu nên người ta thường giữ lại
cho đứa con tiếp hoặc cho đứa trẻ con khác lấy may mắn, và người ta cũng
không muốn trẻ con mặc đồ mới vì đồ mới dễ thu hút ma tà.
d. Tang phục.
- Người chết được niệm trong một tấm vải trắng.
- Đối với phụ nữ Tày thì bao giờ cũng phải có chiếc áo cánh trắng.
- Người ruột thịt, thân thích với người quá cố đều phải mặc tang phục.
- Con trai của người quá cố mặc áo cánh trắng, quần trắng và chít khăn
trắng. Con gái mặc áo, váy, khăn trắng. Loại áo này không cài cúc mà chỉ đính
dây vải để buộc. Loại áo tang này mặc lộn ngược để phía sống chỉ chắp nối ra
ngoài. Cháu và chắt chỉ chít khăn trắng thôi.
e. Trang phục thầy cúng.
- Trong xã hội người Tày có những Mo, Then, Pụt là những người chuyên
hành lễ trong các tín ngưỡng dân gian,... Pụt, Then tham gia vào các tang lễ
trong nghi thức đưa hồn người chết, chủ trì những lễ thức cầu yên cho dân làng.
- Then của người Tày thường là phụ nữ, họ chủ trì những buổi làm Then
mang tính chất một sinh hoạt tín ngưỡng. Khi hành lễ, Then mặc áo dài màu đỏ,
mặc váy hay quần đỏ, có người đi cả giày đỏ.
+ Áo đỏ may kiểu năm thân, cài cúc phía nách phải. Thắt lưng xanh hay
trắng. Từ thắt lưng tới quá đầu gối giắt những dây mà trên đó treo nhiều những
miếng vải màu đỏ, xanh…
+ Mũ đội đầu may hình bốn góc, phía dưới thót nhỏ lại để vừa đầu, phía
trên xòe rộng ra, giống hình thang cân lộn ngược. Bốn góc mũ đều có tua chỉ
màu đỏ hoặc xanh, trên bốn mạt mũ đều có hình tròn, hình vành khuyên đỏ,
trắng trên nền vải mũ màu xanh.
- Mo của người Tày là đàn ông. Khi hành lễ, thầy Mo cũng mặc áo mũ
riêng.

13
+Áo thầy mo là loại áo dài, may kiểu xé ngực, không có tay. Khi mặc vì
thân áo rộng nên khi mặc thân áo phủ cả vai và một phần cánh tay. Tà, gấu và
hai bên nẹp áo ngực đều đắp thêm dải vải trắng.
+ Phần còn lại của thân áo, cả phí trước, phía sau trên nền vải chàm thêu
nhiều hình của rồng, chim, cá… biểu tượng của đạo giáo phù thủy. Mũ thầy Mo
hình đài sen, trước thêu hình Phật Bà Quan Âm.
3. Ẩm thực.
Người Tày rất quan tâm đến cách ăn uống nhằm đảm bảo sức khoẻ
nhiwng còn là để thể hiện gia đình có truyền thống văn hoá. Do vị trí địa lí của
địa bàn người Tày cư trú thuộc về miền cận nhiệt đới núi non xen kẽ giữa các
thung lũng, có nhiều sông suối và hồ nước cho nên động thực vật cả trên cạn và
dưới nước đều phong phú. Chỉ nói riêng về cây lương thực, ở các bản người Tày
thường trồng lúa nước ở dưới ruộng và lúa cạn ở trên nương đồi, trồng ngô tẻ
hột vàng trên bãi phù sa và trồng ngô nếp hột trắng ở trên rẫy…. Sự phong phú
về các tầng ẩm thực, động vật ở núi cao cũng như các loại cây trồng, vật nuôi
càng làm tăng thêm sự đa dạng cho các món ăn.
Cũng giống như một số dân cư khác ở vùng Nam Á. Người Tày khi ăn
dùng bát để đựng cơm và dùng đũa để gắp thức ăn. Thành phần chính của bữa
ăn hàng ngày chủ yếu là: cơm, thịt, cá, rau, củ,… Một ngày thường ăn ba bữa:
chin chạu (bữa sáng), chin ngài (bữa trưa), chin pjầu (bữa tối). Chin ngái và chin
pjâu là bữa chính, khẩu phần ăn nhiều hơn, còn chin chạu là bữa phụ nên chỉ ăn
đơn giản. Ngoài ba bữa ăn thường xuyên đôi khi còn có thêm bữa xéo de vào lúc
nửa đêm mỗi khi đi săn được thú hay đi soi bắt được cá. Món ăn của người Tày
thường được chế biến cầu kỳ, độc đáo, công phu. Trong mỗi món ăn hay cho
thêm các loại gia vị đặc biệt. Đôi khi gia vị cũng là thứ rất quý hiếm, phải tìm
kiếm ở tận trong rừng sâu. Thường vào những dịp lễ tết các gia đình rất chú ý
đến ẩm thực. Lúc này là lúc các bà mẹ có thời gian dạy cho con cái làm những
món ăn ngon truyền thống để dâng lên bàn thờ, thắp hương khấn vái, mời ông
bà tổ tiên. Ngày lễ tết cũng thường hay có khách đến nhà nên các gia đình luôn
phải chuẩn bị sẵn một vài món ăn ngon để đãi khách. Có những món không chỉ
ăn ngon mà còn thể hiện tài năng và bàn tay khéo léo của người phụ nữ, mang
đậm nét truyền thống của văn hoá Tày.
Ở Cao Lạng đàn ông hút thuốc lá, còn ở những nơi khác hút thuốc lào.
Phụ nữ ăn trầu. Theo truyền thống khách đến nhà thường được đón tiếp chu đáo.
Thức uống thông dụng là nước sôi để nguội. Nhiều khi đi làm xa nhà phải
uống nước lã ở các vùng khe suối. Trong gia đình, người Tày đều uồng nước
chè. Mùa đông có người dùng lá cây đầu ho đun uống vừa thơm lại vừa phòng
chống ho.
Rượu thường được dùng trong lễ tết, cưới xin, tiếp khách, ngâm tẩm để
uống sau buổi làm việc mệt nhọc. Nam giới ưa dùng rượu có nồng độ cao. Nữ
giới ít uống rượu hoặc uống nước rượu chưa cất, rượu nếp. Theo truyền thống
khách tới nhà được đón tiếp chu đáo.
14
a. Xôi Ngũ Sắc (khẩu đăm đeng)
Điểm đặc biệt của món xôi này là màu sắc độc đáo. Màu xôi đẹp tự nhiên
và hấp dẫn, 5 màu chính của xôi là trắng, đỏ, xanh, tím, vàng. Trắng là màu
nguyên của gạo, các màu còn lại được tạo nên bằng cách ngâm gạo với nước của
các loại lá và củ cây rừng. Những loại lá và củ cây này đều dễ tìm trong rừng,
hoặc trong vườn nhà.
Đối với xôi màu đỏ, màu tím, bà con lấy lá cây "Bẩu khẩu đăm đeng" (lá
cây đỏ đen) đem giã nhỏ, hoà với nước đun sôi rồi lấy nước để ngâm gạo. Sau 5-
6 tiếng, vớt gạo ra cho vào chõ đồ chín, cơm xôi sẽ có màu đỏ hoặc tím rất đẹp.
Tiếp đến, xôi có màu vàng chính là nhờ nghệ. Người Tày lấy 2-3 củ nghệ
tươi mài trên cành cọ cho nhỏ mịn rồi trộn đều với gạo đã ngâm kỹ, đồ chín.
Cơm nếp nghệ thường được dùng cho phụ nữ mới sinh vì bà con cho rằng phụ
nữ vừa sinh con, ăn cơm nếp nghệ sẽ mau khoẻ và tránh được hậu sản.
Cuối cùng, lá gừng là nguyên liệu để tạo màu xanh cho xôi. Các bà, các
chị chỉ cần lấy một nắm lá gừng tươi, giã nhỏ vắt lấy nước cốt. Khi đồ gần chín
xôi, họ cho nước cốt lá gừng vào trộn đều, đậy vung kín đồ tiếp và chừng nửa
tiếng sau , xôi chín có màu xanh lá cây, thơm dậy mùi gừng, mùi nếp rất ngon.
Ngày lễ, Tết, bà con dân tộc Tày thường chế biến món xôi năm màu trang
trí làm cho mâm cỗ thêm hấp dẫn. Để có món xôi màu dẻo thơm, bà con phải
chọn loại gạo nếp thơm, hạt mẩy đều. Còn màu sắc của xôi phụ thuộc vào
nguyên liệu tạo màu.
Xôi ngũ sắc được các mẹ, các chị bày thành đĩa xôi năm màu: trắng, xanh,
vàng, đỏ, tím cẩm trông tựa như bông hoa năm cánh đang khoe sắc. Nó một mùi
thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi
bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và
thơm.
Người xưa quan niệm, xôi ngũ sắc tượng trưng cho ngũ hành: Trắng là
màu của kim, xanh là màu của mộc, đen là màu của thuỷ, đỏ là màu của hỏa,
màu vàng là màu của thổ. Người ta quan niệm rằng sự tồn tại của 5 chất này làm
nên sự tươi tốt của Thiên - Địa - Nhân.
Với người Tày, những ai ăn xôi ngũ sắc trong các ngày lễ, tết thì họ sẽ
gặp nhiều điều may mắn, tốt lành.
Xôi ngũ sắc là niềm tự hào của chị em phụ nữ Tày bởi nó thể hiện sự khéo
léo, đảm đang của họ. Xôi năm màu được chế biến từ những nguyên liệu thiên
nhiên nên ăn rất ngon và bổ dưỡng.
b. Xôi Trám Đen
Xôi trám đen, tiếng dân tộc Tày còn gọi là “Khẩu nua mác bây”, một món
ăn ngon của người dân tộc Tày ở Bắc Kạn. Vào tháng tám, tháng chín âm lịch,
người dân lên rừng hái quả để làm thức ăn.

15
Để nấu xôi, trám được chọn những quả chín mọng, không bị sâu, hái về
ngâm vào nước ấm khoảng 25 đến 30C một lúc, khua tay đảo đều trám trong nồi
đến khi trám mềm ra vớt ra được (chú ý: nếu nước nóng hơn trám sẽ không mềm
mà cứng lại, không ăn được hoặc ăn rất sượng).
Sau khi trám chín, thì đem bóc vỏ đen, lấy phần thịt bỏ hột, rồi trộn với
xôi đã đồ chín đảo thật đều, nhuyễn, xôi có mầu hồng tím là được. Xôi trám đen
có vị bùi thơm của trám, ăn rất đặc trưng, lạ miệng.
c. Xôi trứng kiến (khẩu rày)
Trứng kiến được lấy vào tháng ba âm lịch, Kiến đen thường làm tổ trên
thân nứa, vầu. Tổ kiến to bằng hai ba vốc tay, dễ trông thấy từ xa. Tổ thường
được xây chỗ đốt cây vầu có mắt và chỉa ra cành dăm. Đó là chỗ bám chắc nhất.
Chặt những tổ kiến đem ra chỗ trống. Sau đó cầm dao bổ đôi tổ kiến, gõ
cho trứng rơi xuống mẹt. Dùng khăn mặt ẩm phủ lên mặt rồi kéo qua kéo lại cho
nhũng con kiến chết dính hết vào mặt khăn. Làm cho đến lúc trứng trắng phau.
Mang trứng kiến về sàng sạch, rồi bỏ vào chảo mỡ nóng già rang chín
vàng, trộn gia vị đến khi có mùi thơm thì bắc ra. Gạo nếp cũng được ngâm sau
đó đồ chín và đổ ra mẹt trộn đều với trứng kiến đã chín. Xôi có mùi thơm của
nếp, vị béo ngậy của trứng kiến, màu trắng pha vàng rất đẹp mắt.
d. Bánh Chưng dài (pẻng hó )
Từ xa xưa, bánh chưng đã trở thành vật phẩm không thể thiếu trong ngày
Tết của mỗi gia đình. Với đồng bào Tày Bắc Kạn, món bánh chưng còn thể hiện
nét văn hóa truyền thống độc đáo của người dân vùng cao nơi đây.
Công việc chuẩn bị nguyên liệu và gói bánh đều do các mẹ, các chị đảm
đương. Nguyên liệu chính là gạo nếp phải là khẩu nua lếch hoặc khẩu nua lương
được hái chọn từng bông sau khi thu hoạch mang về treo gác bếp. Đây là những
giống lúa nếp đặc sản của người dân tộc Tày. Đến những ngày cận Tết, bà con
mới mang thóc đi xay xát để gạo được dẻo, thơm.
Nhân bánh chưng gồm có thịt lợn và đỗ xanh. Thịt để gói bánh chưng
được chọn từ miếng thịt ba chỉ ngon nhất của của con lợn Tết đó. Miếng thịt
được thái dài chừng 15cm ướp muối tiêu cho ngấm vị. Phần nhân đỗ xanh cũng
được chuẩn bị hết sức tỷ mỷ. Đỗ nguyên hạt được nghiền vỡ ra, ngâm nước ấm
khoảng 3 tiếng đồng hồ và đãi sạch vỏ, nấu chín rồi rang tơi cho thêm chút gia
vị cho đậm đà. Ngoài ra, những nguyên liệu như lá dong, lá xanh hay lạt giang
được bày bán đầy đủ tại chợ phiên ngày Tết, tuy nhiên một số đồng bào Tày vẫn
tự lên rừng lấy được.
Công đoạn gói bánh chưng dài đòi hỏi sự khéo léo để đảm bảo cho chiếc
bánh vừa đẹp lại ngon. Gạo thường được người dân ngâm trước khi gói. Quá
trình gói phải để hai chiếc lá chéo đầu đuôi, nhân đỗ và thịt ở giữa. Nếu gói quá
chặt tay thì bánh sẽ bị nghẹt nước, nếu gói quá lỏng bánh sẽ bị nhão.

16
Khâu luộc bánh cũng rất quan trọng, lá làm xanh được đặt dưới đáy nồi,
bánh được xếp lên trên. Lửa phải đun nhỏ đều để chiếc bánh được rền. Do chiếc
bánh chưng dài nhỏ hơn bánh vuông nên chỉ luộc khoảng 7 đến 8 tiếng là có thể
vớt ra. Nếu như chiếc bánh vuông sau khi luộc được ép cho ráo nước thì với
người Tày lại có cách bảo quản rất riêng. Sau khi vớt, từng cặp bánh được xâu
vào nhau và treo lên nên có thể giữ bánh được rất lâu.
Với người Tày Bắc Kạn, gói bánh chưng trở thành một phong tục tập
quán văn hóa trong các gia đình mỗi dịp Tết đến xuân về. Chiếc bánh chưng
không chỉ là món ăn mà còn là niềm vui sum họp mang lại không khí gia đình
ấm áp trong những ngày đầu năm mới.
e. Bánh sừng bò (pẻng cóoc mò)
Là đặc sản của người Tày, cooc mò có nghĩa là sừng bò. Cái tên lạ lùng
của bánh bắt nguồn từ hình dáng đặc biệt, có chóp nhọn giống như chiếc sừng
bò.
Nguyên liệu để làm cooc mò được lấy từ những chiếc lá dong xanh mượt,
không bị rách, sâu; gạo nếp phải thật trắng và hạt tròn đều. Người Tày không
dùng sợi dứa được bày bán sẵn mà cẩn thận chẻ từng sợi lạt mềm từ thân cây
giang hoặc cây mỡ sao cho lạt nhỏ đều, dai để khi gói không làm rách lá.
Sau khi vo kỹ, gạo được để ráo, đem trộn đều với muối và chút lạc sống
giã nhỏ. Khi gói, người ta xé lá thành từng miếng vuông bản, cuộn lại thành
hình chiếc phễu rồi đổ gạo nếp vào trong, vỗ nhẹ bên ngoài cho nếp chặt lại, gấp
mép lá và dùng lạt mềm buộc bánh.
Làm bánh cooc mò khá đơn giản so với những loại bánh khác song lại đòi
hỏi sự cẩn trọng đặc biệt trong công đoạn buộc lạt. Khâu này được xem là yếu tố
quyết định chất lượng của cooc mò. Nếu lỏng tay, bánh dễ bị nhiễm nước, trở
nên nhão, nhạt, không ngon trong khi buộc chặt hạt nếp khó có thể nở, bánh bị
sần, không dẻo và mất đi mùi thơm đặc trưng.
Sau khi hoàn thiện, bánh được xâu thành từng cặp hoặc từng chùm nhỏ,
cho vào nồi luộc kỹ khoảng hai tiếng. Lúc này, bánh có màu xanh của lá, vị dẻo,
thơm dịu và bùi bùi của lạc đỏ.
Nếu như bánh chưng chủ yếu được làm dịp tết cổ truyền thì cooc mò của
người Tày được gói quanh năm. Trong dịp đặc biệt như đầy tháng, thôi nôi,
bánh được xem như là món ăn không thể thiếu.
g. Cơm lam (khẩu lam)
Là một món đặc sản của người Tày ở Bắc Kạn. Để làm được ống cơm lam
ngon thì phải chọn loại gạo nếp tốt và ống tre non loại mới mọc vài lá non. Gạo
nếp ngâm trong nước lã khoảng 30 phút rồi bỏ vào ống tre đã cưa một đầu sau
đó lấy lá chuối tươi nút kín miệng ống .

17
Ống tre đó được đặt dựng đứng trên bếp củi đang cháy hồng than, xoay
cho chín đều đến khi vỏ ngoài cháy xém là được. Khi cơm chín, chẻ bỏ lớp cháy
đen bên ngoài ống cơm thật khéo léo cho đến khi bao bọc phần ruột cơm chỉ là
một lớp lạt tre mỏng.
Cơm lam là món ăn nguội, khi ăn tước lớp vỏ ngoài sẽ được phần cơm có
một lớp màng tre bao quanh có mùi vị thơm, dẻo.
Cơm lam được dọn ra ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn rừng nướng (những
thứ thịt này cũng được nướng trong ống tre). Tuy nhiên, cơm lam ngon nhất khi
ăn với muối vừng (mè).
Cái ngon của cơm lam là giữ được hầu như trọn vẹn hương vị tự nhiên
không chỉ làm ngon miệng lúc đói mà còn thắm đượm tình nghĩa anh em, thôn
bản.
h. Khấu nhục (nằm khau)
Khấu nhục là món ăn chế biến khá đơn giản nhưng được nhiều người
khen ngợi và ưa thích. Thời gian để làm món ăn này cũng tương đối ít, có thể
đáp ứng kịp thời khi có nhiều khách ăn. Thành phần của khấu nhục bao gồm:
phước hác (khoai sọ), thịt lợn ba chỉ, gia vị, dấm chua, mỡ lợn,…. Chọn đúng
khoai sọ của vùng núi Bắc Kạn loại củ to 400 – 500 gram, gọt sạch vỏ rồi thái
thành miếng nhỏ. Mỗi miếng dày khoảng một cm, chiều dài 5 cm, chiều rộng 3
cm. Lấy thịt ba chỉ của con lợn càng to càng tốt, cạo sạch lông, cắt cả bì thành
từng miếng 10*15 cm, bỏ vào nồi luộc cho chín tới. Sau đó vớt thịt ra chậu hoặc
thau sạch, rồi dùng que nhỏ vót nhọn chọc thủng phần bì thành nhiều lỗ, bỏ
thêm dấm chua hoà với nước gừng và ít muối cùng gia vị, đảo cho đều để thịt
ngấm đều nước gừng và dấm. Tiếp đó bắc chảo lên bếp, bỏ mỡ lợn vào đun cho
mỡ sôi lên rồi cho dần từng miếng thịt vào chảo. Để lửa cháy vừa phải, cứ tiếp
tục đun như vậy và dùng que nhọn chọc lật đều từng miếng cho tới khi nào phần
bì các miếng phồng rộp lên vàng ươm, phần nạc chín sậm thì vớt lên. Từng
miếng thịt to lại được thái tiếp lần nữa, thành khoảng 5 – 6 miếng nhỏ dài. Sau
đó xếp vào trong chõ gỗ, cứ hai miếng khoai xếp kẹp một miếng thịt vào giữa.
Xếp xong rồi đậy kín vung, đem bắc lên bếp lửa, để cho tới khi nào cả khoai và
thịt cùng dậy mùi thơm nức quyến rũ thì bỏ ra bày lên đĩa. Khi ăn món khấu
nhục, mỗi lần gắp thì gắp cùng hai miếng khoai kẹp một miếng thịt. Có thể
chấm với nước mắm, xì dầu nhưng thường là nước tương đã phơi sương nhiều
đêm. Khấu nhục là món ăn của người Tày đã nổi tiếng từ xưa, không thể thiếu
trong cỗ cưới. Khấu nhục được làm tương đối đơn giản, không cầu kì nhưng lại
ngon. Đối với món khấu nhục, khi được đồ ở trên bếp, cứ hai miếng khoai có
một miếng thịt kẹp vào giữa nên khoai sẽ hút nước ngon của thịt còn thịt sẽ hút
mùi thơm của khoai. Do sự hấp thụ hương vị lẫn nhau của khoai và thịt ở trong
một độ nóng rất cao đều khắp chõ nên cả khoai và thịt đề mềm và thơm. Khi bày
lên mâm vẫn để nguyên khoai kẹp thịt như vậy, người ăn cảm thấy rất ngon và
ăn không hề biết chán. Hiện nay món khấu nhục của người Tày rất được ưa
chuộng trong cỗ cưới và tại một số nhà hàng ở các tỉnh vùng cao và cả các thành
phố lớn.
18
4. Phương tiện vận chuyển.
Ở vùng người Tày, khu vực miền núi phía Bắc, trong khoảng thời gian
chúng ta đang đề cập, phương tiện vận chuyển của các cư dân này chủ yếu là:
dậu, xoỏng, cuôi,…dùng để gánh. Trong đó dậu dùng để gánh thóc, xoỏng dùng
để gánh ngô, cuôi dùng để gánh phân ra ruộng. Tùy nơi mà dậu, xoỏng, cuôi,…
được làm quai ngắn hay dài, hoặc cho vào quang để gánh. Những nơi gần sông,
suối họ vận chuyển, đi lại bằng thuyền hoặc dùng mảng. Một vài nơi hẻo lánh,
họ cũng dùng ngựa để thồ hàng và đi lại.
Công cụ sản xuất chủ yếu: Cày (Thây hay tháy), bừa (phưa hay pưa),
mai (lúa), cuốc, bai, thuổng, dao( pjạ), rìu (khoan), nhíp (hép)...Các gia đình tự
tạo lấy phần cán, phần sắt mua của những người thợ rèn trong vùng. Chiếc bừa
của người Tày ở Bắc Kạn thường là bừa đôi. Một số gia đình có làm bừa đơn
nhưng chủ yếu chỉ để dùng ở những mảnh ruộng chằm khi bừa đôi khó sử dụng.
Mỗi gia đình thường nuôi nhiều gia súc như trâu, ngựa, lợn. Trâu thường
để cày, bừa, kéo gỗ; ngựa vừa là phương tiện đi lại, vừa để vận chuyển hàng hóa
ở những vùng đi lại khó khăn.
5. Nhạc cụ
Nhạc cụ của người Tày không được nhiều:
- Thuộc loại đàn dây thì chỉ có đàn tính, một vài có đàn nhị và đàn bầu.
- Thuộc bộ gõ đánh có thanh la, não bạt, trống, chuông.
- Thuộc bộ thổi băng hơi có sáo, pi lè, tiêu kèn và đôi khi có cả nhạc sóc
nưa.
IV. Văn hóa phi vật thể.
Văn hoá phi vật thể được hiểu là tổng thể các sản phẩm văn hoá
do con ngừoi sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức về tình
thần của con người.
1. Ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ của dân tộc Tày thuộc hệ ngôn ngữ Tày – Thái, ngữ hệ Thái –
Kadai ( có tới 12 dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ này và chia làm bao nhóm: Tày –
Nùng, Thái, Kadai). Trong ba nhóm này, nhóm Tày – Nùng có dân số đông hơn
cả, ngót 3 triệu người. Tiếng Tày cùng tiếng Nùng không chỉ là tiếng nói của
riêng dân tộc Tày và Nùng mà từ lâu tiếng nói của hai dân tộc này đã được coi là
tiếng nói của vùng Đông Bắc Việt Nam.
- Tiếng nói: đa số người Tày nói tiếng Tày ( một tiếng đơn âm dễ học, dễ
nhớ), không chỉ nói tiếng Tày người Tày còn sử dụng tiếng Mông, tiếng Dao,
tiếng Giáy,…

19
- Chữ viết: Trước đây, người Tày sử dụng chữ Hán, sau đó là chữ Nôm
( được người Tày và người Nùng sử dụng chung), chữ Tày Latin, kinh Latin
( khi thực dân Pháp xâm lược). Nhưng chữ Tày Latin trở thành chữ viết chính vì
dễ đọc, dễ viết, dễ phổ cập
Hiện nay, ngôn ngữ người Tày đang bị tiếng Kinh dần lấn át.
2. Tín ngưỡng.
Tín ngưỡng là niềm tin của con người trước các lực lượng siêu nhiên xuất
hiện ở giai đoạn tiền văn minh nhưng vẫn còn tồn tại trong một số cộng đồng xã
hội văn minh, được bảo lưu, gìn giữ và phát triển trong các thành tố dân gian.
Tín ngưỡng thường mang tính chất địa phương cụ thể.
Người Tày không theo tôn giáo nào và cũng như nhiều dân tộc khác ở
nước ta, người Tày tin vào tôn giáo đa thần, tin vào vạn vật hữu linh, coi mọi vật
đều có linh hồn, con người cũng có linh hồn như mọi vật.
Tiêu biểu nhất trong tôn giáo tín ngưỡng của người Tày là thờ cúng tổ
tiên. Thờ cúng tổ tiênxuất phát từ quan niệm con người có linh hồn, cho nên
người Tày thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên được tính theo dòng bố, đây là sự khẳng
định tính phụ hệ, phụ quyền của quan hệ xã hội tồn tại trong người Tày. Tổ tiên
được thờ cúng ngay trong nhà trên một bàn thờ đẹp đặt ở nơi sang trọng nhất
trong nhà. Người Tày thờ tổ tiên 4 đời là: bố mẹ, ông bà, cụ, kỵ. Người ta cúng
tổ tiên vào các dịp lễ Tết, các dịp cưới xin, ma chay, vào nhà mới. Ngoài ra,
hàng tháng chủ nhà phải thắp hương, dâng chè, rượu, vàng mã, hoa lên bàn thờ
tổ tiên để thể hiện sự kính trọng đối với tổ tiên.
Một tín ngưỡng nữa rất gần gũi với người Tày là thờ thần Bếp.Do đặc
điểm cư trú ở vùng rừng núi, khí hậu lạnh, lại sẵn củi nên bếp của người Tày
quanh năm không bao giờ tắt lửa. Họ cho rằng bếp không có lửa thì sẽ không
gặp điều lành.
Người Tày quan niệm ông Táo không chỉ là thần Bếp mà còn là vị thần
bảovệ người và gia súc trong gia đình.Nơi thờ Táo quân rất đơngiản,chỉ là một
ống tre được dán giấy đỏ làm ống hương. Nếu khi gia đình có người đau, ốm
haygia súc bị bệnh, mất trộm thì sẽ làm lễ cúng thần bếp để xin phù hộ.
Hàng năm cứ ngày 30 tháng chạp âm lịch người Tày lại làm lễ tiễn Táo
quân về trời.
Trong phạm vi bản thôn người Tày còn thờ thần thổ công, thổ địa, thờ các
vị thần thánh trong vùng.
Thổ công là vị thần bảo lãnh làng bản, mùa màng, hàng năm được cúng 2
lần vào dịp Tết nguyên đán, ngoài ra mỗi bản có một đình, thờ đủ các thần
thánh,... người ta tổ chức cúng ở đình sau khi đã cày cấy xong, tất cả các gia
đình đều phải đến và đóng góp gạo, rượu, tiền để mua lễ vật,..
Ngoài ra người Tày còn có tín ngưỡng thờ mẹ. Tín ngưỡng thờ mẹ của
người Tày bắt nguồn từ truyền thống coi trọng mẹ sinh sản, tôn trọng mẹ sinh
sản. Nữ thần trông coi việc sinh sản được gọi là Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa).
20
Với hệ thống tín ngưỡng như vậy đã sản sinh ra đủ các loại bói toán,cầu
cúng... hàng ngũ người làm nghề cúng bái ngày càng đông khi Tam giáo thâm
nhập ngày càng sâu rộng vào xã hội Tày. Tam giáo là những tôn giáo của xã hội
có giai cấp, gồm có: Đạo giáo, Phật giáo và Khổng giáo.
3. Tôn giáo.
Hầu hết các tộc người thuộc nhóm Tày-Thái đều không theo tôn giáo nào
chính thống mà họ chịu ảnh hưởng bởi Tam giáo: Phật giáo,Đạo giáo và Khổng
giáo.
Trong tôn giáo của người Tày, ngày 3/3 âm lịch là ngày tảo mộ, ngày lễ
quan trọng nhất.
Là cư dân nông nghiệp, sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên đồng bào tin
vào thuyết vạn vật hữu linh.
Trong các làng bản của đồng bào có một tầng lớp người gọi chung là:
“Thầy” (Mo, Then,Tào,Pụt).
Các tộc người Tày, Nùng, Sán Chay cho rằng: Cả 4 chức sắc tâm linh
Tào, Mo, Then, Pựt đều là con cháu của Ngọc Hoàng Thượng Đế được giao đi
cứu nhân độ thế, trị bệnh cứu người.
4. Lễ hội.
4.1. Lễ Tết.
4.1.1. Tết Nguyên Đán.
Giống như người Kinh, người Tày cũng coi Tết Nguyên Đán là cái tết lớn
nhất trong năm.
Người Tày làm bánh chưng dài. Ngày 27 hay 28 các gia đình đã thịt lợn,
gói bánh,....Trước và trong ngày tết bàn thờ được lau chùi, trang hoàng dán giấy
đỏ.
Vào ngày 30 Tết, người Tày cất tất cả những đồ dùng như dao,
dựa,cày,bừa,...vào một nơi rồi làm lễ cúng cho chúng nghỉ ngơi ăn Tết, vì theo
đồng bào nơi đây những vật dụng đó đã gắn bó cùng con người suốt một năm
lao động vất vả nên chúng cũng phải được nghỉ ngơi ăn tết.Mọi sự thăm thú kết
thúc trước 12h đêm 30,sau đó ai về nhà nấy.
Vào sáng ngày mùng 1, người Tày kiêng có bất kì người bất kì vào nhà.
Họ chọn mời người xông nhà là người có đạo đức trong bản, người có phúc lớn,
kị nhất là người có tang hoặc bị ma gà ám.
Sau ngày mùng 1 Tết dân bản tổ chức cúng bái ở đình,miếu, tổ chức nhiều
hội vui xuân và các trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, đẩy gậy, kéo co,...
Trước đây người Tày thường ăn tết kéo dài đến hết ngày 15 tháng giêng.
4.1.2. Tết Đoan Ngọ.

21
Ngày tết thứ 2 của người Tày là Tết Đoan Ngọ diễn ra vào ngày 5 tháng
5.Đây là ngày Tết vì sự đe doạ thường xuyên của bệnh tật và chết chóc.Đây
cũng là ngày các thầy lang lên rừng lấy cây làm thuốc chữa bệnh cho con người.
Lễ vật dâng lên tổ tiên và các thần linh gồm có xôi, bánh giày, thịt gà, thịt lợn,
hoa quả...
4.1.3. Tết cốm.
Ngày Tết thứ 3 của người Tày là Tết Cốm mừng trăng hay còn gọi là hội
Cốm, là lễ hội truyền thống sau mỗi vụ thu hoạch lúa, thể hiện sự biết ơn của
dân bản với đất trời đã cho mùa màng tốt tươi,cuộc sống ấm no hạnh phúc;
khẳng định trình độ sản xuất của người dân,không chịu khuất phục trước thiên
tai,dịch hoạ để có cây lúa trĩu bông,thóc lúa đầy bồ.
Thời gian tổ chức vào dịp thán9,tháng 10 ÂL hàng năm, khi lúa nếp cái đã
chắc hạt, gia đình trưởng họ xem ngày lành,nhờ các chị em trong dòng họ nhặt
lúa thành từng cum,đem buộc thành từng túm nhỏ, đào lò, đan 1 miếng phên
vuông đậy lên miệng lò, chất củi đổ tồi hơ cho lúa chín để nguội rồi đem giã
thành hạt cốm thơm ngon để tế Ngọc Hoàng và các thần linh.
Không chỉ thế, đây còn là dịp để các đôi trai làng,gái bản đua sức,đua tài
tìm kiếm tình duyên. Có thể nói, hội Cốm là lễ hội thể hiện sức sống, tinh thần
của người dân tộc Tày mang lại cho du khách cũng như người dân bản địa một
không khí thiêng liêng, những âm thanh chuyển điệu giã gạo rộn rã làm xốn
xang lòng người,tạo nên một nét đặc sắc của riêng 1 lễ hội đã có từ lâu đời.
4.2. Lễ hội lồng tổng.
Thường gọi là hội xuống đồng, là một lễ hội của người đồng bào dân tộc
Tày. Được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa, cây cối
tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Nơi tổ chức tại những ruộng tốt
nhất, to nhất.
Thời gian tổ chức :hội lồng tổng được ấn định vào một ngày nhất định
trong khoảng từ mồng hai Tết cho đến hết tháng giêng, có một vài nơi người ta
tổ chức vào ngoài rằm.
Đầu tiên người ta lên rừng chọn cây mai to nhất, cao nhất khóm. Phải là
cây mai còn non và vừa mới rụng hết mo, trên ngọn bắt đầu nhú ra vài cành lá
đầu tiên. Dùng búa sắc chặt sát mặt đất, lấy từ gốc đến ngọn. Cây mai to và dài
hàng chục mét nên phải cần đến mấy thanh niên khoẻ mạnh mới khiêng nổi. Sau
khi đã đem được cây mai về bản thì người ta bắt đầu dụng cột còn. Phần ngọn
mai sẽ được quán thành vòng tròn to khoảng một mét. Lấy giấy trắng dán kín
vòng tròn đó, điểm một cái tâm đỏ ở giữa rồi dựng thẳng lên. Phần gốc mai thì
chôn chặt xuống dưới đất. Còn các gia đình ở trong bản sẽ tự nguyện đóng góp
mỗi nhà từ ba đến năm quả còn. Chị em phụ nữ sẽ rất vui vẻ khi được khâu
những quả còn để khách đến dự hội tung lên bầu trời của bản mình những quả
còn mùa xuân. Vì vậy, ai ai cũng đều cố gắng thêu những quả còn thật đẹp.
Những quả còn nhồi bằng hột bông hay cát trắng đều được đính lên vô số những
tua xanh, đỏ, tím, vàng,….
22
Đàn bà thì khâu còn, còn đàn ông thì bổ tre làm giàn để cúng trời đất. Khi
mọi người đã chuẩn bị mọi thứ xong xuôi, từng hồi trống sẽ vang lên, tất cả mọi
người đang ở trên sàn cùng ùa xuống xem, lúc đó cỗ cúng mới được bày ra. Cỗ
cúng trời đất là một con lợn quay móc hàm khoảng 40 cân, hai con gà luộc, xôi,
rượu, bánh, hoa, quả,…. Trưởng bản trong bộ lễ phục của ngày hội sẽ thay mặt
cả bản cúng cáo với trời đất ước vọng trong năm mới của dân làng. Nội dung
của khấn là: cầu mong cho năm mới mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, mọi
người khoẻ mạnh, cây trồng tốt tươi, vật nuôi không bị dịch bệnh. Lời khấn
cũng có thể thay đổi, tuỳ theo các sự kiện công việc trong năm xảy ra ở trong
bản mà thêm bớt cho phù hợp.
Sau khi cúng trời đất, thần linh xong, thì đến phần vui chơi. Các nam
thanh nữ tú thi nhau tung của còn lên trên cao. Ai là người tung quà còn trúng
giữa vòng tròn đỏ ở trên đỉnh cột thì sẽ nhận được phần thưởng. Phần thưởng
đơn giản chủ yếu mang tính tượng trưng: một con quắm, một cái búa, một cái
cuốc, một cái lưỡi cày hoặc cũng có thể là tiền những thứ đó tuy giá trị vật chất
không cao nhưng người được nhận thì vô cùng phấn khởi vì ai được nhận phần
thưởng thì sẽ may mắn suốt cả năm. Phần thưởng có ý nghĩa như vậy có nên ai
cũng khát khao, người được nhận rất hãnh diện với hi vọng rằng năm mới sẽ có
bao điều tốt đẹp.
Trong ngày hội Lồng Tổng không chỉ có tung còn mà còn có các trò
chơi khác nhau như đánh yến, đánh quay, leo cột mỡ, tưới hang vài (đi trên đuôi
trâu – đi trên cây mai nằm ngang một đầu đóng xuống đất), bịp mắt đánh trống,
thi bắn nỏ, thi bắn bia súng kíp, đấu bóng chuyền , đi xe đạp đốt pháo,… Riêng
hội Lồng Tổng ở Ba Bể còn có thêm đua thuyền độc mộc, chèo chuyền độc mộc
bắt vịt, xem chọi bò,…. Mỗi trò chơi đề có phần thưởng dành cho người thắng
cuộc. Hội Lồng Tổng thường kéo dài trong một ngày, với mục đích là để cầu
mùa màng bội thu, năm sau tốt hơn năm trước. Lễ hội Lồng Tổng còn là dịp để
các chàng trai cô gái tìm hiểu nhau. Buổi chiều sau khi tan hội, từng tốp nam nữ
thanh niên sẽ kéo nhau dạt vào sau các góc rừng cùng hát lượn nàng ơi. Đến lúc
mặt trời đã ngả về Tây nhưng bên nam bên nữ vẫn còn hát đối đáp với nhau
không dứt. Cũng có những lần các trai gái say sưa hát với nhau sang tận cả ngày
hôm sau.
4.3. Hội nàng Hai.
Lễ hội Nàng Hai là lễ hội dân gian đậm màu sắc tâm linh, thể hiện nét
sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc của dân tộc Tày.Mang tính diễn xướng
tổng hợp - có các bài lượn và bài cúng tế được hát trong suốt quá trình lễ hội.
Lễ hội Nàng Hai hay được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu trong phạm
vi một xã hoặc nhiều xã dưới nhiều tên gọi như: Hội Trăng, hội mời Nàng Hai
(mời Nàng Trăng),... Lễ hội này được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau.
Dù là tên gọi hay hình thức tổ chức nào, lễ hội này thực chất đều mang ý nghĩa
mời nàng Hai về ban mùa màng và hạnh phúc cho dân bản .

23
Ở hội Nàng Hai, người chủ trì việc cúng tế lễ trình báo, xin phép mở hội
bằng hính thức âm dương, đồng thời tạ ơn các thần đã phù hộ cho một năm gieo
trồng được thuận lợi, mưa thuận gió hòa. Sau khi thực hiện xong nghi lễ trình
báo các thần, người ta tiến hành hàng loạt nghi lễ liên quan đến việc cầu phúc,
cầu mùa
Lễ hội được mở, người ta chọn một bà mẹ có cuộc sống gia đình hoàn
thiện, hát giỏi để làm Mẹ Trăng.
Dân bản dựng một cái lều, gọi là Lều trăng (Thiêng hai). Lều được lợp
rơm, trước lều có các sào treo hoa rừng, bên trong lều có mấy tấm phản dùng
làm chỗ ngồi cho Mẹ Trăng và các Nàng Trăng khi làm lễ.Đây là 1 hiện tượng
sa man giáo phổ biến bắt nguồn từ tín ngưỡng nguyên thuỷ. Sau lễ nhập hồn,
việc hành lễ đón trăng bắt đầu.
Sau lễ đón trăng là lễ cúng Mẹ Trăng. Lễ này diễn ra trong mười hai đêm,
mỗi đêm cúng mời một Mẹ Trăng xuống giúp cho dân bản làm ăn. Lễ cúng
được miêu tả là cuộc hành trình các Nàng Trăng lên trời đến các cửa của các Mẹ
Trăng như cửa mẹ Lạn Ba, mẹ Khắc Cơ, mẹ Bích Lam, mẹ Bích Vân, mẹ
Lưỡng Tàm, mẹ Mạ Mỳ...
Sau khi đã cầu hết các cửa, xin các mẹ được đầy đủ các giống cây, con,
các điều kiện mưa thuận gió hòa cho việc trồng trọt, chăn nuôi ở trần gian thì
dân bản lại tổ chức đưa tiễn Mẹ Trăng về trời.
Sau lễ Trụ trại, Mẹ Trăng và các Nàng Trăng ra cầu thần trông coi đầu
bản và cuối bản mở cửa cho về trời. Trong lễ tiễn trăng này, thầy Tào làm phép
tách vía cho Mẹ Trăng và các Nàng Trăng, gọi hồn vía người ở trần gian nhập
lại vào thân xác để trở về làm người trần. Hội Nàng Hai ngân nga với làn điệu
dân ca "lượn hai" có sức lôi cuốn con người ta đến lạ kỳ. Nó vừa thể hiện tín
ngưỡng dân tộc – tín ngưỡng thờ mẹ, vừa phản ánh nguyện vọng của dân tộc
Tày nói riêng và các dân tộc miền núi nói chung trong sự sinh tồn, trong bối
cảnh nông thôn miền núi.
4.4 Lễ lẩu then
Lễ lẩu then, hay còn gọi là lẩu pựt là loại nghi lễ mang tính chất tôn giáo,
được những người làm then, làm pựt tổ chức. Với ý nghĩa mang lễ vật đi tiến
cống ngọc hoàng, theo thông lệ hàng năm khi gia đình nào có người ốm đau
hay cầu yên,giải hạn thì sẽ mời bà then cúng để chữa bệnh,giải hạn. Thường gọi
là tiểu lễ hay cấp sắc gọi là đại lễ.
Ở nhiều nơi lễ lẩu then do bà then chủ trì thường kéo dài suốt đêm.Bà
then thường là nữ,họ là những nghệ nhân vừa hát vừa đàn.

24
Trang phục then gồm áo,mũ làm then và giày then màu đỏ hoặc xanh. Bộ
đồ làm then gồm dấu ần, chuông đồng, nhạc sóc,quạt giấy,túi sóc,khăn đệm, đàn
tính và nhiều nghi trượng như cây bông,cây thuốc,cây chuối, cầu âm dương, nhà
long đình,nhà hạn…Tất cả tạo nên không khí 1 thế giới như trong tưởng tượng
của con người. Trong cuộc lễ, gần 5000 câu thơ đựợc diễn xướng theo hơn 30
chương đoạn, với nội dung thể hiện những chặng đường khổ ải, gian truân mà
đoàn quân then phải đi qua.Có thể nói,thế giới quan và nhân sinh quan của
người Tày đã phần nào phản ánh được mối quan hệ xã hội cũng như cuộc sống
tinh thần, tình cảm của họ. Đây là hình thức sinh hoạt dân gian, thể hiện qua
nghệ thuật biểu diễn tổng hợp, gồm cả thơ ca, múa, nhạc vô cùng lôi cuốn và
hấp dẫn.
4.5. Lễ hội Oóc Pò.
Hay còn gọi là lễ hội ra đồng , là 1 sinh hoạt văn hóa, giúp cho người dân
vui chơi thoải mái về tư tưởng, cầu cho con cái khỏe mạnh,chăm ngoan,học giỏi,
cầu cho cái xấu,cái ác ra khỏi nhà, cái may,hạnh phúc luôn vào nhà, cầu cho
mùa màng bội thu,cây cối tốt tươi, chăn nuôi phát triển.
Thời gian tổ chức là vào đầu năm, ngày rộng tháng dài để dân bản có dịp
hàn huyên trong ngày đầu xuân mới.
Lễ hội được tổ chức thành 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ tổ chức
trong hội trường hay trong đình, gồm có các mâm xôi, thịt, hương hoa để các già
làng và thầy mo, thầy tào khấn vái. Phần hội tổ chức ở ngoài sân làng hay trên
các bãi rộng. Phụ nữ thì thi nhau thêu thùa, làm các mặt hàng thủ công, mỹ
nghệ. Nam giới thì làm ná (nỏ), vót tên, làm bẫy bắt thú rừng. Tất cả tạo nên
không khí vui tươi, sôi nổi. Đàn ông mặc áo chàm đen, phụ nữ mặc váy áo
chàm, quàng khăn đen hoặc khăn chàm, cổ đeo vòng bạc duyên dáng. Mở đầu
cho khai hội là múa lân, tung còn. Cây còn làm cao 12 mét thể hiện 12 tháng
trong năm. Về khuya, các đôi nam nữ tìm hiểu nhau, trao cho nhau chiếc khăn
tay, hay chiếc túi thổ cẩm thể hiện vật kỷ niệm đính ước tình yêu. Tan canh họ
mời nhau ly rượu dã bạn gửi anh một chén rượu đi đường, cũng là gửi lời
thương lời nhớhẹn đến lễ hội năm sau.
5. Văn hoá dân gian.
Người Tày có kho tàng văn nghệ dân gian phong phú về thể loại và hình
thức: truyện thần thoại, cổ tích, làn điệu dân ca. Nhưng nổi tiếng và tiêu biểu
nhất cho nền văn nghệ người Tày là lượn và then.
- Lượn là làn điệu dân ca mang nét đặc trưng của người Tày, có lời bài hát
cùng làn điệu được sử dụng nhiều trong hát giao duyên giữa nam và nữ thanh
niên trong dịp gặp nhau ở chợ phiên, đán cưới, hội xuân,… Lượn còn được sử
dụng khi khách đến nhà, uống rượu,… để thể hiện lòng mến khách.
- Then là một loại hình văn nghệ dân gian được cả hai dân tộc Tày và
Nùng yêu thích. Then không chỉ có lời bài hát cùng làn điệu mà còn có cả âm
nhạc với nhạc cụ là cây đàn tính và bộ nhạc Sóc.

25
Then là một trường ca thần thoại cho thấy cuộc hành trình của con người
từ trần thế đi lên thiên đường rất hùng tráng nhưng cũng đầy bi ai. Then là một
loại hình diễn xướng dân gian mang phong cách bác học. Hát then có thể dài
một đêm hoặc mấy ngày đêm tuỳ theo sự sắp xếp của gia chủ. Then không chỉ
có lời hát cùng làn điệu mà còn có âm nhạc với nhạc cụ là cây tính với bộ nhạc
sóc, nói đến then người ta nghĩ ngay đến “khảm hải” (vượt biển).
Về văn học dân gian người Tày có nền văn học dân gian phong phú bởi
những tảng đá, gốc cây, ngọn cỏ, con suối,…. ở cùng địa bàn người Tày sinh
sống đều gắn với những câu chuyện cổ tích, huyền thoại ly kì. Văn học dân gian
của người Tày giống như các vỉa trầm tích đã được hội tụ hàng ngàn năm.
Thể loại phong phú nhất là truyện cổ tích, sau đó là truyền thuyết, truyện
cười và truyện ngụ ngôn. Đặc biệt là trải qua hàng ngàn năm lịch sử chiến đấu
chống thế lực xâm lấn đến phương Bắc đã làm cho các lớp huyền thoại ngày
càng được nhân lên gấp bội. Người Tày có kho tàng truyện thần thoại giải thích
về nguồn gốc của vũ trụ và nguồn gốc loài người hấp dẫn không kém gì nhiều
nên thần thoại nổi tiếng nhưng đến nay sưu tầm chưa được nhiều.

6. Kiêng kị
Khi chọn vợ cho con người ta lưu ý đặc biệt tới dòng họ và gia đình cô
gái. Lưu ý: dòng họ và gia đình (một đây không chỉ đơn thuần là môn đăng hộ
đối mà còn xem là dòng họ và gia đình có“sạch sẽ” hay không. Sạch sẽ ở đây có
ý nói là không có tiếng ma gà. Ma gà tuy là vấn đề cực kì nhảm nhí dị đoan
nhưng nó đã trở thành tiềm thức sâu sắc của đồng bào. Khi thấm cha xem xét,
dù cô gái có nhan sắc, có đầy đủ mọi đức tính tốt đẹp rất có là một con dâu hiền
thảo nhưng nếu thuộc dòng họ hay gia đình lại nghi là có ma gà thì người ta sẽ
bỏ qua đối tượng ngay vì nếu cưới cô dâu có ma gà thì sau này đứa con cái sinh
ra sẽ trở thành người có ma gà và sẽ gặp nhiều khó khăn tủi nhục trong việc giai
du bạn bè với cưới hỏi gả bán. Những cô gái nghi vấn có ma gà có thể gả cho
chàng trai cũng bị dư luận ném oan cho cái tiếng ma gà. Những chàng trai thuộc
dòng họ có tiếng ma gà sẽ không dễ dàng cưới hỏi được các cô gái sạch sẽ.
Đối với những người chết “bất đắc kì tử” người ta thường làm một cái
quan để quấn quan tài bà làm ma ở ngoài nhà. Nếu làm ma trong nhà, gia đình
phải dỡ ván sàn rồi đưa thi hài từ dưới gầm sàn lên.
Người đang có thai hoặc sinh nở mà chết, các nghi thức tiến hành bình
thường, nhưng an táng riêng một nơi, cạnh mộ trồng một cây chuối và rào quanh
mộ thật đẹp. Vợ chồng chưa có con, chết thì thi hài quan tại nhà một ngày, chôn
ở khu nghĩa địa tổ, ở những vị trí thấp hơn.

26
Trẻ em chết thì gói chiếu mang chôn ở một nơi kín đáo cách xa nhà.
Cũng có khi người ta gói đứa trẻ cho vào giỏ, trên càng cây hoặc thả xuống vực.
Sau mai táng, cần làm một số việc: tại nhà ở, người ta lập bàn thờ riêng cho
người chết bàn thờ này thường đặt gần nơi người chết vẫn ngủ hàng ngày cơm
cúng cho người chết hai nữa cho đến khi hết tang ( 100 ngày). Trong thời gian
để tang, con cái phải thường xuyên đeo khăn tang trắng trên đầu, phải kiêng một
số việc như: trong ngày tết năm mới không được đến nhà khác chơi, thăm hỏi,
không dự cưới xin, không làm nhà mới, không giao du bạn mường, không săn
bắn, kiêng chuyện phòng the, kiêng làm bún, ăn bún, kiếng ăn quả nhãn,…
V. Văn hoá xã hội.
1. Thiết chế làng bản.
Người Tày chủ yếu sống trong các bản ven đường, cạnh sống,
suối hay các thung lũng. Bản là đơn vị cơ bản của họ. Các gia đình
trong bản với các thành viên của mình hợp thành một cộng đồng dân
cưcó tổ chức nhất định. Bản của người Tày được cấu thành từ những
gia đình phụ quyền thuộc các dòng họ khác nhau. Tuỳ theo mức độ
nhiều độ nhiều ít của ruộng đất mà bản có quy mô lớn hay nhỏ. Những
bản nhỏ nhất chỉ có 2 hoặc 3 nhà, còn những bản trên 30 nhà được coi
là bản lớn. Bản có tên gọi. Tên gọi của bản thường được gọi theo tên
núi, tên sông,…
Những bản to được chia thành Còn – Xóm, như dân tộc Kinh.
Còn là một nhóm nhà nằm trong một khu vực nhất định so với vị trí
trung tâm của bản. Ví dụ: Còn tẩu là xóm dưới, còn nưa là xóm trên,
…. Ở vùng biên giới, nhiều bản trồng luỹ tre bao quanh, có bản xây
tường đá quanh bản trên tường đã có lỗ châu mai, có cổng trước, cổng
sau, làm thành bản – phái đài để phòng chống kẻ cướp.
2. Tổ chức gia đình, dòng họ.

27
Đồng bào Tày thường gọi “gia đình” đồng nghĩa với “rườn”
(nhà), “tu rườn” (nhà cửa). Chắc chắn rằng đã từ lâu, gia đình nhỏ phụ
quyền là loại hình gia đình chủ yếu, phổ biến rộng rãi ở hầu khắp các
vùng cư trú của người Tày. Tài liệu dân tộc học cho thấy phổ biến là
tiểu gia đình hai thế hệ, bao gồm một cặp vợ chồng cùng con cái chưa
xây dựng gia đình. Tiếp theo là tiểu gia đình gồm một cặp vợ chồng
cùng con cái và bố mẹ chồng hoặc một trong hai người đó. Cũng gặp
thấy những gia đình có thêm cả các em trai chưa vợ, các em gái chưa
chồng, những người anh em họ hàng. Đáng chú ý là ở một số vùng
Tày, trong tiểu gia đình có cả các cô gái đã cưới chồng nhưng sau khi
cưới vẫn trở lại sống chung với bố mẹ cho tới khi sắp sinh con đầu
lòng thậm chí ở lâu tới hàng chục năm.
Mỗi tiểu gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập, có tài sản riêng,
tiêu dùng riêng. Chủ gia đình “chẩu rườn” là người cha, người chồng.
Chẩu rườn làm chủ toàn bộ tài sản có quyền quyết định tất thảy mọi
công việc trong nhà, điều khiển mọi công việc sản xuất, tổ chức sinh
hoạt, có trách nhiệm cúng bái và là người thay mặt gia đình giải quyết
những vấn đề liên quan với bên ngoài. Uy tín của chẩu rườn phụ thuộc
vào chỗ ông ta sử dụng quyền hành của mình như thế nào, thái độ đối
xử với các thành viên ra sao và khả năng biết duy trì nề nếp, sự hoà
thuận trong gia đình, với anh em họ hàng, với bản làng. Khi xem xét
giải quyết những công việc quan trọng, chẩu rườn thường bàn bạc với
vợ con nhưng quyết định thuộc về chẩu rườn.
Trong tổ chức sản xuất cũng như trong sinh hoạt hàng ngày, gia
đình tuân thủ sự phân công lao động theo giới. Điều này phần nào
được phản ánh qua câu thăm hỏi sản phụ ở người Tày: “túc pja su
kếp” (đánh cá hay hái rau) hoặc “cặm bứt rụ khêm mây” ( cầm bút hay
kim chỉ thay cho câu hỏi con trai hay con gái). Trong gia đình các
công việc khác nhau do các thành viên thực hiện theo sự phân công
của chẩu rườn phù hợp với sức khoẻ và khả năng của từng người.
Đàn ông chủ yếu đảm đương những công việc nặng nhọc như: càu,
bừa, phát nương, làm nhà cửa, chuồng trại gia súc, công cụ sản xuất,
… Phụ nữ làm những việc đỡ nặng nhọc hơn như: cấy hái, làm cỏ, bỏ
phân, kiếm củi, chăm lo việc nội trợ, nuôi dạy con cái, kéo sợi, dệt
vải.

28
Đặc điểm tiêu biểu của gia đình người Tày là chế độ gia trưởng
phụ quyền đã chi phối từ lâu đời, phản ánh rõ nét trong đời sống hàng
ngày trên mọi lĩnh vực. Tính chất phụ quyềnkhông chỉ biểu hiện qua
vai trò của người bố, người chồng là người quyết định mọi công việc
trong nhà, mà còn biểu hiện rõ rệt trong việc phân chia tài sản – chỉ
con trai mới có quyền thừa kế. Tài sản để phân chia gồm có ruộng,
trâu, bò, ngựa, dê, rừng cọ, bạc trắng, lúa gạo, đồ dùng gia đình, công
cụ sản xuất,… Việc phân chia tài sản được tiến hành khi bố mẹ về già
hay đã qua đời hoặc khi một trong số những người con trai cùng vợ
con tách ra ở riêng. Việc phân chia tài sản được thực hiện trên nguyên
tắc chia cho tất cả con trai và bố mẹ, trong đó phần chia cho con cả
nhiều hơn các phần kia một ít vì có công nuôi dưỡng bố mẹ trong suốt
thời gian dài.
Người Tày có nhiều dòng họ: họ Lương, họ Nông, họ Hoàng, họ
Nguyễn, Ma, Đoàn, Vi, Bế,…. Sự đa dạng tên họ của người Tày có sự
giao lưu hôn nhân, cư trú xen kẽ của người Tày với các dân tộc Nùng,
Kinh, Hoa. Một số gia đình hoặc một số cá thể dân tộc Nùng, Kinh,
Hoa sinh sống lâu ngày cùng người Tày, bị Tày đồng hoá về tiếng nói,
phong tục tập quán thành người Tày hiện nay, nhưng vẫn giữ tên họ.
Điển hình họ của người Kinh còn được giữ lại là họ Nguyễn, họ Ma
trong hệ thống tên họ của người Tày. Trong quan hệ họ hàng người
Tày, có nét tương tự như người Kinh, cụ thể còn chitrên con bác dù ít
tuổi nhưng vẫn là anh là chị, còn chi dưới, con chú dù nhiều tuổi vẫn
là em. Điểm này cũng hoàn toàn khác người Nùng.
3. Phong tục tập quán
3.1. Lễ cưới.
Trong việc làm lễ cưới cho con cái, người Tày có tục lệ khá câu
nệ. Nhà nào có nhiều con trai thì bao giờ cũng thường cưới vợ cho
người anh trước rồi mới cưới vợ cho người em. Trường hợp người em
đã có người yêu ( và được cha mẹ chấp thuận) nhưng nếu người anh
chưa cưới vợ thì người em vẫn phải chờ. Con gái không phụ thuộc vào
diện tục lệ này. Gả chị gái hay em gái trước là tuỳ thuộc ở nhà trai yêu
cầu.
Như ở phần trên đã nói, khi đã ướm và nhắm được một cô gái
nào ưng về mặt thể chất và phẩm hạnh, có thể chấp nhận được làm
dâu nhà mình, cha mẹ nhà trai tiến hành (hoặc nhờ một người thân
làm mai mối) gặp bên nhà gái bàn bạc các lễ nghi cụ thể.
29
a) Buổi gặp gỡ đầu tiên
Đây là buổi nghi lễ đầu tiên do cha mẹ nhà trai (hay một vị thân
họ đại diện) đến trực tiếp trao đổi với cha mẹ nhà gái. Ở buổi gặp gỡ
này, chưa cần có lễ vật gì đi theo. Nhà trai ngỏ lời và nếu được nhà gái
thoả thuận thì nhà trai xin phép nhà gái ghi tạm cho biết ngày giờ
tháng năm sinh của con gái (theo tuổi âm lịch) để đem về so đôi tuổi.
Công việc ấy gọi là “lúc mỉnh” dịch là “lục mệnh”. Về nhà, cha mẹ
nhà trai tìm nhờ thầy tướng số hoặc thầy lên số tử vi xem giúp số
mệnh hai người trẻ hợp nhau hay khắc nhau, cuộc sống tương lai của
đôi vợ chồng như thế nào,…. Tuy việc hôn thủ đã bắt đầu từ đây
nhưng cha mẹ hai bên cũng chưa hỏi ý kiến con trai, con gái của mình.
b) Lễ dạm
Nếu so đôi tuổi hai người hợp nhau, nhà trai về tiến hành làm lễ
dạm hỏi cho con. Đến lúc này, cha mẹ chàng trai và cha mẹ cô gái mới
bảo cho biết bằng hai cách: cha mẹ trực tiếp nói với con hoặc nhờ bạn
bè của con dò hỏi ý kiến của con.
Nhà trai uỷ nhiệm một người nam giới đứng tuổi trong họ, lanh
lợi hoạt bát, hiểu biết khá rõ hoàn cảnh gia đình nhà trai thay mặt nhà
trai (gọi là ông mối) sang nhà gái đàm luận việc hôn thủ của đôi trẻ.
Đi theo ông mối có hai cô gái trẻ gánh lễ vật cầu hôn, thông thường
gồm một đôi gà trống thiến, hai chai rượu ngon, hai thúng bánh dày
(hoặc hai thúng xôi đỗ xanh) đủ cho nhà gái mời được hai mâm khách.
Dự buổi lễ dạm hôm ấy, khách của nhà gái gồm có ông bà nội, ông bà
ngoại, những người thân hàng chú bác, cậu, cô, dì, cha mẹ của cô gái.

30
Tại buổi lễ này, nhà trai xin bản “Lục mệnh chính thức” ghi chép
thật cẩn thận trên giấy hồng rất trang trọng đầy đủ 12 cung (như cung
bản mệnh, cung phụ mẫu, cung từ tức, tài lộc, bằng hữu, tật,…)
Những nhà có của, nhà giàu có, nhà quyền quý thường ghi lục mệnh
con gái lên tấm vải điều, tấm nhiễu điều trao cho nhà trai. Khi đã trao
nhận bán lục mệnh chính thức của cô gái thì coi như là đã công nhận
sự đính hôn giữa đôi trẻ. Nếu sau này vì lý do chính đáng (chủ quan
hay khách quan), hai bên không cưới gà cho nhau được (trường hợp
rất hãn hữu) thì nhà trai phải hoàn tấm lục mệnh cho nhà gái một cách
đứng đắn, có kèm theo gánh lễ vật để nhà gái mời khách tới dự lễ huỷ
bỏ buổi lễ dạm hỏi trước đây và chứng kiến việc nhà trai trả tấm lục
mệnh cho nhà gái. Việc xin lấy lại tấm lục mệnh là rất quan trọng.
Người ta quan niệm rằng nếu không lấy lại được bản lục mệnh chính
thức thì nếu nhà trai có ý xấu bụng, nhà gái (tức là cô gái) sẽ mắc
nhiều khó khăn hoạn nạn như nếu trâu bò ăn mất bản lục mệnh thì cô
gái sẽ bị câm, nhà trai đốt mất bản lục mệnh thì cô gái sớm muộn cũng
sẽ bị chết đuối, một điều rất hệ trọng là nếu cô gái không đòi lại được
bản lục mệnh tức là hai bên chưa huỷ bỏ lễ dạm hỏi về làm dâu. Và
chàng trai ấy cũng không dám đến dạm hỏi cô gái nào khác.
Khách được mời tới chứng kiến buổi trả lại lục mệnh là những
người đã được mời chứng kiến lễ dạm hỏi ngày trước.
Có địa phương ước định là nếu bên nào gây ra chuyện dang dở
thì bên ấy phải có lời và có gánh lễ vật sang bên kia.
c) Lễ ăn hỏi (cáy khai).
Sau lễ dạm thì đến lễ ăn hỏi. Lễ ăn hỏi được tổ chức trang trọng
tiến hành sau khoảng một hai tháng, do ước định của hai nhà dựa vào
việc chọn ngày lành tháng tốt hợp với tuổi cô dâu, chú rể. Việc định
ngày làm lễ ăn hỏi do nhà trai chọn. Ngày làm lễ ăn hỏi phải được báo
trước từ một tháng trở lên để nhà gái có đủ thời gian mời mọi người
thân bên nội, bên ngoại, bạn bè thân thích, bạn tổng, anh em kết họ
gần xa về dự.
Trong buổi lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc và quyết định nhiều vấn đề
quan trọng như định lễ vật dẫn cưới, lễ hồi môn, ngày cưới, giờ đón
dâu,….

31
Nhà trai phải chọn cử một vi thân họ được trao đủ thẩm quyền
thay mặt nhà trai bàn bạc và quyết định mọi việc xung quanh lễ cưới ở
bên nhà gái. Đi theo ông mối có hai cô gái trẻ gánh lễ vật khá to như
thịt lợn, thường thường từ mườicân trở lên, một đôi gà thiến, xôi đỗ
xanh, bánh dầy, một vò rượu khoảng mười chai đủ cho nhà gái bày
mời ba bốn mâm khách. Nhà gái cử một vị thân họ đứng tuổi trong số
khách mời thay mặt nhà gái đứng chủ trì xướng và phát ngôn chính
trong cuộc thương thuyết.
Hai bên trao đổi bàn bạc, quyết định số lượng lễ vật dẫn cưới, đi
sâu vào từng khoản cụ thể như bao nhiêu tiền mặt, bao nhiêu con lợn,
bao nhiêu gánh gạo, chum rượu, ước định ngày trao tiền mặt sang cho
nhà gái,… ngày cưới do nhà trai nhờ thầy chọn ngày lành tháng tốt
dựa vào ngày tháng năm sinh của cô dâu chú rể.
Lễ ăn hỏi thường diễn ra trước lễ cưới từ 3 – 6 tháng nhưng cũng
có thể do ngày làm lễ cưới phải lựa chọn cẩn thận cho nên có đám
cưới phải chờ tới vài năm sau ngày lên ăn hỏi mới được tiến hành
được. Nhưng khi đã có lễ ăn hỏi rồi thì cô gái được coi như là đã gả
bán và chàng trai được coi là đã có vợ, ít khi có trường hợp phá ngang
hoặc gây chuyện dang dở.
d) Lễ sêu Tết.
Lễ sêu Tết, tiếng Tày gọi là lễ đầu lùa. Trong khoảng thời gian
phải chờ vài năm kể từ ngày ăn hỏi cho đến ngày lễ cưới, do chưa
chọn được ngày, như đã nói ở trên, nhà trai nhà gái ít có dịp thường
xuyên đi lại với nhau; họ chỉ đi lại thăm hỏi nhau vào dịp những ngày
việc vui buồn. Để có sự gắn bó giữa hai nhà, người ta có lệ nhà trai
phải làm lễ sêu Tết đối với nhà gái vào dịp Tết Nguyên Đán và ngày
rằm tháng bảy, là hai ngày Tết cổ truyền lớn trong năm của đồng bào
Tày. Lễ sêu Tết cũng phải trang trọng. Nhà trai cử một vị đại diện dẫn
cô gái trẻ gánh lễ vật đến nhà gái, có lời thưa và trao lễ vật. Lễ vật
gồm có một hay hai con gà trống thiến, muồi ống gạo nếp, 2 – 4 cân
tài phẳn, sáng phẳn (miến sợi to, sợi nhỏ). Gánh lễ phải đến nhà gái
trước ngày Tết mươi hôm hay một tuần lễ. Và cứ như thế gánh lễ sêu
Tết phải có đều đặn, nghiêm túc vào những dịp Tết trong suốt cả thời
gian chờ đợi ngày cưới.
e) Lễ báo ngày cưới.

32
Nhà trai định ngày cưới và chủ động làm lễ báo ngày cưới. Lễ
báo ngày cưới phải tiến hành trước ngày cưới từ một đến ba tháng trở
lên để nhà gái và trai có nhiều ngày tháng thông báo người thân đã
hứa hẹn giúp các khoản lễ vật như tiền bạc, lợn, rượu, gạo có đủ thì
khẩn trương chuẩn bị, thông báo cho các thành viên trong phường họ
bạn, cất rượu, giã gạo, dành tiền góp cho nhà chủ theo quy ước. Một
mặt khác, đề hai nhà có đủ thời gian mời bạn bè, họ hàng thân thuộc
về dự lễ cưới. Vì đồng bào Tày thường có những người thân đi làm ăn
hay gả chồng ở các địa phương rất xa, những bạn bè thân thích, bạn
tổng, anh em nhận họ, anh em nuôi ở xa có khi tới hai ba ngày đường.
Tại buổi lễ này người ta quyết định mọi vấn đề cụ thể cho lễ
cưới. Nhà trai cử một vị thân họ đại diện sang nhà gái bàn bạc mọi
việc. Có gánh lễ vật gồm thịt, rượu, gạo nếp, bánh dày dù hai mâm
khách ở bên nhà gái để chứng kiến. Thành phần khách mời cũng là
các vị được mời dự lễ ăn hỏi ngày trước. Trong buổi lễ này nhà trai
phải trao tiền mặt (số lượng đã định ở buổi lễ ăn hỏi) cho nhà gái để
mua sắm thêm mâm, thau, chậu đồng và các thứ đồ dùng cần thiết cho
một tiểu gia đình ngoài số chăn màn, quần áo, hòm rương đã có. Hai
bên cũng bàn định luôn ngày giờ dẫn đại lễ (tức là lợn, rượu, gạo)
sang nhà gái vào ngày lễ cưới, bàn định ngày giờ chú rể sang đón cô
dâu và giờ cô dâu về nhà chồng.
Tất cả những điều bàn định trong lễ báo ngày cưới này được coi
là bất di bất dịch. Hai bên cứ nhớ ngày giờ mà tiến hành nghiêm túc
và đúng đắn.
f) Ngày cưới.
Trong ngày cưới, nhà nào có phường họ bạn thì phường họ bạn
có trách nhiệm đến giúp việc theo quy ước.
Hai bên đều có cỗ bàn ăn uống linh đình trong ba ngày. Nhà trai
vừa phải có bốn, năm con lợn béo mổ (có những đám cưới đông
khách, mổ thêm một con bò ở nhà mình để mời khách), vừa phải dẫn
sang nhà gái bốn con lợn to béo, bốn gánh gạo, mỗi gánh 50 cân (hai
gánh gạo nếp, hai gánh gạo tẻ) bốn chum rượu ngon (mỗi chum 20
chai trở lên). Rượu dẫn cưới kỵ nhất là rượu khê, rượu chua, rượu
nhạt. Nhà gái mổ bốn con lợn dẫn lễ của nhà trai và một con bò tự túc,
cũng có khi mổ thêm 1 – 2 con lợn của nhà mình tuỳ tình hình khách
mời. Nhà trai phải dẫn các thứ lợn, gạo, rượu sang nhà gái vào sáng
hôm trước ngày cưới chính thức.

33
Việc tiếp khách, thường thường phổ biến là khách ở gần ăn một
bữa, khách ở xa và người thân bên ngoại (của nhà trai cũng như nhà
gái) ăn hai bữa. Các vị khách được mời dự lễ cưới đều có lễ vật mừng
hoặc tiền hay bằng hiện vậy. Nhà chủ cử một người thân giữ số nghi
lễ mừng của khách để sau này nhớ mà đi trả nợ.
g) Lễ đón dâu, đưa dâu.
Đúng ngày, đúng giờ đã được ước định (vì là ngày tốt đã chọn)
đoàn chú rể bắt đầu ra cửa đi đón dâu. Đoàn chú rể có ông quan lang
dẫn đầu và một bà pà mè cùng với bốn đến sáu bạn trai phì rể, để cộng
với chú rể và quan lang thành bốn hay sáu người. Trong đoàn đón dâu,
người ta kiêng con số lẻ. Đoàn chú rể, từ quan lang, pá mè đến các
chàng trai phù rể, các cô gái đón dâu đều ăn mặc chỉnh tề quần áo mới
khăn giầy mới, đặc biệt chú rể càng phải lưu ý cái gì cũng phải mới
nhất.
Khi đoàn chú rể lên đường, vị tộc trưởng hay một vị bô lão có uy
tín cầm đưa cho chú rể một cái ô mở sẵn và chúc đoàn đi đường mọi
sự may mắn tốt lành, đi đến nơi về đến chốn. Đoàn chú rể ở nhà ra đi
đúng giờ và đến nhà cô dâu cũng phải đúng giờ đã hẹn.
Quan lang là người thay mặt nhà trai được trao đủ quyền và khả
năng giải quyết mọi việc và mọi lễ nghi khi đoàn chú rể sàn nhà gái.
Quan lang và pà mé được chọn trong hàng người thân họ nhà trai
đứng tuổi, có uy tín, có đức độ, nói năng hoạt bát, lanh lợi, xã giao
lịch thiệp, vợ chồng song toàn, có con trai con gái, càng đông con
càng tốt, có địa vị xã hội càng hay. Pà mé và nhất là quan lang phải
thuộc nhiều bài hát mừng đám cưới để ứng dụng khi tiếp xúc với nhà
gái (hay nhà trai) hoặc có tàu ứng khẩu thành thơ đối đáp tại chỗ.
Người ta tin rằng những người đi đón dâu, đưa dâu có “tốt” thì sau
này đôi vợ chồng trẻ làm mới được “tốt”. Các cô bạn đón dâu chọn
các bạn gái chưa chồng, hiền lành, ngoan ngoãn. Bạn gái đón đưa dâu
phải chọn các cô gái tân đang thời nghĩa là không phải là gái lỡ thời.
Trong xã hội cũ, không cô gái nào muốn chịu cái tuổi lỡ thì nhưng tất
nhiên không sao tránh khỏi.
Trong đám đón đưa dâu người ta ngại có cô gái lỡ thời, xuất phát
từ tư tưởng mê tín ngại sau này con cái nhỡ phải chịu ảnh hưởng cái
dớp không hay. Ở đây có một tập quán là các cô gái đã đi lấy chồng
thì không ai đòi hỏi phải đi đưa dâu đáp lễ trả nợ.

34
Đoàn đưa dâu sang nhà trai cũng phải có pá mẻ đứng đắn (có địa
phương người ta còn có thêm vị quan lang). Pá mẻ có trách nhiệm
giao dịch với nhà trai và hướng dẫn cô dâu làm các lễ nghi cần thiết
của cô dâu. Có những pá mẻ thân tình dặn dò thêm những điều “phòng
trong” cho cô dâu non trẻ lỡ khi xảy ra đột biến trong đêm.
Tiêu chuẩn chọn pá mẻ và các cô bạn đưa dâu cũng tương tự như
chọn pá mẻ và các cô bạn đón dâu của chú rể.
Khi tiến hành các nghi lễ ở bên nhà gái cũng như ở bên nhà trai,
quan lang và pá mẻ đều thưa gửi bằng lời thơ thay cho những lời nói
đối thoại thông thường giữa hai họ. Đây là tục lệ trang trọng trong lễ
cưới.
Ngay từ khi đoàn chú rể (hay cô dâu) bắt đầu vào làng, các bạn
trai và các cô gái trong bàn chủ nhà đã ra đón chào đông đảo. Họ tiếp
tục theo đoàn chú rể (cô dâu) từ ngoài ngõ vào sân lên nhà. Và ở từng
chặng người ta đã bắt đầu hát những bài thơ mừng đám cưới. Những
bài thơ mừng đám cưới rất được chú ý và quan tâm đặc biệt ở bên nhà
gái cũng như bên nhà trai, vì đó là một hình thức sinh hoạt văn hoá
đồng thời muốn xem thử trình độ thơ phú văn chương cũng như tài
ứng xử của đoàn khách họ bên kia. Khi đoàn chú rể hay đoàn cô dâu
đến nhà, tất cả mọi người dự lễ cưới đều chờ đón lắng nghe các bài
thơ. Dù ở trong nhà đán đang ồn ào nhộn nhịp đến mức độ nào, khi
nghe có tiếng thơ cất lên thì những vị tân khách đang uống rượu trò
chuyện rất vui cũng như những người đang bận phục dịch tay dao tay
xào ở dưới bếp cũng đều nhẹ tay làm để lắng nghe tiếng thơ.
Có những người bận không việc thường kéo đến đứng xung
quanh nơi có tiếng thơ đang diễn ra. Ai ai cũng mong muốn vừa được
chiêm ngưỡng tận mắt những chàng trai, cô gái hát hay hay hát giỏi,
vừa dễ học thêm những bài thơ hay mới nhất.
Theo phong tục tập quán, những tiết mục lễ nghi trong ngày cưới
diễn ra ở nhà gái cũng như ở nhà trai thường được sắp xếp theo trình
tự như sau:
1. Đón chào chú rể, cô dâu mới (có nơi gọi là căng dây).
2. Vào sân (rửa chân).
3. Mời vào nhà (thu tu, giữ cửa).
4. Trải chiếu.
5. An toạ (mời ngồi, yên vị).
6. Trầu nước (mời trầu, mời nước).
35
7. Bái tổ (trình tổ).
8. Trình gánh (nộp gánh).
9. Đáp ơn dưỡng dục (dâng tấm vải ướt khô).
10. Lễ bàn thờ (lễ bái tổ).
11. Lễ bố mẹ vợ (lễ nhuận rể mới).
12. Xin đón dâu
13. Lễ bố mẹ chồng ( nhận con dâu mới).
14. Lễ nộp con dâu ( hoặc nộp rể nạp tế).
15. Mừng rương hòm (mừng chăn màn).
16. Mừng chú rể, phù dâu.
17. Chào mừng mâm bàn.
18. Hẹn hò (chia tay và dặn dò).
h) Tục chăng dây, chặn đường.
Khi trông thấy đoàn chú rể hay đoàn cô dâu từ xa đang đi tới,
một đoàn cô gái trẻ ở trong làng rủ nhau chuẩn bị một sợi dây để căn
lối vào sân. Khi đoàn chú rể hay đoàn cô dâu (gọi tắt là đoàn khách)
vào tới dầu ngõ, các cô gái căng sợi dây ngang cổng ngõ vào và hát
một bài hát dân ca chất vấn: “Xin hỏi các vị là ai? Đi đâu? Qua đây
làm gì? Đây là cửa cấm muốn đi qua xin phải nói rõ lý do…” Lập tức
đoàn khách hát một hai bài dân ca giới thiệu, nói rõ lý do và yêu cầu
mở đường cho đi. Buổi hát đối đáp này là cuộc đọ tài đầu tiên về văn
chương của hai họ nên có thể hát hai ba bài mới xong.
Có địa phương các cô gái tinh nghịch cố ý hát mãi để kéo dài
thời gian căng dây chặn đường. Vị quan lang đoàn khách thua hát
đành phải bỏ tiền ra phong bao ( chúc mừng) các cô để xin vào cổng.
i) Lễ giữ cửa.

36
Tiếng Tày gọi là lệ thư tu. Vượt qua được chặng căng dây đoàn
khách lại gặp chặng giữ cửa. Ở trước cửa ra vào của nhà chủ người ta
bày ngổn ngang vài thứ vật dùng chướng ngại như cái chổi quét nhà
đặt ngang trên cái chậu thau rửa mặt hay một con dao thái thịt đặt trên
cái thớt, một cái nơm đơm cả hay một cái lồng nhốt một con mèo….
Với những chướng ngại vật ấy, đoàn khách có thể dễ dàng bước qua
hoặc len nách mà đi, nhưng không bao giờ người ta đi liều như thế để
địa phương coi đoàn khách là thiếu văn hoá, không lịch sự, kém tài
ứng xử đối đáp ca hát; cho nên đoàn khách (người đứng đầu là quan
lang hay pá mẻ hay thanh viên trai thanh gái lịch), cứ phải hát đối xin
cất bò vật chướng ngại mà có lối đi qua. Các bài hát ở mục này không
thể hát chung chung được; gặp chướng ngại gì thì đoàn khách phải hát
bài xin cất bỏ vật cụ thể đó. Ví dụ, gặp chướng ngại vật là cái chổi hay
con mèo thì vị quan lang phải hát bài có nội dung xin cất bỏ cái chổi
vào để quét nhà hoặc xin thả con mèo ra cho nó đi bắt chuột giữ bồ
thóc,…
Nếu đoàn khách hát đã đạt, vị quan lang nhà chủ (hay một vị đại
diện) liền hát một bài cũng nói tới vật cụ thể đó rồi xin lỗi và sai các
cô gái cất bỏ vật chướng ngại, trân trọng mời đoàn khách vào nhà.
j) Lệ trải chiếu
Nhà người Tày thường là nhà ba gian rộng rãi. Nửa nhà bên
trong bố trí phòng cô dâu và phòng tiếp khách phụ nữ. Nửa bên ngoài,
gian giữa có đặt bàn thờ tổ tiên, trước bàn thờ kê cái giường lễ. Gian
bên kia, kê giường cho khách đàn ông. Gian bên này dành cái giường
để đón mời đoàn chú rể. Đám khách vượt qua chặng giữ cửa, được
dẫn tới bên cái giường dành riêng cho khách. Nhưng giường chưa trải
chiếu hoặc chiếu trải lệch lạc hay trải chiếu trái mặt. Vị quan lang nhà
trai phải cất tiếng hát bài có nội dung tự giới thiệu mình là khách quý
và trách nhà chủ chưa có người trải chiếu (nếu giường chưa có chiếu)
hoặc trách chiếu trải chưa đúng đắn (nếu giường trải chiếu lệch lạc) để
mời khách ngồi. Pá mẻ hay quan lang nhà chủ hát bài đối lời, xin lỗi
đoàn khách và giả vờ trách các cháu gái quê mùa thô lỗ thiếu lịch
thiệp dẫn đến sơ suất và bảo các cô gái trải chiếu hay trải lại chiếu cho
ngay ngắn rồi trịnh trọng mời đoàn khách (tức là đoàn chú rể hay cô
dâu lên giường ngồi).
Ở tiết mục này, hoặc là người ta trải chiếu lên giường ngay ngắn
hoặc trải chiếu chồng chéo lên nhau để có ý thử tài hát của khách phải
hát thêm nhiều bài hát khác.
37
k) Mời ngồi.
Khi mời đoàn khách ngồi lên giường, quan lang hay pá mẻ nhà
chủ phải hát một bài hát mời khách thành thực và thiết tha. Quan lang
hay lá mẻ đoàn khách hát bài đáp từ khiêm tốn, hết lời ca ngợi lòng
mến khách và tấm lòng thịnh tình của nhà chủ rồi mới lên giường
ngồi.
l) Mời nước chè.
Sau khi mọi người trong đoàn khách đều đã ngồi yên vị, quan
lang hay pá mẻ nhà chủ hát bài mời nước chè. Hai ba cô gái bưng
khay chén rót đầy nước chè đi lần lượt mời từng người. Có điều cần
lưu ý nhất là trước khi đặt chén rót nước, các cô phải đếm có bao
nhiêu khách thì rót bấy nhiêu chén.
Quan lang hay pá mẻ đoàn khách hát bài cảm ơn lòng thịnh tình
của nhà chủ, khen ngợi chè thơm, ngon, khen ngợi các cô gái nhà chủ
lịch sự… Nói là mời nước chè, nhưng có những nơi, có nhiều trường
hợp, các cô gái nhà chủ tinh nghịch pha mật mía vào rượu cho có màu
giả làm nước chè đem mời khách, làm cho các cô gái chàng trai khách
trẻ chưa quen uống rượu bị chếnh choáng.
Trong khay chén chè mời khách cũng có một đĩa trầu têm sẵn
mời các bà cô trong đoàn khách.
m) Lễ nộp gánh.
Từ tiết mục lễ nộp gánh cho đến lễ nộp con dâu, lễ nộp con rể
nạp tế là bước vào các nghi lễ chính thức và trang nghiêm. Gánh lễ
này không nặng, không to. Nó chỉ gồm có một số thứ bánh, một số
món ăn chín, một khoản tiền nho nhỏ để đặt bàn thờ tổ tiên và một
tấm vải ướt khô (tiếng Tày gọi là phải rằm khấu) để dâng lên mẹ vợ.
Quan lang dẫn chú rể đến đứng trước giường lễ bàn thờ. Hai cô gái
khiêng gánh lễ đi theo trình các bậc cha mẹ, các vị bô lão, những
người thân nhân họ hàng đã ngồi tề tựu trên giường lễ. Chú rể đúng
nghiêm chỉnh bên cạnh quan lang. Quan lang trịnh trọng hát bài nộp
gánh lễ và chuyển các thứ lên bàn thờ tổ tiên đồng thời đưa lại tấm vải
“ướt khô” cho chú rể. Quan lang hay pá mẻ nhà gái trịnh trọng hát bài
nhận gánh.
Khi cô dâu về nhà chồng không có lễ nộp gánh, chỉ có mục lễ
mừng chăn màn. Lễ mừng chăn màn chỉ có bài hát mừng báo cha mẹ
chồng và họ hàng chủ không bày cụ thể hiện vật.
38
n) Lễ dâng tấm vải ướt khô.
Tấm lòng hiếu thảo của người Tày đối với cha mẹ đẻ, bố mẹ
nuôi từ lúc nhỏ cho đến tuổi già, vẫn luôn luôn đầy như bát nước. Có
ngày vui, có lễ mừng, người ta nghĩ ngay đến sự đền đáp công ơn
bằng hình thức này, hình thức khác. Dâng tấm vải ướt khô là một nghi
lễ thể hiện lòng biết ơn của con rể đối với cha mẹ đẻ của cô dâu.
Tấm vải dệt tay bằng sợi bông, khổ rộng hai gang tay, dài
khoảng 15 – 20 sải (tuỳ từng địa phương, tuỳ từng gia đình), nhuộm
màu hồng một nửa hay một phần ba tấm, ước lệ đó là phần vải ướt,
phần còn lại dể nguyên trắng mộc, ước lệ đó là phần khô.
Lệ ấy xuất hiện từ quan niệm cũng như công lao to lớn của bà
mẹ nuôi con gái từ lúc còn đỏ hỏn đến khi lớn nên người nay xuất giá.
Từ những ngày kiêng cữ người mẹ luôn luôn giành lấy phần tã ướt về
mình và để con nằm chỗ khô. Đây là hiện tượng thường có khi gặp
ngày u ám hay mưa dầm dề không kịp phơi tã, số tã dùng được ít đi, tã
tang dùng phải xoay phải xoay phần ướt khô để dùng nhiều lần… Cho
nên nói về ý nghĩa thì tấm vải “ướt khô” cao quý vô cùng. Nó mang ý
nghĩa đền đáp công ơn người mẹ. Trong các khoản lễ vật hôm cưới ở
gánh lễ có thể thiếu thứ này thứ khác nhưng nhất thiết là không thể
thiếu tấm vải “ướt khô”.
Đây là một thuần phong mỹ tục rất đẹp, chứa đựng ý nghĩa rất
sâu sắc về lòng hiếu thảo của người con gái đối với cha mẹ.
Tiến hành hết mục lễ này, đứng trước giường giữa, trước bàn thờ
tổ tiên, trước mặt cha mẹ vợ và thân họ nhà gái, vị quan lang nhà trai
nghiêm trang hát bài dâng tấm vải “ướt khô”. Chú rể trịnh trọng hai
tay dâng tấm vải ướt khô lên mẹ vợ trong bầu không khí trang nghiêm,
người mẹ xúc động đón nhân tấm vải.
Khi cô dâu về nhà chồng, không có lễ dâng tấm vải ướt khô này.
o) Lễ bái tổ và họ hàng.
Lễ bái tổ và họ hàng là tiết mục lễ nghi trang nghiêm. Chú rể (cô
dâu) đứng bên vị quan lang trước giường bàn thờ, có cha mẹ, ông bà,
thân họ nhà gái (hay nhà trai) đã ngồi tề tựu.
Người Tày xưa nghĩ rằng tổ tiên thường ngày ở trên mường
Trời. Trước tiên, chủ nhà phải thắp hương cung kính khấn mời tổ tiên
về chứng kiến buổi lễ cưới của con cháu. Rồi quan lang mới tiến hành
lễ tổ tiên và họ hàng.
39
Quan lang trịnh trọng hát bài lễ bái tổ tiên và họ hàng chú rể (cô
dâu) lễ chung một lần lên bàn thờ tổ tiên và cha mẹ họ hàng ngồi
giường trước bàn thờ.
p) Lễ bố mẹ vợ.
Sau lễ bái tổ tiên và lễ họ hàng, tiếp đến là lễ bố mẹ (bố mẹ
chồng). Các thân nhân họ hàng, ông bà, cha mẹ vẫn ngồi tại giường
trước bàn thờ như mục lễ nghi vừa qua. Nhưng theo lời xướng của
quan lang chú rể (cô dâu) chỉ lễ cha và mẹ vợ (cha và mẹ chồng), quan
lang của chú rể (của cô dâu) sẽ trịnh trọng hát bài lễ bố mẹ. Con rể
(con dâu) sẽ lễ sống từng người. Cũng có địa phương có lệc lễ sống cả
ông và bà nội. Có nơi, người ta chỉ yêu cầu chú rể (cô dâu) lễ chung
một lần cả cha lẫn mẹ.
Khi con rể (con dâu) lễ xong, cha mẹ đưa lại cho con rể (con
dâu) một đĩa đựng gói bạc, hai cái vòng tay, còng cổ bằng bạc để
mừng chú rể (cô dâu).
q) Lễ xin đón dâu.
Lễ xin đón dâu là lễ nghi trang trọng cuối cùng của bên nhà trai.
Vị quan lang nhà trai hay pá mẻ trịnh trọng lượn bài xin đón dâu. Bài
lượn vừa có lời xin cha mẹ, ông bà, thân họ cô dâu cho phép cô dâu ra
cửa, lại vừa có lời mời cô dâu chuẩn bị khẩn trương để ra cửa đúng
giờ lành (giờ đã chọn, đã được bảo trước ở buổi lễ báo ngày cưới).
r) Lễ nộp con dâu, nộp con rể nạp tế.
Đoàn cô dâu có pá mẻ dẫn đầu (có địa phương có cả quan lang).
Có bốn đến sáu cô bạn gái phù dâu chọn trọng hàng bạn thân của cô
dâu. Các cô bạn phù dâu đều là những người chưa có chồng, tính tình
nết na, thuỳ mỵ. Cô dâu mặc cặp áo mới màu chàm thơm phức, đội cái
nón cọ to vành, mang đôi hài cườm thêu. Có tục lệ cô dâu khóc thút
thít khi ra cửa vì có ý nghĩa sẽ phải xa bố mẹ, xa anh chị em ruột về ở
nhà chồng mới mẻ, xa lạ chưa quen tập tục bên họ nhà chồng. Không
có lệ bố mẹ hay anh chị em đưa cô dâu đến nhà chồng. Dù đường xa
hay gần, người ta chú ý để cô dâu đến nhà chồng đúng vào giờ lành đã
chọn.

40
Khi cô dâu làm lễ tổ tiên và họ hàng xong, thì đến lễ nộp con dâu
cho gia đình chồng và họ nhà trai. Quan lang hay pá mẻ của cô dâu
trịnh trọng lượn bài nộp con dâu. Từ nay con dâu sẽ thuộc về họ nhà
trai, chịu sự răn dạy của nhà chồng theo tập tục, hưởng phúc đức, tài
lộc của nhà chồng.
0) Nếu là con rể nập tế thì có mục nộp con rể nạp tế.
Khi cưới con rể nạp tế, phong tục tập quán cổ truyền cho phép
gia đình nhà gái đứng ở vị trí nhà trai, chủ động tất cả mọi nghi lễ như
lễ dạm, lễ hỏi, lễ đón rể,… Khi chú rể nạp tế về đến nhà cô dâu bôm
đám cưới thì phải có tiết mục lễ nộp con rể nạp tế. Vị quan lang của
chú rể nạp tế trịnh trọng lượn bài mừng nộp cho rể nạp tế cho gia đình
và họ hàng nhận vào làm người của nhà gái, cho được quyền thừa
hưởng nhà bố mẹ vợ.
Có trường hợp chú rể, sau ngày cưới được đón sang ăn ở tại nhà
gái trong một thời gian dài nhưng không được gọi rể nạp tế. Cha mẹ
vợ có con trai hãy còn nhỏ tuổi, đón con rể lớn đến ăn ở làm việc tại
nhà mình để giúp đỡ và làm nơi nương tựa trông nom đứa em cậu còn
bé cho đến tuổi trưởng thành. Khi nào người em cậu này cưới vợ thì
anh rể mới được đưa vợ con trở về nhà mình. Người Tày gọi chú rể
này là khươi roảng (con rể ở gửi).
Khi đón khươi roảng về không có nghi lễ nộp con rể mà chỉ có
lời trang trọng của bố mẹ vợ tuyên bố với họ hàng hai bên, có bữa ăn
thịnh soạn mời họ hàng hai bên để ăn mừng đón nhận con rể ở gửi.
s) Vui bữa rượu cưới.

41
Khi các mục lễ nghi trang trọng đã hoàn tất, đến mục mời ăn
cơm uống rượu. Những mâm cỗ đã được phường họ bạn bày biện la
liệt ở trong nhà, ở ngoài rạp trên sân. Các vị tân khách được mời ngồi
vào mâm. Theo tập quán, khách từng mâm được sắp xếp như sau:
khách cùng lứa ngồi cùng mâm với nhau, người già ngồi cùng mâm
với người già, người trung niên ngồi cùng mâm với người trung niên,
khách cùng quan hệ quen biết, quan hệ bạn bè, anh em thân thuộc;
khách cùng địa phương: cùng hương lân, cùng chòm xóm; khách cùng
có địa vị chức tước: cùng hàng chức sắc, hương lý; khách cùng giới
tính. Có một điều đặc biệt phải chú ý là không bao giờ phụ nữ được
ngồi cùng mâm với nam giới, trai trẻ lên mâm bô lão, bạch đinh ngồi
cùng mâm với hương lý, chức sắc. Trường hợp mâm thiếu người thì
xem từng hạng mâm khách, chủ nhà sắp xếp, bổ sung bằng những
người thân, những thành viên phường họ bạn. Có khi những người đã
ăn cơm nhưng cũng phải ngồi tiếp cho tròn mâm khách.
Thường thường chủ nhà phải sắp các mâm khách thích hợp để
câu chuyện trong mâm khách được hài hoà, vui vẻ, đậm đà. Nhưng do
số khách mời quá đông, chủ nhà khi không quánxuyếnđược chu đáo,
khách tự động tìm bạn mâm cho thích hợp.
Trước khi khách nâng chén, cầm đũa, có địa phương vị quan
lang thay mặt hoặc chủ nhà cất tiếng lượn một bài mời rượu. Có nhiều
địa phương người ta bỏ lệ quan lang pá mẻ lượn mời. Chủ nhà trực
tiếp hoặc ủy nhiệm một hai người thân đến từng mâm mời khách.
Khách vừa uống rượu, vừa trò chuyện vui vẻ, vừa lượn chúc
mừng đám cưới, vừa chúc tụng nhau. Mâm khách vui nhộn nhất vẫn là
mâm các chàng trai và các cô gái. Các chàng trai từ những mâm của
mình cất tiếng lượn chào mừng các cô gái ở các mâm bên. Các cô gái(
dù đã quen biết hay chưa quen biết các chàng trai) đều bắt lời lượn
đáp lại. Rồi hai bên nam nữ lượn đối đáp trao đổi tâm tình. Cuộc hát
đối đáp bắt đầu ăn ý rộn ràng, mỗi lúc càng đạm đà say sưa và rất tình
tứ bên mâm rượu. Qua buổi hát lượn tuy ngắn ngủi, nhiều đôi trai gái
đã cảm thấy ý hợp đến khi mâm đã dọn đi. Họ tiến vào cuộc đối đáp
tay đôi.

42
Khi gần tàn lễ cưới, người ta bước vào cuộc hát lượn chia tay.
Đặc biệt các đôi trai gái tình cờ gặp nhau tại đám cưới tỏ ra luyến tiếc,
thiết tha lượn những khúc từ biệt và hò hẹn. Ước mong tiến tới và có
nhiều dịp gặp gỡ sau này, Ở những ngày phiên chợ, trong những dịp
hội hè hay đám cưới bè bạn. Cuộc lượn từ biệt và hẹn hò này khá kéo
dài. Đôi bạn nam nữ say sưa hát trao đổi tâm tình hết khúc này đến
khúc nữa. Hai bên quyến luyến bịn rịn nhường như không thể dứt
được ra về.
t) Lễ ba buổi( lễ hỏi ròi).
Cưới được ba hôm thì cô dâu và chú rể trở về nhà thăm bố mẹ
vợ. Cô dâu tự gánh lễ vật gồm có con gà luộc chín, hai chai rượu, hai
đĩa bánh dày, hai đĩa xôi đỗ xanh hay một cặp bánh trưng. Lễ vật cúng
bàn thờ tổ tiên, tuy đơn sơ nhưng trang trọng. Lễ ba buổi mang ý
nghĩa tạ ơn bố mẹ vợ và tổ tiên nhà vợ. Cha mẹ vợ không mời khách
dự buổi lễ.
Trong ngày lễ ba buổi ấy, cô dâu đưa chú rể đến chào ông bà của
cô dâu nếu ông bà của cô dâu ăn ở riêng nhà, đến chào bác tộc trưởng
nếu bố mẹ là hàng con thứ, đến chào bác có dì cậu mợ, chào anh em
ruột thịt nếu có gia đình riêng, chào bạn tồng nếu nhà bạn tồng ở gần
để chú rể nhận mặt bạn tồng của vợ và nhận cha mẹ, anh chị em của
bạn tồng.
u) Tục lệ con rể đối với gia đình bố mẹ vợ.
Người Tày rất quý con dâu như con gái trong nhà, và cũng rất
quý con rể như con trai trong nhà... các em chồng rất quý chị dâu, nhất
là các em gái. Các em vợ rất trân trọng anh rể. Dođó cô dâu khi mới
về nhà chồng cũng rất yên tâm và sống vui vẻ trong nhà chồng. Anh rể
cũng rất vui vẻ đi lại bố mẹ vợ. Con rể coi bố mẹ vợ như bố mẹ mình,
coi việc nhà bố mẹ vợ như nhà mình.
Vào những dịp lễ tết, dịp ngày giỗ chạp, những buổi hiếu hỷ,
ngày cúng lễ ở bên nhà bố mẹ vợ, con rể và con gái đều phải có mặt,
có mang theo lễ vật. Khi nhà bố mẹ vợ làm nhà, sửa chữa nhà cửa
hoặc những việc gì lớn nhỏ, con rể phải về tham gia cho đến ngày
xong việc.
v) Tục lệ con dâu ở nhà chồng.

43
Con dâu về nhà chồng phải tuân theo mọi lễ nghi tập tục, ở nhà
chồng mặc dù có những vấn đề hoặc những điều không hợp với bản
thân mình. Ngoài vấn đề phải đưa mình vào khuôn phép, về mặt sinh
hoạt, con dâu phải luôn luôn thức khuya thu xếp mọi việc nhà và dậy
sớm hơn tất cả mọi người trong nhà. Con dâu phải chăm lo cáng đáng
tất cả việc lớn nhỏ trong nhà thuộc lĩnh vực của phụ nữ.
Người con dâu còn bị tục lệ phong kiến dàng buộc chặt chẽ, phải
chịu nhiều nguyên tắc nghiêm ngặt của phong tục. Gặp trường hợp ăn
ở với chồng nhiều năm mà chưa có con( không kể do bản thân hay do
chồng) người vợ phải tìm cưới vợ lẽ cho chồng. Hoặc giả người chồng
yếu ớt bất lực về sinh lý, người vợ cũng phải âm thầm chịu đựng đến
suốt đời, không bao giờ dám này sinh chuyện khuất tắt bất chính và
cũng không bao giờ dám hé răng nói chuyện với bất kì ai về việc yếu
ớt của chồng mình.
Tục lệ cổ xưa lạc hậu dàng buộc người phụ nữ là thế, người ta
luôn luôn phải tuân theo. Tuy vậy, lâu lâu cũng có người đàn bà liều
lĩnh và mạnh dạn vượt ra khổ khuôn phép hà khắc, bỏ người chồng bất
lực, bí mật cuốn gói trốn đi theo trai ở một làng ở một địa phương rất
xa và kín đáo.
Trước khi làm việc ấy, người phụ nữ ấy chỉ trao đổi riêng với em
dì. Nếu không có em dì ruột thì nói thật với bố mẹ đẻ họ biết. Cha mẹ
cô gái vừa mừng, vừa buồn, vừa tủi. Vì ở trong cái xã hội cũ ấy, người
đàn bà như vậy sẽ bị xóm làng gần xa chê cười, phỉ báng hết lời. Cha
mẹ cũng phải chịu tiếng xấu thay. Vì vậy, cha mẹ cô gái cũng phải hết
sức giữ kín. Người đàn bà trốn chồng ấy không bao giờ dám trở lại
làng cũ. Và tất nhiên đan làng cũng không rõ về việc làm của cô gái.
Rồi lâu ngày thời gian trôi đi, người ta cũng quên dần cô gái ấy. Nếu
thương nhớ con gái, sau này, bố mẹ mới nén lút đi thăm con và mãi
mãi giữ kín việc làm của con.
3.2. Tang ma.
Người tày tin người còn sống có phần xác và có vía. Khi người
chết phần xác sẽ bị hủy hoại, còn vía sẽ biến thành linh hồn. Do đó
người tày cũng như nhiều dân tộc khác, người tày tiến hành làm ma
cho người chết mục đích của lễ tang là đưa xác đi chôn và tiên linh
hồn về với tổ tiên. Nghi lễ này đc tiến hành một cách nghiêm túc, chu
đáo đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng.

44
Người tày có tập quán, khi trong nhà có người già, tuy vẫn khỏe
mạnh nhưng con cháu luôn có ý thức chuẩn bị hậu sự cho người già.
Khi có người qua đời, Người Tày thường làm một số việc cơ bản
như sau; tắm rửa nước thơm cho người chết, đón thầy tào vế chủ trì
đám tang, liệm, nhập quan, hội phe làm nhà bao, đào huyệt, thầy cúng
làm lễ dọn đường cho vong đi, tế “ngựa”, tế cây “tiền”,….Trong số
những việc liên quan đến tang lễ, một số việc thể hiện nét riêng của
Tày như: đi đón thầy tào về chủ trì đám tang, những việc mà hội phe
làm trong đám tang, tế giao của cải trong linh hồn người chết.
Việc đầu tiên con cháu trong nhà có người mất phải là đun một
nồi nước lá bưởi để tắm rửa thi hài có ý tẩy uế, vừa cho linh hồn người
chết được thơm tho và mát mẻ. Sau đó đặt người chết ở gian giữa, rồi
lấy mảnh vải trắng che mặt, bỏ vào mồm vài đồng xu. Ở Chi
Lăng(Lạng Sơn) người ta lấy chiếc màn của người quá cố để phủ kín
thi hài, và để người nằm ngay tại giường và quay lại hướng nằm: bình
thường, người sống nằm ngủ quay đầu về phía bàn thờ tổ tiên, còn khi
chết thì quay ngược lại. Còn ở Đà Bắc(Hòa Bình), nếu trong nhà có
người chết, người ta đốt một cây mía, lấy một con dao cùn hơ cho
khỏi bám vào rồi quệt vào răng người chết. Con trai trưởng lấy chiếu
trải ra sàn nhà (dưới quá giang gian khách), rồi xếp vải (7 lượt cho đàn
ông, 9 lượt cho đàn bà), đặt người chết lên trên. Chủ nhà mời một ông
già nhất bản đến buộc túm 4 góc màn theo chiều dọc rồi phủ lên thi
hài.
Làm xong các thủ tục trên, mới báo tử bằng cách bắn vài phát
súng hoặc dùng mõ báo cho dân biết. Có nơi tang chủ đến từng nhà
trong bản đứng dưới cầu thang lạy 3 lạy và mời gia đình đó. Con trai
trưởng thì đi mời thầy tào về làm mọi nghi lễ cho đám tang.

45
Đón thầy tào về chủ trì đám tang. Người nhà có người chết cầm
nén hương đến nhà thầy tào, trình bày lí do đến mời thầy đến gia đình
chủ trì tang lễ. Nếu thầy tào nhân lời thì thắp hương lên bàn thờ.
Thông thường các thầy tào được mời đi chủ trì tang lễ thì phải đi, vì
nếu không đi thì ma tổ sư phạt nặng, trừ trường hợp bận việc cúng bái
ở nơi khác. Khi đi chủ trì tang lễ, thầy tào thường gọi thêm 4 học trò
lục slay cùng đi. Các lục slay có nhiệm vụ giúp việc cho thầy, đồng
thời cũng có cơ hội để thầy tào truyền nghề cho lục slay. Việc đón
thầy tào về chủ trì tang lễ cũng có cách khác nhau. Có nơi, đích thân
con trai trưởng phải đi mời thầy. Khi đi mang theo một con gà trống
nhỏ, một ống gạo. Nếu thầy nhân lời thì mổ gà cầu khẩn. Nếu thầy
không nhận lời thì tiếp tục đi tìm thầy khác, không dược quay về nhà
khi chưa tìm được thầy về chủ trì đám tang. Ở nơi khác lại có tục, khi
đi mời thầy cúng, người con trai trưởng đội lên đầu một chiếc rế nồi
hay một vòng dây rừng. Đến nhà thầy, thầy nhìn thấy, hiểu ngay là
đón đi chủ trì đám tang. Thầy nhân lời thì thầy lấy dây chuối khô bện
thành dây, buộc ngang thắt lưng người con trai đến đón.
Sau khi thầy tào làm phép để lấy nước rủa mặt cho người chết
rồi mới liệm. Khi liệm, nếu là đàn ông thì phải bảy lượt vải trắng, nếu
là đàn bà thì phủ 9 lượt. Ở Đồng Mu, người ta dùng vải mộc tự dệt
quấn quanh thi hài và phân biệt là đàn ông hay đàn bà bằng vòng
quấn.
Sau lễ đóng giả áo quan (có nơi gọi là lễ “phục hồn”), thầy tào
làm lễ nhập quan, bằng cách dùng pháp thuật thu hồn người chết.
Trước khi cho người chết vào quan tài, người ta lấy tro bếp sàng kỹ lót
dưới quan tài, đốt một cụm lúa nếp dải lên, sau đó lót lá chuối xong,
đặt chiếc chiếu mới trên cùng và đặt thi hài vào. Theo phong tục, các
con rế thường làm minh tinh (ở nhà táng), theo kiểu cách khác nhau
mang đến phúng viếng.
w) Lễ phá ngục (văn hồi).
Người ta thường dựng một túp lều có kê bàn thờ, bên cạnh làm
ngục giả bằng vải trắng quây thành hình tam giác. Ở giữa cắm cờ liệm
có ghi tên tuổi người chết. Thầy tào dùng kiếm đâm phá ngục để giải
phóng linh hồn về. Có nơi lễ này kéo dài bốn ngày bốn đêm liền.
x) Tế giao của cải cho người chết.

46
Người chết nhưng linh hồn vẫn sống ở thế giới bên kia, cho nên
theo phong tục, người Tày có tục tế giao của cải cho người chết. Lễ tế
này được thực hiện vào buổi tối cuối cùng trước khi đưa tang. Buổi tế
được mở đầu bằng việc tế con ngựa của bên ngoạigiao cho người chết
để làm phương tiện đi lại và chở hàng., mà con cháu sẽ giao cho. Sau
tế con ngựa bên ngoại là đến lượt tế cây tiền của các con gái, cháu gái.
Việc làm cây tiền do chủ nhà phân công sau khi nhập quan tài cho
người chết con gái, cháu gái làm cây tiền để tế thường có lễ vật là con
lợn khoảng 30 kg móc hàm và mang theo thầy cúng, Nghi lễ tế cây
tiền thường có hát lượn đối đáp giữa thầy cúng cây tiền và thầy cúng
chủ tang. Cuộc hát này có nội dung con gái thương tiếc thân sinh ra
mình, kể công lo thân sinh đã vất vả nuôi dưỡng, dạy bảo mình nên
người. Cuộc hát này có thể kéo dài trung bình là tiếng rưỡi, nhưng nếu
không có thì giờ thì có thể rút ngắn lại trong vòng nửa tiếng cho một
cây tiền.
y) Lễ đưa ma (slổng phi).
Trước khi hành lễ (vào lúc mờ sáng), người ta bắn một phát súng
báo hiệu, sau khi thầy tào làm lễ thì con cái nằm sấp ở cửa để khiêng
quan tài qua, với ý nghĩa, con cái cõng cha mẹ đi về với tổ tiên. Quan
tài khiêng xuông sân và đặt lên đòn. Đi đầu đám tang là người cầm bó
đuốc, theo sau một người gánh ít đồ lễ, tiếp đến là thầy tào, rồi đến
con cháu họ hàng thân thiết, láng giềng của người quá cố. Ở Bắc Thái,
khi đưa ma, cháu đích tôn cầm bó đước để đốt nhà táng trước. Ở ngoài
Tày Đăm, sau khi thầy mo cúng đưa đường, người ta cử 16 thành viên
khiêng quan tài qua cửa sau (chứ không phải qua cửa chính). Dẫn đầu
đoàn đưa tang có một vác cuốc, hai người vác xẻng. Các con chạy lên
phía trước nằm úp mặt để khiêng quan tài qua; trên đường đi đến
nghĩa địa, gặp cầu cống, con cái phải nằm giũa cầu.
z) Lễ chôn cất.
Trước khi hạ quan tài xuống, thầy tào thả một con gà trống
xuống huyệt để “an sơn thần”. Ở Bắc Thái, trước lúc hạ huyệt, thầy
cúng phải cầu siêu và niệm tên người quá cố nam 9 lần, nữ 10 lần.

47
Những việc mà hội phe quy định phải làm cho gia đình tang chủ
là toàn bộ việc liên quan đến cuộc sống thường ngày như: kiếm củi
đóm, xay giã gạo, gánh nước cho cà gia đình và khách đi lại dùng,
Hằng ngày phân công người nấu cơm ho gia chủ ăn, nấu cơm phục vụ
cho các thầy cúng. Nếu gia đình có máng nước dẫn về tậnnhà thì lo
theo dõi máng nước; nếu máng nước hỏng phải sửa chữa kịp thời; Phe
còn lo chống đỡ nhà, vì nhà sàn lúc đó không chịu nổi phải chống từ
dưới gầm sàn lên để đảm bảo an toàn khi làm tang lễ Hội Phe còn phải
làm khung khiêng quan tài, làm lười bao nhà chụp xuống quan tài khi
quan tài được khiêng trên đường ra huyện; đảo huyệt lấp huyệt. Nhìn
chung, khi gia đình có tang thì mọi việc nhà từ việc đời thường hàng
ngày cho đến việc liên quan đến tang ma đều do hội phe đảm nhiệm.
Tuy làm nhiều việc như vạy, nhưng hội phe hàng ngày đều về nhà ăn
cơm. Ngoài ra, hội phe còn phải đóng góp cho gia chủ một chai rượu
và một cân gạo. Hội Phe có kĩ cương rất chặt chẽ. Hễ có việc tang,
mỗi gia đình thành viên hội phe cử người tham gia công việc và chịu
sự phân công của trưởng phe. Không chấp nhân một lí từ chối hay trì
hoãn nào. Ai không tuân theo kĩ cương thì bị đuổi khỏi hội.
Sau ba ngày chôn cất, người Tày làm lễ khay tu mả -mở cửa mộ
để báo cho sơn thần biết và thu nạp linh hồn người chết, đồng thời con
cháu tu sửa lại mộ phần: lợp lá mộ, rào xung quanh mộ. Lễ này gia
đình tự làm, có thầy cúng hoặc đệ tử của thầy tào đến cúng.
Cúng 40 ngày; Lễ cúng này có ý nghĩa bớt tang cho nhưng
người thuộc diện để tang ngắn, cũng cho linh hồn dược siêu thoát. Lần
này linh hồn người chết nhập vào thày cúng, nói với con cháu những
điều dặn dò rất cảm động. Lúc này, linh hồn người chết đã vượt qua
cửa ngục số 7 trong thập điện Diêm Vương
Cúng 100 ngày: sau 100 ngày mất gia đình tổ chức cúng 100
ngày cho linh hồn người chết, Cầu mong mọi người trong gia đình
được an toàn, khỏe mạnh. Lúc này linh hồn đang ở cửa ngục số 8.

48
Cúng oóckhuốp -cúng giỗ một năm-giỗ đầu: Đúng một năm
sau ngày mất, gia đình chuẩn bị xôi gà để cúng linh hồn người chết,
Theo quan niệm của người Tày, lúc này linh hồn đang ở cửa ngục số 9
Cúng oóc tang - cúng mãn tang-cúng giỗ ba năm: Sau giỗ ba
năm linh hồn người chết được chuyển lên bàn thờ tổ tiên. Người Tày
quan niệm, lúc này đã vượt qua thử thách ở dưới địa ngục đã qua hết
thử thách thứ 10 của thập điện diêm vương, nay đã chính thức được
lên mường Ban để đầu thai trở lại kiếp người. Các con trai từ nay đến
hết thời kỳ chịu tang và phần hồn của người quá cố ở nhà được nhận
vào bàn thờ tổ tiên.
3.3. Lễ tết – Kin chiêng.
Trong một năm người Tày ăn nhiều cái Tết theo âm lịch. Tết
tháng Giêng là to nhất, dài nhất, vì có mổ lợn và mổ ít nhất bốn con gà
thiến, mùng 1, 2, 3 mỗi ngày mổ một con, “đắp nọi” (ngày 29 cuối
tháng) mổ một con. Có làm nhiều thứ bánh: bánh chưng dài, sa cao
(bánh khảo), pèng gió (chè lam), khẩu sy (bánh bòng)… Dài ngày, vì
ăn Tết hôm tiễn ông Táo và kéo dài suốt tháng Giêng. Các nàng sao,
phủ báo ( cô gái, chàng trai), thì “du xuân” cho hết tháng.
Người Tày quan niệm rằng: vào ngày Chiêng, tổ tiên ở mường
Trời sẽ về ăn Tết cùng con cháu. Nên hôm tiễn ông Táo về trời, gia
đình nào cũng đặt mâm cúng, nhờ ông Táo “xin phép” Thượng đình
cho tổ tiên về ăn Tết.

49
Đêm giao thừa, trên bàn thờ bày đủ các thứ bánh, kẹo, mứt,
chuối, hoa quả, đủ các thứ rượu,…. Đèn nến thắp sáng choang. Hương
thắp trên bàn thờ tổ tiên, ngoài ngõ, trên bàn thờ vua Bếp, Thổ công,
trước cửa chuồng gà, lợn, trâu. Nhà nào cũng mở “toang” cửa (trước
đây còn đốt pháo). Ông bà, cha mẹ, các con lớn tuổi, mũ áo chỉnh tề
“trực” đón tổ tiên về. Một người con lớn tuổi, lúc sáng sớm mùng Một
Tết nhanh chân ra bến nước, cắm hương, gánh về một gánh nước đầu
năm gọi là “gánh nước tiên”, đun ấm bỏ lá thơm, mọi người rửa mặt
sạch sẽ, đón tổ tiên. Ngày Tết, ai cũng mặc quần áo mới. Trẻ nhỏ phải
có mũ đẹp. Các nàng sao, phủ báo phải diện. Sáng mùng một cả nhà
đứng trước bàn thờ lạy tổ tiên. Mùng hai con gái đi làm ăn dù xa đến
đâu cũng phải cùng chồng con “gồng gánh” bánh kẹo, đủ các loại
bánh, rượu và nhất phải có một con gà trống thiến to béo về thăm cha
mẹ (ông bà ngoại). Ngày mùng hai, mùng ba các thành viên trong thân
tộc, xóm giềng đến thăm, chúc Tết lẫn nhau: năm mới làm ăn tiến bộ.
Trẻ nhỏ được thưởng tiền “phong bao” (tiền mới gói trong giấy đỏ).
Người già được chúc trường thọ. Nhà nào cũng bày một bàn đầy bánh,
rượu. Ai đến thăm đều phải ăn, phải uống. “ Không ăn không uống”
thì sẽ “giông cả năm”, cái tai sẽ điếc!
Bánh chưng đặt cúng trên bàn thờ, gọi là pê mê (bánh mẹ), gói
hết một ký hai gạo nếp. Nếp vì pất (dịch nguyên chữ: mỡ vịt) là loại
đặc sản địa phương, thơm, ngon. Bánh nhân muối phải tra thêm hai lát
khinh phya (gừng trên núi đá), nấu chín có mùi thơm đặc biệt. Bánh
nhân đường, phải tra thêm bốn lát củ hoài sơn ở bốn góc bánh, vừa
ngon vừa béo ngậy. Con gái đi thăm “ngoại” bánh chưng mang theo
cũng phải to, phải có khinh phya và củ hoài sơn trong nhân.
Nhà nào cũng cất rượu, có cả rượu nếp. Uống “thả cửa”.
Còn các nàng sao, phủ báo thì trang điểm đi chơi hội chùa, hội
đền, hội “lồng tổng”, ném còn, chơi các trò chơi, chủ yếu là hát giao
duyên tìm bạn. Bạn cùng giới, tâm đồng ý hợp, kéo về nhà trình cha
mẹ để kết “tống” (làm bạn) và tìm ra những bạn khác giới “đầy hứa
hẹn tương lai”, cũng kéo về trình ba mẹ. Họ cùng bóc bánh, cùng xào
nấu thịt, rau, ăn liên hoan mừng xuân, mừng bạn. Các bậc cha mẹ hết
thảy đều vui. Vui hết nhà này sang nhà khác. Hết tháng Giêng nhiều
nhà còn làm lễ “ cầu yên, giải hạn, chúc phúc, chúc thọ”. Bà Bụt được
mời về. Ông giàng được mời về. Vừa then, vừa hát. Bà con thân tộc
được mời đến chia vui. Chủ nhà làm mâm cơm “thịnh soạn” mời mọi
người cùng ăn.
50
Một cái Tết “tháng Giêng là tháng ăn chơi” có tự bao giờ, lâu
đời như thế vẫn tồn tại trong đời sống người Tày. Đêm 29 tháng
Giêng gọi là “đắp nọi” ( đắp là so, nọi là ít, là thiếu), trên bàn thờ lại
có mâm cúng, lại đèn nến sáng chưng, lại thắp hương, rồi hoá vàng
(đốt hoa vàng tiền giấy), có ý mời tổ tiên ở lại phù hộ con cháu làm
ăn. Sau ba ngày Tết người lên nương, đốt rẫy, cũng đã đắp phai, dọn
mương, dẫn nước về chuẩn bị cấy xuân, tra ngô, đỗ,…
Từ ngày mai, người người, nhà nhà mới thực sự bắt tay vào công
việc đồng áng, mương rẫy, lam lũ quanh năm. Cấy lúa, nuôi lợn gà và
lại đợi để đón một cái “chiêng” như thế vào đầu mùa xuân năm sau.

51

You might also like