You are on page 1of 21

ĐẤT NƯỚC

-Trích trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm-
I. MỞ BÀI
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành
trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp dẫn bạn đọc
bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt
Nam, đặc biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh hùng. Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu chương
V của bản trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm được xem là một trong những đoạn
thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Âm điệu chính của đoạn trích là những lời ngợi
ca, những suy ngẫm sâu sắc và từ đó thể hiện một cái nhìn mới mẻ về đất nước, thời đại.
II. PHÂN TÍCH
1. Giới thiệu về bài thơ
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
- Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa
không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974.
- Mục đích sáng tác: Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về
non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà
nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
- Đoạn trích là những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về đất nước trên nhiều bình diện (chiều dài của lịch
sử,chiều rộng của địa lý, chiều sâu của văn hoá, phong tục…). Qua đó, nhà thơ khẳng định tư tưởng lớn
"Đất nước của Nhân dân" và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước.
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt : địa lý, lịch sử, văn
hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
2. Phân tích chín câu thơ đầu:
2.1. Khái quát
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm
nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các
nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành
tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã
viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:

Việt Nam đất nước ta ơi


Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ
đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh
và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian
rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn
hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".

1
- Đoạn thơ gồm 9 câu thơ đầu này là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về Đất nước và để trả lời cho
các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? và quá trình lớn lên của đất nước như thế
nào?
2.2. Hai câu thơ đầu: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Cội nguồn thiêng liêng của Đất nước (Đất nước có tự bao giờ)
Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước để trả
lời cho câu hỏi "Đất nước có từ bao giờ?". Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà thơ khẳng định đất nước đã
có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về thế giới quanh mình thì đất nước “đã có rồi”.
Không thể trả lời chính xác rằng đất nước có tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã mượn cách mở đầu của
truyện cổ tích "ngày xửa, ngày xưa" để nói về cội nguồn của đất nước. Vận dụng ngôn từ một cách độc
đáo, sáng tạo, nhà thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất
lâu đời mà còn gợi ra một không gian cổ tích, thần thoại, khiến cội nguồn đất nước trở nên thiêng liêng, kì
diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với biết bao câu chuyện cổ tích,
thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn
sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn cho ta để lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện
cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” và bốn chữ "ngày xửa, ngày xưa" vang lên đầy tự hào góp phần
khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)
2.3. Bảy câu thơ: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
... Đất nước có từ ngày đó
Đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người (Đất nước tồn tại ở đâu?)
Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như "Đất nước là gì?" và "Đất nước tồn tại
ở đâu?" và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu tượng khó định nghĩa và khó nắm
bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho chúng ta thấy đất nước thiêng liêng, kì diệu nhưng
không ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân thiết đến bất ngờ.
- Đất nước là những người thân yêu nhất: Đất nước không ở đâu xa mà là những người thân yêu nhất
như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với "miếng trầu bà ăn", là hình ảnh người mẹ với "câu chuyện
mẹ kể" và "tóc mẹ thì bới sau đầu", là cả cha và mẹ trong câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay
muối mặn". Không phải ngẫu nhiên khi viết về đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến
hình ảnh người mẹ và nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh
người mẹ. Hình ảnh tổ quốc trở thành mĩ từ thật đẹp trong thơ Chế Lan Viên khiến tác giả cho rằng mình
đã đi nhưng cần vượt nữa để được gặp lại bà mẹ tổ quốc: "Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương". Nhà thơ
Tố Hữu lại liên tưởng đất nước giống như hình ảnh bà mẹ gánh gồng, tảo tần:
Việt Nam, Ôi tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều,
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng".
(Chào xuân 67 - Tố Hữu)
- Đất nước là những gì bình thường, bình dị nhất xung quanh cuộc sống của mỗi con người: Đất
nước không cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, có trong
những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo...

2
+ Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như tục ăn trầu, tục bới tóc
sau đầu:
++) Tục ăn trầu: Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế hệ người Việt Nam.
Người Việt Nam có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Miếng trầu không chỉ xuất hiện trong các dịp ăn
hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay... mà còn được dùng mời khách đến nhà để tỏ lòng hiếu khách. Hình ảnh
“miếng trầu” cũng là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ
tích, trong ca dao, thơ ca...
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)
Miếng trầu trở thành hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung, son sắc trong tâm hồn dân
tộc. Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi nhớ về
câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Như vậy, trong
miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn năm văn hóa, văn hiến của đất nước. Từ phong tục ăn trầu, người Việt
còn có tục nhuộm răng đen:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
++) Tục bới tóc sau đầu: Câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" không chỉ gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ
tục lâu đời của người Việt mà còn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với búi tóc sau gáy, làm nổi bật vẻ đẹp
dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.
+ Đất nước còn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc, có
trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Có lẽ câu thơ
về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao đẹp:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm biết
bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng
mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng son sắc, mặn nồng.
2.4. Hai câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
và: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất nước lớn lên, trưởng thành
- Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tại mà nhà thơ còn nỗ lực hình dung quá trình lớn lên,
trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn lên của Đất nước là văn hóa được kết
tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Để nói hết được những điều đó, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình ảnh cây tre, vốn từ lâu đã trở nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi
người Việt Nam:
"Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"
(Cây tre Việt Nam - Thép Mới)
Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre đánh giặc. Hai
chữ “lớn lên” gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai
phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Cây tre vì thế đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh
tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Cây tre còn trở thành biểu tượng cho những
phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam thật thà chất phác, cần cù, chăm chỉ, đôn hậu thuỷ chung, yêu
chuộng hoà bình... Bởi vì:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)

3
=> Câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" như vậy đã thể hiện quá trình lớn
lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc
trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
- Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả để làm ra hạt
lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu thơ "Hạt gạo phải một nắng hai
sương xay, giã, giần, sàng". Thành ngữ "Một nắng, hai sương" đã cho thấy đất nước lớn lên trong nhọc
nhằn, lam lũ. Các động từ “Xay - giã - giần - sàng” là những hoạt động trong quy trình sản xuất ra hạt gạo.
Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã,
giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân. Bởi vậy, ăn
hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
(Ca dao)
Cũng vì vậy mà nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và khái quát quá trình đi lên đầy gian lao của đất
nước:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
Tiểu kết: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng một cách đầy sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân
gian như: sử dụng cách mở đầu của chuyện cổ tích, sử dụng thành ngữ, nhắc đến các câu chuyện cổ tích,
truyền thuyết, hình ảnh ca dao, phong tục tập quán để thể hiện quan niệm đất nước rất gần gũi thân thiết
với mỗi con người. Những cấu trúc được lặp đi lặp lại như "Đất nước có từ...", "Đất nước có trong...",
"Đất nước bắt đầu...", "Đất nước lớn lên..." góp phần thể hiện quá trình sinh thành, tồn tại và lớn lên của
đất nước, trải qua thời gian và trong tiềm thức của con người. Cùng với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ
dài ngắn không đều; ngôn từ, hình ảnh giản dị, gần gũi; nhịp điệu linh hoạt; chất trữ tình kết hợp với chất
chính luận, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã tạo nên những câu thơ hấp dẫn, cảm động... Những đặc sắc
nghệ thuật này đã tạo ra vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và thể hiện sâu sắc hơn những cảm
nhận sâu sắc, mới mẻ, độc đáo của ông về đất nước. Đoạn trích "Đất nước" giúp chúng ta thấy yêu và gắn
bó hơn với quê hương, đất nước mình. Từ đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình với đất nước.
3. Đoạn thơ: Đất là nơi anh đến trường
...Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
3.1. Khái quát
- Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về đất nước, để trả lời
cho các câu hỏi: "Đất nước có từ bao giờ?", " Đất nước tồn tại ở đâu?" và "Quá trình lớn lên của đất nước
như thế nào?" thì đến đoạn thơ này nhà thơ muốn đi tìm định nghĩa về đất nước và cảm nhận đất nước ở
các phương diện địa lí, lịch sử và chiều sâu văn hóa, phong tục
3.2. Đất nước được cảm nhận theo chiều rộng về địa lí (chiều không gian)
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã rất táo bạo khi định nghĩa đất nước bằng cách chiết tự và tách đất
nước thành hai thành tố Đất và Nước. Nhà thơ định nghĩa Đất trong 3 câu thơ, định nghĩa Nước trong 3
câu thơ và hợp thành Đất Nước để định nghĩa cũng trong 3 câu thơ. Cách thức định nghĩa có vẻ rất phi
khoa học nhưng lại rất có hiệu quả khi thể hiện được những cảm nhận rất sâu sắc về đất nước.
*Hai câu thơ: Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là không gian riêng tư, quen thuộc với mỗi người
Ban đầu nhà thơ tách đất nước thành hai thành tố, định nghĩa. Đất và nước gắn liền với những kỉ
niệm thời thơ ấu của anh và em. Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em
trong sáng dịu hiền. Đất là con đường hàng ngày anh tới trường để học tập, trang bị kiến thức và hành
trang tri thức giúp anh tự tin bước vào đời, làm chủ cuộc đời. Nước là dòng sông em tắm mát, là dòng

4
sông của quê hương chở nặng phù sa làm bãi mía, nương dâu, ngô khoai biêng biếc, có bên lở bên bồi, có
khi vơi khi đầy làm đẹp thêm làng quê yêu dấu. Quê hương ai cũng có một dòng sông với những con
thuyền giấy chở bao kỉ niệm tuổi thơ nên phải xa quê hương thì dòng sông quê hương thường trở thành
nỗi nhớ da diết. Để lòng ta chợt vui trong ngày trở về:
Quê hương tôi cũng có một dòng sông bên nhà
Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi
Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy
Hôm nay tôi trở về, lòng chợt vui thấy sông không già
(Trở về dòng sông - Hoàng Hiệp)
=> Với cách thức tách thành hai thành tố để định nghĩa từng thành tố như vậy, hai câu thơ đã biểu
đạt đất nước gắn bó với mỗi cá thể, là nơi mỗi người chúng ta sinh sống và học tập, là không gian riêng tư,
quen thuộc với mỗi con người.
* Hai câu thơ: Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước là nơi hò hẹn của tình yêu
- Tiếp đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ghép hai thành tố ấy lại thành Đất Nước để định nghĩa. Khi đất
nước không bị tách rời mà hòa hợp với nhau làm một thì đất nước thành "nơi ta hò hẹn", "nơi em đánh rơi
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm". Đất nước còn là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở thiết tha, say đắm. Trong hai
câu thơ này, đất nước bỗng trở thành không gian của tình yêu, gợi ra cả một không gian làng quê yên ả,
thanh bình với cây đa, bến nước, sân đình, gợi ra những đêm trăng hò hẹn bên nhịp cầu tre lắt lẻo hay
trong những đêm hội làng có gánh chèo hát thâu đêm:
Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em (Mưa xuân - Nguyễn Bính)

Đất nước còn là không gian đầy nhớ thương của tình yêu thể hiện qua hình ảnh chiếc khăn. Câu
thơ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” đậm đà chất dân ca ca dao và gợi nhắc
đến bài ca dao về chiếc khăn gợi thương, gợi nhớ:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.
Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị trở thành vật chứng cho tình yêu đôi lứa làm biết bao người phải xúc
động, bồi hồi:
Gói một chùm hoa
Trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng
Sang nhà hàng xóm”
(Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn)
* Hai câu thơ: Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Đất nước là không gian lãnh thổ
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sau đó lại tiếp tục tách đất nước thành hai thành tố và sử dụng các hình ảnh
ca dao, dân ca để làm nổi bật vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
+ Với hình ảnh ca dao "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc", đất chính là núi rừng, bờ cõi, là rừng
vàng, đồng xanh, bờ dâu, bãi mía...

5
+ Với hình ảnh ca dao "con cá ngư ông móng nước biển khơi", nước là sông, là bể, gợi hình ảnh những
dòng sông đổ ra biển cả với sóng nước mênh mang và "Biển cho ta cá như lòng mẹ - Nuôi lớn hồn ta tự
thuở nào"
=> Hai hình ảnh ca dao này mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương
cả tác giả. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ, kì vĩ và giàu đẹp vô
cùng. Đất nước chính là núi rừng, sông bể, là không gian lãnh thổ thiêng liêng. Không gian lãnh thổ ấy đã
từng được Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo:
Núi sông bờ cõi đã chia
Lý Thường Kiệt cũng khẳng định đầy chắc chắn trong "Nam quốc sơn hà":
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
* Ba câu thơ: Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Đất nước là nơi dân mình sinh sống, đoàn tụ
Đất nước còn không gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây
giờ…”, là nơi Chim về, là nơi Rồng ở.
+ Câu thơ "Đất là nơi Chim về” gợi hình ảnh con chim Lạc trong văn hóa của đất nước các vua
Hùng, cho thấy đất nước chính là nơi sinh sống của người mẹ Âu Cơ với 50 người con trên rừng.
+ Câu thơ" Nước là nơi Rồng ở" lại cho thấy đất nước là biển khơi, nơi Lạc Long Quân sinh sống
cùng 50 người con.
=> Ba câu thơ không chỉ khẳng định đất nước là nơi đồng bào ta sinh sống, đoàn tụ trải qua bao
nhiêu thế hệ mà còn gợi nhắc cả nguồn gốc cha Rồng, mẹ Tiên gắn với lòng biết ơn tổ tiên, nguồn cội.
3.3. Đất nước được cảm nhận ở chiều dài lịch sử (chiều thời gian)
- Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở
phương diện thời gian lịch sử:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Trong đó các từ láy "đằng đẵng", "mênh mông" đã nhấn mạnh chiều dài của thời gian lịch sử,
chiều rộng của không gian địa lí, gợi hình ảnh một đất nước có lịch sử lâu đời và một vùng lãnh thổ rộng
lớn.
- Nếu như chiều rộng của đất nước bao la rộng lớn gắn với không gian riêng tư, quen thuộc của mỗi
người, là không gian hò hẹn của tình yêu, là không gian lãnh thổ với rừng vàng biển bạc, là không gian
sinh tồn của đồng bào ta thì chiều dài lịch sử đằng đẵng, lâu đời của đất nước được bắt đầu từ truyền
thuyết xa xưa, từ thuở Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau, yêu nhau rồi đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.
Tất cả các dân tộc anh em sinh sống trên mảnh đất Việt Nam như vậy đều là ruột thịt với nhau, đều từ một
cha, một mẹ sinh ra. Nguồn gốc đất nước vì thế trở nên thiêng liêng trong hai chữ "đồng bào":
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
- Từ khi cha Rồng mẹ Tiên sinh ra nòi giống tiên rồng đến nay có biết bao thế hệ người Việt Nam sinh ra,
lớn lên, yêu nhau, sinh con, đẻ cái rồi từ giã cõi đời. Hình ảnh đất nước vì thế luôn tiềm tàng trong mối
quan hệ giữa các thế hệ; giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Đất nước là sự tiếp nối của biết bao nhiêu thế hệ, 4000 năm đất nước là sự tiếp nối của 4000 lớp
người giống nhau lứa tuổi. Họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm và họ chính là người làm ra đất nước.
- Nhưng các thế hệ người Việt Nam không tồn tại riêng lẻ mà gắn kết với nhau, thế hệ sau kế thừa, tiếp
nối thế hệ trước. Mỗi thế hệ người Việt Nam đều ý thức được vai trò, sứ mệnh của mình:
Gánh vác phần người đi trước để lại

6
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
"Những ai đã khuất" là chỉ cha ông trong quá khứ, đã cống hiến hết đời mình và đã nằm xuống.
"Những ai bây giờ" là chỉ những con người của thời hiện tại biết gánh vác phần việc mà cha ông để lại, kế
thừa gìn giữ truyền thống từ cha ông và sau này sẽ dặn dò, giao lại trách nhiệm ấy cho con cháu. Hai
chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc của đất nước, giống
nòi. Cúi đầu để hướng về lịch sử, về công lao của các vua Hùng đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc
mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu.
Tất cả các thế hệ người Việt Nam đều ý thức được trách nhiệm, sứ mệnh của mình là yêu nhau,
sinh con đẻ cái để bảo tồn nòi giống. Nhưng trách nhiệm, sứ mệnh thiêng liêng hơn là phải gìn giữ, nhắc
nhở, dặn dò nhau luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội, tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc.
Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một nơi để quay về, đó chính là
quê cha đất Tổ vua Hùng. Là con cháu vua Hùng thì đều phải biết:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
(Ca dao)
3.4. Đất nước còn được cảm nhận ít nhiều ở phương diện văn hóa
- Khi viết về chiều dài lịch sử của đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến tín ngưỡng
vua Hùng, một tín ngưỡng phổ biến tạo nên bản sắc văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, đoạn
thơ còn sử dụng nhiều chất liệu văn hóa, văn học dân gian như truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ,
hình ảnh chim Lạc, nhắc đến nguồn gốc rồng tiên và các hình ảnh ca dao như chim phượng hoàng bay về
hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi... Việc nhắc đến tín ngưỡng vua Hùng và sử dụng các
chất liệu văn hóa, văn học dân gian ấy đã thể hiện những cảm nhận về đất nước ở chiều sâu văn hóa,
phong tục.
Tiểu kết: Với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt không bó buộc,
chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với các biện pháp điệp từ, điệp cấu
trúc... Đoạn thơ đã thể hiện những cảm nhận, cách thể hiện mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều
phương diện khiến hình ảnh đất nước hiện lên trong tâm trí người đọc sinh động mà hấp dẫn lạ thường.
Đoạn thơ là tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc, đánh động trong lòng ta những xúc động sâu xa về đất
nước, về ý thức nguồn cội. Từ đó mỗi người nâng cao ý thức trách nhiệm với đất nước.
4. Đoạn thơ: Trong anh và em hôm nay
...Làm nên Đất Nước muôn đời
Đất nước rất thân thiết, quan trọng và trách nhiệm của mỗi người với đất nước
4.1. Khái quát
- Đoạn thơ vẫn nằm trong mạch cảm xúc về đất nước, nhân dân và để thể hiện tư tưởng đất nước
của nhân dân. Nếu ở các đoạn thơ trước nhà thơ đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi Đất nước có tự bao giờ?
Đất nước tồn tại ở đâu? Đất nước lớn lên như thế nào? và cảm nhận đất nước một cách đa chiều trong
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục thì đoạn thơ này lại cho chúng ta
thấy đất nước có trong mỗi con người, hài hòa giữa cái chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể, là sự
nối tiếp của các thế hệ. Từ đó nhà thơ đã nêu rõ trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- Trong suốt đoạn trích và đoạn thơ này nhà thơ viết hoa hai chữ Đất Nước khiến nó trở thành một
mĩ từ gợi sự thiêng liêng, cao cả, bộc lộ sự tự hào, yêu mến về đất nước. Hình thức đoạn thơ là lời tâm
tình của anh và em và với 13 câu thơ sử dụng cấu trúc tổng
phân hợp, chất trữ tình hòa quyện với chính luận khiến đoạn thơ viết về đất nước mà như lời thổ lộ, tâm
tình của đôi lứa yêu nhau.
4.2. Hai câu thơ: Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
Đất nước không chỉ gần gũi thân thiết với mỗi con người, như những người thân yêu nhất là bà, là
cha và mẹ; là những gì bình thường, bình dị, quen thuộc nhất xung quanh mỗi chúng ta như miếng trầu bà

7
ăn, câu chuyện mẹ kể, cái kèo, cái cột, là những phong tục tập quán, là tình nghĩa sâu nặng của cha và
mẹ... mà gần gũi thân thiết hơn nữa khi nó còn có ở bên trong mỗi con người. Nguyễn Khoa Điềm cảm
nhận một cách rất tự nhiên rằng đất nước đã thấm vào bên trong, đã hòa vào trong mỗi cá thể nên trong
anh, trong em, trong mỗi chúng ta đều có một phần là đất nước. Sự sống của mỗi cá nhân không phải là
của riêng người đó mà còn có phần thuộc về đất nước, bởi vì mỗi con người từ khi sinh ra đều đã thừa
hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước. Chỉ "một phần" đất nước nhỏ bé bên
trong mỗi con người ấy thôi nhưng đủ làm ta xúc động, tự hào vì nhận ra mình đã góp phần làm nên đất
nước.
4.3. Bốn câu thơ: Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.
Đất nước là ở sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể.
- Nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của con người với đất nước bằng những dòng
thơ giàu chất trữ tình chính luận. Trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” thì "hai đứa" ở đây là anh và em.
Cầm tay là một hành động thể hiện tình cảm thắm thiết, yêu thương và tin cậy, là giao duyên, là tình yêu
đôi lứa. Trong anh và em đều có một phần là đất nước nên khi hai đứa cầm tay nhau thì phần đất nước
trong cả hai hòa nhập làm một, tạo nên sự hài hòa, nồng thắm. Trong cái cầm tay ấy hóa ra không chỉ có
tình yêu đôi lứa mà còn có tình yêu quê hương đất nước. Sự hài hòa của tình yêu đôi lứa với tình yêu quê
hương đất nước cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong những câu thơ rất hay về tình yêu:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần...
Nhà thơ Giang Nam đã nhận thức ra rằng tình yêu đôi lứa đã làm cho tình yêu quê hương, đất
nước càng thêm sâu đậm:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương - Giang Nam)
- Đất nước là sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, cái cá nhân và cái tập thể nên khi anh và em
nắm tay mọi người, phần đất nước trong mỗi con người nhập vào làm một, sẽ tạo nên một đất nước to lớn,
tạo nên sức mạnh đoàn kết có thể nhấn chìm tất cả và giúp đất nước vươn mình đứng dậy. Sức mạnh to
lớn của tinh thần đoàn kết đã được ông cha ta đúc kết trong câu ca:
Một cây làm chẳng nên non
Hai cây chụm lại nên hòn núi cao
Bác Hồ cũng đã khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là đi từ cái riêng đến cái chung, cái cá nhân đến cái
tập thể; là cả một quá trình lớn lên của lịch sử dân tộc. Chỉ khi nào ba cây biết chụm lại thì mới nên hòn
núi cao, khi nào các cá nhân biết nắm tay nhau để đất nước hài hòa làm một thì đất nước mới thực sự vẹn
tròn, to lớn.
=> Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ; cách sử dụng các tính từ đi liền nhau “hài hòa, nồng
thắm”, “vẹn tròn, to lớn”; đặc biệt là biện pháp lặp cấu trúc “Khi...Đất Nước..." tạo sự cân xứng, liền
mạch, làm cho ngôn từ trở nên uyển chuyển, linh hoạt và có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc. Từ đó, đoạn thơ
muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: Tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần đoàn kết dân tộc
là những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh Việt Nam.
4.4. Ba câu thơ: Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng

8
Cảm nhận về đất nước trong mối quan hệ giữa các thế hệ và niềm tin vào tương lai đất nước
- Trước hết, ba câu thơ thể hiện những cảm nhận về đất nước trong mối hệ giữa các thế hệ. Ở đoạn
thơ trước, khi nhắc về chiều dài lịch sử của đất nước nhà thơ đã nhắc đến bao nhiêu thế hệ đi trước trong
quá khứ (những ai đã khuất), nhắc đến những thế hệ của hôm nay (những ai bây giờ), thế hệ tương lai (con
cháu mai sau) và đến đoạn thơ này nhà thơ lại nhắc đến ta của hôm nay và "mai này" của "con ta", tức là
nhắc đến một tương lai gần. Nhà thơ tin rằng, sẽ không phải đợi lâu mà chỉ cần đến thế hệ "con ta", khi
chúng lớn lên chúng sẽ đưa đất nước đi xa, đến những ngày tháng tươi đẹp và "mơ mộng" nhất. Từ "mơ
mộng" chỉ cái đẹp trong trí tưởng tượng, sản phẩm của cảm xúc lãng mạn, được đặt trong ba câu thơ gợi
liên tưởng thế hệ con cháu sẽ tiếp bước ông cha để xây dựng đất nước “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ
Chí Minh).
- Khi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sáng tác trường ca "Mặt đường khát vọng" vào năm 1971, đất
nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy cam go, thử thách, gian khổ, hi sinh và chưa biết bao
giờ sẽ chiến thắng. Vậy mà ông đã tin rằng trong một tương lai rất gần, đất nước sẽ đến những tháng ngày
tươi đẹp nhất. Điều đó rất đáng quý và đó chính là cảm hứng lãng mạn mà chúng ta thường thấy trong các
tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Chính niềm tin và cảm hứng lãng mạn ấy đã nâng đỡ
con người Việt Nam trong khó khăn, thử thách để chúng ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.
4.5. Bốn câu thơ: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Đất nước là máu, là xương, là huyết lệ nên mỗi con người phải có ý thức trách nhiệm với đất nước
- Cách xưng hô “Em ơi em” như một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao nỗi niềm đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và phát hiện ra nhiều điều mới lạ về đất nước. Cụm từ này khiến
đoạn thơ như một lời thủ thỉ, tâm tình của anh với em, của đôi lứa yêu nhau. Nghệ thuật tăng cấp thể hiện
trong suốt đoạn trích "Đất nước", từ chỗ khẳng định đất nước là những gì gần gũi thân thiết xung quanh
cuộc sống con người đến chỗ ở trong mỗi con người, rồi đến đoạn thơ này thì không chỉ ở trong mà quan
trọng hơn là máu, là xương, là phần không thể thiếu của cơ thể sống. Đất nước là huyết lệ, là thân thể ruột
thịt của chính mình, là mồ hôi, nước mắt của cha ông qua bao nhiêu thế hệ. Đất nước gắn bó, thân thiết và
quan trọng với mỗi người như vậy nên mỗi con người đều phải có ý thức trách nhiệm với đất nước.
- Điệp từ "phải biết" được lặp lại hai lần và được đặt ở đầu các câu thơ như các mệnh lệnh phát ra
từ con tim làm giọng thơ trở nên mạnh mẽ, chân thành thể hiện ý thức trách nhiệm sâu sắc với non sông,
đất nước. Trách nhiệm của mỗi con người là phải biết gắn bó, san sẻ và hóa thân cho đất nước. Với
Nguyễn Khoa Điềm “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức về
nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng.
+ Gắn bó, san sẻ: Là phải biết yêu mến, sẻ chia, cống hiến, thậm chí phải biết hi sinh vì đất nước
như nhà thơ Chế Lan Viên từng nói một cách cảm động:
Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà,ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)
+ Hóa thân: Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa
thân như cô Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám" hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và
quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu
leo quanh cây cau trong truyện cổ tích "Trầu cau". Nhưng hóa thân thành đất nước thì phải như anh giải
phóng quân trong bài thơ "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn

9
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Hóa thân thành đất nước chính là sự nhập thân hay biến mình vào đất nước. Tư thế hi sinh trong
thế tấn công của anh giải phóng quân ấy đã hóa thành tư thế, dáng hình của đất nước anh hùng, quật khởi.
Cũng giống như thế là sự hóa thân của người con gái trong "Núi đôi" của Vũ Cao:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
Hay cô gái hóa làn mây trắng trong thơ Lâm Thị Mĩ Dạ:
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh
Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hoá thành những làn mây trắng
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
- Mỗi con người cần phải biết gắn bó, san sẻ, hóa thân để làm nên đất nước muôn đời như cha ông
ta đã hóa thân thành núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên... đã gắn bó, san sẻ để làm nên
lịch sử mấy ngàn năm của đất nước. Khát vọng đất nước trường tồn là khát vọng của người Việt Nam từ
bao đời nay, đã đi vào những áng văn chương bất hủ của dân tộc:
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nên thái bình vững chắc.
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Hoặc trong "Tụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu
Tiểu kết: Thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt không bó buộc,
chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với các biện pháp điệp từ, điệp cấu
trúc, nghệ thuật tăng tiến, giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình
ảnh thể hiện một hồn thơ giàu tính suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi ... tác
động đến cả nhận thức và gợi nhiều xúc cảm cho người đọc. Đoạn thơ không phải là lời giáo huấn khô
khan mà như lời thủ thỉ, tâm tình, nhắn nhủ tha thiết dễ đi vào lòng người, thức tỉnh thanh niên các vùng
đô thị tạm chiếm miền Nam giúp họ nhận ra vai trò sứ mệnh của thế hệ mình, trách nhiệm với non sông,
đất nước. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai đất nước và tiền đồ tươi sáng cùa dân tộc,
in đậm tính công dân của thời đại mới.
5. Đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
... Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí (Nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước)
5.1. Khái quát
- Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng liêng của đất
nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên trưởng thành trong gian lao, vất
vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian địa lí mênh mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu
đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người
đều phải có trách nhiệm với đấy nước.
- Ở đoạn thơ này, nhà thơ bắt đầu đi vào tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn trích là tư
tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng tiến bộ đã manh nha từ thời
trung đại. Từ "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi:

10
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định "Nước là dân, dân là nước"... Đến giai đoạn 1945 - 1975,
tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học. Không chỉ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà
trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó
là nền tảng của lòng yêu nước. Thanh Thảo trong trường ca "Những người đi tới biển" đã khắc hoạ chân
dung của những con người bình dị và dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
- Tuy nhiên, phải đến "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của nhân dân mới
trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố thuộc về đất nước. Trong đoạn
trích "Đất nước" nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử,
chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được
triển khai theo ba chiều ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên
nền văn hóa, văn hiến lâu đời của đất nước.
- Đoạn thơ 12 câu này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí, khẳng định chính
nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước. Tác giả không chỉ viết hoa từ "Đất Nước" mà còn viết hoa từ
"Nhân dân" để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng.
5.2. Tám câu thơ:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
... Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
a. Bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên quê hương, đất nước
- Trước hết, trong đoạn thơ nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt các tên địa danh, các kì quan thiên
nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Những
danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước như núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở
Thanh Hóa, đất Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ, thắng cảnh Hạ Long ở Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên ở
Quảng Nam, các tên địa danh Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở miền Nam... Đây vốn là những
danh lam thắng cảnh do tự nhiên sắp đặt, là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lý từ
hàng ngàn, hàng vạn năm. Những tên địa danh, những danh lam thắng cảnh, tên núi tên sông, tên đất, tên
làng, hình sông, thế núi ấy đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên đất nước tươi đẹp mà nhìn đâu cũng có
cảnh đẹp, thấy núi cao, biển rộng, sông dài, thấy những dòng sông đỏ nặng phù sa và nhiều tôm cá, những
biển lúa mênh mông với những cánh cò bay lả bay la... Những tên địa danh ấy trước hết gợi cho chúng ta
bao nhiêu niềm yêu mến, tự hào và khát khao muốn được khám phá vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên quê
hương đất nước mình.
b. Sự hóa thân của nhân dân
- Nhưng trong đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm không khám phá bức tranh thiên nhiên quê hương,
đất nước dưới góc độ khoa học, không nhìn thiên nhiên quê hương đất nước tươi đẹp như là tác phẩm của
tạo hóa mà với những suy tưởng độc đáo, sâu sắc nhà thơ cho thấy các danh lam thắng cảnh, hình sông thế
núi, tên đất tên làng... ấy đều do nhân dân hóa thân mà thành.
- Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa thân như cô
Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám" hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và quả thị. Hóa
thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây
cau trong truyện cổ tích "Trầu cau". Theo nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm núi Vọng Phu là hóa thân của
người vợ nhớ chồng. Tình cảm nhớ thương, thủy chung, son sắt khiến người vợ chờ chồng đến hóa đá.
Hòn Trống Mái là hóa thân của cặp vợ chồng yêu nhau, nguyện hóa đá để mãi mãi được bên nhau. Núi
Bút, non nghiên là hóa thân của người học trò nghèo vượt khó cần cù, hiếu học. Ngay cả con cóc, con gà
của quê hương cũng hóa mình thành thắng cảnh Hạ Long... Mỗi địa danh đều gắn với một truyền thuyết,
sự tích riêng, tạo nên một thế giới cổ tích huyền diệu. Nhưng sâu sắc và tài hoa hơn là Nguyễn Khoa Điềm

11
đã phát hiện ra không ai khác, chính những người dân bình thường vô danh bình dị, đã sống và chết giản
dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã hóa thân thành dáng hình đất nước, làm nên
vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
(Mở rộng về hóa thân: Xem mục 4.5)
c. Bức tranh thiên nhiên đất nước chính là tâm hồn, máu thịt của nhân dân
Mỗi địa danh không chỉ là một nét tô điểm cho bức tranh thiên nhiên đất nước mà còn là tâm hồn,
máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã hóa thân, đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết
cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Và những ngọn núi, những dòng sông... chỉ trở thành thắng
cảnh khi nó thể hiện tâm hồn con người và lịch sử dân tộc. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là biểu
tượng đẹp đẽ cho truyền thống chung thủy, son sắc trong tình yêu. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc
Sơn, hình ảnh 99 con voi dựng đất Tổ Hùng Vương là những hình ảnh bất tử về truyền thống yêu nước
nồng nàn, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm. Núi Bút, non Nghiên là biểu tượng cho truyền
thống hiếu học, tôn sư trọng đạo... Và như thế những người dân vô danh bình dị còn góp phần hóa thân
thành những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và khắc ghi những truyền thống tốt đẹp ấy lên dáng hình đất
nước, lên những hình sông, thế núi, tên đất tên làng... thành lời nhắn nhủ đến muôn đời sau.
5.3. Bốn câu thơ: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Từ cụ thể đi đến khái quát
- Đoạn thơ được thể hiện theo kết cấu quy nạp, đi từ cụ thể đến khái quát. Từ một số địa danh cụ
thể cụ thể, nhà thơ khái quát thành kết luận rất sâu sắc: Không chỉ ở một số địa danh tiêu biểu, cụ thể như
ở tám câu thơ trên mà bất cứ danh lam thắng cảnh, hình sông thế núi, ruộng đồng, gò bãi hay mỗi tấc đất
con sông nào trên dải đất hình chữ S cũng là hóa thân, là máu thịt của nhân dân.
- Là hóa thân của nhân dân nên mỗi hình sông thế núi, từng tấc đất trên đất nước này đều in dấu dáng
hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất, lối sống của những con người đất Việt. Mỗi
danh lam thắng cảnh là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt Nam. Ngợi ca núi sông hùng
vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân từ bao đời với
tâm hồn cao quý, khát vọng cao đẹp thì không có những thắng cảnh kỳ thú để con cháu đời đời chiêm
ngưỡng.
- Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha trong suốt 4000 năm lịch sử,
nhà thơ không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối
đoạn đã truyền đến người đọc những những xúc cảm sâu lắng, đó là biểu hiện của sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
Tiểu kết:
- Đoạn thơ đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết.
Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng
bay bổng. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều câu thơ dài, kết cấu quy nạp, biện pháp nghệ thuật liệt kê, giọng
thơ tự sự ; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng, triết lí... là những đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong
đoạn thơ.
- Thể hiện một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới
mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở
góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
6. Đoạn thơ: Em ơi em
...Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Tư tưởng đất nước của nhân dân ở phương diện lịch sử và văn hóa
6.1. Khái quát: Tham khảo 5.1
6.2. Năm câu thơ: Em ơi em
Hãy nhìn rất xa

12
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Nhìn vào lịch sử 4000 năm của đất nước và khẳng định chính nhân dân làm nên lịch sử
- Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý- văn hóa muôn màu muôn
vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch
sử và truyền thống của đất nước. Em là nhân vật trữ tình không xác định, cũng có thể là sự phân thân của
tác giả để độc thoại với chính mình. Cụm từ "em ơi em" khiến cho đoạn thơ trở thành lời thủ thỉ, tâm tình
tha thiết và dễ đi vào lòng người. Với những tâm tình tha thiết ấy, nhà thơ đã đưa chúng ta về quá khứ,
lịch sử 4000 năm Đất Nước và thể hiện niềm tự hào trước lịch sử lâu đời của dân tộc. Lịch sử ấy ai mà
không tự hào nên nó đã trở thành nguồn cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
- Nhìn vào chiều dài lịch sử lâu đời của đất nước, nhà thơ đã không nhắc lại các triều đại hay kể
tên các bậc vua chúa, các vị anh hùng mà nhắc đến nhân dân. Trong đoạn thơ nhà thơ viết hoa chữ "Nhân
dân" để thể hiện sự trân trọng, mến yêu. Nhân dân là những con người vô danh đã cống hiến và hi sinh
cho đất nước một cách tự nguyện. Nhân dân là biết bao thế hệ những người con gái, con trai, là 4000 lớp
người trong lịch sử. Họ bằng tuổi với thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Họ là những con người bình
thường nhưng chính họ đã làm ra đất nước. Vì thế, đất nước trước hết là của nhân dân, của những con
người vô danh bình dị đó. Cụm từ "bằng tuổi chúng ta", và cụm từ "giống ta lứa tuổi" ở sau cho thấy đoạn
thơ là lời thủ thỉ tâm tình hướng về thế hệ trẻ miền Nam vùng tạm chiếm giúp họ ý thức được vai trò, sứ
mệnh của thế hệ mình mà đóng góp công sức để bảo vệ đất nước.
6.3. Các câu thơ: Cần cù làm lụng
...Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Nhân dân đã làm nên lịch sử như thế nào?
- Họ cần cù lao động: Trong những câu thơ đầu của đoạn trích "Đất nước" nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm đã cho thấy khởi thủy và quá trình lớn lên của đất nước chính là quá trình lao động lam lũ để làm ra
hạt gạo, của cải vật chất "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Đất nước lớn lên trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ để bảo vệ đất nước
"Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Và đến đoạn thơ này nhà thơ cho chúng ta
thấy quá trình ấy đều là đóng góp của nhân dân. Đất nước 4000 năm lịch sử là 4000 thế hệ những người
con gái con trai đã cống hiến, hi sinh. Họ đã làm nên đất nước, tạo ra lịch sử dân tộc bằng cách:
"Cần cù làm lụng"
Sống trong một đất nước mà nông nghiệp là chính, người nhân dân ta từ bao đời chỉ cần cù lao
động, chịu thương chịu khó để nuôi sống gia đình, góp phần làm nên đất nước. Cả cuộc đời họ chỉ gắn với
con trâu, thửa ruộng và hầu như không ra khỏi lũy tre làng:
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng,
tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu)
- Họ chống giặc ngoại xâm: Nhưng khi có giặc xâm lược, chính những người dân bình thường ấy
chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Người con trai sẽ ra trận, người con gái ở nhà trở thành
hậu phương vững chắc. Khi giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh, đánh giặc đến cùng giống như lời nhân vật

13
chị Út Tịch trong "Người mẹ cầm súng" của Nguyễn Thi "Còn cái lai quần cũng đánh". Với tinh thần yêu
nước nồng nàn, những người nông dân áo vải ấy vụt lớn lên:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Nguyễn Khoa Điềm đã nêu lên một sự thật lịch sử là trong bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có
biết bao thế hệ cha anh dũng cảm chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và
em đều nhớ”:
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã
ngã xuống. Họ không phải là những anh hùng mà là những người dân vô danh, bình dị đã sống và chết
giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt, nhớ tên của họ nhưng chính họ có công làm ra đất nước.
- Tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều sâu văn hóa (Họ tạo ra, gìn giữ và truyền lại cho đời
sau các giá trị vật chất và tinh thần của đất nước): Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ đất
nước mà còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần như truyền hạt lúa, truyền lửa, truyền tiếng nói, truyền tên xã tên làng, đắp
đập be bờ cho người đời sau trồng cây hái trái... Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông
nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng sống trong tối tăm,
lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn hóa làng,
xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh
đất ấy... Để rồi trong cái nôi văn hóa truyền thống ấy, chúng ta được sinh ra và dần lớn lên, chập chững
những bước đi đầu tiên trên mặt đất và bập bẹ hai tiếng “mẹ, cha” ngọng nghịu. Tiếng nói đầu tiên là tiếng
“mẹ” yêu thương, tiếng nói đầu tiên của ta cũng là tiếng nói của đất nước đã có tự bao đời. Tiếng nói ấy
chính là “Hồn thiêng sông núi” (Huy Cận), là “Tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua” (Hoài
Thanh). Ngay từ tiếng nói đầu tiên ấy, ta đã trở thành con người đất Việt, “Hồn thiêng sông núi” đã bắt
đầu hình thành mạch ngầm trong huyết quản. Và những giá trị vật chất, tinh thần ấy rồi sẽ theo chúng ta
trong suốt cuộc đời, khiến ta tự hào được trở thành con cháu Rồng, Tiên.
Tiểu kết: Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình… Tác giả đã chọn tư liệu
văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của
nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều
dài, chiều rộng và chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất
Nước này là đất nước của nhân dân”.
Đoạn thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai
trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết
ơn của mình.
7. Đoạn thơ: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
...Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Đất nước nhân dân thể hiện qua chiều sâu văn hóa và lời ca ngợi non sông đất nước
7.1. Khái quát: Tham khảo 5.1.
7.2. Đoạn thơ: Để đất nước này là đất nước của Nhân dân
... Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Tư tưởng đất nước của nhân dân ở phương diện văn hóa, văn học dân gian
- Có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca thể hiện nhận thức về của nhà thơ
về đất nước. Đất nước chính là trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Khi mạch cảm xúc lên cao trào nhà
thơ đi đến khẳng định 'Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân". Vế câu "Đất Nước của Nhân dân"
được nhà thơ lặp lại hai lần như để khẳng định sâu sắc rằng nhân dân chính chủ thể làm nên đất nước và
cho thấy đây cũng chính là cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong suốt đoạn trích và cả chương V của bản
trường ca.

14
Vế câu thứ hai “Đất Nước của ca dao thần thoại” được nhà thơ đặt ở cuối câu để nhấn mạnh, đã
gợi lên một không gian đất nước đầy thiêng liêng, kì diệu. Đó là đất nước của những câu ca dao dân ca
đầy yêu thương, tình nghĩa, là bài ca về tình yêu lao động, về tinh thần lạc quan, yêu đời... mà ở đó ta cảm
nhận được sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Đó là đất nước của thần trụ trời, làm trụ đẩy trời
lên cao tạo nên trời đất, vũ trụ, muôn loài... Ở đây, nhà thơ nhắc đến hai thể loại văn học dân gian tiêu
biểu của người Việt là ca dao, thần thoại là để khẳng định đất nước của nền văn hóa, văn học dân gian
đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa, văn học dân gian là linh hồn dân tộc, là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn của
nhân dân do chính nhân dân sáng tạo, lưu truyền. Nó là sản phẩm tinh thần, tâm tư tình cảm, là trí tưởng
tượng bay bổng của nhân dân nên nhắc đến văn hóa văn học dân gian, ca dao thần thoại là nhắc đến nhân
dân và để khẳng định chính nhân dân đã sáng tạo ra đất nước.
- Để chứng minh "Đất Nước của ca dao, thần thoại", nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lấy lại ý ba câu
ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phẩm chất đã trở thành truyền thống tốt đẹp của con người Việt
Nam. Trong đó:
+ Câu thơ “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” lấy lại ý của câu ca dao:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Chính ca dao, vẻ đẹp của tâm hồn cha ông trong văn học đã "dạy anh biết" truyền thống chung
thủy, say đắm mãnh liệt trong tình yêu để anh biết yêu em chân thật, thủy chung.
+ Câu thơ "Biết quý công cầm vàng từ những ngày lặn lội" lấy lại ý từ câu ca dao:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Ca dao chứa trong nó văn hóa, thói quen, tập quán, nếp nghĩ nếp cảm của người Việt Nam. Nó
không chỉ dạy anh biết yêu mà còn dạy cho anh biết người Việt Nam không quý trọng vật chất mà trọng
tình trọng nghĩa, quý trọng sức lao động, có truyền thống nhân nhân nghĩa, thủy chung.
+ Hai câu thơ "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy - Đi trả thù mà không sợ dài lâu” lấy lại ý từ câu
ca dao:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què
Cụm từ "Dạy anh biết" và điệp từ "biết" được được lặp lại 3 lần, trong đó có 2 lần đứng ở đầu các
câu thơ đã khẳng định ca dao như nguồn sữa mẹ dạt dào nuôi lớn tâm hồn người Việt Nam. Cũng chính ca
dao đã dạy cho anh biết truyền thống quyết liệt, bền bỉ và kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm.
Truyền thống ấy giúp ta lí giải vì sao trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, gần trăm năm bị Pháp đô hộ và
không biết bao lần bị giặc ngoại xâm chiếm giữ nhưng đến nay đất nước vẫn toàn vẹn, thống nhất.
7.3. Bốn câu thơ: Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Lời ca ngợi non sông đất nước
- Vẻ đẹp của những dòng sông: Kết lại đoạn trích "Đất nước" là những cảm nhận rất tinh tế, là lợi
ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Mở đầu đoạn thơ là thán từ "Ôi" chứa nhiều cảm xúc. Đó là cảm
xúc ngỡ ngàng nhưng chứa đầy sự trìu mến, tình cảm yêu thương khi khám phá ra vẻ đẹp của những con
sông khi nó chảy về đất Việt. Câu thơ "Ôi, những dòng sông đều bắt nước từ đâu" xác nhận một đặc điểm
về địa lí là hầu hết các con sông trên đất nước ta đều có nguồn gốc từ bên ngoài, các dòng sông lớn như
sông Hồng, sông Mê kông... đều bắt nguồn từ các nước lân cận. Nhưng nhà thơ thấy không cần xác định
nguồn gốc của những con sông là ở đâu mà chỉ cần biết một hiện thực là tất cả các dòng sông khi chảy đến
mảnh đất quê hương đều "bắt lên câu hát", đều trở nên có hồn, có sinh khí và sức sống mới.
- Vẻ đẹp của con người Việt Nam trên các dòng sông: Khi về đến đất nước mình, các dòng sông
bỗng chốc như trở nên tươi đẹp và người thổi hồn, thổi sinh khí và sức sống vào những con sông ấy chính
là những người dân đất Việt. Các dòng sông "bắt lên câu hát" bởi nó hòa theo tiếng hát của những con
người đang lao động. Họ vừa hăng say lao động, chèo đò, kéo thuyền vượt thác vừa ca hát ngợi ca quê

15
hương, đất nước; ca hát về tình yêu lao động và khao khát đóng góp công sức của mình để xây dựng, làm
giàu cho đất nước.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động đã được nhà thơ Huy Cận miêu tả đầy cảm xúc
trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá":
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Đó là tiếng hát của con người trên dòng sông Lô trong thơ Tố Hữu:
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca...
(Ta đi tới - Tố Hữu)
Vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước cũng từng được nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện rất
sâu sắc qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà". Cuộc đời người lái đò vô danh nơi
ngọn thác hoang vu khuất nẻo giữa núi rừng Tây Bắc đã trở thành bức tượng đài sừng sững về con người
trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để giành lấy cuộc sống.
- Đất nước có trăm núi, ngàn sông và mỗi dòng sông mang một dáng hình, màu vẻ khác nhau. Trên
mỗi dòng sông là hình ảnh con người Việt Nam với những vẻ đẹp khác nhau. Các câu thơ cho thấy, mỗi
con người Việt Nam trong công cuộc lao động mưu sinh lại bộc lộ ra những vẻ đẹp khác nhau để rồi cuối
cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến, tạo ra vẻ đẹp trăm màu của
non sông đất nước. Từ những vẻ đẹp ấy của con người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng đất
nước sẽ đi đến một ngày mai tươi sáng.
Tiểu kết: Đoạn thơ sử dụng chất liệu chính là ca dao, dân ca. Điều đáng chú ý là nhà thơ không trích dẫn
nguyên văn câu ca dao mà chỉ lấy lại ý để thể hiện những liên tưởng, suy ngẫm vừa độc đáo vừa sâu sắc.
Từ “Đất Nước” được viết hoa và nhắc lại nhiều lần cùng giọng thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ
sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết đối với đất nước làm cho nội dung chính luận vốn khô khan trở
nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người, góp phần bộc lộ tư tưởng bao trùm, xuyên suốt ấy là tư
tưởng đất nước của nhân dân.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Nghệ thuật: Thể thơ tự do, phóng túng với những câu thơ dài ngắn khác nhau, co duỗi hợp lí, không cần
vần để liên kết. Nhịp điệu linh hoạt, phát huy tối đa tính nhạc, giọng thơ trữ tình chính luận với nhiều đoạn
thơ nhẹ nhàng, êm ái, trữ tình ngọt ngào đậm chất Huế. Cảm xúc kết hợp với suy tưởng, chính luận kết
hợp với trữ tình và đặc biệt sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa, văn học dân gian như ca dao dân ca, cổ
tích, truyền thuyết, thần thoại, thành ngữ... nối quá khứ với hiện tại và tương lai, từ đó để thức tỉnh thanh
niên. Điều đáng nói là những suy tưởng ấy không được phát biểu thành các mệnh đề, triết lí, châm ngôn
mà được thể hiện một cách đầy cảm xúc qua những lời thủ thì, tâm tình của đôi lứa yêu nhau. Vì thế mà
nó không giáo điều, khô khan mà dễ đi vào lòng người.
- Nội dung: Đoạn trích "Đất nước" đã thể hiện những cảm nhận, suy ngẫm rất mới mẻ của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Nhà thơ đã cảm nhận về đất nước một cách có chiều sâu trên nhiều bình
diện như địa lí, lịch sử, văn hóa... Đóng góp nổi bật nhất của đoạn trích là nhấn mạnh tư tưởng "Đất Nước
của Nhân dân".

*LUYỆN ĐỀ
Đề bài 1: Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)
của Nguyễn Khoa Điềm.
1. MỞ BÀI:
- Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn thơ Đất Nước:
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất
nước, con người Việt Nam.

16
+ Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu
năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ
mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
+ Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương "Đất nước" của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu
sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người.
- Dẫn dắt: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích “Đất Nước” được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới
lạ.
II. THÂN BÀI
1. Sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian
1.1. Khái niệm văn hóa, văn học dân gian
Văn học dân gian là linh hồn dân tộc, kết tinh ở đó những giá trị tinh thần của biết bao thế hệ
người dân lao động đã sáng tạo ra nó. Văn học dân gian đã nuôi dưỡng tâm hồn biết bao thế hệ người dân
Việt Nam một cách kỳ diệu và đã góp phần làm nên một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong đoạn trích “Đất Nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa văn học
dân gian để thể hiện những cảm nhận, suy ngẫm của mình về đất nước. Đất nước được cảm nhận một cách
toàn diện ở nhiều phương diện là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lý và chiều sâu về mặt văn hóa
phong tục. Từ đó tạo ra những rung động thấm thía, khiến hình ảnh đất nước trở nên gần gũi thân thiết với
mỗi con người, khơi dậy tình cảm và trách nhiệm của mỗi người với đất nước, nhân dân.
1.2. Nhà thơ đã vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian
* Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con
người Việt Nam
- Nhắc đến cổ tích: Cách mở đầu của cổ tích “ngày xửa, ngày xưa”
- Nhắc đến truyền thuyết: Thánh Gióng, Lạc Long Quân và Âu Cơ
- Nhắc đến những phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt: hình ảnh miếng trầu, tóc bới sau đầu
- Nhắc đến những vật dụng quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày: cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần,
sàng, hòn than, con cúi,....
- Sử dụng thành ngữ: Gừng cay muối mặn, một nắng hai sương
- Sử dụng lại ca dao, dân ca:
+ Về tình nghĩa sâu nặng:“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau”
+ Về tình yêu đôi lứa, không gian hò hẹn của tình yêu: Khăn thương nhớ ai…
+ Về lãnh thổ, núi rừng, sông bể: Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
+ Về phẩm chất say đắm, chung thủy trong tình yêu: Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru
+ Về sự quý trọng công sức lao động: Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
+ Về sự quyết liệt chống giặc ngoại xâm: Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què
- Ngoài ra tác giả còn nhắc đến những tích truyện về núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất tổ Hùng Vương,
thắng cảnh Hạ Long, núi Bút, non Nghiên để nói đến sự hóa thân của nhân dân thành đất nước.
* Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
- Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, linh hoạt, lúc lấy nguyên vẹn toàn bài khi thì
chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt
Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên
dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...
Ví dụ: trích nguyên các câu thành ngữ, lấy ý các bài ca dao:
+ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén muối đĩa
gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng
gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"

17
+ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"
+ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao "Khăn thương
nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..."
+ Chỉ lấy các từ mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích “Ngày xửa, ngày xưa”
- Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật
vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to
lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"
Ví dụ: Truyền thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết trồng tre mà đánh
giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
...
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"
=> Những chất liệu ấy vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới
lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn)
2.3. Tác dụng nghệ thuật của chất liệu văn hóa, văn học dân gian
- Nối quá khứ hiện tại và tương lai một cách sâu sắc. Từ đó, thấy được truyền thống tốt đẹp của
dân tộc đã được hình thành gìn giữ từ bao đời. Vì thế mà nó có ý nghĩa thức tỉnh thế hệ trẻ, giúp họ thấy
được trách nhiệm của mình đất nước.
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật
riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng.
- Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất
Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa], đoạn trích đã thể hiện một
cách có chiều sâu tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước này không chỉ là đất nước của nhân dân mà
còn là đất nước của ca dao, thần thoại. Trong đó, văn hóa văn học dân gian chính là sản phẩm của người
dân lao động, của tâm hồn người dân qua bao nhiêu thế hệ. Đó chính là một cách để khắc sâu hơn nữa tư
tưởng đất nước của nhân dân.
=> Đây là cách cảm nhận mới lạ độc đáo về đất nước tạo nên một nét rất riêng, một vẻ đẹp riêng
cho thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhất là khi viết về đề tài đất nước vốn đã rất quen thuộc. Đoạn thơ khẳng
định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả. Mặt khác, văn hóa văn học
dân gian là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng.
2. Thể loại, nhịp điệu
Thể thơ tự do phóng túng với những câu thơ dài ngắn không đều co duỗi hợp lý, không cần vần để
liên kết kết hợp với nhịp điệu thơ linh hoạt đã phát huy tối đa tính nhạc, tạo ra những đoạn thơ câu thơ nhẹ
nhàng êm ái đậm chất Huế như:
- “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình”
- “Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước”
3. Chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng
3.1. Chất chính luận
- Khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân
- Thức tỉnh thanh niên vùng đô thị tạm chiếm miền Nam, giúp họ nhận ra vai trò trách nhiệm của mình
trước đất nước, nhân dân, từ đó xuống đường tham gia ra vào cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc.
- Kết cấu của tác phẩm để trả lời 3 câu hỏi về Đất Nước:
+ Đất nước có từ bao giờ?
+ Đất nước tồn tại như thế nào?
+ Đất nước của ai?
- Nguyên tắc lập luận trong đoạn trích: Tác giả luôn đưa ra những phân tích lý giải cụ thể, để rồi
từ đó đi đến khái quát, nâng cao. Ví dụ trong đoạn “Những người vợ nhớ chồng … những cuộc đời đã hóa

18
núi sông ta” tác giả đã kể tên một số địa danh, danh lam thắng cảnh… để ca ngợi vẻ đẹp của non sông đất
nước và cho thấy đó là do hóa thân của nhân dân mà thành. Để rồi từ một số các địa danh cụ thể ấy, tác
giả đi đến khẳng định tất cả mọi hình sông, thế núi, mỗi tấc đất, con sông, ruộng đồng, gò bãi trên đất
nước tươi đẹp này đều là do nhân dân hóa thân, khắc ghi công lao, dấu vết của những người dân vô danh,
bình dị.
3.2. Chất trữ tình
- Chất trữ tình thể hiện rõ nhất, đậm nét nhất ở kết cấu như một lời tâm sự, thủ thỉ, tâm tình của đôi
lứa yêu nhau.
- Thể hiện ở lối xưng hô anh – em, đặc biệt là qua lời tâm tình ngọt ngào “Em ơi em”.
- Thể hiện gián tiếp qua việc sử dụng các hình ảnh ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thiết với con
người như hạt gạo, miếng trầu, chiếc khăn…
- Từ ngữ thể hiện tình cảm một cách trực tiếp như là nhớ. yêu nhau, quý…
3.3. Chất suy tưởng
- Chất suy tưởng cũng là một thế mạnh tạo nên thành công của đoạn trích, thể hiện rõ nhất qua
những phát hiện mới mẻ sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm như: nhìn vào mỗi hình sông, thế núi,
tên địa danh… mà tác giả suy ngẫm và nhận ra đất nước là máu thịt của nhân dân dân do nhân dân tạo
nên, cũng chính nhân dân đã làm nên, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Từ những cái quen
thuộc như truyện cổ tích, ca dao, những tên địa danh, hình sông thế núi…ấy mà tác giả cảm nhận được
những khát vọng, ao ước, lối sống của cha ông.
- Điều đáng nói là những suy tưởng ấy không được phát biểu thành những mệnh đề triết lý châm
ngôn mà được thể hiện qua những hình ảnh độc đáo áo đầy cảm xúc của chủ thể trữ tình
3.3. Tác dụng nghệ thuật
Cách kết hợp chính luận với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã khiến đoạn thơ không còn
là lời giáo huấn, răn dạy khô khan mà ý thơ từ chỗ đầy chất chính luận bỗng trở lên mềm mại như một lời
nhắn nhủ thủ thỉ tâm tình đầy yêu thương, dễ đi vào lòng người, giúp thế hệ trẻ tự ý thức được vai trò
trách nhiệm của mình với đất nước.
III. KẾT BÀI
- Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết
tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân
tộc. Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, một sự
nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời cho thấy ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
có một tài năng, một bản lĩnh vững vàng của người cầm bút và đặc biệt cảm xúc mãnh liệt đã làm mềm
mại những vấn đề tưởng rất cứng nhắc, khô khan để nó trở nên đi vào lòng người.
- Qua đó, nhà thơ đã để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa dân
gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen
thuộc.
Đề số 2: Những cảm nhận mới mẻ, sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất
nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”).

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Tình cảm đối với đất nước, đối với nhân dân cũng là một trong những nguồn cảm hứng bất tận
trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm.
- Được trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, với “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa
chúng ta đến với những khám phá cực kỳ mới mẻ về đất nước.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Tk bài phân tích
- Đề tài đất nước: Là đề tài lớn, quen thuộc, đặc biệt trong những năm tháng đất nước có chiến tranh.
- Giới thiệu về cảm nhận mới mẻ, sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước:

19
+ Cảm nhận đất nước ở ba chiều trong khi các nhà thơ khác thường viết về đất nước ở một thời
gian nhất định: Tk bài phân tích
+ Nếu các nhà thơ khác thường viết về một đất nước bằng các hình ảnh kì vĩ, hoàng tráng… thì
Nguyễn Khoa Điềm lại cho thấy một đất nước gần gũi thân thiết đến không ngờ: Tk bài phân tích
+ Thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân
2. Nhà thơ cảm nhận đất nước ở ba chiều lịch sử, địa lý và văn hóa và cho thấy đất nước gần gũi
thân thiết với mỗi con người (Phân tích đoạn từ đầu … làm nên đất nước muôn đời)
- Thời điểm ra đời của Đất nước
+ Đất nước có trước khi mỗi con người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ
rất lâu đời (Khi ta lớn lên/Đất nước đã có rồi).
+ Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta biết búi tóc sau đầu, con người biết
yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên cho "cái kèo", "cái cột" rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi
sống chính mình.
+ Đất nước trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân
quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của
mẹ, thậm chí có trong những đồ vật bình thường bình dị nhất trong cuộc sống con người như cái kèo, cái
cột…
=> Nguyễn Khoa Điềm gợi lên một hình tượng Đất Nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời và gần gũi
thân thiết với con người.
- Phạm vi tồn tại của Đất nước
+ Đất nước không chỉ là không gian sống của mỗi con người mà Đất Nước còn tồn tại hiện diện
ngay trong bản thân của mỗi cá nhân: "Đất Nước là máu xương của mình", “Trong anh và em hôm
nay/Đều có một phần đất nước”.
=> Đất nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà Đất nước mang một vẻ gần gũi, thiết tha
hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay.
- Sự lớn lên của Đất nước:
+ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" => Chính quá trình đấu tranh bền
bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho Đất nước trưởng thành vững chãi hơn.
+ Trong quá trình lao động lam lũ để làm ra hạt gạo, của cải vật chất
- Những định nghĩa độc đáo về Đất nước
+ Đất nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch
sử và chiều sâu văn hóa.
+ Đất nước có trong mỗi con người và chính là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, là sự tiếp
nối của các thế hệ.
3. Tư tưởng đất nước của nhân dân
(Phân tích đoạn còn lại)
- Nhân dân đã hóa thân làm ra Đất Nước: Hình ảnh "những người vợ nhớ chồng", "cặp vợ chồng
yêu nhau", "người học trò nghèo" và "những người dân nào".
- Nhân dân lao động đã dựng xây và chiến đấu hết mình để bảo vệ Đất Nước "Nhiều người đã trở
thành anh hùng/Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ".
- Nhân dân còn chính là người đã tạo ra truyền thống văn hóa lịch sử của Đất Nước, lịch sử Đất
Nước không phải là sự thay đổi triều đại hay nối tiếp ngôi báu của các ông hoàng bà chúa mà lại là sự nối
tiếp của các thế hệ nhân dân.
- Nhân dân chính là người đã sáng tạo ra dòng chảy văn hóa cho cả một dân tộc, nhiều giá trị vật
chất và tinh thần đã được nhân dân giữ lại và truyền đạt cho đời sau, để con cháu phát huy và kế thừa
những truyền thống tốt đẹp của cha ông xây dựng bao đời.
III. KẾT BÀI
- Điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ
Cách mạng ấy là tư tưởng “Đất Nước của dân”, do dân và vì dân.

20
- Giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với
cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm
viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.

21

You might also like