Professional Documents
Culture Documents
Cơ Sở Lý Luận
Cơ Sở Lý Luận
Nếu các bên tự thương lượng được với nhau có nghĩa là tranh chấp đã được giải
quyết, còn nếu các bên không tự thương lượng được với nhau hoặc có thương lượng
nhưng không đạt được sự nhất trí thì một hoặc cả hai bên có thể yêu cầu bên thứ ba
can thiệp vào. Cơ chế này được thể hiện ở sơ đồ VI.1:
6.3.2. Hoà giải
Khái niệm
Hoà giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết một số tranh chấp lao
động. Nếu các bên tranh chấp không thể hoặc không muốn tự thương lượng với nhau
để giải quyết tranh chấp giữa họ thì cần phải có sự can thiệp của bên thứ ba. Hoà giải
là biểu thị mức độ đầu tiên của sự can thiệp đó.
Hoà giải là giữ vị trí trung gian, hỗ trợ cho quá trình thương lượng với tư cách là
một người trung gian; hoà giải giúp giải quyết những khác biệt giữa các bên bằng cách
duy trì hoặc tái thiết lập giao tiếp giữa các bên.
Mục đích của hoà giải:
+ Để các bên bộc lộ, giải toả mâu thuẫn; nối lại sự thương lượng, hợp tác giữa
họ.
+ Hoà giải chủ yếu để thúc đẩy các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn giải pháp
chung thích hợp để giải quyết tranh chấp.
+ Giúp các bên bộc lộ tâm tư và giảm bớt thái độ thù dich.
+ Xóa bỏ những điều mà các bên hiểu nhầm về nhau.
+ Xác định quyền lợi hoặc mối quan tâm đằng sau các cuộc tranh chấp của các
bên quan hệ lao động.
- Ý nghĩa của hoà giải:
+ Hoà giải là phương pháp giải quyết tranh chấp có thể tạo ra khả năng duy trì
quan hệ lao động sau tranh chấp.
+ Hoà giải là phương pháp giải quyết tranh chấp nhanh chóng, linh hoạt.
+ Hoà giải là phương pháp phù hợp, đáp ứng được yêu cầu giải quyết tranh chấp
trong nền kinh tế thị trường.
- Những trường hợp cần hoà giải:
+ Quan hệ giữa các bên có sự tranh chấp nhưng vẫn phải duy trì nên cần người
thứ ba giúp cho hai bên ngồi lại với nhau, hạn chế sự tranh chấp giữa họ và tạo điều
kiện cho việc duy trì đối thoại, thương lượng
+ Giao tiếp, thông tin giữa các bên bị sai lệch nên cần một người trung lập có kỹ
năng giúp cho các bên giao tiếp thuận lợi hơn.
+ Sự hiện diện của bên thứ ba có khả năng làm thay đổi tình hình.
6.3.3. Các bước hoà giải:
- Chuẩn bị hoà giải:
Để chuẩn bị cho một cuộc hoà giải tranh chấp lao động, hoà giải viên cần thực
hiện một số công việc sau: Gặp gỡ các bên tranh chấp; thu thập và phân tích các thông
tin; quyết định cách thức tiến hành hoà giải; thiết kế kế hoạch hoà giải.
- Tiến hành hoà giải:
Tiến hành hoà giải được thực hiện theo các nội dung: Mở đầu phiên hoà giải,
thông qua chương trình làm việc, trao đổi ý kiến với các bên, đưa ra phương án hoà
giải, thương lượng lần cuối.
- Kết thúc hoà giải:
Hoà giải có thể thành công hoặc không thành công. Nếu hoà giải thành công thì
theo yêu cầu của các bên, hoà giải viên xây dựng dự thảo bản thỏa thuận. Tuy nhiên,
các bên cũng có thể tự mình dự thảo bản thỏa thuận. Bản thỏa thuận có thể được thể
hiện dưới hình thức biên bản hoà giải thành. Nếu hoà giải không thành công, có nghĩa
là các bên không thỏa thuận được về vấn đề tranh chấp lao động hoặc chỉ thỏa thuận
được một phần về tranh chấp. Trong trường hợp này, hoà giải viên có thể đề xuất
những thủ tục khác để giải quyết.
6.4. Trọng tài
6.4.1. Khái niệm
Trọng tài là một quá trình trong đó các bên tranh chấp trình bày lý lẽ và chứng cứ
của mình cho bên trung gian thứ ba(trọng tài viên)-người sẽ đưa ra quyết định về vụ
tranh chấp.
6.4.2. Những yếu tố cơ bản của trọng tài lao động
Cũng như trọng tài kinh tế, việc giải quyết của trọng tài lao động là độc lập và
các thủ tục không mang tính nghi lễ như thủ tục của tòa án. Tuy nhiên, trọng tài lao
động có một số điểm khác cơ bản, đó là:
Trong trọng tài lao động, các bên không lựa chọn trọng tài hay quyết định quá
trình trọng tài sẽ được tiến hành như thế nào.
- Trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, trọng tài thường là một bước bắt
buộc phải tiến hành. Các bên không thể lảng tránh quá trình trọng tài. Nếu một bên đã
nộp đơn yêu cầu trọng tài giải quyết vụ tranh chấp thì bên kia phải đến dự và tham gia.
Trọng tài viên thường được Chính phủ và các tổ chức khác trả lương nên các bên
không phải chịu phí trọng tài. Điều này tạo điều kiện cho người lao động có thể sử
dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp mà không phải trả phí trọng tài.
Trọng tài không phải là một quá trình bảo mật mà thường công khai trước công
chúng. Mọi người đều có thể tham dự phiên trọng tài (nếu họ muốn).
6.4.3. Các bước tiến hành trọng tài
- Chuẩn bị cho phiên trọng tài:
Trước khi bắt đầu phiên trọng tài, Hội đồng trọng tài chuẩn bị các nội dung cho
thực hiện hoà giải và trọng tài. Trong đó, các nội dung có phân biệt rõ ràng giữa các
công việc hoà giải và công việc trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Bắt đầu quá trình giải quyết tranh chấp và chuyển từ hoà giải sang trọng tài: Mặc
dù tranh chấp đã được giải quyết bằng hoà giải ở cấp cơ sở không thành công nhưng
đến giai đoạn trọng tài thì việc hoà giải vẫn được tiến hành tiếp. Trước tiên, Hội đồng
trọng tài tiến hành hoà giải sau đó mới đến trọng tài (nếu hoà giải không thành). Hội
đồng trọng tài thông báo cho các bên biết về sự khác nhau giữa hoà giải và trọng tài và
giải thích về trình tự trọng tài phải tuân theo.
- Tiến hành phiên trọng tài:
Một số quốc gia cho phép nếu các bên cùng nhất trí thì tranh chấp sẽ được đưa
thẳng ra trọng tài mà không cần hoà giải vì vấn đề tranh chấp là vấn đề mà các bên sẽ
không bao giờ thỏa thuận được với nhau và họ muốn có kết quả nhanh chóng. Trong
trường hợp này, các bên cũng có thể yêu cầu một phán quyết mà không cần phải triệu
tập một cuộc họp hay một phiên xử. Như vậy, phán quyết của trọng tài được đưa ra chỉ
dựa trên cơ sở các tài liệu và các quy định của pháp luật. Việc đưa ra phán quyết mà
không cần triệu tập các bên như vậy có ưu điểm là: phán quyết được đưa ra nhanh
chóng hơn, các bên tranh chấp và cơ quan trọng tài tiết kiệm được các nguồn lực. Nó
cũng có nguy cơ là: sẽ có thể có một bên khiếu nại rằng không lường trước được hậu
quả của việc ra phán quyết mà không cần triệu tập các bên hoặc bị gây sức ép và bỏ
mất cơ hội trình bày vụ việc của mình.
Việc triệu tập các bên đến phiên phân xử là phổ biến hơn so với không triệu tập.
Với hình thức này, Hội đồng trọng tài có thể nghe các nhân chứng đưa ra các chứng cứ
của mình và nghe các nhân chứng trả lời các câu hỏi mà các bên đặt ra, đặt câu hỏi với
các nhân chứng và đặt câu hỏi đối với các bên. Khi các bên có cơ hội để trình bày các
chứng cứ của mình thì họ sẽ cảm thấy hài lòng hơn đối với phán quyết của trọng tài do
họ đã được tiếp xúc và trao đổi với trọng tài theo cách mà họ sẽ không bao giờ làm
được nếu vụ việc được phân xử thông qua tài liệu hay giấy tờ.
Phiên trọng tài kết thúc bằng phán quyết của Hội đồng trọng tài. Với phán quyết
này, nếu các bên không đồng ý thì vụ tranh chấp có thể đi đến trình tự tiếp theo là xét
xử của toàn án.
6.5. Xét xử
6.5.1. Khái niệm
Xét xử là thủ tục do tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng, sau khi tòa án nghiên
cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải
quyết và xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan.
6.5.2. Các bước tiến hành xét xử
Thụ lý: Việc giải quyết bằng tòa án bắt đầu từ việc khởi kiện, khởi tố. Khởi kiện,
khởi tố là việc chủ thể này làm đơn kiện hay văn bản khởi tố chủ thể khác tại tòa án.
Nếu thấy đủ điều kiện, tòa án sẽ thụ lý vụ án (chấp nhận đơn khởi kiện hoặc
quyết định khởi tố). Đây là hoạt động có ý nghĩa pháp lý hết sức quan trọng. Kể từ khi
thụ lý vụ án, tòa án đã chính thức xác nhận trách nhiệm của mình trong việc giải quyết
tranh chấp lao động và Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó sẽ phải tiến
hành các hoạt động tố tụng của giai đoạn chuẩn bị xét xử, chuẩn bị những điều kiện
cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
- Nghiên cứu hồ sơ: Cho dù là chủ tọa phiên tòa hay là thành viên của Hội đồng
xét xử thì Thẩm phán vẫn cần nghiên cứu hồ sơ một cách toàn diện, có căn cứ khoa
học, xác định được hướng giải quyết của vụ án.
- Hoà giải: Hoà giải là một thủ tục cần tiến hành trước khi mở phiên tòa. Sau khi
nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán cần tiến hành hoà giải để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án. Nếu qua việc hoà giải, các đương sự thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án thì vụ việc kết thúc; còn nếu không thỏa thuận được
thì vụ việc sẽ được đưa ra xét xử.
- Xét xử: Phiên tòa được tiến hành với sự có mặt của các đương sự hoặc người
đại diện của đương sự. Nếu cần thiết phải có người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch thì phiên tòa chỉ được tiến hành khi những thành phần này có mặt. Nếu vụ
án do Viện Kiểm sát khởi tố hoặc yêu cầu tham gia phiên tòa của Viện Kiểm sát thì đại
diện của Viện Kiểm sát phải có mặt hoặc có ý kiến bằng văn bản, khi đó phiên tòa mới
được tiến hành. Kết thúc xét xử, tòa án ra bản án (hoặc quyết định).
Bộ luật Lao động Việt Nam chia tranh chấp lao động thành hai loại: tranh chấp
lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể (Khoản 2, Điều 157). Trình tự giải
quyết hai loại tranh chấp thể hiện ở sơ đồ VII.1 và sơ đồ VII tại chương VII giáo trình
này.