You are on page 1of 40

9 câu đầu

Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt


Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Hai tiếng “Đất nước” nhỏ bé thôi, nhưng mỗi khi nó vang lên làm rạo rực biết
bao trái tim của người thi nhân. Chính vì thế, “Đất Nước” đã đi vào thơ ca, trở
thành cảm hứng bất tận, Đất Nước trong thơ Nguyễn Đình Thi là “những cánh
đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù
sa” lớn lao và đẹp đẽ. Nhưng “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là những
hình ảnh gần gũi đến lạ, với những khía cạnh hết sức thân thuộc, bình dị thông
qua bản trường ca mang tên “Mặt đường khát vọng” mà tiêu biểu là trích
đoạn “Đất Nước” trong chương thứ năm. Với hình tượng trung tâm là đất
nước, thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và
chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình
cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ trong những năm kháng
chiến đầy gian khổ.
Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả sáng tác và hoàn thành ở
chiến khu Trị Thiên vào năm 1971. Tác phẩm dường như đã mang đến sự
thức tỉnh cho tuổi trẻ miền Nam vùng đô thị tạm chiếm, thức tỉnh về sứ
mệnh của thế hệ mình xuống đường đấu tranh để giải phóng đất nước.
Đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của bản trường ca này. Đoạn trích là
suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều khía cạnh, với tư
tưởng chủ đạo "đất nước của nhân dân". Thơ của Nguyễn Khoa Điềm giàu
chất suy tư cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của một người trí thức, tích
cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Có lẽ vì vậy mà tư tưởng
“đất nước của nhân dân" được nhà thơ gửi gắm một cách sâu sắc trong đứa
con tinh thần của mình.
Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, đó là
ảnh tượng miếng trầu miệng bà nhai, là câu chuyện cổ tích hằng đêm mẹ
thường kể, là búi tóc của mẹ... là những hình ảnh quá đỗi bình dị, thân quen
thường nhật đến lạ.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Để lý giải cho cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm ngay từ khi mở đầu bài
thơ đã đưa ra một lời khẳng định chắc chắn:

1
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có từ bao giờ không ai trong chúng ta biết cả, chỉ biết rằng từ lúc lọt
lòng mẹ cho đến khi nhận thức được thế giới xung quanh thì đất nước đã và
đang tồn tại. Mở đầu bài thơ đó là cách xưng hô “ta” vang lên một cách tự
hào. Tác giả đã đại diện cho cả một thế hệ có ý thức, có trách nhiệm đi tìm
hiểu cội nguồn của đất nước. Câu thơ được viết dưới hình thức khẳng định,
kết hợp với cụm từ “đã có rồi” thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường
tồn của đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử. Nguyễn Trãi cũng từng khẳng
định trong “Bình Ngô đại cáo”:
“Như nước đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Vì vậy khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, hiện diện xung quanh chúng ta với
những gì yêu thương nhất. Bằng việc khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất
nước, Nguyễn Khoa điềm đã mở ra không gian cổ tích, nơi có tiếng đồng vọng
về một thời xa xưa bằng một lời kể "ngày xửa ngày xưa" trong câu chuyện cổ
tích của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…
mẹ thường hay kể".
Tác giả đã nhắc đến cụm từ chỉ thời gian “ngày xửa ngày xưa”. Đó là thời gian
trừu tượng mơ hồ, không ai biết từ bao giờ chỉ biết nó đã rất xa xôi. Chắc
chúng ta không còn xa lạ với cụm từ ấy nữa. Bởi cụm từ này là mở đầu của
những câu chuyện cổ tích, vẽ lên trong tiềm thức của người đọc: hình ảnh của
cô Tấm bước ra từ quả thị, chàng Thạch Sanh tốt bụng cứu người, Thánh
Gióng kiên cường bất khuất... những câu chuyện ấy đã trở thành một dòng
nước mát tưới đẫm lên tuổi thơ của mỗi người. Đó là một buổi đêm thanh
bình của làng quê, là tiếng võng kẽo kẹt, là âm thanh của tiếng quạt mo đong
đưa, mà dịu dàng hơn là tiếng kể chuyện cổ tích của bà, của mẹ đã đưa con
vào giấc ngủ. Những câu chuyện đó là luồng gió mát nuôi dưỡng tâm hồn mỗi
con người. Chính vì thế nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có viết:
Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
Đất nước là tiếng đồng vọng từ hàng nghìn năm lịch sử, nhưng để tồn tại qua
ngần ấy năm thì đất nước cũng “bắt đầu”, cũng “lớn lên” kiên cường bất
khuất:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Để khẳng định nền văn hóa lâu đời của đất nước tác giả đã sử dụng thành
công nghệ thuật đối lập “bắt đầu” với “bây giờ”. “Bắt đầu” là quá khứ, “bây
giờ” là hiện tại tạo nên mối quan hệ chặt chẽ, tạo nên khoảng thời gian liên
tục tiếp nối nhằm khẳng định tập tục ăn trầu đã có từ xa xưa và vẫn duy trì
cho đến ngày nay. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” là biểu tượng của sự bắt
đầu trọn vẹn, suôn sẻ, là vật không thể thiếu trong bất kỳ lễ hội đình đám, lễ

2
nghi. “Đất nước” hiện lên là hình ảnh to lớn kỳ vĩ nhưng lại được cảm nhận từ
một miếng trầu nhỏ bé bởi miếng trầu có vai trò ý nghĩa quan trọng trong đời
sống tinh thần của con người Việt Nam. Miếng trầu đã nhắc người đọc gợi
nhớ đến một câu chuyện được coi là cổ xưa nhất của Việt Nam “Sự tích trầu
cau”. Hơn nữa “miếng trầu” xuất hiện trong những dịp lễ tết trọng đại trong
thờ cúng tổ tiên. Nó cũng là sợi tơ để kết nối tình yêu đôi lứa:
“Miếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy quả thì thương lấy người”
Tác giả đã cảm nhận đất nước từ một hình ảnh nhỏ bé nhưng nó là hiện thân
của phong tục đẹp đẽ đã có từ lâu đời của con người Việt Nam. Một đất nước
chỉ thực sự vững bền khi trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, trải qua
quá trình chiến đấu gian lao, vất vả. Với hình tượng cây tre gắn bó lâu đời với
người dân Việt Nam từ ngàn xưa:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tác giả đã nói đến sự trưởng thành và phát triển của đất nước trải dài 4000
năm lịch sử qua nghệ thuật ẩn dụ đất nước “lớn lên”. Tác giả đã mượn hình
tượng của cây tre để nhắc nhở cho người đọc về một truyền thống vô cùng
quen thuộc đối với người dân Việt. Trong đời sống sinh hoạt, xe làm đồ dùng
gần gũi, khi có chiến tranh: cây tre chất phác giản dị ấy là biểu tượng cho tinh
thần kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Vì thế tre được ca ngợi: tre xung
phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ
đồng lúa chín,... tre anh hùng lao động! tre anh hùng chiến đấu! Hơn nữa
hình tượng cây tre đã nhắc nhớ cho người đọc về truyền thuyết Thánh Gióng
đánh đuổi giặc Ân, về quá trình bảo vệ tổ quốc. Đó cũng là truyền thống ngàn
đời của dân tộc yêu nước chống ngoại xâm. Cây tre là nhân chứng lịch sử cho
biết bao trận đánh oai hùng, cho biết bao máu, nước mắt và mồ hôi của dân
tộc ta trên chặng đường gìn giữ độc lập.
Đất nước của Nguyễn Khoa điểm hiện lên với muôn vàn khía cạnh của cuộc
sống đời thường. Khép lại quá trình chiến đấu gian lao của dân tộc, tác giả tiếp
tục đưa người đọc tiếp cận với những hình ảnh vô cùng giản dị:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Tác giả đã đề cập đến một tập tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt Nam
cho gọn gàng để tiện cho lao động sản xuất, lâu dần trở thành một nét đẹp
thanh lịch dịu dàng của người phụ nữ. Hình ảnh búi tóc gọn gàng sau gáy mẹ
những buổi bẻ bắp, làm nương, những ngày xay gạo nuôi quân, là hình tượng
của người phụ nữ, là hậu phương vững chắc cho gia đình. Trong ca dao cũng
từng xuất hiện hình ảnh này:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho bối rối dạ anh”
Và đó là lý do vì sao mà tình cảm vợ chồng của những con người sống trên
mảnh đất ấy lạnh nồng nàn chung thủy đến vậy:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

3
Bằng câu ca dao thân thương “gừng cay muối mặn”, cuộc sống gia đình của
những con người sống trong đất nước hiện lên thật đẹp đẽ. Đó là gia vị quen
thuộc trong bữa ăn của người Việt. Nó còn là vị thuốc chữa bệnh cho người
bình dân. Thành ngữ ấy được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ vừa
nhẹ nhàng, vừa thấm thía. Muối tất nhiên phải mặn, gừng chắc chắn cay,
chúng đều là những sự thật hiển nhiên, những chân lý không thể thay đổi
được, cũng như tình cảm thủy chung trời bể của đôi ta, không biết đến khi
nào phai nhạt. Tác giả đã lấy vị mặn của muối, vị cay của gừng để nói đến tình
cảm thủy chung son sắt tình nghĩa vợ chồng. Đó cũng chính là truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta. Chính vì thế, hình ảnh ấy không còn xa lạ trong ca dao
Việt Nam:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hẵng còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Đóng lại trang thơ về những tình cảm thuỷ chung mặn nồng, Nguyễn Khoa
Điềm đã mang độc giả tiếp cận với phong tục đặt tên và cuộc sống lao động
sản xuất của con người nơi đất nước:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Với quan niệm đặt tên con không bao giờ đẹp sẽ bảo vệ chúng khỏi sự hủy
phá của ma quỷ, những người làm cha làm mẹ đã mượn hình tượng cái kèo
cái cột đầy thân quen. Hơn hết người Việt có phong tục tập quán đặt tên cho
con bằng những sự vật cần gũi gắn bó trong đời sống hằng ngày. Cái kèo cái
cột là biểu tượng cho sự bền vững của mái ấm gia đình mà gia đình ấy lại là
những phần tử nhỏ của xã hội. Theo người Việt xưa họ dùng cái kèo cái cột
giằng vào nhau giữ cho ngôi nhà thêm bền chặt.
Thực vậy, sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với sự phát triển quá trình
lao động sản xuất. Với nền văn minh lúa nước lâu đời, những người dân nơi
đây “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, một nắng hai sương trải qua xay,
giã, giần, sàng mới ra hạt gạo trắng ngần thơm ngát:
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Qua nghệ thuật liệt kê một loạt các động từ xay, giã, giần, sàng đã diễn tả
được cụ thể quá trình làm ra hạt gạo. Hòa trong âm điệu dồn dập mạnh mẽ
của quá trình lao động sản xuất là tiếng cối vang lên đều đặn, là những giọt
mồ hôi rơi trên hạt gạo trắng ngần. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự
khó khăn vất vả. Câu thơ đã diễn tả một cách sinh động sự khó khăn, vất vả
của người nông dân, khi làm ra những hạt cơm ngọt bùi. Thấm trong từng hạt
gạo nhỏ bé là vị mặn của mồ hôi, vị cay của sự nặng nhọc và vất vả. Chính vì
thế câu thơ phảng phất lời nhắn nhủ của cha ông xưa:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

4
Câu cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: "Đất Nước có từ
ngày đó..." “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là
ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa
nghĩa là có đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ "Đất Nước
đã có", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", "Đất Nước có từ" đã giúp cho
ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong
trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế
hệ. Nguyễn Khoa Điềm lặng lẽ quan sát Đất Nước ở muôn mặt đời thường và
trong quan hệ ruột rà, thân thuộc. Đất Nước là những gì bình dị nhất, gần gũi
và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi con người việt nam ta:
câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng cay, muối mặn, hạt gạo…
Như vậy, trích đoạn “Đất Nước” đã thể hiện tài năng của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm trong việc kết hợp nhuần nhuyễn cảm xúc và suy tư, chiêm
nghiệm, tạo nên chất chính luận và trữ tình quyện hòa. Qua những câu thơ
mang đậm chất duy lí vừa chặt chẽ, logic vừa mang âm hưởng thiết tha, vang
vọng, chúng ta có thể thấy được quan niệm thân thuộc, gắn bó và thân thiết
về Đất Nước, giống như những câu thơ mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mở
đầu bản trường ca “Mặt đường và khát vọng”:
“Đất Nước đã hóa thân trong mỗi chúng ta…
Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ
Vô tư quá để bây giờ xao xuyến…”
-------------------------
BÀI LÀM HOÀN CHỈNH ĐOẠN THƠ (....) ĐOẠN TRÍCH "ĐẤT NƯỚC" - Nguyễn
Khoa Điềm.
-----------
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
(…)
Làm nên đất nước muôn đời…
(Trích: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó liên hệ đến trách nhiệm của thế
hệ trẻ ngày nay đối với đất nước.
BÀI LÀM:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm
xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người
Việt Nam mà trường ca Mặt đường khát vọng là một sáng tác tiêu biểu. Được
ra đời trong cuộc chiến chống MĨ các liệt tại chiến trường Trị – Thiên năm
1971, những dòng thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất
nước và nhân dân. Trong đó, đoạn thơ “Đất Nước” đã bộc lộ những suy nghĩ
về trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước thật độc đáo và ấn tượng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

5
(…)
Làm nên đất nước muôn đời…
Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ “đất nước” và “nhân
dân” đều được viết hoa, trở thành “mĩ từ” gợi lên không khí cao cả, thiêng
liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về đất nước và nhân dân. Chủ
thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha,
ngọt ngào về sự ra đời, quá trình trưởng thành và phát triển suốt bốn nghìn
năm của đất nước. Từ sự lí giải ở chiều rộng không gian, chiều dài thời gian và
ở bề dày văn hóa, nhà thơ khéo léo khơi gợi ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ
với đất nước qua đoạn thơ 13 câu trữ tình sâu lắng và đầy sức thuyết phục.
Hai câu thơ mở đoạn là lời của chủ thể trữ tình “anh” nói với em về sự tồn tại
hiển nhiên đến bất ngờ của đất nước trong mỗi con người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, Tổ quốc, dân
tộc... luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với
cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết.
Khác với nhiều nhà thơ thường cảm nhận đất nước từ điểm nhìn hướng ngoại,
Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn hướng nội để thấy đất nước ở trong
“anh” và trong “em”, đất nước tồn tại trong mỗi con người chứ không ở ngoài
ta. Đó là một nhận thức mới mẻ và sâu sắc về đất nước.
Tứ thơ được phát triển theo mạch mở rộng từ cá nhân “anh” và “em” đến sự
gắn kết khi “hai đứa” cầm tay, cử chỉ yêu thương đã góp phần tô thắm cho
Đất Nước:
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Quả thực, Đất Nước được hình thành từ những mái ấm gia đình. Có những
con người yêu thương gắn bó trong tình nghĩa mặn nồng thì đâtý nước từ đó
mới phát triển. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã
được xây dựng. Gia đình là “một phần” của đất nước. Chỉ có tình yêu và hạnh
phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hoà, nồng thắm” với tình yêu quê hương
đất nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. ta cũng
bắt gặp ý thơ này trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi: “Anh yêu em như anh
yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên,
là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu
thương đồng bào,.. Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau
mới có hình ảnh “Đất nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và
sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hoà, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một
bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất nước được cảm
nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại
nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước

6
phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất nước
vẹn tròn, to lớn”.
Bốn dòng thơ nhưng thực chất là hai câu thơ có quan hệ điều kiện – kết quả:
“Khi... thì ..”. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính
tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình
ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ “hài hòa”, “nồng thắm”, “vẹn
tròn”, “to lớn”. Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những
câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ còn gợi
ngầm ẩn một thông điệp rằng đất nước không phải là một khái niệm trừu
tượng, càng không phải là một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực
thể sống và sự sống ấy ra sao còn phụ thuộc vào hành động của những cá
nhân trong đất nước đó.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất
nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước
để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin
về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi
sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam
cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người
chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên
ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của
mình:
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng
đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về đất nước:
“Đất nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt
thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc
ngàn đời.
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là những biểu hiện
của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn
bó và san sẻ… phải biết hoá thân…” thì mới có thể “Làm nên đất nước muôn
đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho
giọng thơ mạnh mẽ, tác động cả vào lí trí và tình cảm con người. Có biết
trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất
của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”,

7
“san sẻ”, “hoá thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát
vọng được hi sinh hết mình cho tổ quốc của nhà thơ.
Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải
là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hóa thân cũng
có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiên sức lực, mồ hôi cho Tổ
quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy,
theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân. Bóng dáng mỗi người đã làm
nên bóng dáng quê hương, xứ sở, đất nước. Không có sự hóa thân kia làm sao
đất nước trường tồn, làm sao có được Đất nước muôn đời! Cảm hứng ấy cũng
dạt dào trong thơ Chế Lan Viên
Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
Ngày nay, khi đất nước đã hòa bình thống nhất, tình yêu đất nước vẫn luôn
gắn liền với ý thức trách nhiệm dựng xây và bảo vệ thành quả của cách mạng.
Không chỉ ở thái độ tu dưỡng đạo đức, học tập nghiêm túc, trau dồi kiến thức
để bắt kịp với sự phát triển của thời đại, mỗi người dân cần nâng cao ý thức
cảnh giác trước mọi biểu hiện diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trên
thế giới. Và khi cần, cùng phải biết « hóa thân » cho dáng hình xứ sở trên mọi
mặt trận, phải biết hi sinh khi Tổ quốc cần. Đó mới là lí tưởng sống đẹp đẽ của
thanh niên dù ở bất cứ thời đại nào !
Bởi thông điệp ý nghĩa mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm, đoạn trích thực sự
đã có giá trị thức tỉnh thế hệ trẻ về trách nhiệm của bản thân với cộng đồng,
với đất nước. Bằng việc sử dụng thể thơ tự do, cùng với ngôn từ rất mộc mạc,
giản dị nhưng lại giàu chất triết lý, độc giả còn thấy ở nhà thơ những suy tư
trăn trở của một con người sống có trách nhiệm với đất nước . Đoạn thơ cũng
góp phần thể hiện rõ nhất nét riêng trong phong cách viết thơ của Nguyễn
Khoa Điềm. Có lẽ vì thế mà đoạn trích “Đất nước” gây nhiều xúc cảm, và luôn
được yêu mến trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
---------------------------
Ôi! Nếu thiên thần lên tiếng gọi
Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường
Tôi sẽ đáp thiên đường xin để đấy
Cho tôi ở cùng Tổ quốc yêu thương
Tình yêu tha thiết của Ênixin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết
bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương,
đât nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường
ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất
Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi
cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí,
lịch sử, văn hóa của Đất Nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
………………………………………………………

8
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Đọc đoạn thơ ta thấy trong tám câu thơ đầu xuất hiện đến sáu câu chỉ địa
danh và danh lam thắng cảnh. Hơn nữa, các địa danh lại được trải dài trên mọi
miền Tổ Quốc. Nếu như nhà văn Lỗ Tấn từng nói: "Kì thực trên mặt đất làm gì
có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi" Với quan niệm đó, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm lại làm độc giả bất ngờ và thiết tha theo những vần thơ
của ông bởi một ý niệm tên đường, cuộc đời của một con đường chính là sự
hóa thân bất tử của cuộc đời, của câu chuyện mỗi con người. Những con
người không tên không tuổi đã góp cho danh lam thắng cảnh của Đất Nước
một sự hóa thân:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp lên hòn Trống Mái"
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đó là những danh lam thắng cảnh ở xứ Thanh và
xứ Lạng. Mỗi địa danh đó đã quá đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta nhưng hôm
nay đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm nó trở lên lấp lánh vẻ đẹp mới lạ. Lạ bởi tên
núi, tên sông ấy không phải sản phẩm của tạo hóa mà được nảy nở trong số
phận của nhân dân. Nếu không có những chàng trai cô gái thắm thiết yêu
thương nguyện sống chết bên nhau thì làm sao có sự tích hòn Trống Mái. Và
không có những người vợ thủy chung chờ chồng trong suốt những cuộc kháng
chiến trường kì của dân tộc thì Đất Nước làm gì có những núi Vọng Phu. Đâu
đâu trên Đất Nước này cũng có những bản tình ca bất hủ; "Núi vợ núi chồng
đứng sóng đôi" (Núi Đôi – Vũ Cao) và những hồ Than Thở, hồ Núi Cốc đã đi
vào những ca từ rất đẹp của nhạc sĩ Phó Đức Phương: "Mối tình thương nhau
đã hóa sông hóa núi để lại khúc ca muôn đời." Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã
vượt lên lối liệt kê tầm thường để có cái nhìn mới mẻ về thiên nhiên Đất
Nước. Chính tình yêu chung thủy của lứa đôi đã góp phần tô điểm cho danh
lam thắng cảnh.
Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện tinh tế và độc đáo vẻ đẹp của Đất Nước với
sức sống tinh thần của nhân dân trong chiều sâu văn hóa dân tộc:
"Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"
Gót ngựa Thánh Gióng gợi ta nhớ đến truyền thuyết thánh gióng với chứng
tích "ao đầm" hình móng chân ngựa có khắp chân núi Sóc Sơn – Hà Nội. "Chín
mươi chín con voi" bao quanh núi Hi Cương ở Phú Thọ đã góp mình cho đất
Tổ Hùng Vương. Hình ảnh con người phi thường, những con vật quen thuộc
trong mỗi bản làng: Ngựa, voi cùng tập hợp để làm nên những hồn thắng cảnh
cho Đất Nước ở miền Bắc. Với truyền thuyết anh hùng dân tộc yêu nước và
quyết tâm giữa lấy Đất Nước, tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta truyền thống
đánh giặc giữ nước và công cuộc xây dựng kiến thiết cùng với tinh thân đoàn
kết. Đất Nước lung linh hương sắc văn hóa dân gian và truyền thống đẹp đẽ
của nhân dân.
Người xưa quan niệm, danh lam thắng cảnh của Đất Nước là sản phẩm của
tạo hóa do tạo hóa ưu ái ban tặng cho con người trần thế: "Cảnh tiên rơi cõi

9
tục" (Nguyễn Trãi). Giờ đây, Nguyễn Khoa Điềm có cái nhìn mới mẻ đều là sự
hóa thân cuộc sống nhân dân:
"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm."
Hình ảnh những con rồng nằm im gợi ra trước mắt người đọc dòng Cửu Long
Giang xanh thắm huyền thoài đem đến vẻ hùng vĩ của giang sơn gấm vóc. Với
núi Bút non Nghiên gợi về một đất nước hiếu học truyền thống văn hóa lâu
đời của Đại Việt nghèo vật chất mà giàu tinh thần, trí tuệ. Từ những ngựa, voi,
rồng những cơn vật to lớn dũng mãnh đến những con cóc, con gà quê hương
cũng giúp Hạ Long thành thắng cảnh. Đất Nước mình lớn lên từ đó. Đến với
miền Trung, nhà thơ đưa ta về với miền đất Quảng Ngãi chiêm ngưỡng núi
bút, non nghiên thì miền Nam là những người dân hiền lành chăm chỉ: Ông
Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm đã góp lên tên xã, tên làng. Như vậy, khi ta
sinh ra, sông núi đã có rồi nhưng đó là những dòng sông vô tích, những ngọn
núi vô danh căn cứ vào hình sông thế núi và chính cuộc đời, chính truyền
thống tốt đẹp của mình, nhân dân đã tô thắm cho địa danh, cho danh lam
thắng cảnh không còn vô tri vô giác mà thẫm đẫm chất huyền sử, huyền tích.
Tám câu thơ mở đầu của đoạn, tác giả nhắc đến một loạt các địa danh với
chất liệu văn hóa dân gian. Đặc biệt, nhà thơ điệp đi điệp lại từ "góp" và đem
đến cho những động từ, vị ngữ ấy những ý nghĩa mới mẻ. Khám phá của nhà
thơ bình dị nhưng mang tính nhân văn. Nhân dân chính là người nghệ sĩ tạo ra
giá trị tinh thần tô điểm cho thiên nhiên. Từ đây, ta nhận ra sự ca ngợi của
Nguyễn Khoa Điềm hướng về vẻ đẹp tinh thần và trí tuệ. Không có nhân dân
bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng
cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể nổi tiếng
cuardn, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát mang tính triết luận:

"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Đâu chỉ có những địa danh như núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân kì
diệu của nhân dân còn ở tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi mang dáng
hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng của cha ông. Vời chiều rộng lãnh thổ
địa lí kết hợp với chiều sâu văn hóa để từ đó nhà thơ nhận ra bất cứ ở đâu
trên Đất Nước này đều mang theo một dáng hình, một ao ước, một lối sống
ông cha. Điệp từ "một" được lặp đi lặp lại ba lần trong dòng thơ tạo nên giọng
điệu đĩnh đạc, hào hùng, thiết tha, lắng đọng. Cho thấy hình tượng Đất Nước
cũng là điệu tâm hồn, phong cách, văn hóa, phẩm chất, lối sống cha ông.
Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh mà còn góp giá trị tinh
thần, đó là phong tục tập quán truyền thống hay nói một cách khái quát, đó là

10
chiều sâu của văn hóa dân tộc.
Hai câu cuối hình tượng thơ được nâng lên đầy chất trí tuệ với chiều dài lịch
sử:
"Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.."
Thán từ "ôi" kết hợp với chữ "ta" được lặp đi lặp lại đến hai lần tạo nên nhạc
điệu du dương, nồng nàn, say đắm, tự hào. Núi sông ta có được vẻ đẹp hùng
vĩ, diễm lệ là nhờ những cuộc đời đã hóa thân, đã hi sinh. Động từ "hóa"
không chỉ gợi những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, sương máu của nhân dân
trong quá trình dựng nước và giữ nước mà còn ca ngợi và khẳng định sức
mạnh kì diệu, sự hóa thân của những con người vô danh, thầm lặng một nắng
hai sương trong thời bình, kiên cường trồng tre đánh giặc trong thời chiến,
nhân hậu, nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hằng ngày để làm nên "núi
sông ta".
Đất Nước đi vào những trang thơ thật mộng mơ và đẹp đẽ. Đất Nước là con
người, con người là Đất Nước. Đất Nước lớn lên cùng con người và con người
dựng xây cho Đất Nước. Mối quan hệ bền chặt, keo sơn ấy như một chân lí
hiển nhiên của đời sống mà không chỉ Nguyễn Khoa Điềm mà còn rất rất nhiều
con người trân trọng và nâng niu. Bởi vậy nên đoạn trích Đất Nước, trích trong
trường ca Mặt đường khát vọng của ông mới có thể trở thành tuyệt tác, một
trong những vì sao sáng nhất trên bầu trời văn học nước nhà.
----------------------
“Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu”
(“Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên)
Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ
thuật. Bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các
nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn
Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết “Bốn năm sau”, Tô Hoài ghi dấu
ấn với “Vợ chồng A Phủ” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này
với tập “Tuỳ bút Sông Đà” mà linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”.
Thưởng thức bài kí, người đọc không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp …, mà tiêu
biểu là đoạn trích miêu tả …
*Thân bài:
a. Khái quát tác phẩm, tác giả:
“Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như
là tôn giáo của mình” (GS. Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một
người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều
thể loại, song thành công nhất vẫn là thể tuỳ bút. “Người lái đò Sông Đà”
trích trong tập “Tuỳ bút Sông Đà”, xuất bản năm 1960, là kết quả của chuyến
đi thực tế đến miền Tây Bắc năm 1958 của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm
là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn và xa xôi của Tổ

11
quốc. Nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng với thứ “vàng
mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn con người lao động.
Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao
tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của
những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai
đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về
phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc
nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai
lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô
cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào
thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
*Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà:
Đề: "Hùng vĩ của sông Đà.. cái gậy đánh phèn". Cảm nhận của anh chị về vẻ
đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét về cách nhìn
mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái "tôi" của nhà văn Nguyễn Tuân
Bài làm

Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam, Nguyễn Tuân được mệnh danh
là "nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp". Trước và sau cách mạng, câu bút ấy
luôn thể hiện vẻ đẹp của lối viết tài hoa, uyên bác, độc đáo, phóng túng. Tùy
bút "Người lái đò sông Đà" in trong tập "Sông Đà" (1960) là một tiêu biểu.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế gian khổ và đầy hào hứng của tác
giả đến vùng Tây Bắc xa xôi hòng kiếm tìm "chất vàng mười" trong thiên
nhiên và con người nơi đây. Sông Đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân như
một thực thể sống động vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ của thác, nước, đá; vừa
mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Đoạn trích trên khắc họa vẻ đẹp hung vĩ
của dòng sông.
Đoạn văn bản nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả vẻ đẹp hung vĩ, dữ dội của
sông Đà qua diện mạo cảnh "đá bờ sông", "ghềnh đá", "hút nước". Qua đó,
ta thấy được cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của
nhà văn Nguyễn Tuân.
Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là "Hùng vĩ của sông
Đà không phải chỉ có những thác đá". Câu văn đã khẳng định sông Đà là
dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những
thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể
hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước
được miêu tả trong đoạn trích.
Trước hết, hình tượng sông Đà được nhà văn khắc họa qua cảnh bờ sông
"dựng vách thành":
Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh "vách
thành" đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn
đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi
tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ
hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc

12
đúng ngọ mới có mặt trời . Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt
trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo
phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách
đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ "chẹt" cùng với
việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng
con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia đã đem đến ấn tượng
mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy
mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của
những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm
giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh . Ấn tượng của thị giác được thể
hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền
cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con
thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình
ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện .
Như vậy bằng một đoạn văn ngắn, chỉ có sáu câu văn, nhà văn Nguyễn Tuân
đã người đọc trở về với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Trong sáu câu
văn ấy có đến 3 câu kết thúc bằng thanh trắc gợi cảm giác về độ cao của bờ
đá, tốc độ của dòng nước và độ lạnh của hơi nước Sông Đà. Với tài quan sát
và trí tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân đã để lại ấn tượng khó phai về
cảnh bờ đá bên sông.
Không chỉ hùng vĩ ở cảnh đá bờ sông, hình tượng sông Đà còn được miêu tả
ở mặt ghềnh Hát Lóong:
Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca
dao:
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái
thác trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà
cảnh tượng của nó rất dữ dội” Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng
cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm..” Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy
không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Để miêu tả mặt ghềnh Hát Lóong
nhà văn đã dùng câu văn dài với nhiều vế câu, nó dài như mặt ghềnh. Đã
vậy, tác giả còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật điệp từ nước, đá, sóng cộng
với điệp ngữ và sự hỗ trợ liên tiếp của các thanh trắc (24/46 thanh) đã tạo
nên âm điệu dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy vừa
hợp sức của gió, của sóng và đã khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên sùng
sục cuồn cuộn chảy dữ dằn. Chính sự kết hợp ấy đã tạo ra mối nguy hiểm
thường trực đối với bất cứ người lái đò nào đi ngang qua ghềnh sông như
thế. Bởi chỉ cần khinh suất tay lái là con thuyền bị lật ngửa thuyền ra. Đoạn
văn miêu tả ghềnh Hát Loong rất ngắn, chỉ có hai câu tương đương với bốn
dòng, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy cả một mặt ghềnh dài nhất, dữ dội

13
nhất. Ở đoạn văn này tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa "đòi nợ
xuýt" để nhấn mạnh tính cách hung hăng, côn đồ của ghềnh Hát Loong. Qua
từ "nợ xuýt", nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ,
độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng
mạng sống của con người.
Qua đoạn văn, Chúng ta thấy Nguyễn Tuân xứng đáng là bậc thầy của ngôn
từ. Khi cần ông huy động cả một đội quân ngôn từ hùng hậu nhưng có khi
ông chỉ sử dụng một tiểu đội đặc công tinh nhuệ cũng khiến con Sông Đà
hiện nguyên hình là một thuồng luồng thủy quái, là mối nguy hiểm thường
trực đối với ông lái đò. Đó chính là vẻ đẹp tài hoa, bản lĩnh đáng khâm phục
của một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo.
Sự hung bạo của con Sông Đà còn được thể hiện ở những cái hút nước chết
người:
"Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm
móng cầu". "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", khi thì "ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào". Với trí liên tưởng bất ngờ, nhà văn Nguyễn
Tuân đã giúp người đọc cảm nhận dược sự ghê gớm, độc ác của cái hút
nước, nó như huyệt mộ được đào sẵn ở dưới lòng sông để chôn vùi những
con thuyền nào đi qua đây. Điều đáng nói, cái hút nước ở đây có sức mạnh
ghê gớm, khi nó "xoáy tít đáy", "lừ lừ những cánh quạ đàn". Sức mạnh ấy
nó có thể "lôi tuột những cái thuyền nghênh ngang đi qua, thuyền trồng cây
chuối ngược ngược rồi vụt biến bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông, mươi
phút sau thì tan xác ở khuỷnh sông dưới". Rõ ràng, hút nước trên Sông Đà
giống như một con thuồng luồng, thủy quái lúc thì như một cài vòi rồng
trong trận cuồng phong, khi thì như cái cối xay thịt khổng lồ giữa núi rừng
Tây Bắc. Sức mạnh của nó thật ghê gớm có thể nghiền nát bất cứ con thuyền
nào trong khoảng thời gian sớm nhất. Với việc sử dụng kiến thức của lĩnh
vực giao thông vận tải, điện ảnh để tô đậm mức độ khủng khiếp của cái hút
nước, nhà văn Nguyễn Tuân đã tưởng tượng ra một anh chàng quay phim
táo bạo nào đó muốn truyền cho người xem một cảm giác lạ đã dũng cảm
ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả người và cả máy xuống cái hút
nước ấy mà quay ngược lên. Nếu xem những thước phim ấy mọi người phải
phải lên gân để giữ chặt chiếc ghế. Với sự liên tưởng độc đáo, nhà văn
Nguyễn Tuân đa tiên phong xây dựng thước phim 3D rất sống động có một
không hai trong lịch sử văn học.
Nếu như miêu tả cảnh bờ đá bên sông và ghềnh Hát Loong nhà văn Nguyễn
Tuân rất kiệm lời thì khi miêu tả hút nước Sông Đà ông đã huy động vốn
hiểu biết phong phú, vốn kiến thức ở nhiều lĩnh vực cùng đội quân ngôn từ
hùng hậu để miêu tả tận cùng sự dữ dội của hút nước Sông Đà. Với việc sử
dụng phép so sánh nhiều lần: Như cái giếng bê tông.. như cửa cống cái bị
sắc, lừ lừ như những cánh quạ đàn, như ô tô sang ga nhấn số, như rót dầu
sôi vào, như một cốc nước pha lê khổng lồ.. chính sự so sánh ấy giúp cho câu
văn thêm gợi hình, gợi cảm để người đọc hình dung sự dữ dằn của cái hút
nước đã trở thành một thử thách không nhỏ đới với ông lái đò.

14
Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều
lĩnh vực, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng
đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao
thông, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên
tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ,
chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự
nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và
rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm
cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi
thì chậm rãi, trữ tình.. tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con
sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có.
*Kết bài viết về sông Đà:
Huy-gô đã từng nói: “Bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Có lẽ đó là
điều mà Nguyễn Tuân sợ nhất. Con người ấy luôn muốn đề cao bản ngã của
mình, “không để mình giống ai và cũng không ai bắt chước được mình”
(Phan Cự Đệ). Với tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” và việc xây dựng thành
công hình tượng sông Đà, đặc biệt là đoạn văn miêu tả sông Đà …, Nguyễn
Tuân vượt qua được quy luật nghiệt ngã của sự sáng tạo nghệ thuật, vượt
lên trên cái bình thường để cho nhân vật sông Đà mãi mãi bất tử trong lòng
những người yêu văn. Và sóng nước Đà giang sẽ còn tô điểm cho vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên đất nước:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
(“Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm)
-------------------------------------------------
Sông Đà trữ tình
“Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu”
(“Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên)
Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ
thuật. Bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các
nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn
Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết “Bốn năm sau”, Tô Hoài ghi dấu
ấn với “Vợ chồng A Phủ” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này
với tập “Tuỳ bút Sông Đà” mà linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”.
Thưởng thức bài kí, người đọc không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp …, mà tiêu
biểu là đoạn trích miêu tả …
*Thân bài:
b. Khái quát tác phẩm, tác giả:
“Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như
là tôn giáo của mình” (GS. Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một
người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều

15
thể loại, song thành công nhất vẫn là thể tuỳ bút. “Người lái đò Sông Đà”
trích trong tập “Tuỳ bút Sông Đà”, xuất bản năm 1960, là kết quả của chuyến
đi thực tế đến miền Tây Bắc năm 1958 của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm
là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn và xa xôi của Tổ
quốc. Nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng với thứ “vàng
mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn con người lao động.
Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao
tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của
những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai
đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về
phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc
nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai
lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô
cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào
thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
*Tính cách trữ tình (Con sông Đà tuôn dài…..nỗi niềm cổ tích tuổi xưa)
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm
nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá
dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Lóong “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”,
cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết
bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình
của dòng sông.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên
cao nhìn xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như
một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đất nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước
mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như
nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.
Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa
trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của
trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn
gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết
cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Cảnh vì thế
mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ
tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người đàn bà kiều
diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn
cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm
người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài
thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Sự nhân
cách hóa đó làm sông Đà gợi cảm biết bao!

16
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu
tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về
con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây
mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn
xuống dòng nước sông Đà”.
Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không
trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu
xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang
của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát
hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước
sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông
Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc
màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa
thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”.
Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước
sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được
trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của
con sông Tây Bắc.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân
đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một
cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng
chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà
đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ
Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” –
Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông
Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ
đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui
như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi
chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông.
Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở
về.
Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế
giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn
vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến
lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần,
đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự hướng nội
này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà.
Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo,

17
dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp
hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong
cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà
văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá
ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ giành đồi núi đang ra
những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ.
Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta
liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo
thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào
nguyên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ
cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp
của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.
Nghệ thuật: Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã nhìn dưới nhiều
góc độ khác nhau, sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái, kết cấu trùng
điệp cùng những lien tưởng, so sánh, nhân hóa… đã diễn tả những trạng
thái đặc biệt của dòng sông nên để lại trong lòng người âm hưởng mênh
mang, thơ mộng.
*Kết bài viết về sông Đà:
Huy-gô đã từng nói: “Bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Có lẽ đó là
điều mà Nguyễn Tuân sợ nhất. Con người ấy luôn muốn đề cao bản ngã của
mình, “không để mình giống ai và cũng không ai bắt chước được mình”
(Phan Cự Đệ). Với tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” và việc xây dựng thành
công hình tượng sông Đà, đặc biệt là đoạn văn miêu tả sông Đà …, Nguyễn
Tuân vượt qua được quy luật nghiệt ngã của sự sáng tạo nghệ thuật, vượt
lên trên cái bình thường để cho nhân vật sông Đà mãi mãi bất tử trong lòng
những người yêu văn. Và sóng nước Đà giang sẽ còn tô điểm cho vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên đất nước:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
(“Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm)
------------------------------------
Phân tích đoạn văn người lái đò vượt ba trùng vi thạch trận Sông Đà
( Thạch trận dàn bày vừa xong…… Thế là hết thác)

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc


Khi lòng ta đã hóa những con Tàu
Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên
Tây Bắc đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ thuật,
bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các nhà văn,
nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn Huy

18
Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết "Bốn năm sau", Tô Hoài ghi dấu ấn
với VCAP, Nguyễn Khải viết nên "Mùa lạc" thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa
trên mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông Đà" mà linh hồn là bài kí "Người lái
đò Sông Đà". Thưởng thức bài kí, người đọc không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp
của một chiến binh sông nước đã vượt bao trùng vi thạch trận như một
người nghệ sĩ tài hoa trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Vẻ đẹp của hình
tượng nghệ thuật ấy đã được ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Tuân khắc
họa sống động, chân thực qua cảnh vượt thác có một không hai: "..."
"Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như
là tôn giáo của mình" (Gs Trần Đình Sử) Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người
nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều thể loại, song
thành công nhất vẫn là thể tùy bút. "Người lái đò sông đà" trích trong tập
tùy bút "Sông Đà", xuất bản năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế đến
miền Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người nơi đây.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mĩ về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã xây
dựng thành công hình tượng ông lái đò, một hình tượng nghệ thuật độc đáo
và hấp dẫn. Hình ảnh ông lái đò hiện lên với một vẻ ngoài in hằn mùi sông
nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông "tay lêu nghêu như cái sào, chân
khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như
thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó.." đặc biệt
trên ngực ông có nhiều "củ nâu" đó là vết tích của những ngày tháng chiến
đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là "những
huân chương lao động siêu hạng".
Không chỉ mang nét đẹp sương gió ở ngoại hình, người lái đò còn nổi bật
bởi tính cách và trí thông minh. Đối với ông, sông Đà như 1 trường thiên anh
hùng ca và ông thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh
pháp của thần sông thần đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Đoạn trích về cuộc vượt thác đã tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò
giàu lòng dũng cảm trong trận thủy chiến qua ba trùng vi thạch trận trên
sông đà.
Ở vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí thạch trận với “bốn cửa tử, một cửa
sinh”. Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm
méo mó”. Khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt
tới”. Câu văn đã cho thấy được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến
trận của ông lái đò. Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh
trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước
đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”.
Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính
hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với
những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh
nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”,
“thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn
công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến

19
thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông đò hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế
bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển
thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp
chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên,
còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình
tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa
sinh.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa
sinh lệch về phía hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn
Tuân còn phải bình luận về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà,
phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nhưng với kinh nghiệm nhiều năm
vượt thác, ông lái đò đã không mắc bẫy. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước
hiểm trở này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận này ông
lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông
“nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông
“phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối
thủ đáng gờm, con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa
tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo
lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng,
những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không
ngừng khiêu khích.
Cao trào nhất là ở vòng cuối cùng, lúc này con Sông Đà với tinh thần không
còn gì để mất đã quyết định tung ra mọi món đòn hiểm nhất của mình. Ở
vòng này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng
sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà
đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế
“tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã
biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một
cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa
đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng.
“Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự
động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Vậy là cuối cùng, ông lái đò đã
chiến thắng trước con sông đà hung dữ.
Đoạn văn cảnh vượt thác được Nguyễn Tuân miêu tả thật tài tình với ngôn
ngữ giàu hình ảnh. Nhà văn đã biến cuộc vượt thác trở thành một cuộc
chiến đầy gay cấn và khốc liệt khiến cho người đọc cảm thấy hồi hộp khi
đọc. Đặc biệt với việc sử dụng nhiều động từ mạnh để diễn tả sự cuồng nộ
của con sông Đà. Mật độ động từ dày đặc diễn tả nhiều hành động liên tiếp
dồn dập, mạnh mẽ khiến người đọc như nghẹt thở để rồi thở phào nhẹ
nhõm khi kết thúc.

20
Huy-gô đã từng nói: "Bình thường là cái chết của nghệ thuật". Có lẽ đó là
điều mà Nguyễn Tuân sợ nhất. Con người ấy luôn muốn đề cao bản ngã của
mình, "không để mình giống ai và cũng không ai bắt chước được mình"
(Phan Cự Đệ). Với tùy bút NLĐSĐ và việc khắc hoạ chân thực, sống động
cảnh vượt thác, NT vượt qua được quy luật nghiệt ngã của sự sáng tạo nghệ
thuật, vượt lên trên cái bình thường để cho hình tượng ông lái đò cùng con
SĐ hùng vĩ mãi mãi bất tử trong lòng người yêu văn. Nguyễn Tuân thực sự là
một tài năng lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã từng
ngợi ca: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ."
-------------------------
Phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân
* Mở bài: “Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu”
(“Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên)
Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ
thuật. Bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các
nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn
Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết “Bốn năm sau”, Nguyễn Tuân
ghi dấu ấn với “Người lái đò Sông Đà” thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh
đất này với tập “Truyện Tây Bắc” mà linh hồn là tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
Tác phẩm phản ánh chân thực bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền
núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến thực dân và là bài ca về vẻ
đẹp phẩm chất, vẻ đẹp sức sống mãnh liệt của người lao động. Vẻ đẹp ấy
được thể hiện rõ thông qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị + VĐNL
“Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, là kết quả của quá trình tám
tháng đi thực tế ở Tây Bắc. Dưới ngòi bút tài hoa, lối kể chuyện tự nhiên,
từng trang văn của Tô Hoài cứ thế nhẹ nhàng đi vào trái tim người đọc, để
lại ấn tượng sâu đậm về hình ảnh của nhân vật Mị - đại diện cho số phận của
người nông dân lao động miền núi.
Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung,
xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt
nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống
một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn tìm
đến cái chết với nắm lá ngón trong tay thế nhưng Mị không thể chết, bởi cô
chết rồi món nợ của cha ai sẽ trả. Đến khi cha Mị đã mất thì Mị lại không còn
thiết tha đến việc chết nữa bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi
Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng
bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện
ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh
liệt.
Thế nhưng mùa xuân trên mảnh đất Hồng Ngài lại về. Khung cảnh thiên
nhiên mùa xuân nơi đây thật thơ mộng, tình tứ và bừng sức sống: “ Gió thổi
vào cỏ gianh vàng ửng”, “ trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã
đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa

21
nở trắng lại đổi ra màu đỏ hay, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát”. Cùng
với vẻ đẹp thiên nhiên là không khí náo nức, nhộn nhịp của ngày hội. “ Trai
gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và
nhảy”; “ chiêng đánh ầm ỉ”; “ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính
cái không khí ấy đã đánh thức tâm trí Mị, khiến Mị nhớ về những ngày
tháng quá khứ tuổi xuân, nghĩ đến đây mà đau thắt lòng, chỉ muốn chết
quách đi cho khỏi phải nghĩ. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát.
Uống ừng ực như muốn nuốt trôi những phẫn uất. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy
nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày
trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo
giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên
môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị. Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa
xuất hiện thì nổi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị ý
thức được cảnh ngộ éo le của cuộc đời mình. Mị liền nghĩ đến cái chết: “
Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn hết cho chết ngay”. Nhưng
rồi, “ tiếng sáo gọi bạn yêu ” đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như
quên hết cảnh ngộ bi thảm hiện tại. Mị đứng lên hành động, tìm lại tự do
cho mình. "Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng”. Cái hành động “ quấn lại tóc”, “ với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía
trong vách”, “ rút thêm cái áo” chuẩn bị đi chơi là sự chiến thắng bất ngờ
của bản năng. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.
Nhưng cũng chính lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị
vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Khi A Sử biết được ý định đi
chơi của Mị, hắn nắm tóc Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. “Tóc Mị xoã
xuống. A Sử quấn luôn tóc lên dây cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng
được đầu nữa”. Sau một loạt hành động vô nhân tính, không xứng mặt một
người chồng như thế thì hắn đã bỏ đi. Trong bóng tối, dù bị trói như một
thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bản năng. Mị như không biết mình đang
bị trói. Tâm hồn Mị đã đi theo tiếng sáo, đi theo những cuộc chơi. Mãi đến
lúc Mị “vùng bước đi”, cô mới giật mình trở về với thực tại, mới thấm hiểu
rõ cái cảnh ngộ bi thảm của mình: “ Tay chân đau không cựa được” và cô
mới thổn thức nỗi lòng, biết mình không bằng con ngựa. Nhưng khi nghe
tiếng chó sủa xa xa, đêm đã về khuya thì Mị mới khóc, lòng Mị lại bồi hồi.
Trong suốt đêm Mị bị trói đứng như thế, Mị rơi vào tâm trạng lúc tỉnh, lúc
mê. Lúc mê lòng lại “ nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì khắp người bị dây
trói thít lại, đau nhức. Đến sáng “ khi bàng hoàng tỉnh thì cô “ sợ quá”, “ cựa
quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức
về sự sống của Mị. Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân
đã dự liệu cho sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị có những
hành động táo bạo, mạnh mẽ sau này, cô cắt dây cởi trói để cứu A Phủ thoát
khỏi cảnh ngộ bi thảm đồng thời cũng là tự cứu mình.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, Biệt tài miêu tả tâm lí
nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ giản dị, sinh động chọn lọc, câu văn giàu tính tạo

22
hình và thấm đẫm chất thơ, Tô Hoài đã làm nổi bật sức sống tiềm tàng, trẻ
trung không dập tắt được của Mị. Đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh
thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền cùng núi cao Tây Bắc.
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng
giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận
đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt
hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc
đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có
ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy
khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp
– nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt
được
------------------------------------
Phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa Đông
“Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu”
(“Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên)
Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ
thuật. Bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các
nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn
Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết “Bốn năm sau”, Nguyễn Tuân
ghi dấu ấn với “Người lái đò Sông Đà” thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh
đất này với tập “Truyện Tây Bắc” mà linh hồn là tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
Tác phẩm phản ánh chân thực bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền
núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến thực dân và là bài ca về vẻ
đẹp phẩm chất, vẻ đẹp sức sống mãnh liệt của người lao động. Vẻ đẹp ấy
được thể hiện rõ thông qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị + VĐNL
“Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, là kết quả của quá trình tám
tháng đi thực tế ở Tây Bắc. Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Cô vốn là
một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền
kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ
bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn
tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay thế
nhưng nhận quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục,
bất hạnh. Những tưởng cuộc đời Mị sẽ mãi như vậy nhưng trong đêm xuân
ấy, sức sống của Mị lại trỗi dậy 1 cách mạnh mẽ. Nhưng những sợi dây thô
bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống của Mị. Dù phải chịu đau đớn
và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm
cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một
cái xác không hồn. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu
ngựa. Tưởng chừng như sức sống ấy sẽ bị dập tắt mãi mãi nhưng rồi nó lại
bùng lên mãnh liệt trong đêm mùa đông cứu A Phủ.

23
Như biết bao đêm mùa đông khác, những gì diễn ra xung quanh không khiến
Mị quan tâm. Mị ngồi thổi lửa, hơ tay. Ngọn lửa ấy như hơi ấm duy nhất mà
Mị cảm nhận được trong cuộc sống này. Mị rất sợ những đêm mùa đông
trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa như
nguồn hơi ấm duy nhất sưởi ấm cả về thể xác và tâm hồn Mị.
Cũng chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Cũng chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị
nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có
thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.
Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt
ngã. Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực
cái chết là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A
Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ
ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường,
hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về
thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi
tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên
vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn
thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí
Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống
của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính
vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.
Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được
tâm hồn Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là
dòng nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai
mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại”. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp
băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng
cảnh ngộ. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Mị đã cảm nhận nỗi đau
của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm
phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà
này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách
cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi bị
trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ
thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về
với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn
bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ
xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy
thương A Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ….
Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý
muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt
dây trói đầy dũng cảm.

24
Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng
trước khi cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị
trói thay vào đấy...”, rất có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao,
“Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ
hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là
một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí
của Mị trong đêm mùa đông này. Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý
thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình
thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị
cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào
lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng
thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị
vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn
ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy
theo A Phủ hay ở đây chờ chết?
Rồi cũng vụt chạy ra. Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền,
thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao
nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó
là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị.
Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức
sống tiềm tàng, âm ỉ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi
cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật trần thuật
hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất
ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy
dẫy đau thương nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con
người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ đến sự việc giải cứu
linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo”
của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay
đổi suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội
lỗi. Phải chăng “tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó
có thể tạo ra những phép lạ”.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, Biệt tài miêu tả
tâm lí nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ giản dị, sinh động chọn lọc, câu văn giàu
tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ, Tô Hoài đã làm nổi bật sức sống tiềm
tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị. Đồng thời cũng là một bản cáo
trạng đanh thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền cùng núi cao Tây
Bắc.
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ
nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số
phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác
bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người
và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị

25
trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ
mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết
bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có
thể dập tắt được.
----------------------------
“Sông Hương nước chảy lững lờ
Đôi bờ rủ bóng mộng mơ ảo huyền
Xuôi dòng ngắm cảnh du thuyền
Ta như lạc cõi thân tiên phiêu bồng”
(“Hò thuyền sông Hương “- Khách Du lãng)
“Sông Hương” - dòng sông của những khúc êm đềm, thơ mộng mà đằm thắm
ấy đã chảy vào lòng xứ Huế từ ngàn đời nay và trở thành “nguồn cảm hứng
bất tận” trong trái tim của biết bao thi sĩ. Đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng
vậy, ông viết về dòng sông Hương ấy bằng tất thảy những tình cảm yêu mến,
trân trọng và niềm say mê mãnh liệt. Đọc bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông ?” chúng ta có thể thấy “vị ngọt ngào” xuất phát từ tình yêu tha thiết
nồng nàn trong Hoàng Phủ Ngọc Tường và “ người con của mảnh đất cố đô”
ấy đã phát hiện, miêu tả vẻ đẹp nổi bật của sông Hương khi chảy vào vùng
ngoại vi thành phố bằng ngòi bút hết sức tài hoa và mê đắm, từ đó làm nổi
bật ngòi bút trữ tình trong phong cách kí của mình
* Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
- H.P.N.Tường là một trí thức yêu nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn
hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Ông là nhà văn chuyên về bút kí. Sáng
tác của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa
nghị luận và tư duy đa chiều với lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài
hoa.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bút kí trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong
cách của HPNT. Trong bài bút kí, nhà văn đã miêu tả rất cụ thể và sinh động vẻ
đẹp của con sông Hương từ nơi khởi nguồn đến khi rời kinh thành Huế.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người con của mảnh đất Quảng Trị đầy gió Lào
cát trắng, nhưng cuộc đời của ông lại gắn bó sâu sắc với xứ Huế mộng mơ.
Ông có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực nhất là lịch sử, địa lí, văn
hóa. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc
trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí
tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm,
tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết năm 1981 bằng tình yêu, sự
gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm
được in trong tập bút kí cùng tên năm 1986.
Thân bài :
1/ Vẻ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên : được cảm nhận qua thủy trình Hương
giang
* Ở nơi khởi nguồn :

26
Mở đầu, dưới sự am hiểu của tác giả về địa lý, ông đã đem đến cho người
đọc vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên của dòng sông Hương nơi thượng nguồn.
Đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn, nhà văn đã thể hiện
cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lí giải cùng cái nhìn sâu sắc về cội nguồn. Ở
thượng nguồn sông Hương được ví như "bản trường ca của rừng già", chẳng
phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại dành cho sông Hương một tên gọi như vậy. Ở
nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ con sông
toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng vừa trữ tình như bản
trường ca bất tận của thiên nhiên "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt
qua những ghềnh thác, cuộc xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn và
cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Hình ảnh so sánh về bản trường ca của rừng già
khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt
trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn bởi trường ca là áng văn
chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn rừng già
là hình ảnh những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn-hình ảnh mang đến sắc
thái hoang dại cho dòng sông nơi đầu nguồn. Câu văn dài, chia làm nhiều vế
liên tục như gợi dậy cái dư vang của trường ca. Thủ pháp điệp cấu trúc với
những động từ mạnh tự nó đã tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của
con sông giữa rừng già. Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào
cùng sự tiếp sức của thác ghềnh, sóng gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi
kinh hoàng của vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng
đại ngàn, do đó sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa
ngời sáng vẻ đẹp rực rỡ, kiêu sa, lại vừa khơi gợi những say mê, bí ẩn...
Nhà văn còn nhân cách hóa Sông Hương như cô gái Digan phóng khoáng và
man dại. Đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Những cô gái Bohemian
thích sống lang thang tự do và yêu ca hát, nhảy múa có vẽ đẹp man dại và đầy
quyến rũ. Ví sông Hương với những cô gái Digan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng
cũng rất tình tứ của con sông. Chưa hết, nhà văn còn nhân hóa sông Hương,
khiến nó hiện lên như một con người có cá tính, tâm hồn "rừng già đã hun đúc
cho nó một bản lĩnh gan dạ,một tâm hồn tự do và trong sáng". Nếu tư duy
nghiên cứu chủ yếu cung cấp những dữ kiện, những tri thức về dòng sông thì
tư duy nghệ thuật giúp những tri thức đó trở nên mềm mại hơn.
Hơn hết, sông Hương như "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở".
Không chỉ giúp cho bạn đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẽ đẹp
hùng vĩ, man dại đầy chất thơ của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn
muốn đem đến một cái nhìn sâu sắc hơn, muốn ghi công sông Hương như một
đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng
thiên nhiên xứ sở. Lâu nay, ta mới chỉ nhìn sông Hương ở vẻ đẹp của nó mà
không biết rằng sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của
không gian văn hóa. Sẽ không qua nếu cho rằng không có sông Hương thì khó
có thể có văn hóa Huế ngày nay. Chính vì vậy, từng ngày từng giờ sông Hương
duy trì và bồi đắp phù sa cho cả một vùng văn hóa thẩm mĩ đã được hình

27
thành ở trên và hai bên sông. Ấy thế nhưng dòng sông không muốn bộc lộ cái
công lao to lớn ấy. Nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến nhiều thế kỉ qua. Và
đây là chiều sâu vẽ đẹp và nhân cách của dòng sông, là nét tính cách đáng trân
trọng của Hương giang và Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn khắc họa.
Qua đó, ta thấy nhà văn lí giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc
thượng lưu và hạ lưu không phải bởi những kiến thức địa lí đơn thuần mà còn
bằng cái nhìn suy tư thấm đẫm tình yêu. Trong cái nhìn ấy, sông Hương hiện
ra như một người con gái vốn mang trong mình những sức mạnh hoang dã
của rừng già, nay đã tự chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình sắc đẹp dịu
dàng và trí tuệ khi về với Huế - sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau
những thác ghềnh, sóng gió, sự trí tuệ sau những trải nghiệm gian truân...
* Đến ngoại vi thành phố Huế :
Trước khi trở thành một người tình thủy chung với cố đô, sông Hương đã phải
trải qua một hành trình đầy gian lao với không ít các thử thách, bởi vậy mà khi
chảy xuôi về đồng bằng, sông Hương đã có sự thay đổi về tính cách.
Ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương giống như người con gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa cúc dại được người tình mong
đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi
tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một
người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.
Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như người con
gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nó thể hiện một vóc dáng mới, sức
sống mới, đầy khát khao và lãng mạn "Sông Hương đã chuyển dòng một cách
liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm". Hành trình đến với người tình mong đợi của người giá đẹp khá
gian truân và nhiều thử thách. Nhưng trong quá trình ấy sông Hương lại như
có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm với những đường
cong tuyệt mĩ của người gái đẹp ra từ cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại "qua
điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển sang hướng Tây Bắc, vòng qua thềm
đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về
phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây,
sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Bằng lối hành văn uyển chuyển,
ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một
cách sinh động và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Tác giả đã
vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông
Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Ông không chỉ tái hiện lại một cách
chân thực dòng chảy tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn là biến cái
thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp,
duyên dáng và tình tứ.
Khi chảy vào Huế, sông Hương mang một vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ
thi. Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những
lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại

28
vi thành phố Huế như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua
chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”. Chảy bên những di
sản văn hóa ấy, con sông như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác
lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông
hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang
vọng về trong ngày hôm nay. Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước sông
Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga, giữa bạt ngàn tiếng gà của những xóm làng.
=> Tóm lại, bằng những nt liên tưởng, so sánh, nhân hóa, bút pháp vừa lãng
mạn vừa hiện thực đã làm bật sông Hương như một cô gái dịu dàng mơ
mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ
trái tim.
Đoạn trích là một đoạn văn xuôi súc tích, đầy chất thơ về vẻ đẹp của dòng
sông Hương trên hành trình về với người tình của nó. Bằng tài năng của mình
và cái nhìn tài hoa, uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khám phá dòng sông
ở nhiều góc độ khác nhau, không chỉ về văn hóa, lịch sử, mà còn về nghệ
thuật, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa và
sử dụng thành công các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ đã
khiến cho dòng sông từ một vật vô tri vô giác nay đã trở nên có hồn, có tâm
trạng, có tính cách, khi thì nó đằm thắm, dịu dàng, có lúc lại mạnh mẽ, quyết
liệt. Nhờ đó, tác giả đã tạo nên tuyệt bút để đời mang nét một riêng biệt trong
văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Đến giữa thành phố Huế :
Vượt qua muôn vàn khó khăn, cuối cùng sông Hương cũng đến nơi mà nó cần
đến, cũng gặp được “thành phố tương lai” mà nó mong đợi, có lẽ vì thế mà
con sông “tươi vui hẳn lên”. Sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa
những “thuyền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long” để rồi “giáp mặt
thành phố ở cồn Giã Viên”. Đến đây, con sông giống như một cô gái đẹp e lệ,
dịu dàng nghiêng mình chào Huế “…sông Hương đã uốn một cánh cung rất
nhẹ sang đến cồn Hến”, “như một tiếng vang không nói ra của tình yêu”.
Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu- đa- pét, “sông Hương nằm
ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”.
Sông Hương trong lòng thành phố Huế còn như "điệu slow tình cảm dành
riêng cho Huế". Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là
chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho
Huế mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của
Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của
sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa
lý : “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu
tốc của dòng nước khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi
chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Để làm nổi bật hơn
cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva –
con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Petecbua cũ để ra bể Ban-

29
tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức “không kịp cho lũ hải âu nói
một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. Mượn câu
nói của Hêraclít – nhà triết học Hy Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc
suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem
đến một kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà
ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ trái tim: sông Hương chảy chậm, điệu chảy
lững lờ là vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều
hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên
một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là
những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn
âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem
các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết
vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm
nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành
trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa
những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị,
cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có
quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước.
=> Tóm lại, bằng những nt so sánh đầy mới lạ, bất ngờ cùng với nhân hóa,
liên tưởng của tg làm sông Hương trở nên có hồn, có sự sống như một cô gái
say đắm trong tình yêu. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa Huế và sông Hương được
tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu.
* Trước khi từ biệt Huế :
Sông Hương đối với Huế như một người tình dịu dàng và thủy chung. Sau cảm
giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng
quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ "sông Hương uốn một
cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến và trong liên tưởng độc đáo, lãng mạn
của nhà văn dường như đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một
tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu. Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương
chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở đất nước ta nên
thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng
đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh
xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt
của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”,
thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. . Nhà
văn tưởng tượng, hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng
để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng
thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân
thương của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn
hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên
ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.

30
Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào thành phố
Huế, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng
sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ,
nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở
thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng điệu
của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết,
một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những
vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hoá của dòng sông quê hương.
Kết bài : Marcell Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một
lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được
tạo lập”. Sông Hương từ bao đời trở thành dòng sông của âm nhạc, thi ca, biết
bao tác phẩm nghệ thuật khơi nguồn từ dòng chảy sông Hương vậy mà khi
chảy qua trang kí HPNT lại vẫn đắm say, diệu kì đến thế. Đoạn trích đã thể
hiện được những nét độc đáo, mới mẻ của nhà văn trong từng con chữ công
phu, tái hiện lại vẻ đẹp của sông Hương khi …(nhắc lại vấn đề). Từ đó, người
đọc không chỉ thấy được nét tài hoa, uyên bác trong bút kí HPNT mà còn cảm
nhận nơi ông một tình yêu thiết tha, sâu nặng dành cho sông Hương và mảnh
đất cố đô văn hiến.
2/ Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử, cuộc đời và thi ca
* Với lịch sử dân tộc : sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi
dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Sông Hương là “ dòng sông biên thùy
xa xôi” của đất nước các vua Hùng, là “ dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh
liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”.
Thế kỉ XVIII, sông Hương “ vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ”. “ Nó sống hết lịch sử bi tráng của XIX với máu của những
cuộc khởi nghĩa”. Thế kỉ XX, sông Hương “ đi vào thời đại của CMT8 bằng
những chiến công rung chuyển” để rối sau đó có mặt trong những năm tháng
bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác
liệt.
* Với thi ca, âm nhạc : sông Hương là nguồn đề tài, cảm hứng bất tận cho
các văn nghệ sĩ.
Tác giả cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, và “ dòng sông ấy không
bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”: Tản Đà tinh tế khám phá
sự thay màu thực bất ngờ “ dòng sông trắng, lá cây xanh”. Cao Bá Quát phát
hiện ở sông vẻ đẹp hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh”. Bà Huyện Thanh
Quan tìm thấy ở sông một nỗi “ quan hoài vạn cổ”. Trong thơ Tố Hữu, sông
Hương trở thành “sức mạnh phục sinh của tâm hồn” và nhạc sĩ Trần Hữu Pháp
viết nên ca khúc cùng tên làm mê đắm lòng người: “Dòng sông ai đã đặt tên /
Để người đi nhớ mãi không quên…
* Với cuộc đời : sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử
thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trở về cuộc sống bình thường, sông Hương
mang vẻ đẹp giản dị của “ một người con gái dịu dàng của đất nước”. Áo cưới
Huế xưa, màu áo điều lục có vân thưa màu xanh chàm lồng lên màu đỏ bên

31
trong tạo thành màu tím ẩn hiện, màu tím thuỷ chung, đấy cũng chính là màu
của sương khói sông Hương.
==> Bài kí mở đầu bằng một câu hỏi đầy trăn trở : “ Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” nhưng phải đến những dòng cuối cùng của bài bút kí nhà văn mới đưa
ra câu trả lời. Và nhà văn đã chọn cho mình một cách trả lời thật ấn tượng,
đậm chất trữ tình : “ Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con
sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại
hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Mượn huyền thoại
này để giải thích cho câu hỏi “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, phải chăng nhà
văn muốn khẳng định hai phẩm chất cao quý của sông Hương, cũng là hai vẻ
đẹp còn mãi với thời gian của con sông này : vẻ đẹp vĩnh hằng và danh thơm
muôn thuở.
3/ Nghệ thuật thể hiện :
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
- Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu.
- Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được sử
dụng một cách hiệu quả.
=> Tạo ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của sông Hương.
4/ Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn:
Tác giả không chỉ nhìn sông Hương trong thuỷ trình mà còn nhìn nhận và phát
hiện ra bản chất của dòng sông. Sông Hương hiện lên vừa là một thực thể tự
nhiên, vừa như một con người với vẻ đẹp phong phú và tâm hồn "sâu thẳm".
→ Cái nhìn sâu sắc, toàn diện và hết sức mới mẻ của tác giả. Từ đó, người đọc
cảm nhận được tình yêu quê hương và trân quý cái đẹp của nhà văn.
Kết bài :
- Sức hấp dẫn của bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trước hết đến từ
ngòi bút tài hoa của HPNT. Nhà văn đã sáng tạo được những trang văn đẹp mà
những trang văn ấy được dệt nên bởi một kho từ vựng phong phú, uyển
chuyển và rất giàu hình ảnh. Các biện pháp nghệ thuật : ẩn dụ, nhân hóa, so
sánh… gắn liền với những liên tưởng bất ngờ, thú vị cũng đã tạo nên những góc
nhìn đa sắc về sông Hương, đưa người đọc đi từ thích thú này đến thích thú
khác.
- Bài kí nói chung và đoạn văn nói riêng là kết tinh và tổng hòa đẹp đẽ của
một tình yêu say đắm đối với dòng sông, với quê hương xứ sở và tài năng của
một cây bút giàu trí tuệ, am hiểu sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn
chương cùng một sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.

---------------------
PHÂN TÍCH TRÀNG
Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ
thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Thật
vậy, văn chương phải bắt rễ từ cuộc đời thì câu từ mới thực sự sống, mới có
linh hồn. Mỗi tác phẩm văn chương được ví như tấm gương phản chiếu thời
đại. Trong nền văn học Việt Nam, có những tác phẩm bất hủ ra đời giữa thời kì

32
huy hoàng của dân tộc, nhưng cũng có không ít những bài ca sự sống cất lên
giữa thời kì tăm tối của tổ quốc. Trong số đó phải kể tới “Vợ nhặt” của Kim Lân
– người con đẻ của đồng quê. Qua đoạn trích [ ... ] Kim Lân đã khắc họa chân
thực……..
Truyện ngắn “Vợ nhặt” trích từ tập “Con chó xấu xí” là một trong những
truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm là bức tranh chân thực và cảm
động về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Thông qua các nhân vật bà cụ Tứ,
Tràng và cô vợ nhặt tác giả Kim Lân đã làm bừng sáng vẻ đẹp nhân văn của tác
phẩm - đó là vẻ đẹp tình người trong nạn đói.
Truyện xoay quanh tình huống anh Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói
khát. Ở nhân vật này, nhà văn đã miêu tả với nhiều chi tiết nói về ngoại hình,
tính cách, gia cảnh nhưng gần như tạo hóa không cho anh ta một điểm đáng
tự hào nào cả: người thô kệch, lưng rộng như lưng gấu, đầu trọc, nhà nghèo,
dân ngụ cư, nghèo kiết xã, thô. Điểm ấn tượng nhất về bề ngoài là sự ngờ
nghệch có cái tật vừa đi, vừa nói, vừa cười tủm tỉm một mình. Hơn nữa, Tràng
sống với mẹ, nghèo đến nỗi cái nhà hắn ở "rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại" mẹ góa con côi. Tuy nhiên ở Tràng cũng có điểm đáng
quý: vui vẻ, dễ gần, tốt bụng đối với lũ trẻ con trong xóm vẫn xúm lại trêu đùa.
Anh ta không bao giờ dám nghĩ đến chuyện mình có thể lấy nổi vợ; tức là anh
ta đã ế vợ và không có khả năng lấy được vợ. Hơn nữa đang trong thời điểm
tất cả mọi người đều rơi vào nạn đói thê thảm. Thế mà anh ta lại nhặt được
vợ một cách rất dễ dàng ngay giữa đường, giữa chợ chỉ qua vài câu nói tầm
phơ tầm phào.
Đã có người theo không về làm vợ, điều đó thật bất ngờ nhưng là niềm vui,
hạnh phúc tột đỉnh trong cuộc đời của Tràng. Hoàn cảnh nạn đói ghê gớm,
bản thân Tràng lại rất nghèo, không biết mình có nuôi nổi mình không cho nên
sau lời nói đùa cho vui, Tràng cảm thấy "chợn", sợ đèo bòng. Tuy nhiên anh ta
lấy vợ bằng một cái tặc lưỡi: "chậc,kệ!". Cái tặc lưỡi vừa thể hiện sự buông
xuôi cho số phận, vừa thể hiện cái liều lĩnh của một kẻ không biết sợ là gì.
Đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát của một kẻ lần đầu tiên có niềm vui
hạnh phúc.
Tràng dẫn vợ về trong niềm vui khác lạ: " Mặt hắn có vẻ gì hớn hở khác
thường, hắn tủm tỉm cười nụ một mình, hai mắt thì sáng lên lấp lánh ". Lần
đầu tiên có được niềm vui trong cuộc đời cho nên Tràng quên hết những cảnh
sống tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói đang đe dọa trước mắt cũng không sợ
những ngày tháng đói khổ, ghê sợ ở phía trước…Có cái gì đó mới mẻ, lạ lắm
chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Đó là cảm giác sung sướng,
hạnh phúc của người đàn ông được biết thế nào là hạnh phúc: "Tràng thích
lắm, từ cha mẹ sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn
tình tứ như thế. "Tràng nói đùa…ai ngờ Thị về thật". Đúng là dẫu có cực khổ,
cùng quẫn đến đâu, dẫu đói khát đến mấy người ta cũng luôn luôn khao khát
hạnh phúc và chỉ nghĩ đến nó thôi đã thấy nó lấn lướt tất cả nỗi sợ hãi, kể cả
lưỡi hái tử thần. Chính vì thế dù biết rằng" Thóc gạo này đến cái thân mình

33
còn không biết mình có nuôi nổi không nhưng hắn vẫn chậc kệ đưa Thị về làm
vợ.
Khi Thị về nhà hắn, hắn mới thực sự thấy lo, tâm trạng bỗng thiếu tự tin, bối
rối như một đứa trẻ. Tràng nóng lòng, sốt ruột, mong mẹ về, khi mẹ về hắn
mừng rỡ như đứa trẻ lật đật chạy ra đón. Lúc này tâm trạng của Tràng phức
tạp, đan xen rất nhiều cảm xúc: vừa mừng lại vừa lo. Sau phút bối rối khi biết
mẹ đã đồng ý. Như vậy, Tràng đã thay đổi hẳn khi Thị theo về làm vợ.
Sáng hôm sau Tràng tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng:
"Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải". Lần
đầu tiên trong đời Tràng nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện
hữu ngay trong ngôi nhà của mình, vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch
nhác, bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp, gọn gàng. Hắn nhận thấy
ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình, lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy
nhưng hôm nay: "bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của
hắn lạ lùng." Đó chính là một gia đình, một nguồn vui sống, phấn chấn khi hắn
cảm nhận được hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn "nên
người", hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.
Đọc tác phẩm, chúng ta cảm thấy được một tình cảm chân thành và cảm động
ở Tràng, một người vui vẻ như vừa bước ra từ giấc mơ. “Hắn xăm xăm chạy ra
giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Tràng đã
khác so với ở đầu tác phẩm. Cưới Thị giống như một bước ngoặt quan trọng
thay đổi cả cuộc đời lẫn tính cách Tràng, từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán
đời sang vui vẻ yêu đời, từ một con người khờ khạo sang ý thức được trách
nhiệm. Đây chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc, một sự phục sinh tâm hồn.
Ở cuối tác phẩm, ta thấy trong suy nghĩ của Tràng xuất hiện cảnh những người
nghèo đói khổ đang kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp, ở đằng trước là một lá cờ
đỏ sao vàng. Đoàn người đang đi phá kho thóc Nhật. Đây là một hiện thực và
cũng là ước mơ tin về tương lai, tin về Đảng và cách mạng của Tràng cũng như
của những người như Tràng. Kim Lân rất xuất sắc và thành công khi có thể lột
tả được sự thay đổi cũng như miêu tả được tâm lý nhân vật bằng ngòi bút
nhân đạo vô cùng sâu sắc của tác giả.
-----------------------------------
PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG BÀ CỤ TỨ
Kim Lân không sáng tác nhiều, thế nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều
để lại tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của
nền văn học hiện thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê,
tấm lòng thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời của những người nông dân lầm lũi, Kim
Lân đã tạo dựng nên bức tranh hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của
thế kỷ trước, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước.
Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm thành công và xuất sắc nhất
của Kim Lân, truyện không chỉ phản ánh số phận con người, hiện thực thảm
khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn trong tác phẩm của mình,
tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm
hồn người nông dân, dù thực tại có tàn khốc, bị cái đói hành hạ, cái chết luôn

34
cận kề, nhưng ở họ ta vẫn thấy sáng lên vẻ đẹp của niềm tin, hy vọng vào một
cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng bao dung, thông cảm, vẻ đẹp của tình mẫu tử
đong đầy. Trong tác phẩm Vợ nhặt người thể hiện rõ những vẻ đẹp này chính
là nhân vật bà cụ Tứ, dù không có nhiều phân cảnh, thế nhưng bà vẫn thể hiện
được những vẻ đẹp tiềm ẩn mà Kim Lân muốn truyền tải.
Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với
những gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp
những năm 1944-1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một
căn “nhà” rách nát trong xóm Ngụ Cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện
cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng in đậm trong tâm trí người đọc bức chân
dung của một người phụ nữ trải qua gần hết đời người với những nhọc nhằn,
tủi khổ, đó là một bóng dáng gầy yếu, bệnh tật miệng “húng hắng ho”, dáng
người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Nhìn vào cảnh
ấy, tức thời trong trí óc người đọc đã hiện lên cái số phận khốn khổ của bà, khi
mà cả đời cụ Tứ có lẽ đã chịu nhiều đau thương vất vả, hoàn cảnh neo đơn, cố
sức nuôi lớn con cái, rồi đến khi đã tuổi gần đất xa trời, bà vẫn không được
hưởng cuộc sống an nhàn, mà vẫn phải chịu cảnh khốn khổ, gồng mình chống
chọi với cơn đói khủng khiếp.
Không chỉ vậy cả cuộc đời bà cụ Tứ vẫn luôn phải chịu những dày vò, day dứt
về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà
nghèo quá. Nhưng càng trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, thông
qua cách miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế từ ngòi bút Kim Lân, vẻ đẹp tâm hồn
của người phụ nữ này lại càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của
tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung,
cảm thông cho những số phận bất hạnh.
Câu chuyện bắt đầu từ việc anh cu Tràng bất ngờ dẫn về một người vợ nhặt,
Tràng lấy vợ ngay giữa cơn đói ngặt nghèo nhất, một đám cưới không hoa,
không đèn, không có mâm bàn. Thị theo không Tràng về nhà chỉ với 4 bát
bánh đúc, về ở với Tràng bằng hi vọng rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tránh
khỏi cái nạn đói khủng khiếp đang bủa vây khắp xóm làng. Trong hoàn cảnh
ấy, khi bà cụ được con trai giới thiệu cho người con dâu mới cưới, thoạt tiên
bà chẳng hiểu đầu đuôi cớ sự, sự chậm rãi của một người già cả, cùng với sự
kiện lạ lùng khiến bà cụ trong tức thời không thể lý giải, lòng bà có biết nhau
nhiêu cớ sự thắc mắc. Tuy nhiên bà không vội vã hỏi dồn, hay tỏ ra hoang
mang, mà trái lại bà im lặng nhìn con, ra ý để con trai mình từ từ giải thích đầu
đuôi câu chuyện. Đó là biểu hiện của sự từng trải, của tấm lòng biết lắng nghe,
chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý
lẽ.
Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng
“hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, rồi thì người mẹ ấy im lặng với biết bao nhiêu suy
nghĩ ngổn ngang trong lòng, bao nhiêu những lo âu cùng dồn về tấm lòng của
người mẹ thương con tha thiết. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai
mình”, đến cưới một tấm vợ cũng phải tự thân lo lấy, mà lại cưới ngay giữa
cảnh đói kém, cái chết đang rình rập khắp nơi, trong đó có cả bà, con trai và

35
người đàn bà xa lạ. Càng nghĩ bà cụ Tứ càng thấy xót xa, tủi cho phận mình,
phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai
hàng nước mắt”. Thế nhưng sống ở đời đã mấy chục năm, có chuyện lạ nào,
sự kiện nào mà bà chưa từng trông thấy, bà nhanh chóng thoát ra khỏi những
nỗi buồn rầu trong lòng, nhìn đến người đàn bà sẽ là con dâu trong nhà nay
mai, người sẽ bầu bạn với con trai, bà nhanh chóng vực lại tinh thần, chấp
nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai. Bà cụ hiểu rằng Tràng cũng đã
đến tuổi lấy vợ từ lâu, nay Tràng và thị đã phải duyên phải kiếp với nhau thì bà
cũng bằng lòng, bà chỉ trăn trở mãi một mối lo “biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau qua cơn đói khát này không”. Khi ấy tình thương của người mẹ lại càng
hiện rõ, bà không trách con trai tự ý làm chủ hôn nhân, cũng không dò hỏi về
câu chuyện cưới xin lạ lùng này mà bà chỉ có một ý nghĩ, sợ rằng vợ chồng
Tràng không gồng gánh nổi nhau qua cơn đói khát khủng khiếp này, để mà xây
dựng một mái ấm hạnh phúc. Bà thương cho số phận con trai mình thiếu thốn
đủ điều, đến cuộc sống vợ chồng cũng bấp bênh chẳng thể đoán được tương
lai phía trước. Thế nhưng trong ngày trọng đại, ngày vui của cuộc đời con trai,
bà đã không để bản thân buồn rầu quá lâu, cũng không muốn phá hỏng buổi
tân hôn, bà cụ nhanh chóng vực lại tinh thần với những điều tự nhủ thật lạc
quan“Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con
mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo
lắng được cho con…Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế
nào mà lo cho hết được?”. Rồi nhanh chóng trò chuyện, săn sóc với thị, kéo
thị ra khỏi cảnh ngượng ngùng của người dâu mới về nhà chồng. Đồng thời
nói những lời an ủi động viên, vun vén cho cuộc hôn nhân mới bằng những lời
của cha ông rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Đồng thời
bà cũng nhanh chóng giấu nhẹm vào lòng những lo toan, sầu khổ đang bộn bề
trong lòng, để mở ra cho các con một cuộc sống đầy hy vọng và tốt đẹp phía
trước, dẫu rằng ngoài kia là hoạt cảnh thực tối tăm, đầy chết chóc, đau
thương. Tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ quả thực ấm áp và đầy sự thấu hiểu,
bao dung.
Không chỉ ở tấm lòng yêu thương, lo nghĩ cho con mà hình ảnh cụ Tứ còn hiện
lên là một con người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc
với những số phận con người bất hạnh, mà điển hình ở đây là thị. Trước cảnh
tượng con trai dẫn về một người đàn bà không lai lịch, rách rưới, tàn tạ, giới
thiệu là vợ bà cụ Tứ không hề tỏ ý không hài lòng hay cự tuyệt trái lại bà chỉ im
lặng nghe con trai kể chuyện rồi thầm quan sát người đàn bà. Sau khi đã rõ
đầu đuôi câu chuyện bà nhanh chóng chấp nhận cuộc hôn nhân chớp nhoáng
đồng thời tỏ ra thấu hiểu cho cái khó của thị “Người ta có gặp bước khó khăn
đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
Bà cũng thương cho người đàn bà khốn khổ, phải đến bước đường cùng, bị cái
đói hành hạ đến mức nào thì mới chấp nhận kiếp làm vợ theo không của
Tràng. Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một
kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới
hỏi đàng hoàng, không có mâm cao cỗ đầy, lầm lũi trở thành vợ người ta mà

36
không một đồng sính lễ. Nghĩ đến đấy dường như bà lão càng thông cảm hơn
cho thị bởi lẽ cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có
được cuộc sống gia đình điền viên.
Chính những suy nghĩ thấu đáo, hiểu lý lẽ như vậy, bà cụ đã nhanh chóng thấy
thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây,
ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ
ấm mới. Rồi khi nhìn thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, tội
nghiệp cho một kiếp đàn bà, sinh ra vốn đã khổ, vào cảnh đói nghèo lúc này lại
càng khổ cực hơn, có lẽ rằng cuộc đời thị cũng sẽ lại giống như cuộc đời bà
mấy mươi năm trước. Nghĩ thế bà lại càng thương yêu thị hơn, nhẹ nhàng mà
bảo ban, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới,
lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng
yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng, đồng thời cũng để thị đỡ tủi thân
trước cảnh theo không về làm dâu nhà người. Rồi bà cũng thỉ thỉ tâm sự “cốt
làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày
lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu,
sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái. Có thể nói rằng
dù ít học, nghèo khó thế nhưng cụ Tứ lại có một tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, đồng
cảm, yêu thương con người sâu sắc, làm câu chuyện càng thêm ấm áp tình
người, xua tan đi cái lạnh lẽo của nạn đói khủng khiếp đang hoành hành ngoài
kia.
Không chỉ ấn tượng ở tình mẫu tử sâu sắc, lòng bao dung, thấu hiểu, bà cụ Tứ
còn bật lên với vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống,
vào một tương lai tốt đẹp phía trước, dù đang ở trong cảnh tượng khốn khổ,
kinh hoàng nhất của nạn đói năm 1945. Cụ Tứ đã ở cái tuổi gần đất xa trời,
cũng chẳng thể sống thêm mấy mươi năm nữa, thế nhưng trong lòng bà lúc
nào cũng ngập tràn niềm tin về một tương lai sáng sủa, về chuyện một ngày
nạn đói qua đi, gia đình bà sẽ lại có những ngày sống không phải lo bữa đói
bữa no, cuộc sống sẽ đỡ bấp bênh vất vả hơn. Đồng thời cụ cũng gieo niềm
tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời thủ thỉ
tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Rồi trong
bữa cơm sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, bà cụ luôn nói đến những
chuyện vui vẻ, gợi cho các con những dự định tốt đẹp trong tương lai, nào là
chuyện nuôi gà đẻ trứng, chuyện làm ăn. Những lời nói đầy ắp hy vọng, niềm
tin vào một tương lai khấm khá hơn khiến bữa cơm sáng chỉ “có độc một lùm
rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với cháo”, dù khắc khổ, đạm bạc nhưng
cũng thật vui vẻ và ấm áp. Trong bữa cơm sáng, bà cụ Tứ còn chiêu đãi các
con bằng nồi chè khoán nấu từ cám đắng ngắt và nghẹn bứ nơi cổ họng, nó
không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ già nghèo khổ yêu thương con sâu
sắc, mà còn bộc lộ ý tứ sâu xa của bà cụ về cuộc sống nhiều khó khăn sao này.
Bà hy vọng rằng các con mình sao này dù gặp nhiều khó khăn, vất vả hơn nữa,
cũng phải cố gắng mà vượt qua, cũng giống như ngày hôm nay họ cố nuốt
xuống miếng cháo cám đắng nghét, khó ăn, để bắt đầu cuộc sống mới vậy. Có
thể nói rằng dù già cả nhất, nhưng cụ Tứ lại chính là người có sức sống và

37
niềm tin mãnh liệt nhất, trở thành người truyền cảm hứng, gieo vào lòng
Tràng và thị những hy vọng, những khao khát vượt qua số phận, xây dựng một
cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hướng tới một tương lai tươi sáng, không còn sợ
cảnh đói rách hành hạ.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm phản ánh rõ nét tính kinh
hoàng, thảm hại của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế
nhưng bên cạnh những cái tàn tạ, ghê gớm của cảnh đói rét, hiện thực tối
tăm, Kim Lân cũng đồng thời thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc khi thông
qua hiện thực để làm bật lên vẻ đẹp của con người trong cảnh bần hàn, khốn
khổ. Bà cụ Tứ giữa cái đói nghèo, tủi phận, giữa cảnh con trai mang về một
người vợ nhặt, bà đã hiện lên với hình ảnh một người mẹ thấu hiểu và yêu
thương con sâu sắc, một người đàn bà biết cảm thông, chia sẻ và bao dung với
những kiếp người khốn khổ như thị, và cuối cùng là hình ảnh của một con
người có niềm tin, sức sống mãnh liệt, là người gieo rắc vào thế hệ sau những
tư tưởng tốt đẹp, tạo lập cho các con hy vọng vào cuộc sống, vượt qua nghịch
cảnh để tiến tới tương lai tươi sáng hơn.
-------------------------------
NGƯỜI VỢ NHẶT

Kim Lân (sinh năm 1920, mất năm 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn
của nền văn học Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở
khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Có lẽ vì sinh ra trong gia
đình có hoàn cảnh khó khăn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của
những người nông dân nghèo, những con người gắn bó tha thiết với quê
hương và cách mạng. Trong kho tàng tác phẩm của ông, truyện ngắn Vợ nhặt
là tác phẩm xuất sắc nhất, và trong đó nhân vật Thị là nhân vật đem lại nhiều
ấn tượng sâu sắc cho độc giả.

Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lâm xây dựng là một người phụ nữ không
tên tuổi, không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Tác giả gọi
nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ "Thị", "ả", "người đàn bà" cho thấy thân phận
mờ nhạt, đáng thương của nhân vật, nhưng đây cũng là cách mà tác giả gợi
đến cho người đọc hình ảnh của bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói,
cùng đường và liều lĩnh trong xã hội thời đó. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi,
Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả
tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn
thấy hai con mắt.” Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ
tính thiên bẩm của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại.
Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.

Lần đầu tiên gặp Tràng, khi nghe câu hò của Tràng: "Muốn ăn cơm trắng mấy
giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh", Thị đã vùng đứng dậy đẩy xe cho Tràng. Ở
lần gặp thứ hai, Thị sưng sỉa đến mắng Tràng vì không giữ lời hứa, Thị từ chối

38
lời mời ăn trầu của Tràng để được ăn một thứ có giá trị hơn. Khi được mời ăn
thì Thị mắt sáng lên, không ngại ngùng mà "ngồi sà xuống ăn một chập bốn
bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì". Trong con mắt của chúng ta, Thị sao
mà vô duyên, trơ trẽn quá. Nhưng ôi chao, đó đâu phải bản chất của Thị, là cái
đói cái khổ cào cấu ruột gan đã khiến Thị quên hẳn ý tứ, đánh mất đi sự e thẹn
vốn có của người con gái trước mặt một người đàn ông mới quen. Khi nghe
Tràng nói bông đùa: "Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về" mà "Thị về thật". Có thể thấy, đến cả việc lấy chồng, theo một
người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định theo bản năng,
dù cho ánh nhìn và những lời bàn tán của người dân xóm ngụ cư đang nhắm
thẳng vào Thị khiến Thị xấu hổ, tủi nhục. Tuy nhiên, từ chi tiết này ta cũng có
thể thấy hình ảnh một người con gái có lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý
theo Tràng là để được sống chứ không phải loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị
không cần mai mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo
Tràng về nhà chỉ với hy vọng có miếng ăn.

Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên
giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: "Thị đảo mắt nhìn
xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài". Hóa ra gia cảnh
của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây!
Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá
nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta chỉ nhếch mép cười nhạt nhẽo.
Tràng mời ngồi, chị ta chỉ "ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư
cái thúng, mặt bần thần".

Khi gặp bà cụ Tứ - mẹ của Tràng, Thị lại quay về dáng vẻ khép nép, e thẹn của
người con gái mới về nhà chồng. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi
những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ
ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với Thị. Thị bắt đầu vun vén
cho tổ ấm của mình: "Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu
dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm
mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để
khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay
lối đi đã hót sạch". Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của
hai mẹ con Tràng, khiến sự sống trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy
khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: "Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng
là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như
mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh". Còn bà cụ Tứ thì "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Vẻ đẹp tiềm
tàng của người vợ nhặt này còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ trong bữa

39
cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi được mẹ chồng đưa cho bát chè cám "đắng
nghét, nghẹn bứ nơi cổ họng", hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay
sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự
tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà
tưởng chừng như đanh đá, trơ trẽn. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng
nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội
nghiệp. Cuối cùng cảnh Thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không
chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và
hướng nhìn mới của Thị, người đàn bà này không cam chịu cuộc đời đói kém,
và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách
mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.

Nhân vật Thị trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân là nhân vật đại diện
cho hàng ngàn người phụ nữ nói riêng và hàng triệu người nông dân Việt Nam
trong nạn đói năm 1945. Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội
ác tày trời của Nhật và Pháp khi gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta
vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Cũng qua
tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã khắc họa nên hình ảnh người vợ nhặt vô
cùng thành công. Tác giả chú trọng khắc họa từng hành động, cử chỉ, nét mặt
của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa
chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của
nhân vật. Từ đó làm nổi bật lên những phẩm chất quý giá của người phụ nữ
Việt Nam dù họ không có vẻ ngoài đẹp đẽ hay ở trong hoàn cảnh lầm than.

------------------------------

40

You might also like