You are on page 1of 18

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................3


NỘI DUNG ................5
Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về quy luật từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại.......5
1.1. Khái niệm chất và lượng........................................5
1.1.1 Khái niệm về chất....................................................5
1.1.2 Khái niệm lượng ...................................................5
1.2. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại .......6
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận ...................................................7.
Chương 2 . Vận dụng để nhận thức con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay......................8
2.1. Nhận thức con đường quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay............8

2.2.Các giá trị trong quá trình nhận thức con đường quá độ đi lên CNXH ở nước ta hiện
nay..9
2.3.Liên hệ bản thân. ...........................................................................11
KẾT LUẬN ...................................................................................3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................13

1
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau muôn vàn hiện tượng, con
người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối quan hệ lặp đi lặp lại
của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Là một
phạm trù của lý thuyết nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của
tư duy khoa học và là hiện thân của sự liên kết, thống nhất giữa các sự
vật.
Quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và tư duy của con người đều
mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hay tự ý xoá bỏ luật
mà chỉ có thể nhận thức và áp dụng luật vào thực tế. “Biến đổi về lượng
dẫn đến biến đổi về chất, biến đổi về chất dẫn đến biến đổi về chất” là
một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, trong đó chỉ ra
phương thức vận động và phát triển. Hiểu được quy luật này rất quan
trọng trong hoạt động tư duy thực tế của chúng ta về sự vật, hiện tượng.
Nếu hiểu không đúng quy luật này sẽ dẫn đến tư duy tả khuynh hoặc hữu
khuynh. Tả khuynh ám chỉ sự tích luỹ về lượng và đòi hỏi phải có những
thay đổi ngay lập tức về chất, còn tả ám chỉ những biến đổi về chất vượt
quá giới hạn nhưng không dám tạo ra những thay đổi căn bản về chất.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăng ghen
phát minh tạo nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài
người, là cơ sở khoa học để nhận thức chân thực về TKQĐ. Trên cơ sở
quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức
sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở quyết
định sự hình thành, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế
- xã hội, các ông làm sáng tỏ, xã hội loài người đã và sẽ tuần tự trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao ; đỉnh cao, tiến bộ nhất là hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy
luôn có một thời kỳ chuyển tiếp được gọi là TKQĐ.
Trên cơ sở tổng kết, phát hiện các quy luật vận động, phát triển
khách quan của xã hội loài người, C.Mác đã rút ra kết luận: “Sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
Quá trình ấy phải trải qua các chế độ: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tất yếu sẽ tiến lên cộng sản chủ nghĩa
mà giai đoạn đầu là CNXH.
Tuy nhiên, các nhà học giả cũng đã chỉ rõ, mặc dù sự thay thế nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên,
nhưng sự thay thế ấy bao giờ cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển
đổi, đó là thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử, có thể diễn ra lâu dài và độ
dài ngắn của thời kỳ quá độ ở mỗi nước phụ thuộc vào xuất phát điểm
của nước đó khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác

3
động khách quan của thời đại. Trong quá trình lịch sử - tự nhiên đó, học
thuyết Mác - Lê nin cũng khẳng định quá độ lên CNXH là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) lên xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Như vậy, quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan và là một
thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung, tính
chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều
thăng trầm với sự liên tục và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó
là sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử nhân loại.
Khi nghiên cứu quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại đã giúp em tìm hiểu về cách mà Đảng
CSVN vận dụng quy luật đó để nhận thức con đường quá độ lên CNXH
của nước ta trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến hiện nay.

4
NỘI DUNG
Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về quy luật từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại.
1.1. Khái niệm chất và lượng.
1.1.1 Khái niệm về chất.
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật hiện tượng.
Mọi sự vật hiện tượng đều được cấu thành bởi các thuộc tính khách
quan vốn có của nó, là căn cứ để ta phân biệt sự vật, hiện tượng này với
sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn cái bàn có những thuộc tính riêng
giúp ta phân biệt nó với cái ghế.
Tuy nhiên không thể đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc
tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản.
Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng.
Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và không
cơ bản mới được phân biệt rõ ràng.
Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được quyết định bởi thành
phần cấu tạo mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng.
Ví dụ: Ví dụ với C,H,O thì ta khi chúng liên kết ắt hẳn ta sẽ có chất
khác so với khi các nguyên tố P,O khi chúng liên kết. Ngoài ra, với 3 chất
C,H,O nếu chúng liên kết theo nhiều kiểu khác nhau ta lại được các chất
khác nhau như CH3–CH2–COOH và CH3-COO-CH3.,…
Một sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính thể hiện
một chất như vậy một sự vật, hiện tượng có thể có rất nhiều chất. Giữa sự
vật, hiện tượng và các chất của nó là luôn gắn liền với nhau, không thể
tách rời chúng.
Như những gì phân tích ở trên, việc phân biệt giữa chất và thuộc
tính cũng chỉ mang tính chất tương đối.
1.1.2 Khái niệm về lượng.
Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng về số lượng, yếu tố cấu thành, quy mô, tốc độ, nhịp
điệu của quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng của
sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người.
Nói đến lượng là nói đến chiều dài, ngắn; quy mô lớn,nhỏ; trình độ
cao thấp,… của sự vật, hiện tượng. Lượng thường được đo bởi các đơn vị
đo cụ thể ( cao 166cm, vận tốc là 1m/s,…) nhưng cũng có thể được hiểu
một cách trừu tượng hoá ( trình độ văn hoá cao hay thấp,….).

5
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối: có
cái trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ kia lại là
lượng.
1.2. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại mối quan hệ giữa lượng và chất
trong một chỉnh thể. Chúng tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng. Sự thay đổi về lượng sẽ có thể dẫn tới sự thay đổi về chất song
không phải lúc nào lượng thay đổi thì chất sẽ thay đổi. Nếu lượng được
cung cấp chưa đủ để vượt qua giới hạn nhất định thì chất vẫn chưa thể
thay đổi. Khoảng giới hạn đó được gọi là độ.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất
và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm
thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Như vậy muốn chất thay đổi
ta phải cung cấp một lượng sao cho nó đạt đến một điểm nhất định. Điểm
đó gọi là nút.
Điểm nút chính là ranh giới giữa lượng và chất mà tại đó khi sự
thay đổi về lượng đạt đến thì sự thay đổi về chất bắt đầu được hình thành.
Độ mới và điểm nút mới của sự vật, hiện tượng cũng được hình thành.
Ví dụ: Nước bình thường khi đun lên đến hơn 100oC thì bốc hơi.
Vậy từ 0oC đến 100oC là độ của nước, 1000C chính là điểm nút của nó.
Thời điểm mà lượng chuyển sang chất được gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ sự chuyển hoá về chất
của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
* Đặc điểm của bước nhảy:
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là
điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong
quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật.
* Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
Với bản chất của mỗi sự vật, hiện tượng và mối quan hệ của nó với
các sự vật, hiện tượng khác, để đủ lượng tác động làm thay đổi chất thì ta
cần thực hiện một lượng bước nhảy xác định, từ đó tạo nên sự phong phú
và đa dạng của bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu bước nhảy ta chia thành Bước nhảy đột biến và
bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời
gian ngắn làm thay đổi cơ bản toàn bộ kết cấu của sự vật, hiện tượng.

6
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ thông qua
việc tích luỹ chất mới và loại bỏ chất cũ.
Tuy nhiên bước nhảy dần dần khác với thay đổi dần dần. Bước
nhảy dần dần là sự chuyển hoá dần dần từ chất này sang chất khác còn
thay đổi dần dần là sự tích luỹ dần về lượng để vượt qua điểm nút tạo nên
sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng đó.
Căn cứ vào quy mô ta phân chia làm bước nhảy cục bộ và bước
nhảy toàn bộ.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những
mặt ,những yếu tố riêng rẻ của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi toàn bộ chất của sự
vật, hiện tượng.
Trên thực tế, muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ ta phải thực hiện
bước nhảy cục bộ.
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều có sự thống nhất về chất; với
sự tích luỹ về lượng khi vượt qua giới hạn nào đó gọi là điểm nút thì bước
nhảy được hình thành và chất của sự vật, hiện tượng bắt đầu được thay
đổi. Khi chất được hình thành thì sẽ có tác động trở lại tới lượng của sự
vật, hiện tượng, quy định nên điểm nút và độ mới. Quá trình đó diễn ra
liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, phát triển.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận.
Với bất kì sự vật, hiện tượng nào đều có 2 phần chất và lượng.
Chúng quy định, tác động, chuyển hoá lẫn nhau, do đó, trong nhận thức
và thực tiễn phải coi trọng cả 2 loại lượng và chất.
Vì lượng và chất có khả năng tác động lẫn nhau nên trên thực tế, ta
phải dựa vào mối quan hệ của sự vật, hiện tượng đó với bên ngoài để thực
hiện sự thay đổi dần về lượng hoặc phát huy tác dụng của chất mới làm
thay đổi lượng của sự vật, hiện tượng.
Chất chỉ được biến đổi khi lượng đạt tới một mức độ nhất định, tức
phải vượt qua khoảng độ của nó, khoảng độ này tuỳ vào sự vật, hiện
tượng mà dài hay ngắn do vậy trong thực tiễn cần tránh tư tưởng nôn
nóng tả khuynh. Khi vượt qua điểm nút thì ta có thể tác động được đến
chất của sự vật, hiện tượng nên cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu
huynh.
Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp
với tình hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt trong xã hội quá trình phát triển
không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào
nhân tố chủ quan của con người. Do đó cần phải nâng cao tính tích cực,

7
chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hoá từ lượng đến chất
một cách hiệu quả nhất.

Chương 2 . Vận dụng để nhận thức con đường quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Nhận thức con đường quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác đã cho
rằng: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên”.Theo chiều tiệm tiến thì việc phát triển tuần
tự hay bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời lạc hậu, xây dựng
hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn là hợp quy luật phát triển của xã hội
loài người. Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy, chủ nghĩa tư bản
không phải là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người. Trong
thời đại hiện nay, các dân tộc chỉ có hai lựa chọn là, theo con đường phát
triển tư bản chủ nghĩa, hay cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội. Sự lựa chọn con đường nào phụ thuộc vào nhận thức và
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của mỗi dân tộc. Nhưng, xu hướng phát triển
chung là các dân tộc đều đi lên chủ nghĩa xã hội, dù cho con đường đó
diễn ra lâu dài, gian khổ và cách thức tiến hành sẽ không giống nhau.

Điều ấy được kiểm chứng rõ trong tính đặc thù của con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến, sau khi giành được độc lập đã bỏ qua sự phát triển chế độ tư bản
chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta phải trải qua một quá trình
đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh với quyết
tâm chống lại ách đô hộ và xâm lược của đế quốc, thực dân, để bảo vệ
nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do,
hạnh phúc của nhân dân. Việt Nam là một tấm gương mẫu mực trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; đó là cơ sở bảo đảm vững chắc cho nền
độc lập, tự do của dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là đường lối cơ bản, xuyên
suốt và nhất quán của cách mạng Việt Nam.

Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại bước sang giai đoạn mới là
chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá, có nhiều thành tựu trong giải phóng, phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ, nên đã đạt
được năng suất lao động cao. Song, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc
phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó; các cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội, các tệ nạn xã hội, nhất là khi đại dịch COVID-19 diễn ra
lại càng làm bộc lộ rõ bản chất chế độ chính trị - xã hội của các nước này
không vì sức khoẻ, hạnh phúc của đại đa số nhân dân lao động. Các

8
phong trào đấu tranh phản kháng xã hội đã bùng nổ mạnh mẽ, với những
nội dung và hình thức mới ở nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian
qua, càng làm bộc lộ rõ sự thật về những mâu thuẫn mang tính bản chất
không thể hoá giải của chế độ tư bản chủ nghĩa.

⟹ Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù
hợp với xu thế của thời đại hiện nay.
2.2. Các giá trị trong quá trình nhận thức con đường quá độ đi lên
CNXH ở nước ta hiện nay:
Giá trị lý luận: Thời gian tới, yêu cầu cấp thiết tiếp tục đặt ra cho
công tác lý luận là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn
thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách
quan về những thành tựu đã đạt được và những bất cập, hạn chế, khuyết
điểm; để có nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu làm rõ một
cách tổng quát lộ trình và những chặng đường của thời kỳ quá độ; nội
dung cơ bản của từng chặng đường đó…; những thành tựu đã đạt được và
hạn chế trong nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở các chặng
đường đã qua của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Giá trị tư tưởng: Hiện nay, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh
hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hoà bình”, với nhiều thủ đoạn
chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản
chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng ta và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Tính chất thâm độc của các
thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta
trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng
xã hội, với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng - sai
lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trước tình hình trên, việc làm
rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị tư tưởng quan
trọng, là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu
sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vào
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh dân
tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từng bước
hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.

9
Giá trị thực tiễn: Năng lực, uy tín của một đảng chính trị cầm
quyền bao giờ cũng được đánh giá bởi thước đo thực tiễn với nhiều yếu
tố, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, yếu tố quan trọng hàng
đầu là có thực hiện đúng mục tiêu, đường lối đề ra và thúc đẩy đất nước
phát triển; có nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước, khắc phục khó
khăn và nguy cơ đe doạ đến chủ quyền, an ninh quốc gia và nền độc lập
dân tộc không; cải thiện đời sống cho nhân dân lao động đến đâu và được
quốc tế đánh giá như thế nào?… Với Việt Nam, những thành tựu mà đất
nước đạt được trong 35 năm đổi mới chứng minh rằng, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn nhất quán, kiên định với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của
Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Giá trị tổ chức và triển khai: Việc làm rõ con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị dẫn dắt trong tổ chức quán triệt và
triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong thực tiễn theo chức năng,
nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ quan, đơn vị, chức trách của mỗi
cán bộ, đảng viên. Đường lối đổi mới, tầm nhìn và định hướng phát triển
của đất nước đã xác định trong Đại hội XIII của Đảng chỉ trở thành lực
lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức có hiệu
quả trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Đồng thời, đó là cơ sở để mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
làm tốt công tác tư tưởng, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng đến quần chúng nhân dân. Với trí tuệ, bản lĩnh
chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo đúng đắn, kinh nghiệm lãnh đạo
quý báu của Đảng, sự ủng hộ, chung sức, đồng lòng của nhân, khát vọng
về một đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và mục tiêu đưa nước ta
trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành
hiện thực.

2.3. Liên hệ bản thân.

Đối với bản thân em nói chung hay toàn bộ các sinh viên nói riêng
nên vận dụng quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại trong quá trình rèn luyện và học tập.
Để không lạc lối trong học tập, sinh viên cần có tính tự chủ, tích cực thích
nghi với môi trường, tiếp tục chăm chỉ, tích cực rèn luyện, tích lũy kinh
nghiệm trong học tập và công việc để đạt được những thành công lớn hơn
trong tương lai. Ngoài ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức sinh viên
được học ở trường mà còn bao gồm những kỹ năng cần thiết như “khả
năng làm việc nhóm, khả năng diễn đạt, khả năng đàm phán…” và khả

10
năng thích ứng linh hoạt với các môi trường khác nhau. Vì vậy, sinh viên
cũng cần phải thống nhất, phối hợp các kiến thức, kỹ năng của mình
trong quá trình học để tăng thêm “lượng” mà nhà tuyển dụng đang tìm
kiếm. Vì vậy, chúng ta thấy rõ hơn tầm quan trọng và sự tương tác của
quy luật “lượng” – “chất ”, từ đó học sinh sẽ chủ động hơn trong việc
trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và những kỹ
năng cần thiết cũng là tiền đề, bước khởi đầu cho tương lai, sự nghiệp,
phát triển của mỗi chúng ta. Khi hiểu rõ và nắm bắt rõ thì mỗi công dân
sẽ luôn là sự đóng góp to lớn cho công cuộc quá đọ lên CNXH của nước
ta hiện nay.

KẾT LUẬN

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều
kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta
luôn khẳng định, theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến lên CNXH và kiên định con đường đó, điều này càng được thể
hiện rõ hơn qua các thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử của cách
mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, đường lối tiến lên CNXH của Đảng ta thường xuyên được điều
chỉnh, bổ sung và hoàn thiện, phù hợp với tiến trình phát triển và điều
kiện lịch sử nhất định của từng thời kỳ. Từ những năm 1930, Đảng ta đã
xác định rõ con đường cách mạng của nước ta là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Cho dù hiện nay, bằng
những cố gắng thích nghi với tình hình mới, CNTB vẫn đang có những
thành tựu phát triển, nhưng vẫn không vượt qua khỏi giới hạn của nó.

11
CNTB không phải là tương lai của nhân loại. Trước mắt, CNTB
còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới
của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu
sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy,
mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa tính chất xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày
càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp
tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia,
các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư
bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự
vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân
lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù
CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; song, loài người cuối
cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.

Hiện nay, nước ta quá độ lên CNXH trong bối cảnh cách mạng
khoa học và công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi mọi
phương diện của đời sống kinh tế - xã hội, tất cả các nước đều ở trong
mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, Việt Nam sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công
nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát
triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một xã hội tốt
đẹp hơn - đó là chế độ CNXH.

Khi vận dụng quy luật lượng chất vào quá trình đưa nước ta quá độ
lên XHCN ta có thể cảm nhận được phần lượng đó là “từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”; “một thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng” ; “là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ”, “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Lựa chọn hình thức quá độ gián tiếp,
nhưng Đảng có bước phát triển mới về nhận thức là không bỏ qua hoàn
toàn CNTB với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội TBCN, mà kế
thừa có chọn lọc những thành tựu, trước hết là về khoa học và công nghệ

12
nhân loại đạt được trong CNTB, chỉ bỏ qua CNTB với tính cách là một
chế độ chính trị, cụ thể hoá, xác lập nên các mục tiêu tổng quát, mục tiêu
cụ thể ở những chặng đường khác nhau của thời kì quá độ lên CNXH ở
Việt Nam.Song hành cùng với phần chất là khẳng định phương hướng,
con đường tất yếu đi lên CNXH và CNCS của cách mạng Việt Nam là
theo con đường chung: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã
hội” như chủ nghĩa Mác - Lê nin đề ra. Đó là con đường đã được Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; và Cương lĩnh (Bổ sung,
phát triển năm 2011) chỉ ra: “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Con đường đó tất yếu sẽ
trải qua TKQĐ lên CNXH với những dấu ấn, đặc trưng của cách mạng
Việt Nam.Hai yếu tố lượng và chất đã được Đảng ta nhìn nhận một cách
đúng đắn vafvaanj dụng nó để đưa nước ta đi trên con đường quá độ lên
CNXH của nước ta.

DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin”- Bộ
GD và ĐT.
2.Giáo trình triết học Mác - Lê nin (dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị).
3.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,1991.
4.Slide bài giảng triết học Mác - Lê nin. TS.Đới Thị Thêu.
5. C.Mác - Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995,
t.23, tr.21.
6.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001 tr.84.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H, 1991, tr.7.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, H, 1998, t.2, tr. 2
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2001, tr.411.
10. Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 47, Sđd, 2006, tr.374.
11.Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 60, Sđd, 2016, tr.31, 30-31
12.Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa.

13
13. C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1995, tr.47, 33, 47.

14
15

You might also like