You are on page 1of 20

Nguyễn Như Tin CN Trường THPT Diễn Châu sĩ Đài (326728163.

Zalo 097539186

Coc 200-0002
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TƯ VẤN CỦA
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
1.1. Vị trí, vai trò của GVCN trong công tác TV cho HS
- GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng,
hội đồng nhà trường và CMHS quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học
sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.
- Đối với học sinh và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất,
người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử
thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự
giác của mọi học sinh trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm lớp còn là người tập hợp ý kiến, nguyện
vọng của từng học sinh của lớp phản ánh với hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và
với các giáo viên bộ môn. Giáo viên chủ nhiệm với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách
nhiệm bảo vệ, bênh vực quyền lợi mọi mặt của học sinh.
GVCN là người cố vấn cho công tác Đội và công tác đoàn ở lớp chủ nhiệm. GVCN giữ vai trò là
người cố vấn cho ban chỉ huy chi đội của lớp chủ nhiệm ở trường THCS, và là người cố vấn cho
Ban chấp hành chi đoàn ở trường THPT. GVCN có thể tư vấn cho đội ngũ này về việc lập kế
hoạch và tổ chức các hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của từng tổ chức, đồng thời kết hợp với
các hoạt động. giáo dục trong kế hoạch của lớp sẽ đem lại hiệu quả cao.
- Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN là nhân vật
trung tâm để hình thành và phát triển nhân cách học sinh và là cầu nối giữa gia đình nhà trường
và xã hội. GVCN vừa đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển giáo dục học sinh vừa phải
tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp
chủ nhiệm, giáo dục học sinh hiệu quả.
1.2. Thuật ngữ
1.2.1. Tu ván
Tư vấn (counseling): Là quá trình nhà tư vấn đưa ra đề nghị, gợi ý những việc cần làm hay
những giải pháp cho đối tượng được tư vấn nhằm giúp đối tượng giải quyết những tình huống
khó khăn bất thường trong cuộc sống.
2
Khái niệm tư vấn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên hoạt động tư vấn có đặc
điểm sau:
- Tư vấn là một nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có đào tạo bài bản, có trường lớp.
Tư vấn tập trung vào trợ giúp về vấn đề sống lành mạnh, thăng tiến đời sống quan hệ cá nhân,
nghề nghiệp, và những quan tâm thuộc lĩnh vực bệnh lý tinh thần.
Tư vấn áp dụng với người có khả năng xử lý tốt và cả những người có vấn đề về rồi loạn tâm
thần dạng nhẹ.
Tư vấn phải dựa trên hệ thống lý thuyết về tư vấn.
- Tư vấn là một quá trình phát triển trên bình diện ngăn ngừa (prevention) và can thiệp
(intervention).
Người ta thường tìm đến tư vấn khi gặp những tình huống nan giải, khó khăn bất thường trong
cuộc sống khiến họ bối rối, đôi khi đến mức tổn thương, Vì vậy, các tình huống trong tư vấn còn
được gọi là “nan đề” 1.2.2. Tư vấn học đường
Tư vấn học đường ở nước ta hiện nay vẫn chưa thống nhất ý nghĩa và tên gọi (tham vấn hay tư
vấn tâm lý, tư vấn tâm lý học đường có tư vấn hướng nghiệp hay không...) Ngay trong lịch sử
hình thành tư vấn trong trường học trên thế giới và nhất là ở nước Mỹ, đều phải trải qua một quá
trình hình thành với nhiều cách hiểu khác nhau theo các trường phải học thuyết khác nhau. Từ
đầu thế kỷ 20, tư vấn học đường chỉ là tư vấn hướng nghiệp, nặng về tư vấn thông tin
(consultant) sử dụng kết quả chẩn đoán tâm lý, tính cách con người và nghề nghiệp, và những
thông tin về thị trường lao động, dự báo nhu cầu nhân lực được đưa vào trường học với Jesse
B.Davis, Frank Parsons, và Cliffort Beer. (Gladding,2000). Phải đợi đến những năm 1950,1960,
với những công trình công bố của Carl Rogers. và những lý thuyết gia tiếp theo, góp phần làm
nổi bật chức năng của hoạt động tư vấn tâm lý trong tư vấn học đường. Như vậy, tư vấn học
đường là tên gọi riêng của một hoạt động chuyên nghiệp có chức năng chủ yếu được định nghĩa,
mô tả rõ ràng do chính những người tiên phong trong nghiệp vụ xây dựng từng bước tạo nên
những đặc điểm phẩm chất, tính nhân văn và địa vị khoa học ứng dụng trong đời sống. Người
làm công tác tư vấn tâm lý (counselors) ngày nay đang hoạt động ở các lãnh vực,các cơ sở khác
nhau:
3
#
trường học, bệnh viện, nhà điều dưỡng, trung tâm tâm thần, trại cải huấn, nhà
t..
Tư vấn học đường là một tiến trình giúp đỡ sinh viên học sinh, các vị phụ huynh hoặc thầy cô
giáo, tự tìm hiểu mình, biết được những đặc điểm tính cách, những năng lực tiềm ẩn và những
hành vi của họ đã ảnh hưởng đến những người khác như thế nào. Đồng thời giúp họ chọn cách
giải quyết vấn đề tối ưu trong chiến lược định hướng phát triển của những người này khi có nhu
cầu. Từ đó góp phần làm tốt hoạt động giáo dục học sinh và mối quan hệ nhà trường – gia đình -
xã hội.
Đối tượng được tư vấn trong chuyên ngành được gọi là “thân chủ”. Trong tư vấn học đường học
sinh chủ yếu vẫn là học sinh. 1.2.3. Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông
Ở trường phổ thông hiện nay, mỗi đơn vị lớp học khoảng từ 30 đến 50 học sinh thì nhà trường sẽ
cử một người giáo viên đang giảng dạy ở lớp đó quản lí toàn diện học sinh của lớp.
GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng,
hội đồng nhà trưởng và cha mẹ học sinh quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn
diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.
1.3. Giáo viên chủ nhiệm với vai trò tư vấn
1.3.1. Chức năng của GVCN
Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp là lãnh đạo, tổ chức, quản lý, giáo dục tập thể lớp
trên cơ sở tổ chức các hoạt động giáo dục, các mối quan hệ giáo dục của học sinh theo mục tiêu
giáo dục nhân cách học sinh toàn diện trong tập thể phát triển và môi trường học tập thân thiện.
1.3.2. Nhiệm vụ của GVCN
1.3.2.1 Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp được quy định trong các văn bản pháp lí.
- Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối
tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của mọi học sinh.
Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội
có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp.
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ
luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện
thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ.
1.3.2.2 Những công việc của giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện trong thực
té.
Lập kế hoạch năm học dựa trên kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học chung của nhà trường.
- Tìm hiểu các thông tin, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm (hoàn cảnh gia đình đặc điểm học
sinh về các mặt học lực, đạo đức, sức khoẻ,... dự báo về diễn biến trong quá trình học tập, rèn
luyện của học sinh), trong đó đặc biệt quan tâm đến học sinh là con thương binh, học sinh nghèo
vượt khó,...
- Tổ chức đội ngũ cán bộ tự quản và xây dựng tập thể học sinh lớp chủ
nhiệm.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung, hoạt động giáo dục toàn diện (hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, hoạt động tư vấn trong công tác hướng nghiệp, dạy nghề,...)
-Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường để đảm bảo sự thống nhất trong giáo
dục học sinh và tăng cường sức mạnh đồng bộ nhằm đem lại hiệu quả.
- Đánh giá kết quả giáo dục và học tập của học sinh lớp chủ nhiệm trong suốt quá trình cũng như
sơ kết, tổng kết năm học.
=
- Quản lí, giám sát việc ghi chép, bảo quản các loại hồ sơ của học sinh theo qui định của trường
(sổ lên lớp hằng ngày, sổ điểm lớp (lý lịch trích ngang của học sinh, kiểm diện, điểm số, hạnh
kiểm,...) kế hoạch học tập của lớp theo học kỳ, năm học; thời khoá biểu lớp (diễn biến học tập
của học kỳ và cả năm, phân công giảng dạy), sổ liên lạc, học bạ (giám sát các giáo viên ghi sổ
học bạ, GVCN nhận xét và xếp loại học lực, hạnh kiểm...)
1.2.3. Những lợi thế trong tư vấn của GVCN
Với chức năng, nhiệm vụ của GVCN cho phép người GVCN có nhiều cơ hội tiếp xúc gần gũi để
am hiểu tưởng tận về học sinh lớp chủ nhiệm. Có nhiều điều kiện thuận lợi hơn những lực lượng
khác trong việc chia sẻ, đồng cảm và thuyết phục học sinh lớp chủ nhiệm ủng hộ những cái tốt,
loại trừ cái sai, cái chưa phù hợp trong cuộc sống, lao động và học tập của các em.
5
4
GVCN thực hiện công tác giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm bên cạnh dạy cho các em về kiến
thức cùng với các GV bộ môn khác, còn phải giúp các em hoàn thiện nhân cách; không chỉ là
dạy chữ mà còn phải dạy người. Vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục được mệnh danh là "trồng
người". Việc trồng người này đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội, mà
quan trọng nhất là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
Người giáo viên chủ nhiệm sẽ khó tránh khỏi phải đối diện với những vấn đề của lớp chủ nhiệm
như: các em có mâu thuẫn với giáo viên bộ môn và yêu cầu được đổi giáo viên, bị thầy cô ép đi
học thêm, thầy cô đối xử bất công hay hiểu lầm, bị thất tình, mâu thuẫn với bạn bè dẫn đến xô
xát, muốn nghỉ học vì chán nản chuyện gia đình, vì hoàn cảnh khó khăn,... Ở tuổi mới lớn, vì
luôn muốn được quan tâm, đôi khi các em thổi phồng vấn đề của mình lên quá mức, khiến cho
việc nhỏ trở nên trầm trọng. Nếu không được kịp thời giúp đỡ, khi cảm thấy không ai quan tâm
đến mình, các em sẽ tự giải quyết vấn đề và thông thường đó là những cách xử lý tiêu cực, đôi
khi gây ra hậu quả vô cùng trầm trọng. Tuy nhiên, GVCN không nên chờ đến khi thật sự có vấn
đề rồi mới đi tìm cách giải quyết, mà phải phát hiện được vấn đề khi nó còn tiềm ẩn, ngăn chặn
những tình huống xấu phát sinh.
Bên cạnh việc quản lý học sinh lớp chủ nhiệm tại trường, GVCN còn phải giúp đỡ phụ huynh về
những khó khăn liên quan đến con em họ. Các bậc cha mẹ đôi khi cũng bế tắc trong việc giáo
dục con ở tuổi thanh thiếu niên. Một số bậc cha mẹ còn phó mặc hoàn toàn việc GD con em
mình cho nhà trường. Một số học sinh, gia đình không phải là chốn bình yên, không phải là nơi
mà em muốn quay về sau mỗi ngày đi học, bởi ở nhà trẻ bị đối xử thô bạo hoặc phải chứng kiến
những những điều ngang trái. Trường hợp học sinh đã gửi đi lời cầu cứu đến cô chủ nhiệm của
mình không phải xa lạ với các nhà giáo dục. Những trường hợp này GVCN hoặc là phải tư vấn
cho phụ huynh hoặc can thiệp tới phụ huynh để giúp đỡ HS của mình.
Một tình huống cần tư vấn nữa đó là các nhà quản lý. Thông thường, các nhà quản lí thường có
kế hoạch trao đổi thông tin với GVCN về lớp học của người GVCN đó khi họ cần thực hiện một
chiến lược giáo dục có liên quan. Lúc này GVCN có thể là cố vấn hay nhà tư vấn, ngoài cung
cấp thông tin còn đề xuất các phương án thực thi chiến lược.
6
7
41
CHƯƠNG I
NGUYÊN TẮC TƯ VẤN CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
2.1. Tôn trọng học sinh vô điều kiện
Là có một thái độ nhiệt tình đối với học sinh, chấp nhận họ như một con người có giá trị bất kể
địa vị, đạo đức, hành vi, tình cảm tích cực hay tiêu cực ở học sinh, kính trọng học sinh về mặt
nhân phẩm với các cốt cách riêng của họ; là một sự ân cần không chiếm hữu, không có một đòi
hỏi riêng tư nào; sự tôn trọng đòi hỏi nhà tư vấn phải chấp nhận cả sự bảy tỏ những xúc cảm tiêu
cực (xấu xa, sợ hãi...) cũng như tích cực (vui sướng, cởi mở...) của học sinh. Tôn trọng không có
nghĩa là tán thành, chấp nhận hoặc không tán thành (nhà tư vấn có thể không tán thành nhưng
vẫn tôn trọng họ). Tôn trọng ở sự đối thoại không phê phán, đánh giá, phòng vệ, là sự thẳng thắn
ở cả hai bên. Các thành tố của sự tôn trọng:. .
- Quyền được thừa nhận: trong mỗi cá nhân đều có những giá trị nhất định và có quyền phát triển
theo cách mà họ cho là đúng, vì vậy họ cũng không được vi phạm giá trị này ở những người
khác.
Tôn trọng năng lực và giá trị: mỗi cá nhân đều có những năng lực, những khả năng riêng biệt và
tương ứng với những giá trị nhất định, vì vậy chúng ta cần được tôn trọng.
- Có trách nhiệm với những lựa chọn của mình: mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn
hoặc những quyết định của riêng mình. 2.2. Tin tưởng vào khả năng giải quyết của học sinh
Xuất phát từ quan điểm cho rằng “học sinh là chuyên gia giỏi nhất về lĩnh vực của mình”, các cá
nhân luôn tin tưởng vào những gì mình nói và hành động, còn những gì khác với mình thì
thường đưa ra xem xét lại. Do mỗi học sinh có hoàn cảnh riêng biệt, không lặp lại ở người khác
(S-T-X), vì vậy để quá trình tư vấn khám phá ra những cái đơn lẻ, riêng biệt đó thì nhà tư vấn
phải tin tưởng hoàn toàn vào học sinh, vào khả năng giải quyết vấn đề của anh ta. Nhà tư vấn
giúp đỡ bằng cách đặt ra những câu hỏi nói về cảm nghĩ của học sinh trong việc giải quyết vấn
đề. Cách hỏi này đã đặt học sinh vào một hoàn cảnh cụ thể và học sinh phải tự lập trong cách
hành động giải quyết vấn đề. Về nguyên tắc, nhà tư vẫn không đ ưa ra lời khuyên mang tính áp
đặt đối với học sinh, tuy nhiên nếu
học sinh bị rối loạn tâm thần, suy nhược...thì nhà tư vấn vẫn có thể chủ động đưa ra một vài
hướng để giải quyết cùng với học sinh.
2.3. Giữ bí mật thông tin
Mỗi cá nhân có quyền sở hữu những vấn đề có liên quan đến mình, vì vậy thông tin của học sinh
nói ra cho GVCN phải được đảm bảo giữ bí mật; tuy nhiên, không cần phải giữ bí mật khi học
sinh cho phép tiết lộ, hoặc vấn đề đó đe dọa đến tính mạng của học sinh hoặc những người khác.
2.4. Học sinh trọng tâm
Đây thực chất là nguyên tắc được đặt lên hàng đầu trong giáo dục chứ không riêng gì tư vấn, học
sinh trọng tâm còn thể hiện GVCN không thể công thức hóa vấn đề của bất kỳ học sinh nào (có
thể công thức hóa sự kiện, chứ không công thức hóa nhân cách của học sinh). Không thể có một
cách thức chung, kỹ thuật chung cho các con người khi đến làm tư vấn, vì mỗi một học sinh là
một trường hợp đặc biệt. Tiến trình thực hiện phụ thuộc vào mức độ ý thức về cảm xúc của học
sinh. Trong quá trình tư vấn, GVCN không để các cảm xúc của mình bị cuốn theo sự kiện của
học sinh. GVCN phải đủ mạnh để biệt lập được với học sinh, với các cảm xúc, tư tưởng của học
sinh, nhưng cũng đủ làm cho học sinh an tâm để biệt lập được với sự lệ thuộc vào GVCN. 2.5.
Mềm dẻo, thích nghi cùng học sinh
Vấn đề của học sinh giải quyết nhanh hay chậm phụ thuộc vào tiến trình nhanh hay chậm trong
công việc thay đổi trong học sinh. GVCN phải có thời
gian dành cho học sinh. GVCN phải biết lắng nghe,biết khuyến khích trấn an để học sinh nói ra
vấn đề của mình, biết phản hồi để hiểu chính xác những ý nghĩa của thông tin, biết thông đạt để
trải nghiệm những gì học sinh nói ra, và biết kết hợp giữa quan sát hành vi cử chỉ phi ngôn ngữ
với lời nói của học sinh, để lôi lên từ tầng bậc vô thức của cảm xúc bản năng đến những tình cảm
lí trí và những hành vi làm chủ được.
9
CHƯƠNG II
NỘI DUNG TƯ VẤN CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM
3.1. Tư vấn trong học tập
Giáo viên chủ nhiệm cũng là giáo viên dạy một môn học nào đó ở lớp mình đang phụ trách. Do
đó, việc nắm được đặc điểm hoạt động học của cá nhân học sinh cũng như kết quả học tập của
học sinh với bất kì môn học nào là trong tầm
tay.
Việc học sinh lớp chủ nhiệm học giỏi môn này mà không giỏi môn khác (thậm chí kém) cho thấy
cũng như phương pháp dạy, không có phương pháp học nào vạn năng cho mọi tình huống. Mỗi
môn học thuộc một khoa học khác nhau và cũng nhằm hình thành nên những năng lực khác nhau
cho học sinh nên việc vận dụng các phương pháp học cũng cần linh hoạt.
Các phương pháp học, cách học được lựa chọn cần căn cứ vào đặc điểm khoa học của môn học,
căn cứ vào mục tiêu, nội dung của bài học, tùy vào điều kiện vật chất dụng cụ học tập, tuy vào sở
trường, đặc điểm nhận thức của học
sinh.
3.2. Tư vấn tình bạn, tình yêu, hôn nhân
Sự trưởng thành của học sinh sớm muộn rồi sẽ trải qua những trạng thái cảm xúc, tình cảm khác
nhau trong khi thể hiện các mối quan hệ xã hội từ “nhà” ra “đường” đến “lớp”. Thông qua quan
sát, trao đổi, truyền thông... học sinh sẽ có cái nhìn khác nhau về các loại tình cảm cơ bản như
tình bạn, tình yêu, hôn nhân. Tuy nhiên, vì những non nớt, những lí tưởng khá “hảo huyền”;
những bộ phim ngôn tình đầy hư cấu, lãng mạn... mà các bạn chưa chắc đã định hình đúng đắn
về nó để xử sự cho phù hợp. GVCN với vai trò nhà tư vấn cần kịp thời giúp học sinh của mình
có những hiểu biết từ căn bản đến nâng cao trong việc thể hiện các loại tình cảm đó.
Tình bạn là mối quan hệ tình cảm hai chiều giữa con người với nhau. Nó liên kết các cá nhân
mạnh mẽ. Có nhiều hình thức của tình bạn, với việc thay đổi tính chất của tình bạn từ dạng này
sang dạng khác, nhưng đều có một số đặc điểm chung nhất định bao gồm: tình cảm; lòng tốt,
tình yêu, đức hạnh, sự cảm thông, sự đồng cảm, trung thực, lòng vị tha, lòng trung thành, sự rộng
lượng, sự tha thứ, sự hiểu biết lẫn nhau và lòng trắc ẩn, thích thú sự có mặt của nhau, tin tưởng
và khả năng là chính mình, thể hiện tình cảm của mình với người khác mà
10
không phải sợ phán xét từ người đó. Tình bạn là một khía cạnh thiết yếu của kỹ năng xây dựng
mối quan hệ.
Tình yêu là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý, và thái độ khác nhau. Bản chất của tình yêu
là một đề tài tranh luận thường xuyên. Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu
cầu muốn được ràng buộc gắn bó.
Nhà tâm lý học Robert Sternberg đã đưa ra một lý thuyết tam giác tình yêu và cho rằng tình yêu
có ba thành phần khác nhau: sự thân mật, sự cam kết và niềm đam mê. Sự thân mật là một hình
thức trong đó hai người chia sẻ những tâm sự và nhiều chi tiết khác nhau về cuộc sống cá nhân
của họ, và thường được thể hiện trong tình bạn và những chuyện tình lãng mạn. Hình thức cuối
cùng của tình yêu là sự hấp dẫn và đam mê tình dục. Tình yêu đam mê được thể hiện trong sự mê
đắm cũng như tình yêu lãng mạn. Tất cả các hình thức của tình yêu được xem là sự kết hợp khác
nhau của ba thành phần này.
Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp
pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia
đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã hội, lễ cưới thưởng là sự kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu
của hôn nhân. Về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn với cơ quan Nhà nước.
Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ
được gọi là vợ.
3.3. Tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề
Tư vấn nghề nghiệp rất có ích cho học sinh vì nó không chỉ đề cập đến nhân cách, mơ ước, sở
thích, nguyện vọng, mà học sinh còn được biết đến những đại lượng khác trong bức tranh nghề
nghiệp rộng lớn, từ đó họ hiểu thêm về xã hội họ đang sống. Nhất là giáo viên chủ nhiệm cho
học sinh một cái nhìn "từ bên trong" và họ có cơ hội chọn lựa, an tâm với chính mình, giành hết
năng lực và công sức của bản thân một khi đã chọn ra một nghề thích hợp cho mình.
Học sinh các lứa tuổi đều biết người lớn xung quanh mình đi làm và làm gì vì nghe cha mẹ, anh
chị kể về việc làm. Chính những câu chuyện nghề nghiệp nhất định ấy đã có ảnh hưởng đến các
em. Tuy nhiên, các em rất cần đến một bức tranh toàn diện về các ngành nghề trong xã hội. Vì
thế, nhà trường và những người có trách nhiệm cần tổ chức những cuộc dã ngoại, tham quan
(field trip), giới thiệu với các em về những ngành nghề khác nhau, điều này mang tính giáo
11
dục rất cao. Những kinh nghiệm với các hình thái công việc khác nhau sẽ cho các em những suy
nghĩ, giúp các em củng cố nhiều hơn nữa về những quyết định nghề nghiệp sau này. Giáo viên
chủ nhiệm nên tổ chức những buổi tham quan do các đơn vị có tâm huyết bảo trợ, hoặc mời
những công nhân viên có tinh thần, thiện nguyện (volunteer) đến trường kể chuyện về nghề
nghiệp và việc làm của mình cho các em học sinh nghe.
Tư vấn nghề giúp học sinh sắp bước vào thế giới trưởng thành xác định được điều các em cần
biết, nên biết; có liên quan đến nghề nghiệp. Không như quá khứ, nhiều nghề cha truyền con nối
và không đòi hỏi văn bằng, chứng chỉ; xã hội hôm nay rất cần đến đào tạo chuyên môn và chứng
nhận tốt nghiệp. Vì thế, các em cần được hướng dẫn cụ thể, xác định được nghề mình thích, sau
đó sẽ có hướng chuẩn bị thích hợp, đáp ứng tốt yêu cầu tuyển sinh cho các khóa đào tạo phù hợp
với ngành nghề các em yêu thích.
Ngoài việc được hướng dẫn bởi một tư vấn hướng nghiệp có chuyên môn, các em cần được đề
nghị thám hiểm về đề tài nghề nghiệp: các em được khuyến khích sẽ trực tiếp gặp gỡ 5 đến 10
người lớn trong gia đình, hàng xóm, bạn bè của cha mẹ, anh chị với những ngành nghề khác
nhau, từ đó các em sẽ có một khái niệm hoàn chỉnh, đầy đủ hơn về bức tranh nghề nghiệp.
Bloch (1989) đề xuất những hướng dẫn cho một chương trình tư vấn, đặc biệt giành cho các em
đang có nguy cơ bỏ học vì những điều kiện khác nhau:
- Các em cần hiểu biết về bức tranh hiện tại và bức tranh trong tương lai giữa có nghề và không
có nghề. Một kế hoạch phù hợp với từng cá nhân học sinh, với sự quan tâm thành thực, thể hiện
được tinh thần quan tâm đến các em. Chương trình này nên có quan hệ với những đơn vị sản
xuất, đề nghị họ tạo điều kiện giúp đỡ các em.
Giới thiệu những chương trình huấn nghệ có cấp chứng chỉ học nghề cho các em, và những
chương trình giáo dục thường xuyên, bổ túc, học ban
đêm...
Ở những nước đã phát triển, thông tin nghề nghiệp thật dễ tìm, dễ có. Nhưng ở Việt Nam, thông
tin nghề nghiệp rất hạn chế. Nhiều trường cao đẳng về những ngành nghề không được học sinh
biết đến. Học trò của những trường này thường là con cháu, bạn bè, hàng xóm của những người
trong nghề, biết được sự hiện diện của trường, và nhận thấy đó cũng là nghề kiếm sống được, thế
là họ nộp đơn, ghi danh, dự thi, vào học... tốt nghiệp rồi đi làm.
12
Nhiều người đọc quảng cáo chiêu sinh, song những phương tiện này chỉ rộng rãi ở thành phố,
còn những tỉnh với vùng sâu, vùng xa, mảng thông tin thường không được cập nhật hoặc trưng
dẫn một cách hình thức, từ đó dẫn đến tình trạng có làm nhưng không gặt hái được nhiều.
Giáo viên chủ nhiệm nên giúp học sinh của mình nắm bắt thông tin nghề nghiệp bằng những
cách sau:
- Khuyến khích học sinh tham gia hội chợ nghề nghiệp được đông đảo các đơn vị kinh doanh, tổ
chức kinh tế, xí nghiệp, nhà máy, các trường đại học, bệnh viện, sở ban... tham dự.
Cập nhật thông tin mới về nghề nghiệp qua hệ thống thư viện.
Kêu gọi các cơ quan hãy tạo những nỗ lực chiêu sinh, tuyển việc đến gần hơn nữa với giới lao
động và các học sinh, sinh viên.
- Có những buổi nói chuyện chuyên đề bởi những chuyên viên trong nghề trên tivi, đài, báo... về
ngành nghề, mặt trái và mặt phải. 3.4. Tư vấn giá trị sống, kĩ năng sống
Giáo viên chủ nhiệm cần tư vấn cho học sinh những nội dung kĩ năng sống cơ bản, cần thiết sau:
3.4.1. Kĩ năng tự nhận thức.
Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân.
Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình,
như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm
năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,...của bản thân mình; quan tâm và luôn
ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử
phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Ngoài
ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng
đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh
giá không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại. trong
cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.
Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với
người khác.
13
3.4.2. Kĩ năng xác định giá trị
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng
định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là
những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều
gì đó...
Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật, đạo đức, kinh tế.....
Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kĩ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu
rõ được những giá trị của bản thân mình. Kĩ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình
ra quyết định của mỗi người. Kĩ năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết
chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác.
Giá trị không phải là bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian, theo các giai đoạn trưởng thành
của con người. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục vào nền văn hóa, vào môi trường sống, học tập và
làm việc của cá nhân.
3.4.3. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình hống
nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào,
đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kĩ năng xử lý cảm xúc còn
có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc, kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.
Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương
lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra
quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn. Kĩ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kĩ năng tự
nhận thức, kĩ năng ứng xử với người khác và kĩ năng úng phó với căng thẳng, đồng thời góp
phần củng cố các kĩ năng này.
3.4.4. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người thưởng gặp những tình huống gây căng thẳng cho bản
thân. Tuy nhiên, có những tình huống có thể gấu căng thẳng cho người này nhưng lại không gây
căng thẳng cho người khác và ngược lại. Khi bị căng thẳng mỗi người có tâm trạng, cảm xúc
khác nhau: cũng có khi là những cảm xúc tích cực nhưng thường là những cảm xúc tiêu cục gây
ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Ở một mức
14
độ nào đó, khi một cá nhân có khả năng đương đầu với căng thẳng thì đó có thể là một tác động
tích cực, tạo sức ép buộc cá nhân đó phải tập trung vào công việc của mình, bút phá thành công.
Nhưng mặt khác, sự căng thẳng còn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu căng thẳng
đó quả lớn, kéo dài và giải
toa noi.
Khi bị căng thẳng, tùy từng tình huống, mỗi người có thể có cách ứng phó khác nhau. Cách ứng
phó tích cực hay tiêu cực khi căng thẳng phụ thuộc vào cách suy nghĩ tích cực hay tiêu cực của
cá nhân trong tình huống đó. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh,
sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả
năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết
cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng.
Chúng ta cũng có thể hạn chế những tình huống căng thẳng bằng cách sống và làm việc điều độ,
có kế hoạch, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, sống vui vẻ, chan hòa, tránh gây mâu
thuẫn không cần thiết với mọi người xunh quanh, không đặt ra cho mình những mục tiêu quá cao
so với điều kiện và khả năng của bản thân,...
Kĩ năng ứng phó với căng thẳng rất quan trọng, giúp con người: Biết suy nghĩ và ứng phó một
cách tích cực khi căng thẳng.
- Duy trì được trạng thái cân bằng, không làm tổn hại sức khỏe thể chất và tinh thần của bản
thân,...
Kĩ năng ứng phó với căng thẳng rất quan trọng, giúp con người:
- Biết suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi căng thẳng.
- Duy trì được trạng thái cân bằng, không làm tổn hại sức khỏe thể chất và tinh thần của bản
thân.
- Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Kĩ năng ứng phó với căng thẳng có được nhờ sự kết hợp của các KNS khác như: kĩ năng tự nhận
thức, kĩ năng xử lý cảm xúc, kĩ năng giao tiếp, tu duy sáng tạo, kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ và kĩ
năng giải quyết vấn đề.
15
3.4.5. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp
đỡ của những người khác. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ bao gồm các yếu tố sau:
Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.
- Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy.
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
Khi tìm đến các địa chỉ cần hỗ trợ, chúng ta cần;
- Cư xử đúng mực và tự tin.
- Cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn.
- Giữ bình tĩnh khi gặp sự cố đối xử thiếu thiện chí. Nếu vẫn cần sự hỗ trợ của người thiếu thiện
chí, cố gắng tỏ ra bình thường, kiên nhẫn nhưng không sợ
hãi.
Nếu bị cự tuyệt, đừng nản chí, hãy kiên trì tìm kiếm sự hỗ trợ từ các địa chỉ khác, người khác.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ giúp chúng ta có thể nhận được những lời khuyên, sự can
thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý
do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp cá nhân không cảm thấy đơn
độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng ta có cái nhìn mới và hướng đi mới.
Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn và
ứng phó với căng thẳng. Đồng thời để phát huy hiệu quả của kĩ năng này, cần kĩ năng lắng nghe,
khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư vấn, kĩ năng ra quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu
sau khi được tư vấn. 3.4.6. Kĩ năng thể hiện sự tự tin
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một
người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm
vụ.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý
kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định,
đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra quyết định, đảm
nhận trách nhiệm.
3.4.7. Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử
dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý
kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bảy tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý
tưởng, nhu cầu, nong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.
Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp
một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn
thương cho người khác. Kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao
gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình - nguồn hỗ trợ quan
trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu
tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kĩ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ
khi cần thiết một cách xây dựng.
Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác như bày tỏ sự cảm thông, thương
lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát cảm xúc. Người có kĩ năng
giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc
cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều
người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính
đáng.
3.4.8. Kĩ năng lắng nghe tích cực
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người có kĩ năng lắng nghe
tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình
bày của người khác (bằng các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản
hồi mà không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lý trong quá trình giao tiếp.
Người có kĩ năng lắng nghe tích cực thường được nhìn nhận là biết tôn trọng và quan tâm đến ý
kiến của người khác, nhờ đó làm cho việc giao tiếp, thương lượng và hợp tác của họ hiệu quả
hơn. Lắng nghe tích cực cũng góp phần giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và xây dựng.
16
17
Kĩ năng lắng nghe tích cực có quan hệ mật thiết với các kĩ năng giao tiếp, thương lượng, hợp tác,
kiểm chế cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn. 3.4.9. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người
khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình, qua đó
chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc
nhu cầu của họ.
Kĩ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử với người
khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc.
Kĩ năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện,
gần gũi với những người cần sự giúp đỡ.
Kĩ năng thể hiện sự cảm thông được dựa trên kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị,
đồng thời là yếu tố cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn,
thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm
xúc.
3.4.10. Kĩ năng thương lượng.
Thương lượng là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích, đồng thời có thảo luận để
đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách suy nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.
Kĩ năng thương lượng bao gồm nhiều yếu tố của kĩ năng giao tiếp như lắng nghe, bày tỏ suy nghĩ
và một phần quan trọng của giải quyết vấn đề và giải quyết mâu thuẫn. Một người có kĩ năng
thương lượng tốt sẽ giúp giải quyết vấn đề hiệu quả, giả quyết mâu thuẫn một cách xây dựng và
có lợi cho tất cả các
bên
Kĩ năng thương lượng có liên quan đến sự tự tin, tính kiên định, sự cảm thông, tư duy sáng tạo,
kĩ năng hợp tác và khả năng thỏa hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân.
3.4.11. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là những xung đột, tranh cãi, bất đồng, bất bình với một hay nhiều người về một vấn
đề nào đó.
Mâu thuẫn trong cuộc sống hết sức đa dạng thường bắt nguồn từ sự khác nhau về quan điểm,
chính kiến, lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa,...Mẫu thuẫn thường có ảnh hưởng tiêu cực
tới những mối quan hệ của các bên.
18
Có nhiều cách giải quyết mâu thuẫn. Mỗi người sẽ có cách giải quyết mâu thuẫn riêng tùy thuộc
vào vốn hiểu biết, quan niệm, văn hóa và cách ứng xử cũng như khả năng phân tích tìm hiểu
nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức
được nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái độ tích cực,
không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu và quyền lợi các bên và giải quyết cả mối quan hệ
giữa các bên một cách hòa bình.
Yêu cầu trước hết của kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là phải luôn kiềm chế cảm xúc, tránh bị kích
động, nóng vội, giữ bình tĩnh trước mọi sự việc để tìm ra nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn cũng
như tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn là một dạng đặc biệt của kĩ năng giải quyết vấn đề. Kĩ năng giải
quyết mâu thuẫn cần được sử dụng kết hợp với nhiều kĩ năng liên quan khác như: kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng ra quyết định...
3.4.12. Kĩ năng hợp tác.
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực
nào đó vì mục đích chung.
Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có
hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm. Biểu hiện của người có kĩ năng hợp tác:
Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhón; tôn trọng những quyết định chung,
những điều đã cam kết.
Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các thành viên khác trong
nhóm.
- Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng thời biết lắng nghe,
tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm.
- Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được phân
công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong quá trình hoạt động.
- biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng mắc để hoàn thành
mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
- Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại của nhóm, về những sản phẩm do nhóm tạo
ra.
19
H
T
Có kĩ năng hợp tác là một yêu cầu quan trọng đối với người công dân trong một xã hội hiện đại,
bởi vì:
- Mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng. Sự hợp tác trong công việc giúp mọi
người hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần và thể chất, vượt qua khó
khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn cho công việc chung.
- Trong xã hội hiện đại, lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đều phụ thuộc vào nhau, ràng
buộc lẫn nhau; mỗi người như một cái chi tiết của một cỗ máy lớn, phải vận hành đồng bộ, nhịp
nhàng, không thể hành động đơn lẻ. Kĩ năng hợp tác còn giúp cá nhân sống hài hòa và tránh
xung đột trong quan hệ với người khác.
Để có được sự hợp tác hiệu quả, chúng ta cẩn vận dụng tốt nhiều KNS khác như: tự nhận thức,
xác định giá trị, giao tiếp, thể hiện sự cảm thông, đảm nhận trách nhiệm, ra quyết định, giải quyết
mâu thuẫn, kiên định, ứng phó với căng thẳng..
3.4.13. Kĩ năng tư duy phê phán.
Kĩ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự
vật, hiện tượng...xảy ra. Để phân tích một cách có phê phán, con người cần:
thống.
Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ
Thu thập thông tin về vấn đề, sự vật, hiện tượng...đó từ nhiều nguồn
khác nhau.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái
chiều.
- Xác định bản chất vấn đề, tỉnh huống, sự vật, hiện tượng...là gì?
- Nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng.....đó,
xem xét một cách thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống.
Kĩ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được những quyết định, những
tình huống phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người luôn phải đối mặt
với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức
tạp...thì kĩ năng tư duy phê phán càng trở lên quan trọng đối với mỗi cá nhân. Kĩ năng tư duy phê
phán phụ thuộc vào hệ thốn giá trị cá nhân. Một người có
20
được kĩ năng tư duy phê phán tốt khi biết phối hợp nhịp nhàng với kĩ năng tự nhận thúc và kĩ
năng xác định giá trị.
3.4.14. Kĩ năng tư duy sáng tạo.
Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới,
theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan
hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.
Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng
tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn các người
khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.
Tư duy sáng tạo là một KNS quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên bị đặt
vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi
chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp.
Khi một người biết kết hợp tốt giữa kĩ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì năng lực tư
duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải
quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất.
3.4.15. Kĩ năng ra quyết định
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình huống, những vấn đề
cần giả quyết buộc chúng ta phải lực chọn, đưa ra quyết định hành động.
Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải
quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời.
Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên trông chờ, phụ thuộc vào người
khác; mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định.
Để đưa ra quyết định phù hợp chúng ta cần:
- Xác định vấn đề hoặc tình huống mà chúng ta đang gặp phải.
- Thu thập thông tin hoặc vấn đề về tình huống đó.
- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đã có.
21
- Hình dung đây đủ về kết quả sẽ xảy ra nếu chúng ta lựa chọn mỗi phương án giải quyết.
Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu giải quyết theo từng phương án đó.
- So sánh giữa các phương án để quyết định lựa chọn phương án tối ưu. - Kĩ năng ra quyết định
rất cần thiết trong cuộc sống, giúp cho con người có được sự lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem
lại thành công trong cuộc sống.
Ngược lại, nếu khôn có kĩ năng ra quyết định, con người ta có thể có những quyết định sai lầm
hoặc chậm trễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc và tương lai cuộc
sống của bản thân; đồng thời còn có thể làm ảnh hưởng đến gia đình, bạn bè và những người có
liên quan.
Để ra được quyết định một cách phù hợp, cần phối hợp với những KNS khác như: kĩ năng tự
nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng thu thập thông tin, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng
tư duy sáng tạo...
dè.
- Kĩ năng ra quyết định là phần rất quan trọng của kĩ năng giải quyết vấn
3.4.16. Kĩ năng giải quyết vấn đề.
Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và
hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc
sống. Giải quyết vấn đề có liên quan tới kĩ năng ra quyết định và cần nhiều KNS khác như: Giao
tiếp, xác định giá trị, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ, kiên định...
Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, chúng ta cần:
- Xác định rõ vấn đề hoặc tình huống đang gặp phải, kể cả tìm kiếm thông tin cần thiết.
- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đã có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả xảy ra nếu ta lựa chọn phương án giả quyết
nào đó.
Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu thực hiện phương án giải quyết đó.
- So sánh các phương án để đưa ra quyết định cuối cùng
- Hành động theo quyết định đã lựa chọn.
- Kiểm định lại kết quả để rút kinh nghiệm cho những lần quyết định và giải quyết vấn đề sau.
Cũng như kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng, giúp con người có thể
ứng phó tích cực và hiệu quả trước những vấn đề, tình huống của cuộc sống.
3.4.17. Kĩ năng kiên định.
Kĩ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến
sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì
mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với
quyền, nhu cầu của người
khác.
Kiên định khác với hiếu thắng, nghĩa là luôn chi nghĩ đến quyền và nhu cầu của bản thân, bằng
mọi cách để thỏa mãn nhu cầu của mình, không quan tâm đến quyền và nhu cầu của người khác.
Thể hiện tính kiên định trong mọi hoàn cảnh là cần thiết song cần có cách thức khác nhau để thể
hiện sự kiên định đối với từng đối tượng khác nhau. Khi cần kiên định trước một tình huống/ vấn
đề, chúng ta cần:
- Nhận thức được cảm xúc của bản thân.
- Phân tích, phê phán hành vi của đối tượng.
Khẳng định ý muốn của bản thân bằng cách thể hiện thái độ, lời nói và hành động mang tính tích
cực, mềm dẻo, linh hoạt và tự tin.
Kĩ năng kiên định sẽ giúp chúng ta tự bảo vệ được chính kiến, quan điểm, thái độ và những
quyết định của bản thân, đứng vững trước những áp lực tiêu cực của những người xung quanh.
Ngược lại, nếu không có kĩ năng kiên định, con người sẽ bị mất tự chủ, bị xúc phạm, mất lòng
tin, luôn bị người khác điều khiển hoặc luôn cảm thấy tức giận và thất vọng. Kĩ năng kiên định
giúp cá nhân giải quyết vấn để và thương lượng có hiệu quả.
Để có kĩ năng kiên định, con người cần xác định được các giá trị của bản thân, đồng thời phải kết
hợp tốt với kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp.
3.4.18. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
Đảm nhận trách nhiệm là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẽ
công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên những
điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tim kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành
nhiệm vụ.
23
22
Khi các thành viên trong nhóm có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm sẽ tạo được một không khí hợp
tác tích cực và xây dựng trong nhóm, giúp giải quyết vấn đề, đạt được mục tiêu chung của cả
nhóm, đồng thời tạo sự thỏa mãn và thăng tiến cho mỗi thành viên.
Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm có liên quan đến kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng thể hiện sự cảm
thông, kĩ năng hợp tác và kĩ năng giải quyết vấn đề. 3.4.19. Kĩ năng đạt mục tiêu.
Mục tiêu là cái đích mà chúng ta muốn đạt tới trong một khoảng thời gian hoặc một công việc
nào đó. Mục tiêu có thể về nhận thức, hành vi hoặc thái độ.
Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản thân trong cuộc sống
cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó. Mục tiêu có thể được đặt ra trong một
khoảng thời gian ngắn, như một ngày, một tuần (mục tiêu ngắn hạn). Mục tiêu cũng có thể cho
một thời gian dài như một năm hoặc nhiều năm (mục tiêu dài hạn).
- Kĩ năng đặt mục tiêu giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và có khả năng thực hiện
được mục tiêu của mình,
Muốn cho một mục tiêu có thực hiện thành công thì phải lưu ý đến những yêu cầu sau:
- Mục tiêu phải được thể hiện bằng những ngôn từ cụ thể; trả lời được những câu hỏi như: Ai?
Thực hiện cái gì? Trong thời gian bao lâu? Thời điểm hoàn thành mục tiêu là khi nào?
-
- Khi viết mục tiêu, cần trách sử dụng các từ chung chung, tốt nhất là để ra những việc cụ thể, có
thể lượng hóa được.
- Mục tiêu đặt ra cần phải thực tế và có thể thực hiện được; không nên đặt ra những mục tiêu quá
khó so với khả năng và điều kiện của bản thân. - Xác định được những công việc, những biện
pháp cụ thể cần thực hiện để đạt được mục tiêu.
mặt.
- Xác định được những thuận lợi đã có, những địa chỉ có thể hỗ trợ về từng
- Xác định được những khó khăn có thể gặp phải trong quá trình thực hiện mục tiêu và các biện
pháp cần phải làm để vượt qua những khó khăn đó.
Có thể chia nhỏ mục tiêu theo từng mốc thời gian thực hiện. Kĩ năng đặt mục tiêu được dựa trên
kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tìm kiếm str hỗ
tro,...
24
3.4.20. Kĩ năng quản lý thời gian.
Kĩ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên,
biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định.
Kĩ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục
tiêu đó; đồng thời giúp con người tránh được căng thẳng do áp lực công việc.
Quản lý thời gian là một trong những kĩ năng quan trọng trong nhóm kĩ năng làm chủ bản thân.
Quản lý thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự
thành công của cá nhân và của nhóm.
3.4.21. Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là một KNS quan
trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan,
chính xác, kịp thời.
Để tim kiếm và xử lý thông tin chúng ta cần:
- Xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin là chủ đề gì.
- Xác định các loại thông tin về chủ đề mà mình cần phải tìm kiếm là gì. - Xác định các nguồn/
các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông
tin đó ( ví dụ: sách, báo, mạng internet, cán bộ các cơ quan tổ chức có liên quan, bạn bè, người
quen...)
Lập kế hoạch thời gian và liên hệ trước với những người có liên quan đến việc cung cấp thông
tin, nếu có.
Chuẩn bị giấy tờ, phương tiện, bộ công cụ để thu thập thông tin (ví dụ: máy tính, máy ghi âm,
phiếu hỏi, bộ câu hỏi phỏng vấn,...), nếu cần thiết. - Tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch
đã xây dựng.
thống.
Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ
- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt
là các thông tin trái chiều; xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các
thông tin đó.
- Viết báo cáo, nếu được yêu câu.
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin cần kết hợp với kĩ năng tư duy phê phản và kỹ năng tìm
kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ, Một số lưu ý:
25

You might also like