You are on page 1of 17

1.

Khái niệm giao tiếp sư phạm


- Giao tiếp: là sự tiếp thu tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi thông
tin, cảm xúc, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại cùng nhau
- GTSP: là sự tiếp xúc tâm lí giữa con người với con người trong môi trường nhà trường được
quy định bởi các yếu tố: tính chủ thể, văn hoá, xã hội; trao đổi thông tin, cảm xúc; định
hướng và điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân và của người giao tiếp với mình, tri
giác lẫn nhau, tạo dựng quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau
- Theo A.P.Levitov: GTSP là năng lực truyền đạt tri thức cho trẻ bằng cách trình bày rõ ràng,
hấp dẫn, ngắn gọn
- Theo T.V.Trakhov : GTSP là năng lực tiếp xúc với HS. Kĩ năng tìm được cách đối xử đúng
đắn với trẻ, thiết lập mối quan hệ hợp lí theo quan điểm SP
- Như vậy:
+ Theo nghĩa rộng: GTSP là quá trình tiếp xúc tâm lí giữa các chủ thể trong quá trình giáo
dục, nhằm trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau,
thiết lập nên những mqh để thực hiện mục đích giáo dục
+ Theo nghĩa hẹp: GTSP là sự tiếp xúc tâm lí giữa GV và HS nhằm truyền đạt và lĩnh hội tri
thức khoa học, vốn kinh nghiệm sống, kĩ năng kĩ xảo tương ứng để xây dựng và phát triển
toàn diện nhân cách cho HS

2.Đặc trưng của giao tiếp sư phạm


● Đặc trưng về chủ thể và đối tượng giao tiếp
- Chủ yếu là giao tiếp giữa GV với HS thông qua nội dung bài giảng, tri thức khoa học. Người GV
không chỉ thầy giáo, cô giáo là tấm gương sáng mẫu mực về nhân cách cho học sinh noi theo.
Như vậy, tác động của GV đến HS không chỉ là bằng ngôn ngữ mà bằng cả nhân cách của mình.
- Chủ thể và đối tượng trong giao tiếp sư phạm chủ yếu là GV và HS
- Đặc điểm riêng của GV và HS là đặc trưng nổi bật của chủ đề và đối tượng trong giao tiếp sư
phạm.
- VD: Khi đi học, chúng ta thường có thói quen trình bày bài giống những gì thầy, cô giáo làm.
Không chỉ dừng lại ở bài tập, tác phong và cử chỉ của người giáo viên còn ảnh hưởng trực tiếp
tới thói quen, cảm xúc của học sinh. Một người thầy có thói quen dừng lại giữa bục giảng chào
học sinh khi vào lớp, hành động này khiến học sinh hình thành thói quen đứng dậy nghiêm chỉnh
chào thầy giáo. Dần dần, điều này trở thành một phản xạ, mỗi khi đến môn học của thầy học sinh
đều chủ động đứng dậy trước để chào, thể hiện sự tôn trọng của bản thân.
● Đặc trưng về mục đích giao tiếp
- Thông qua giao tiếp sư phạm. người giáo viên dạy học và giáo dục học sinh theo mục đích giáo dục
đã đề ra.
- Quá trình giao tiếp của giáo viên chủ yếu để thuyết phục, vận động, cảm hóa học sinh.Cụ thể, người
giáo viên sử dụng giao tiếp như một phương diện chủ đạo để giáo dục nhân cách học sinh, giúp
học sinh vừa hiểu biết tri thức khoa học, vừa hiểu biết các chuẩn mực xã hội để làm theo, tuân
theo.
- Mục đích giao tiếp sư phạm là dạy học và giáo dục. Vì thế, GV thông qua lí lẽ, tình cảm, nhân cách
cao đẹp của mình để thuyết phục và cảm hóa HS. Tuyệt đối giáo viên không được sử dụng bạo lực,
trù dập, mắng chửi, làm tổn hại đến thể chất và tinh thần của học sinh. GV không được sử dụng bất
cứ hình thức gây áp lực nào.
- VD: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, người giáo viên không nên trách cứ, mắng, hay có
những hành động tiêu cực trực tiếp. Thay vào đó, người giáo viên nên tìm hiểu kỹ nguyên nhân, lí
do khiến học sinh không làm bài tập, đồng thời ôn tồn trò chuyện để từ đó, đưa ra lời khuyên để
học sinh khắc phục lỗi sai của mình.
● Đặc trưng về sự chuẩn mực trong giao tiếp
- Người GV trong quá trình giao tiếp phải thể hiện sự chuẩn mực, khuôn mẫu, mực thước trong giao
tiếp, quan hệ với người khác sao cho tương xứng với sự tôn kính của xã hội và phù hợp với nghề
nghiệp của mình. Người giáo viên không thể buông thả, tự do, phóng túng trong quá trình giao tiếp
với người khác, nhất là với đồng nghiệp và học sinh.
- Chính sự chuẩn mực, khuôn mẫu đã tạo ra sự tôn trọng với người giáo viên và tạo ra truyền thống
tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Sự tôn trọng, kính trọng của xã hội đối với người GV được thể
hiện qua giao tiếp. Sự tôn kính đó được thể hiện trong cách xưng hô, ứng xử, phong thái giao tiếp,
cách sử dụng từ ngữ một cách chuẩn mực và văn hóa nhất có thể…
- VD: Chuẩn mực, tác phong của nhà giáo luôn là một yếu tố được quan tâm và đặt lên hàng đầu,
nhà nước cũng đã quy định rất rõ tại Điều 5 Quy định về đạo đức nhà giáo ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT thì Tiêu chuẩn lối sống, tác phong của nhà giáo. Trong mỗi
trường sư phạm, tác phong của người giáo viên không chỉ là bộ mặt của nền giáo dục, mà còn ảnh
hưởng trực tiếp tới học sinh, tác động tới hành vi và nhân cách của học sinh.
3.Chức năng của giao tiếp sư phạm
Trao đổi thông tin.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm trước hết là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các giá trị...
mà thầy giáo truyền đạt đến học sinh. Đó là nội dung bài học, môn học, cách học..., hay nói rộng
hơn, đó là kinh nghiệm xã hội lịch sử mà mỗi người đến trường cần được lĩnh hội để sống bình
thường trong xã hội. Để lĩnh hội được, học sinh phải thông qua giao tiếp với thầy giáo, với bạn bè...
Quá trình đó xét về chức năng của nó là quá trình giáo dục. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, học
sinh tiếp thu được tri thức của nhân loại để hình thành, phát triển trí tuệ, nhân cách và trên cơ sở tri
thức đó mà phát triển nền văn hoá xã hội.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm còn là những cảm xúc, là thế giới tâm hồn của những
người tham gia giao tiếp. Mỗi con người là một thế giới tâm hồn chứa đựng cảm xúc.

VD: Trong một tiết học, thầy giáo kể một câu chuyện của bản thân về lần đầu được điểm kém do
không ôn bài. Không chỉ nằm ở việc giúp học sinh biết về một kỉ niệm trong quá khứ của mình, thầy
giáo còn giúp học sinh nhận ra được sai lầm trong cách ôn thi, từ đó rút ra kinh nghiệm và học tập
cẩn thận. Việc trao đổi thông tin trong giao tiếp sư phạm diễn ra từ cả hai phía, giữa thầy và trò,
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục.
b. Tri giác lẫn nhau.
Giao tiếp sư phạm luôn diễn ra sự nhận thức và hiểu biết nhau giữa giáo viên và học sinh. Đặc
tính quan trọng của tri giác lẫn nhau không chỉ là nhận thức về đối tượng giao tiếp mà còn nhận
thức được chính bản thân trong mối quan hệ đó. Tri giác lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình giao
tiếp, giúp mỗi người thu thập thông tin cả cảm tính (tư thế, tác phong, ánh mắt, nụ cười, trang
phục...) lẫn lí tính (phẩm chất, tính cách, tình cảm...) của đối tượng giao tiếp. Trong quá trình giao
tiếp sư phạm, giáo viên và học sinh hiểu biết lẫn nhau bằng cách cùng chia sẻ cảm xúc, bằng con
đường đồng nhất hoá bản thân mình với người kia và bằng biện pháp suy nghĩ về người kia. Nhờ tri
giác lẫn nhau mà giáo viên hiểu rõ học sinh của mình hơn, chất lượng quan hệ cũng như hiệu quả
của tác động giáo dục nâng cao hơn. Tri giác lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm là một hình thức tri
giác liên nhân cách.

VD: Khi người giáo viên đặt ra một câu hỏi khiến học sinh lộ ra vẻ lúng túng. Lúc này, người giáo
viên không nên gặng hỏi, mà chủ động gợi ý, đặt ra những câu hỏi phụ đơn giản hơn, để học sinh
có thể tự tin và tìm ra câu trả lời chính xác. Từ đó, tạo ra cảm giác tự tin cho người học, cũng như
không khí thoải mái cho giờ học. Việc quan sát thái độ của người học, cũng như người dạy, có lợi
ích rất lớn nhằm nâng cao chất lượng của giờ học, đem lại cảm giác thoải mái, hứng khởi.
c. Đánh giá lẫn nhau.
Cùng với sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp, con người luôn có sự
đánh giá lẫn nhau trên cơ sở định hướng giá trị của mình. Kết quả của nó ảnh hưởng quyết định tới
tiến trình cũng như hiệu quả của quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, từ chỗ hiểu nhầm dẫn đến đánh giá
sai về học sinh, giáo viên có thể căng thẳng trong cư xử với các em, và tất nhiên, giáo viên sẽ hứng
chịu phản ứng có thể là trực tiếp hoặc ngấm ngầm không lấy gì là tốt đẹp từ phía học sinh, thậm chí
có thể phá vỡ quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học sinh.

VD: Khi gặp phải một bài làm điểm kém của một học sinh, người giáo viên không nên lập tức trách
móc hay có những hành động tiêu cực. Thay vào đó, người giáo viên cần tìm hiểu kĩ lực học của
học sinh này, từ đó đưa ra những phương án giảng dạy phù hợp, đem lại sự thoải mái cũng như
động lực cho học sinh phấn đấu.
d. Ảnh hưởng lẫn nhau.
Mỗi người tham gia giao tiếp quan hệ với người cùng giao tiếp với mình như là chủ thể có
tâm lí, ý thức. Trong quá trình giao tiếp, các kế hoạch cá nhân được biến đổi và có thể tạo ra một kế
hoạch chung nào đó năng động hơn, hoặc ngược lại, bất đồng hơn. Như vậy, giao tiếp dẫn đến sự
thay đổi không chỉ là tư tưởng mà còn thay đổi cả chức năng tâm lí, trạng thái, thuộc tính tâm lí của
những người giao tiếp. Trong giao tiếp sư phạm, với chức năng xã hội là người hướng dẫn, chỉ đạo,
điều khiển hoạt động nhận thức cũng như quá trình hình thành nhân cách của học sinh, giáo viên có
ảnh hưởng vô cùng lớn tới học sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi. Tuy nhiên trong quá trình này,
giáo viên cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ phía học sinh (liên hệ ngược). Một khía cạnh đặc biệt
lưu ý là, giữa học sinh với học sinh cũng có ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn trong quá trình các em giao
tiếp với nhau (học thầy không tày học bạn).

VD: Khi giảng bài, tâm lí cũng như cảm xúc, thái độ của người giáo viên có những ảnh hưởng nhất
định tới học sinh. Người giáo viên có cảm xúc vui vẻ, hào hứng sẽ đem lại một bầu không khí sôi
nổi và thoải mái cho lớp học. Người giáo viên có cảm xúc không tốt, cáu giận sẽ tạo cho lớp học
không khí căng thẳng, nặng nề. Ngoài ra, trạng thái và kết quả của lớp học cũng ảnh hưởng tới tâm
lý của người giáo viên. Chính vì vậy, giáo viên và học sinh ảnh hưởng tới nhau trong quá trình giao
tiếp sư phạm.
e. Điều khiển hoạt động nhóm.
Giao tiếp luôn mang ý nghĩa xã hội, đó là giao tiếp đảm bảo tổ chức mọi người tiến hành
hoạt động chung, đảm bảo cho sự liên hệ qua lại của họ. Đặc điểm cơ bản của chức năng này thể
hiện ở chỗ chính quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, tư tưởng, biểu tượng... Sự thống
nhất các ý đồ, tư tưởng... sẽ điều khiển hoạt động chung của nhóm, cộng đồng.
Trong giao tiếp sư phạm, sự thống nhất các ý đồ, tư tưởng... giữa giáo viên và học sinh là
điều kiện lí tưởng đảm bảo hiệu quả cao trong dạy học và giáo dục, và điều này phụ thuộc phần lớn
vào năng lực giao tiếp của người giáo viên. Thông qua giao tiếp, giáo viên tổ chức các mối quan hệ,
các tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau nhằm phát huy tính tích cực, tự
giác của học sinh - đó là khía cạnh bản chất của phương pháp dạy học tích cực. Trong hoạt động
chung này, giao tiếp thực hiện chức năng điều chỉnh từng thành viên tham gia. Nhiệm vụ của người
thầy giáo trong trường hợp này là tổ chức quá trình giao tiếp của học sinh bằng chính giao tiếp của
mình.

VD: Người giáo viên giống như một nghệ sĩ trên sân khấu, một người diễn viên tài năng sẽ biết
cách lôi cuốn khán giả về phía mình. Một giáo viên hiệu quả sẽ biết thu hút sự tham gia của học
sinh. Để trở thành một giáo viên hiệu quả, thầy cô phải làm chủ được các chiến thuật, các kĩ thuật
dạy học đảm bảo học sinh tham gia vào các hoạt động mà mình tổ chức, lắng nghe những gì mà
mình nói, thực hiện những nhiệm vụ mà mình yêu cầu.

f) GD phát triển nhân cách

Người học không thể tách mình khỏi môi trường nhà trường, bạn bè, thầy cô giáo, những người
quản lý giáo dục…phạm vi giao tiếp sư phạm ngày càng được mở rộng. Qua đó cùng với hoạt động
của mỗi cá nhân người học thì giao tiếp sư phạm giúp con người lĩnh hội được các tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo, năng lực … trên cơ sở phù hợp với các chuẩn mực xã hội để từ đó hình thành nhân cách cho
mình.

g) Phối hợp hoạt động sư phạm

Hoạt động sư phạm (Dạy- Học) diễn ra trên nền quan hệ giao tiếp thầy – trò. Do đó hiệu quả hoạt
động sư phạm phụ thuộc vào hiệu quả giao tiếp thầy – trò. Nhờ có quá trình giao tiếp sư phạm, các
nhà giáo dục có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ nào đó nhằm đạt tới
mục tiêu của nhóm.

Giao tiếp sư phạm làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định, nguyên tắc xác định.
Trong quá trình lĩnh hội khái niệm, nhờ giao tiếp sư phạm mà cơ sở khái quát hoá và trừu tượng hoá
được mở rộng (so với hoạt động cá nhân), thúc đẩy việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ lĩnh
hội.

4.Vai trò của giao tiếp sư phạm

1. Phát triển động cơ học tập đúng ở học sinh

GTSP là một trong những phương pháp hiệu quả để hình thành và phát triển động cơ học tập đúng
cho học sinh.

Những lời khen, động viên, khích lệ, công nhận,… nếu như giáo viên có thể sử dụng chúng đúng
lúc và hợp lý, hoàn toàn có thể là một nguồn động viên vô cùng lớn đến những em học sinh bởi ở
tuổi các em rất muốn nhận được sự công nhận đến từ những người lớn, những người đang dạy bảo
các em. Từ đó, các em sẽ muốn cố gắng nhiều hơn để nhận được những lời khen của giáo viên, một
thời gian nguồn động lực bên ngoài đó dần có thể chuyển thành nguồn động lực bên trong bền bỉ
hơn.

Hơn nữa, với sự quan tâm, nói chuyện, chia sẻ, giải thích hợp lý, giáo viên cũng có thể thay đổi cho
các em những động cơ học tập đúng đắn hơn, từ nguồn động cơ bên ngoài (khen, thưởng,…) sang
nguồn động cơ học tập bên trong (đam mê, hướng nghiệp,…).

2. Phát huy được tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát triển tính sáng tạo

Trong chương trình đổi mới dạy học tiếp cận năng lực, đề cao khả năng tự chủ của học sinh, học
sinh là chủ thể của quá trình lĩnh hội tri thức, nhiệm vụ của giáo viên là phải làm sao học sinh vẫn
tiếp thu đầy đủ những kiến thức cần tiếp thu mà vẫn giữ được sự tích cực, chủ động trong hoạt động
trí tuệ, có tính sáng tạo. Giao tiếp sư phạm đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu này, giáo viên
phải trau dồi cho mình kĩ năng giao tiếp vô cùng tốt.

Với cách giao tiếp sư phạm hợp lý, giáo viên gợi mở vấn đề mà không đưa hẳn kết quả, việc này sẽ
kích thích được sự chủ động của học sinh. Cùng với đó, giáo viên có thể đưa ra những lời khích lệ
đối với học sinh giúp học sinh có động lực tư duy, tìm tòi, sáng tạo hơn.

3. Tạo ra những xúc cảm, tình cảm tích cực ở cả hai phía thầy cô và học sinh

Không chỉ trong môi trường sư phạm, mà trong cuộc sống nói chung, giao tiếp là cách thức nhanh
nhất, ngắn nhất để gắn kết hai con người với nhau.

Giữa thầy cô và học sinh cũng vậy, giáo viên, với khả năng giao tiếp sư phạm tốt, hoàn toàn có thể
xây dựng những cảm xúc tích cực từ học sinh như tin tưởng, yêu quý. Bên cạnh đó, thông qua giao
tiếp, giáo viên có thể hiểu hơn về học sinh của mình từ đó cũng sẽ có sự tin tưởng hơn, thông cảm,
thấu hiểu từ đó có thể chia sẻ và giúp đỡ các em học sinh cả trong vấn đề học tập và trong những
vấn đề cảm xúc, tâm lí của các em.

4. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, xóa đi hàng rào ngăn cách thầy cô và học sinh

Giữa giáo viên và học sinh thường sẽ có những khoảng cách nhất định liên quan đến lứa tuổi, thời
kì, suy nghĩ,… do vậy sẽ tạo ra những ngăn cách nhất định giữa hai bên trong việc tương tác. Nhiệm
vụ của giáo viên là sử dụng khả năng giao tiếp sư phạm để phá bỏ những hàng rào ngăn cách đó
bằng sự chân thành, tin tưởng, tôn trọng,… lẫn nhau. Từ đó chiếm được sự tin tưởng của học sinh,
giáo viên có thể hỗ trợ, giúp đỡ cải thiện các vấn đề trong thái độ học tập của học sinh.

5.Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm


Trình bày theo 3 bước: Là gì (Tại sao) – Biểu hiện – Hiệu quả
* Những nguyên tắc chung trong giao tiếp: đảm báo tính khoa học, tính đạo đức, tính thẩm mỹ và
tính dân tộc.
- Nguyên tắc: là hệ thống những chuẩn mực, quy định có tác dụng chỉ đạo, định hướng suy nghĩ và
hành động của con người.

- Nguyên tắc giao tiếp sư phạm: là hệ thống những quan điểm có tác dụng chỉ đạo, định hướng
thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể giao tiếp, cũng như việc lựa chọn các phương pháp, phương
tiện giao tiếp trong hoạt động sư phạm.

* Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm:


6.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mô phạm trong giao tiếp

- Mô phạm là một cách sống đúng chuẩn theo đạo đức của con người và thường được đưa ra để làm
tấm gương cho mọi người cùng noi theo.

Phải đảm bảo tính mô phạm vì:

- Mọi hành vi, cử chỉ, cách nói năng … của thầy, cô dù có chủ định hay không đều tác động trực
tiếp với các em.

- Học sinh lứa tuổi nhỏ thường bắt chước cả cái hay lẫn cái dở về hành vi, cử chỉ, cách nói năng . . .
của thầy cô.

Biểu hiện:

- Sự mẫu mực trong trang phục, hành vi, cử chỉ, hành vi ngôn ngữ nói .

- Thái độ và những biểu hiện của thái độ phải phù hợp với các chuẩn hành vi.

- Khi nói năng phải chọn từ sao cho có văn hóa; phong cách ngôn ngữ phong phú, phù hợp với tình
huống, nội dung và đối tượng giao tiếp.

VD: Trong một lần, vì quá nóng vội, bạn đã phạt một học sinh vì cho rằng em đó đã vi phạm kỉ luật.
Nhưng rồi sau đó bạn phát hiện ra em đó ko có lỗi. Bạn sẽ xử lý ntn?

Cách xử lí:

- Hãy thẳng thắn và trung thực với các em và với chính bản thân mình.

- Hãy công khai xin lỗi học sinh đó trước lớp. Chờ một dịp thuận lợi, một buổi sinh hoạt lớp với
không khí vui vẻ chẳng hạn, bạn hãy nói với các em học sinh thế này: “Hôm trước, cô đã hơi nóng
vội nên đã phạt oan bạn A. Người lớn cũng có những lúc mắc khuyết điểm. Cô rất xin lỗi bạn A và
cả lớp. Chắc các em cũng là những học sinh rộng lượng đúng không?”

- Hoặc gặp riêng học sinh, bạn sẽ nói chuyện dễ dàng hơn, cô trò cảm thông và hiểu nhau.
6.2. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trong giao tiếp sư phạm

- Coi học sinh là con người với đầy đủ các quyền được học tập, vui chơi, lao động… với những đặc
trưng tâm lý riêng, bình đẳng với mọi người trong các quan hệ xã hội.

- Không áp đặt, ép buộc học sinh tuân theo ý thầy cô một cách máy móc
Biểu hiện:

- Tạo điều kiện để học sinh bộc lộ nét tính cách, nguyện vọng của các em

Ví dụ: Với những học sinh ít nói có tính cách khép mình, có thể gọi phát biểu trong giờ sinh hoạt,
một câu hỏi rộng có thể chia thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn như một sự gợi ý đối với học sinh đó.
Ngoài ra, giáo viên nên giữ nụ cười của mình sao cho thân thiện, biểu hiện mong chờ, điều này góp
phần tạo cảm giác dễ chịu cho học sinh được hỏi.

- Biết lắng nghe ý kiến, tôn trọng ý kiến, điệu bộ… của các em.

- Giọng điệu, cách phát âm, cách dùng từ sao cho bảo đảm tính văn hóa.

Ví dụ: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, không nên có những lời lẽ trách mắng như “sao em
lười học thế”, “Nếu em lười thế này thì sau này làm được cái gì…”,…mà có thể hỏi riêng nhẹ
nhàng như “sao em không làm bài tập về nhà, em có việc bận gì à?”, “Sau nhớ làm bài tập về nhà,
như vậy mới có thể hiểu bài được”,…

- Trang phục lịch sự, gọn gàng, sạch sẽ, đúng kiểu cách.

6.3. Nguyên tắc thiện chí trong giao tiếp sư phạm

- Thiện ý trong giao tiếp sư phạm là ý tốt của thầy cô giáo đối với học sinh, thể hiện ở sự yêu
thương, tin tưởng các em, tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích các em tích cực hoàn thành tốt
nhiệm vụ trong học tập và trong các hoạt động khác ở nhà trường.

Biểu hiện:

- Thầy cô luôn luôn nghĩ tốt về HS;

- Tạo điều kiện thuận lợi nhất, ưu ái nhất để học sinh học tập, lao động tốt, tạo niềm vui cho các em,
không nên có thành kiến

- Giáo viên cần biết thông cảm và hiểu biết học sinh.

- Phải luôn tin tưởng học sinh.

Ví dụ: Trong lớp có một học sinh rất nghịch ngợm hay pha trò trong giờ. Giáo viên trong trường
hợp này, không nên có định kiến xấu với học sinh (bởi từ đó có thể nảy sinh những đánh giá chủ
quan tiêu cực của giáo viên trong quá trình tương tác của giáo viên với học sinh này), luôn phải tin
rằng học sinh luôn có mặt tốt, tìm hiểu nguyên nhân học sinh này nghịch như vậy là do đâu (có thể
muốn thu hút sự chú ý, có thể là do thừa năng lượng, hoặc do học sinh đó không có nhiều cơ hội thể
hiện bản thân với người khác,…), từ đó tìm hướng giải quyết thích hợp vì sự tiến bộ của học sinh
đó.

- Luôn động viên, khích lệ tinh thần của HS

- Trong việc chuẩn bị bài và khi lên lớp;

- Phải công bằng khi cho điểm, nhận xét, đánh giá.
Ví dụ: Sau khi chấm bài kiểm tra, giáo viên nhận thấy có hai bài khá giống nhau, một của học sinh
giỏi, một của học sinh yếu hơn. Lúc đó, giáo viên không nên có đánh giá chủ quan như bạn yếu
chép bài bạn giỏi. Giáo viên có thể gọi riêng hai bạn lên để đối chất về hai bài làm và đưa ra cách
giải quyết công bằng nhất bất kể hai bạn có học lực ra sao. Dù ai chép bài, giáo viên vẫn cần phải
nhắc nhở nhẹ nhàng, trừ nhẹ bài chép. Nếu bài không phải chép mà chỉ tình cờ giống nhau (điều
này rất có thể xảy ra với các môn tự nhiên) nếu bài làm tốt, giáo viên có thể khích lệ sự tiến bộ của
bạn yếu.

- Thiện ý cũng thể hiện trong khi giao việc để giúp học sinh sửa chữa lỗi lầm; để học sinh có điều
kiện phát huy khả năng , sửa chữa lỗi lầm….

- Trong khen chê, trách phạt, phân xử chuyện quan hệ giữa học sinh với nhau

Ví dụ: Trong lớp có sự việc mất đồ, một bạn trong lớp được các bạn nghi ngờ ngay vì từng bị phát
hiện ra lấy đồ. Lúc này, giáo viên không nên hùa theo những học sinh kia mà có động thái kiểm tra
ngay túi bạn đó. Giáo viên có thể làm đúng quy trình, hỏi người bị hại xem để quên ở đâu, yêu cầu
tất cả học sinh kiểm tra cặp của mình, kiểm tra chéo với bạn cùng bàn và tìm xung quanh lớp. Nếu
vẫn không tìm ra thì trước hết cần phải dập tắt ác cảm của các học sinh với bạn học sinh bị nghi
ngờ trước đó rằng (không ai thấy đồ mất trong cặp bạn ý tức là bạn ý không lấy…) sau đó giáo viên
có thể tiếp tục giải quyết với bạn bị mất đồ…
6.4. Nguyên tắc đồng cảm trong giao tiếp

- Thầy cô biết đặt mình vào vị trí của học sinh khi tiếp xúc, giải quyết các tình huống giao tiếp sư
phạm

Nhờ đồng cảm với học sinh mà:

- Giáo viên tạo ra được sự gần gũi, thân mật với học sinh và tạo ra được cảm giác an toàn nơi học
sinh

- Thầy cô có biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả.

- Giáo viên có cơ sở để hình thành hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan dung.

Để có thể đồng cảm với học sinh:

- Nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh.

VD: lứa tuổi THPT và THCS có các đặc điểm tâm lí khác nhau. Trong từng cấp học lại có những
đặc điểm khác nhau ở từng khối học : lớp 8 lớp 9 là độ tuổi các em khao khát được trở nên tự do,
mong muốn trở thành người lớn, có những tình cảm đặc biệt dành cho bạn khác giới,….

- Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và đặc điểm tâm lí riêng của từng học sinh, trên cơ sở phác thảo được
chân dung tâm lí đối tượng giao tiếp.

VD: hoàn cảnh sống cũng ảnh hưởng khá nhiều đến đời sống tâm lí của học sinh. Một học sinh luôn
luôn không chú ý học, phá phách, không hợp tác luôn phạm khuyết điểm có thể là do một tổn
thương đến từ tâm lí. Là người giáo viên, chúng ta cần tìm hiểu để có thể có phương hướng giúp đỡ
học sinh,…

- Đặt mình vào vị trí của học sinh trong những tình huống giao tiếp cụ thể, biết gợi lên những điều
điều học sinh muốn nói nhưng không dám nói và tạo điều kiện để thỏa mãn nguyện vọng chính
đáng của các em.

VD: ở độ tuổi THCS, các em đã bắt đầu dậy thì, bắt đầu đã có những tò mò về cơ thể,… nếu không
hiểu và đồng cảm với các em về các vấn đề tế nhị này, có thể các em sẽ có những hành động không
chuẩn mực. Cần phải tạo điều kiện để học sinh nói lên những thắc mắc và có những phương án xử
lí để đáp ứng nguyện vọng của các em

*Nguyên tắc tạo niềm tin:

6.Phong cách giao tiếp sư phạm


a, Khái niệm:
Phong cách giao tiếp sư phạm là hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng, hành
động tương đối bền vững, ổn định của giáo viên và học sinh trong quá trình tiếp xúc nhằm truyền
đạt, lĩnh hội tri thức khoa học, vốn kinh nghiệm sống, kĩ năng, kĩ xảo học tập, lao động và sinh hoạt,
xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở học sinh.
b, Các loại phong cách giao tiếp sư phạm

* Phong cách giao tiếp dân chủ:

- Bản chất: giữa GV và HS luôn có sự tôn trọng lẫn nhau; các thành viên trong tập thể đều có thể
đưa ra những ý kiến của mình, làm mọi việc đều bàn bạc công khai (lấy ý kiến của tập thể).

- Biểu hiện: Sự lắng nghe nguyện vọng, ý kiến,.. của HS; tôn trọng nhân cách của các em. Những
đề nghị chính đáng đều được thầy cô đáp ứng kịp thời; luôn gần gũi, thân thiện với HS, tạo sự tin
yêu, kính trọng của các em với thầy cô.

- Hiệu quả: Phong cách dân chủ trong GTSP mang lại hiệu quả cao trong hoạt động dạy học và
giáo dục HS; phát huy được tính độc lập, sáng tạo; kích thích hoạt động nhận thức, tìm tòi của HS
giúp HS ý thức được trách nhiệm và bổn phận của mình, tạo điều kiện để nhân cách của các em
ngày càng phát triển.

- Hạn chế: trong những tình huống GT cần phải có những quyết định ngay, cần sự dứt khoát thì
người GV có phong cách này sẽ làm cho quyết định chậm trễ, không tận dụng được thời cơ.

=> Phong cách dân chủ trong GTSP không có nghĩa là “nuông chiều, thả mặc” HS, cũng không có
nghĩa là “đề cao tính cá nhân” ; đồng thời dân chủ cũng không phải là xóa đi ranh giới giữa thầy và
trò -> mà chính là sự “tôn sư trọng đạo” của HS.

* Phong cách giao tiếp độc đoán:

- Bản chất: “độc đoán”- áp đặt, mệnh lệnh, không tính đến những đòi hỏi, nguyện vọng của người
khác. Bản chất của phong cách này là một bên này áp đặt ý kiến của bên kia.
- Đặc trưng: GV thường không để tâm đến những nguyện vọng, yêu cầu của HS; thường đưa ra
nguyên tắc cứng nhắc, không nhân nhượng, linh hoạt; hay xem nhẹ đặc điểm cá nhân, cá tính, nhu
cầu,… của đối tượng GT.

- Biểu hiện: giữ khoảng cách với HS; không để tâm đến những yêu cầu, nguyện vọng của HS;
nguyên tắc làm việc cứng nhắc, không nhân nhượng, linh hoạt, duy ý chí,…

- Hiệu quả/ Tác dụng: PCGT độc đoán có ý nghĩa nhất định trong tình huống cần truyền đạt thông
tin cấp bách, cần sự thống nhất hành động mà thời gian gấp rút, không cho phép bàn bạc. Đồng thời,
cũng có tác dụng nhất định đối với đối tượng GT thường muốn công việc được giải quyết dứt điểm,
nhanh chóng, thấy ngay kết quả.

Tuy nhiên, phong cách này chỉ phát huy tác dụng khi chủ thể GT là người tài giỏi, công minh, chính
trực, công bằng, bác ái,..

- Hạn chế: Những biểu hiện của người GV sử dụng phong cách này khiến HS thụ động, lệ thuộc,
thiếu tích cực, tạo sự “chống đối ngầm”; kiềm chế sự sáng tạo và khả năng suy nghĩ của HS; đồng
thời giảm những tác động giáo dục của GV đối với HS.

* Phong cách tự do:

- Bản chất: trong những hoàn cảnh GT thay đổi, thái độ, hành vi, ứng sử của người GV đối với HS
cũng dễ thay đổi (thường hay thay đổi đối tượng, mục đích, nội dung GT).

- Ưu điểm: làm cho con người thoải mái, không bị bó buộc vào các quy tắc GT, mọi người được tự
do trong tư tưởng, cách thể hiện ý tưởng của mình, rất linh hoạt trong quá trình GT. Phát huy được
tính tích cực, ý thức tự giác của HS; kích thích các em tư duy độc lập, sáng tạo,..

- Hạn chế: mục đích không rõ ràng, ND không phân định, phạm vi GT rộng nhưng mức độ nông
cạn, hời hợt, ấn tượng không sâu sắc --> Do đó: trong quan hệ thầy trò dễ sinh ra quá trớn, xã giao,
đơn điệu, nhàm chán. Người GV có phong cách này cũng hay dễ dãi quá mức, đôi khi không làm
chủ được cảm xúc của mình.

Chỉ sử dụng PCGT tự do trong GTSP ở những tập thể HS có trình độ nhận thức và ý thức tự giác
cao.

Tóm lại: Ba loại phong cách giao tiếp trên đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Tùy
thuộc vào từng loại công việc, mục đích giao tiếp, tính cấp thiết của nội dung giao tiếp và phương
tiện giao tiếp mà người giáo viên lựa chọn phong cách giao tiếp phù hợp để đạt được hiệu quả cao
nhất trong giao tiếp sư phạm.

c. Những đặc điểm trong phong cách giao tiếp sư phạm mà người giáo viên nên có

- Mẫu mực mà không cứng nhấc;

- Ung dung, đĩnh đạc mà không quá nghiêm trang

- Tự tin mà không tự cao, tự đại


- Tự nhiên mà không suồng sã

- Giản dị mà không luộm thuộm

- Lịch sự mà không cầu kì

- Tế nhị mà không xã giao, khách sáo.

7. Phương tiện giao tiếp sư phạm (PT ngôn ngữ và PT phi ngôn ngữ)
- Phương tiện giao tiếp sư phạm là những yếu tố trung gian (ngôn ngữ và phi ngôn ngữ) giúp giáo
viên, học sinh, các lực lượng giáo dục tiếp xúc, trao đổi thông tin, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng
tác động qua lại với nhau trong quá trình giao tiếp
- Các phương tiện giao tiếp sư phạm
a, Phương tiện ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu, tín hiệu đặc biệt của lời người, được dùng làm phương tiện giao
tiếp và làm công cụ tư duy. Ngôn ngữ có ba chức năng gồm: chức năng chủ nghĩa, chức năng khái
quát hóa và chức năng thông báo. Ngôn ngữ có hai mặt gồm: Mặt biểu đạt là quá trình chuyển từ ý
đến lời hay quá trình mã hóa, mặt hiểu biểu đạt là quá trình chuyển từ lời đến ý, hay còn gọi là quá
trình giải mã. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản nhất của con người, bao gồm: ngôn ngữ bên
trong và ngôn ngữ bên ngoài như lời nói chữ viết.
- Phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp sư phạm là lời nói và chữ viết giúp giáo viên, học sinh, các
lực lượng giáo dục tiếp xúc trao đổi thông tin nhận thức hợp nhau tác động qua lại với nhau trong
quá trình giao tiếp.
* Ngôn ngữ nói

Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ hướng vào người khác để thực hiện một mục đích cụ thể (ví dụ truyền
đạt và tiếp nhận thông tin), được biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích
thính giác. Ngôn ngữ nói là hình thức ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người; Gồm 2 loại: ngôn ngữ
đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Trong đó: ngôn ngữ đối thoại là ngôn ngữ diễn ra giữa hai hay một
số người, người nói và người nghe luôn được nghe và nhìn thấy nhau nên có thể trực tiếp quan sát
phản ứng của nhau, từ đó điều chỉnh lời nói của mình.

Ngôn ngữ độc thoại là ngôn ngữ mà trong đó một người nói và những người khác nghe, đó là dạng
ngôn ngữ liên tục không có sự trao đổi qua lại.

Yêu cầu đối với việc sử dụng ngôn ngữ nói:


- Nói rõ ràng, mạch lạc để các nội dung biểu đạt được đối tượng tiếp nhạn chính xác đầy đủ.
- Nhịp độ nói vừa phải hợp lí để các nội dung biểu đạt không bị người nghe bỏ sót vì tiếp nhận
không kịp.
- Ngữ điệu lời nói phải phù hợp để cuốn hút sự chú ý của người nghe.
- Bố cục nội dung nói phải chặt chẽ, logic, hệ thống.
- Thể hiện thái độ trân trọng người nghe; khi nói phải suy nghĩ cẩn thận, phải lịch sự, không nên nói
dối, nói quá,…
- Cần có sự hỗ trợ linh hoạt của phương tiện phi ngôn ngữ để làm rõ nghĩa và hỗ trợ ý trong quá
trình biểu đạt.

* Ngôn ngữ viết:

- Là ngôn ngữ hướng vào người khác để thức hiện 1 mục đích cụ thể (VD: truyền đạt và tiếp nhận
thông tin), được biểu hiện bằng các kí hiệu chữ viết và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích thị
giác.

- Phân loại: 2 loại: ngôn ngữ viết đối thoại (một cách gián tiếp) qua thư từ, điện tín; ngôn ngữ viết
độc thoại (sách, báo, tạp chí,..). Trong quá trình dạy học, có 2 dạng ngôn ngữ viết: ngôn ngữ viết
trên bảng/slide và ngôn ngữ viết vào bài vở kiểm tra của HS.

Yêu cầu đối với việc sử dụng ngôn ngữ viết:


- Chữ viết cần dễ đọc, đúng chính tả, ngữ pháp văn bản.
- Diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, mạch lạc, dễ hiểu, rõ ý.
- Trình bày phải đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm và tính nghệ thuật.
b, Phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp sư phạm

- Phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp là những hành vi, cử chỉ, điệu bộ, động tác, nét mặt,
giọng nói, trang phục,…giúp GV, HS, các lực lượng GD tiếp xúc với nhau để trao đổi thông tin,
nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau trong quá trình GT.

* Đặc điểm:
- Luôn tồn tại, không phụ thuộc hoàn toàn vào ngôn ngữ: khi đứng trước người khác dù ta nói hay
không thì các yếu tố phi ngôn ngữ vẫn luôn hiện diện và được người khác tiếp nhận (nét mặt, dáng
đứng, trang phục)
- Có giá trị thông tin và cảm xúc cao: hai người tuy khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ nhưng khi giao
tiếp, họ vẫn có thể hiểu nhau qua hành vi, cử chỉ. Ngoài ra có rất nhiều điều, đặc biệt các thông điệp
mang tính cảm xúc cao, không dễ dàng diễn đạt bằng lời thì các PTPNN lại giúp chuyển tải rất hữu
hiệu. (chẳng hạn khi muốn 1 người lại gần ta có thể vẫy tay mà không nhất thiết phải nói)
- Mang tính quan hệ: hành vi, cử chỉ của đôi bên khi giao tiếp thường thể hiện tính chất MQH (còn
mới hay đã quen từ lâu, gần gũi thân thiện hay cách xa,...) giữa những người đang GT với nhau.
- Thông điệp có thể mang tính đa nghĩa: cùng một cử chỉ, điệu bộ nhưng được các chủ thể hiểu theo
nhiều ý nghĩa khác nhau --> điều này có thể gây nên sự lầm tưởng, hiểu lầm trong GT .
- Mang tính xã hội, lịch sử, văn hóa: các PTPNN chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố văn hóa, xã hội,
lịch sử. Một số hành vi, cử chỉ phù hợp với địa phương này nhưng lại không phù hợp với địa
phương khác, phù hợp trong giai đoạn lịch sử này nhưng chưa phù hợp trong giai đoạn lịch sử khác.

- Các loại phương tiện phi ngôn ngữ: chia làm 4 nhóm: các đặc tính ngôn thanh, ngôn ngữ cơ thể,
ngôn ngữ vật thể, ngôn ngữ môi trường. Các phương tiện phi ngôn ngữ trong GTSP: nét mặt, cử chỉ,
động tác, điệu bộ, giọng nói, trang phục,.
+ Nét mặt: được tạo bởi nhiều giác quan ( mắt, mũi, môi miệng...)

+ Cử chỉ động tác điệu bộ : Thường thống nhất với các biểu hiện của nét mặt và ánh mắt

+ Giọng nói : tuy gắn liền với lời nói nhưng không được xếp vè phương tiện ngôn ngữ mà xếp vào
phương tiện phi ngôn ngữ

+ Trang phục : góp phần thể hiện tính cách, vị thế của một người cũng là một phương tiện giao tiếp
phi ngôn ngữ quan trọng

8.Kỹ năng giao tiếp sư phạm (KN lắng nghe, KN thuyết phục, KN quản lý cảm xúc, KN giải
quyết tình huống sư phạm)

Kỹ năng giao tiếp sư phạm : là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của người GV để nhận
thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của HS và bản
thân, đồng thời sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ,biết cách tổ chức, điều
khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục.

a, Kỹ năng lắng nghe

- KN: Là khả năng vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của giáo viên vào việc quan sát và tập trung
chú ý lắng nghe học sinh nói để hiểu nội dung ngôn ngữ nói và những suy nghĩ của các em. Đồng
thời giúp các em nhận biết được rằng họ đang được quan tâm và chia sẻ.

- Kĩ năng lắng nghe có ý nghĩa rất quan trọng trong giao tiếp nói chung và giao tiếp sư phạm nói
riêng. Bởi vì nhờ có kĩ năng lắng nghe mà cả sinh viên và học sinh tiếp nhận được nội dung giao
tiếp và hiểu thông tin một cách chính xác để tương tác với nhau có hiệu quả nhằm đạt được mục
đích giao tiếp.

+ Giáo viên có thể nâng cao được khả năng nắm bắt thông tin, đánh giá và giải quyết các tình huống
giao tiếp sư phạm một cách đầy đủ, chính xác hơn. Từ đó tạo dựng được niềm tin và xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học sinh, giữ giáo viên với phụ huynh… trên cơ sở hiểu, cảm
thông và chia sẻ.

+ Nhờ có kĩ năng lắng nghe mà giáo viên thể hiện được sự tôn trọng đối với học sinh, phụ huynh…
và tôn trọng chính mình.

- Ngược lại, nếu cả giáo viên và học sinh… đều không biết lắng nghe thì mối quan hệ giữa họ sẽ dễ
bị đổ vỡ, cả hai bên sẽ không hiểu biết nhau, đương nhiêu giao tiếp với nhau sẽ không thành công.

Người giáo viên có kĩ năng lắng nghe thường có những biểu hiện sau:

+ Nhìn vào mặt người nói.

+ Im lặng nhiều hơn nói, không ngắt lời người khác (học sinh, phụ huynh…) khi họ đang nói, không
nói chen ngang lời nói của họ.

+ Không làm việc khác trong khi đang nghe.


+ Tập trung chú ý để quan sát hành vi, cử chỉ… của học sinh…

+ Có cử chỉ “gật đầu” hoặc bật thành tiếng “đúng rồi”, “vâng”…, “cái đầu ngẫm nghĩ”, hoặc thốt
lên “có thế chứ”, hoặc khen ngợi…

+ Biết lắng nghe còn thể hiện ở sự phân biệt nhanh, đúng những thay đổi của âm tiết, ngữ điệu, nhịp
điệu ở lời nói, cách dùng từ lặp đi lặp lại, dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa.

+ Nở nụ cười lúc cần thiết, nét mặt lúc rạng rỡ, lúc lạnh lùng hoà theo dòng biểu cảm của đối tượng
giao tiếp. Có lúc thể hiện thái độ nghi ngờ hoặc phản bác.

b, Kỹ năng thuyết phục

* KN kỹ năng thuyết phục:

- Hiểu một cách đơn giản nhất là: việc làm cho người khác thay đổi hành vi và hành động theo
hướng mình mong muốn, để đạt được mục tiêu của mình.

- Hiểu theo nghĩa rộng: thuyết phục là việc bạn gây được ảnh hưởng tích cực tới người khác và thu
hút, kêu gọi sự hợp tác của họ để thực hiện các mục tiêu của bạn thay vì bạn phải tự thực hiện.

- Các bước thuyết phục:

+ Tạo không khí tôn trọng, thể hiện thiện chí

+ Lắng nghe quan điểm của HS

+ Thừa nhận, khen ngợi điểm phù hợp

+ Chỉ ra điểm chưa phù hợp, sử dụng lời lẽ ngắn gọn, rõ ràng, minh chứng cụ thể

+ Tổng kết, khắc sâu thông điệp

Khi thuyết phục:

1. Thuyết phục dựa vào cảm xúc

Người ta thường cảnh giác với những người đang cố thay đổi suy nghĩ và quyết định của họ. Hãy
cho họ thấy rằng tại sao họ nên lắng nghe bạn. Bạn phải biết rằng bạn đang nói cái gì và chứng
minh rằng những điều bạn nghĩ là đúng. Họ cũng cần được “vuốt ve” bằng các câu từ trau chuốt,
không làm phật ý họ, đưa ra những lời khích lệ, động viên, tán dương họ.

2. Thuyết phục theo đám đông

Con người bây giờ rất sợ bị cô đơn, bị cô lập, bị lẻ loi, bị tách biệt với mọi người nên đám đông sẽ
khiến họ có cảm giác an toàn, tự tin hơn rất nhiều.

3. Nhượng bộ khi cần thiết

Người ta nói “lùi một bước để tiến ba bước”. Khi giao tiếp bạn nên biết điểm dừng để tránh xung
đột. Khi thuyết phục cũng vậy, bạn cần biết lúc nào nên nhượng bộ để đạt được cái mong muốn tối
thiểu của mình mà không làm mất lòng người giao tiếp. Có câu “già néo đứt dây”, người khôn
ngoan là người biết điểm dừng.

4. Luôn luôn lắng nghe, sẵn sàng thấu hiểu

Đây là kỹ năng cơ bản của cuộc nói chuyện. Bạn cần lắng nghe xem người đối diện, người cần
thuyết phục cần cái gì, mong muốn cái gì và chưa hài lòng về cái gì để có kế hoạch thuyết phục lại,
đàm phán thêm, hay chỉnh sửa, xử lý, đưa ra giải pháp kịp thời.

5. Đặt câu hỏi thông minh

Trong rất nhiều trường hợp, giao tiếp thuyết phục không thành công, nhưng chỉ với một câu hỏi bạn
có thể đổi ngược tình thế. Các câu hỏi thông minh thường là những câu hỏi mở, các câu hỏi lấp lửng
nhằm tạo một lối thoát cho vấn đề bế tắc, hay là khai thông ra một lối mở khác để giải quyết vấn đề
cần thuyết phục.

Đây thực sự là một kỹ năng khôn khéo trong khi thuyết phục.

Tóm lại để Thuyết phục: dùng lí lẽ, lập luận logic, dùng hành động, dùng tình cảm, dùng kinh tế.

* Nguyên tắc TP:

- Tôn trọng

- Lợi ích

- Khan hiếm - Đám đông

- Đốt lửa - Tạm thời

* Yếu tố để TP hiệu quả:

- Lí lẽ, lập luận logic, chặt chẽ, có minh chứng

- Thời điểm hợp lí

- Uy tín, phẩm chất và thái độ người TP

- Cách thức

* VS GV phải biết TP HS/ GTSP: GV thuyết phục HS để các em có thể thay đổi bản thân, từ những
nhận thức, thái độ, hành vi chưa đúng thành các nhận thức, thái độ, hành vi theo hướng tích cực và
tiến bộ. Góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách.

c, Kỹ năng kiểm soát cảm xúc

- Là khả năng làm chủ cảm xúc của mình, biết điều khiển, điều chỉnh các cảm xúc của bản thân cho
phù hợp với đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp.

- Các bước quản lý cảm xúc:


+ Gọi tên cảm xúc và chỉ ra nguyên nhân của cảm xúc

+ Bình tĩnh (thư giãn/ thời gian tạm lắng)

+ Điều chỉnh nhận thức/ thay đổi hoạt động

* Kĩ năng này rất quan trọng đối với giáo viên bởi vì:

- Giúp cho giáo viên kiểm soát được hành động, hành vi, lời nói… của mình, tránh nói hoặc làm
những việc gây tổn thương cho học sinh, phụ huynh… và cho chính mình.

- Là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành, duy trì hay ngắt quãng mối
quan hệ giữa giáo viên với học sinh, phụ huynh…

- Giúp giáo viên không bị lôi cuốn một cách thụ động theo tình huống giao tiếp, có khả năng xử lý
các tình huống giao tiếp sư phạm bất ngờ xảy ra một cách điềm tĩnh, thuyết phục, có ý nghĩa giáo
dục.

- Cải thiện được sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho giáo viên, khi họ buộc phải đối mặt với
nhiều áp lực của cuộc sống, của việc dạy học và giáo dục học sinh.

Người giáo viên có kĩ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân tốt là người:

- Biết tự kiềm chế, che dấu được tâm trạng khi cần thiết.

- Có khả năng theo dõi được các biểu hiện và các mức độ cảm xúc của mình trong quá trình giao
tiếp sư phạm.

- Bộc lộ cảm xúc của bản thân với học sinh, phụ huynh… bằng lời nói, hành vi, cử chỉ… phù hợp.

- Chế ngự và điều chỉnh các cảm xúc của bản thân một cách phù hợp.

- Người giáo viên có kĩ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân là người luôn chủ động trong quá
trình giao tiếp sư phạm, không có hiện tượng “vui, buồn quá trớn”.

d, Kỹ năng giải quyết tình huống sư phạm

- Các bước giải quyết tình huống sư phạm:

Kết hợp tất cả các kỹ năng đã học:

+ Lắng nghe

+ Quản lý cảm xúc

+ Phản hồi

+ Thuyết phục

+ Kỷ luật tích cực


Các bước để xử lý tình huống sư phạm:

- Nhận diện vấn đề cần giải quyết

- Thu thập thông tin để tìm hiểu nguyên nhân

- Xác định phương án giải quyết: tình thế/lâu dài?

- Thực hiện giải quyết vấn đề

- Đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm

9.Thực hành giải quyết tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với học sinh
Bước 1:Nhận diện tình huống SP:nhận diện được vấn đề cơ bản cần được giải quyết trong TH là gì?
Bước 2: Thu thập thông tin và phân tích TH
Bước 3: Xác định các phương án giải quyết tình huống (Giải pháp tính thể; giải pháp lâu dài, bền
vững)
Bước 4: Thực hiện giải quyết THSP
Bước 5: Đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm.

10.Thực hành giải quyết tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với cha mẹ học sinh
Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết
Bước 2: Xác định mục đích
Bước 3: Thực hiện việc trao đổi tình huống giao tiếp
Bước 4: Chia ra 2 trường hợp: Thuyết phục được phụ huynh và không thuyết phục được phụ huynh.

You might also like