You are on page 1of 28

ĐỀ CƯƠNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM

A. LÝ THUYẾT
1) KHÁI NIỆM GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Giao tiếp
Trong Tâm lí học, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hộ người -
người, hiện thực hoá quan hệ xã hội giữa người với nhau. Nói cách khác, giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí
giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẩn
nhau, ảnh hướng tác động qua lại với nhau.
VD:
+ Khi tổ chức trò chơi cho trẻ, bằng giao tiếp, cô giáo và trẻ cũng như giữa các trẻ với nhau
thống nhất về luật chơi, cách chơi.
+ Giao tiếp giữa các quốc gia , các cộng đồng trên thế giới để cùng hành động bảo vệ môi
trường.
b. Giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính nghề nghiệp giữa giáo viên và học sinh trong quá trình
giáo dục, có chức năng sư phạm nhất định, tạo ra các tiếp xúc tâm lí, xây dựng bầu không khí tâm lí
thuận lợi cùng với các quá trình târn lí khác (chú ý, tư duy...) tạo ra kết quả tối ưu của quan hệ thầy trò
trong hoạt động dạy và hoạt động học cũng như trong nội bộ tập thể học sinh.
VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh trong lớp nghe giảng.
+ Giáo viên trao đổi về kiến thức với các đồng nghiệp.
2) PHÂN LOẠI GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Căn cứ vào phưong tiện giao tiếp, có hai loại giao tiếp sau:
Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con
người bằng cách sử dụng những tín hiệu chung là từ, ngữ. Từ, ngữ là những tín hiệu quy ước của con
người dùng để chí chính bản thân sự vật. hiện tượng, lúc là làm vật thay thế cho chúng, và do dó khác
hản với tiếng kêu của con vật. Thông qua giao tiếp bàng ngôn ngừ, con người mới có thể lưu giữ,
truyền đạt, lĩnh hội và phát triển kinh nghiệm xã hội - lịch sứ.
VD:
+ Giao tiếp giữa thầy, cô giáo với học sinh khi thầy cô giáo đặt câu hỏi và học sinh trả lời; khi
thầy cô giảng bài và học sinh nghe giảng;...
+ Giáo viên trao đổi với phụ huynh học sinh về tình hình học tập của con cái qua thư điện tử,
email,...
Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ: là giao tiếp bàng các tín hiệu không phải là ngôn ngữ mà
bắng sự chuyển động của thân thể, của cơ mặt, trang phục, điệu bộ, giọng nói, bài trí không gian, âm
nhạc, màu sắc, vật thể, khoảng cách... Sự kết họp giữa các tín hiệu phi ngôn ngữ khác nhau có thể thể
hiện các sắc thái tâm li khác nhau của con người.
VD:
+ “Lắc đầu” đi cùng với "nét mặt hầm hầm” thì có nghĩa là tức giận...
Người ta cũng thông qua hành động với vật thể hoặc các giá trị vật chất mà tiếp xúc tàm lí với
nhau.
VD:
+ Cô giáo gõ mạnh thước lên mặt bàn là có dụng ý nhác học sinh trật tự.
+ Trao nhẫn cưới để cầu hôn...
b. Căn cứ vào khoảng cách giao tiếp, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:
Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu của nhau,
ví dụ: cô giáo giao tiếp trong lóp với học sinh. Trong quá trình giao tiếp trực tiếp, ngoài việc sử dụng
ngôn ngữ, con người còn sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ để phụ hoạ và có thể biết ngay kết quả
cuộc giao tiếp.
Giao tiếp gián tiếp: giao tiếp thông qua nhân vật trung gian, phương tiện kĩ thuật (thư từ, điện
tín...) hoặc có khi qua ngoại cảm, thần giao cách cảm...
VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh ở trên lớp là giao tiếp trực tiếp, giảng bài qua các phần
mềm dạy học trực tuyến là giao tiếp gián tiếp.
+ Sinh viên và giảng viên trao đổi bài tập qua thư điện tử là giao tiếp gián tiếp.
c. Căn cứ vào quy cách giao tiếp, người ta thường chia làm hai loại:
Giao tiếp chính thức: giao tiếp diễn ra theo quy định, thể chế, chức trách. Những người tham gia
giao tiếp phải tuân thủ một số yêu cầu xác định.
VD:
+ Giao tiếp giữa giáo viên và học sinh.
+ Giao tiếp giữa các nguyên thủ quốc gia...
Giao tiếp không chinh thức: giao tiếp không bị ràng buộc bởi các nghi thức, mà dựa vào tírứi tự
nguyện, tự giác, phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú, cảm xúc... của những người tham gia giao tiếp.
VD:
+ Giao tiếp nhóm bạn bè; giao tiếp giữa các cá nhân trên một chuyến xe, cùng xem bóng đá...
=> Các loại giao tiếp nói trên liên quan chặt chê với nhau, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho
mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng phong phú, đa dạng.
3) ĐẶC TRƯNG CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Giao tiếp sư phạm mang tính chuẩn mực (mẫu mực).
Tính chuẩn mực là một tất yếu trong giao tiếp sư phạm. Khi giảng bài, khi đánh giá học sinh và
khi gặp gỡ trò chuyện với học sinh, thầy luôn phải có sự mẫu mực, thống nhất giữa lời nói với việc
làm... phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
VD: Chuẩn mực, tác phong của nhà giáo luôn là một yếu tố được quan tâm và đặt lên hàng đầu,
nhà nước cũng đã quy định rất rõ tại Điều 5 Quy định về đạo đức nhà giáo ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT thì Tiêu chuẩn lối sống, tác phong của nhà giáo. Trong mỗi
trường sư phạm, tác phong của người giáo viên không chỉ là bộ mặt của nền giáo dục, mà còn
ảnh hưởng trực tiếp tới học sinh, tác động tới hành vi và nhân cách của học sinh.
b. Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên chú yếu tác động đến học sinh bằng tình cảm.
+ Giáo viên tác động bằng tình cảm của mình.
+ Giáo viên tác động tới mặt tình cảm của học sinh.
Các loại giao tiếp khác đòi hỏi cả lí và tình hoặc thiên về lí, thậm chí chi có lí (nguyên tắc).
VD: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, người giáo viên không nên trách cứ, mắng, hay có
những hành động tiêu cực trực tiếp. Thay vào đó, người giáo viên nên tìm hiểu kĩ nguyên nhân,
lí do khiến học sinh không làm bài tập, đồng thời ôn tồn trò chuyện để từ đó, đưa ra lời khuyên
để học sinh khắc phục lỗi sai của mình.
c. Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên tác động đến học sinh bằng nhân cách của mình.
+ Giáo viên dùng nhân cách của mình làm công cụ tác động. Hiệu quả tác động bằng lời nói hay
hành động tới học sinh do nhân cách của giáo viên quy định.
+ Giáo viên không thể giáo dục một phẩm chất nào đó cho học sinh mà bản thân họ chưa có.
VD: Khi đi học, chúng ta thường có thói quen trình bày bài giống những gì thầy, cô giáo làm.
Không chỉ dừng lại ở bài tập, tác phong và cử chỉ của người giáo viên còn ảnh hưởng trực tiếp
tới thói quen, cảm xúc của học sinh. Một người thầy có thói quen dừng lại giữa bục giảng chào
học sinh khi vào lớp, hành động này khiến học sinh hình thành thói quen đứng dậy nghiêm
chỉnh chào thầy giáo. Dần dần, điều này trở thành một phản xạ, mỗi khi đến môn học của thầy
học sinh đều chủ động đứng dậy trước để chào, thể hiện sự tôn trọng của bản thân.
d. Giao tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội. (Được xã hội thừa nhận và tôn trọng)
+ Giao tiếp sư phạm diễn ra trong môi trường sư phạm - an toàn, lành mạnh.
+ Nhà nước và xã hội đều tôn trọng người thầy giáo.
VD: Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt
động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”. Từ nhận định trên, có thể thấy rõ giao tiếp sư
phạm là giao tiếp xã hội.
4) CHỨC NĂNG CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Trao đổi thông tin.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm trước hết là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các giá trị... mà
thầy giáo truyền đạt đến học sinh. Đó là nội dung bài học, môn học, cách học..., hay nói rộng hơn, đó là
kinh nghiệm xã hội lịch sử mà mỗi người đến trường cần được lĩnh hội để sống bình thường trong xã
hội. Để lĩnh hội được, học sinh phải thông qua giao tiếp với thầy giáo, với bạn bè... Quá trình đó xét về
chức năng của nó là quá trình giáo dục. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, học sinh tiếp thu được tri thức
của nhân loại để hình thành, phát triển trí tuệ, nhân cách và trên cơ sở tri thức đó mà phát triển nền vãn
hoá xã hội.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm còn là những cảm xúc, là thế giới tâm hồn của những người
tham gia giao tiếp. Mỗi con người là một thế giới tâm hồn chứa đựng cảm xúc.
VD: Trong một tiết học, thầy giáo kể một câu chuyện của bản thân về lần đầu được điểm kém
do không ôn bài. Không chỉ nằm ở việc giúp học sinh biết về một kỉ niệm trong quá khứ của
mình, thầy giáo còn giúp học sinh nhận ra được sai lầm trong cách ôn thi, từ đó rút ra kinh
nghiệm và học tập cẩn thận. Việc trao đổi thông tin trong giao tiếp sư phạm diễn ra từ cả hai
phía, giữa thầy và trò, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục.
b. Tri giác lẫn nhau.
Giao tiếp sư phạm luôn diễn ra sự nhận thức và hiểu biết nhau giữa giáo viên và học sinh. Đặc
tính quan trọng của tri giác lẫn nhau không chỉ là nhận thức về đối tượng giao tiếp mà còn nhận thức
được chính bản thân trong mối quan hệ đó. Tri giác lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình giao tiếp, giúp
mỗi người thu thập thông tin cả cảm tính (tư thế, tác phong, ánh mắt, nụ cười, trang phục...) lẫn lí tính
(phẩm chất, tính cách, tình cảm...) của đối tượng giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp sư phạm, giáo viên
và học sinh hiểu biết lẫn nhau bằng cách cùng chia sẻ cảm xúc, bằng con đường đồng nhất hoá bản
thân mình với người kia và bằng biện pháp suy nghĩ về người kia. Nhờ tri giác lẫn nhau mà giáo viên
hiểu rõ học sinh của mình hơn, chất lượng quan hệ cũng như hiệu quả của tác động giáo dục nâng cao
hơn. Tri giác lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm là một hình thức tri giác liên nhân cách.
VD: Khi người giáo viên đặt ra một câu hỏi khiến học sinh lộ ra vẻ lúng túng. Lúc này, người
giáo viên không nên gặng hỏi, mà chủ động gợi ý, đặt ra những câu hỏi phụ đơn giản hơn, để
học sinh có thể tự tin và tìm ra câu trả lời chính xác. Từ đó, tạo ra cảm giác tự tin cho người
học, cũng như không khí thoải mái cho giờ học. Việc quan sát thái độ của người học, cũng như
người dạy, có lợi ích rất lớn nhằm nâng cao chất lượng của giờ học, đem lại cảm giác thoải
mái, hứng khởi.
c. Đánh giá lẫn nhau.
Cùng với sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp, con người luôn có sự đánh
giá lẫn nhau trên cơ sở định hướng giá trị của mình. Kết quả của nó ảnh hướng quyết định tới tiến trình
cũng như hiệu quả của quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, từ chỗ hiểu nhầm dẫn đến đánh giá sai về học
sinh, giáo viên có thể căng thẳng trong cư xử với các em, và tất nhiên, giáo viên sẽ hứng chịu phản ứng
có thể là trực tiếp hoặc ngấm ngầm không lấy gì là tốt đẹp từ phía học sinh, thậm chí có thể phá vỡ
quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học sinh.
VD: Khi gặp phải một bài làm điểm kém của một học sinh, người giáo viên không nên lập tức
trách móc hay có những hành động tiêu cực. Thay vào đó, người giáo viên cần tìm hiểu kĩ lực
học của học sinh này, từ đó đưa ra những phương án giảng dạy phù hợp, đem lại sự thoải mái
cũng như động lực cho học sinh phấn đấu.
d. Ảnh hưởng lẫn nhau.
Mỗi người tham gia giao tiếp quan hệ với người cùng giao tiếp với mình như là chủ thể có tâm
lí, ý thức. Nếu trong hoạt động thực tiễn có đối tượng, kết quả là vật chất (đối tượng được cải tạo), thì
trong giao tiếp kết quả trước hết liên quan đến những thay đổi này hay khác trong ý thức, hành vi và
phẩm chất của những người giao tiếp. Mỗi thành viên tham gia giao tiếp có thể có kế hoạch nào đó,
nhưng trong quá trình giao tiếp trên thực tế có thể diễn ra khác với dự kiến của kế hoạch cá nhân.
Trong quá trình giao tiếp, các kế hoạch cá nhân được biến đổi và có thể tạo ra một kế hoạch chung nào
đó năng động hơn, hoặc ngược lại, bất đồng hơn. Như vậy, giao tiếp dẫn đến sự thay đổi không chỉ là
tư tưởng mà còn thay đổi cả chức năng tâm lí, trạng thái, thuộc tính tâm lí của những người giao tiếp.
Trong giao tiếp sư phạm, với chức năng xã hội là người hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển hoạt động nhận
thức cũng như quá trình hình thành nhân cách của học sinh, giáo viên có ảnh hường vô cùng lớn tới học
sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi. Tuy nhiên trong quá trình này, giáo viên củng chịu ảnh hưởng không
nhỏ từ phía học sinh (liên hệ ngược). Một khía cạnh đặc biệt lưu ý là, giữa học sinh với học sinh cũng
có ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn trong quá trình các em giao tiếp với nhau (học thầy không tày học bạn).
VD: Khi giảng bài, tâm lí cũng như cảm xúc, thái độ của người giáo viên có những ảnh hưởng
nhất định tới học sinh. Người giáo viên có cảm xúc vui vẻ, hào hứng sẽ đem lại một bầu không
khí sôi nổi và thoải mái cho lớp học. Người giáo viên có cảm xúc không tốt, cáu giận sẽ tạo cho
lớp học không khí căng thẳng, nặng nề. Ngoài ra, trạng thái và kết quả của lớp học cũng ảnh
hưởng tới tâm lý của người giáo viên. Chính vì vậy, giáo viên và học sinh ảnh hưởng tới nhau
trong quá trình giao tiếp sư phạm.
e. Điều khiển hoạt động nhóm.
Giao tiếp luôn mang ý nghĩa xã hội, đó là giao tiếp đảm bảo tổ chức mọi người tiến hành hoạt
động chung, đảm bảo cho sự liên hệ qua lại của họ. Đặc điểm cơ bản của chức năng này thể hiện ở chỗ
chính quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, tư tưởng, biểu tượng... Sự thống nhất các ý đồ,
tư tưởng... sẽ điều khiển hoạt động chung của nhóm, cộng đồng. Trong giao tiếp sư phạm, sự thống
nhất các ý đồ, tư tưởng... giữa giáo viên và học sinh là điều kiện lí tưởng đảm bảo hiệu quả cao trong
dạy học và giáo dục, và điều này phụ thuộc phần lớn vào nâng lực giao tiếp của người giáo viên. Thông
qua giao tiếp, giáo viên tổ chức các mối quan hệ, các tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học
sinh với nhau nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh - đó là khía cạnh bản chất của phương
pháp dạy học tích cực. Trong hoạt động chung này, giao tiếp thực hiện chức năng điều chỉnh từng
thành viên tham gia. Nhiệm vụ của người thầy giáo trong trường hợp này là tổ chức quá trình giao tiếp
của học sinh bằng chính giao tiếp của mình.
VD: Người giáo viên giống như một nghệ sĩ trên sân khấu, một người diễn viên tài năng sẽ biết
cách lôi cuốn khán giả về phía mình. Một giáo viên hiệu quả sẽ biết thu hút sự tham gia của học
sinh. Để trở thành một giáo viên hiệu quả, thầy cô phải làm chủ được các chiến thuật, các kĩ
thuật dạy học đảm bảo học sinh tham gia vào các hoạt động mà mình tổ chức, lắng nghe những
gì mà mình nói, thực hiện những nhiệm vụ mà mình yêu cầu.
*Ở một cách diễn đạt khác, giao tiếp sư phạm gồm các chức năng sau:
- Công cụ: Giao tiếp sư phạm là cơ chế xã hội của việc điều khiển và truyền đạt thông tin cần thiết cho
việc thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục.
- Liên kết: Giao tiếp sư phạm là phương tiện liên kết giáo viên vói giáo viên, giáo viên với học sinh,
học sinh với học sinh...
- Tự thể hiện: Giao tiếp sư phạm là sự trình diện thế giới nội tâm của giáo viên và học sinh, và do đó là
hình thức hiểu biết lẫn nhau.
- Chuyển dời: Quá trình sư phạm (dạy học và giáo dục) về bản chất là quá trình tổ chức cho học sinh
hoạt động nhằm chiếm lĩnh nền văn hóa của xã hội. Trong quá trình này, thầy giáo là cầu nối giữa học
sinh và nền văn hoá đó. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, thầy giáo và học sinh đã "chuyển dời” những
tri thức cần thiết từ nền văn hoá nhân loại vào bản thân mình. Đây là chức năng quan trọng nhất của
giao tiếp sư phạm.
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, giao tiếp là yếu tố quyết định quan trọng nhất của các
quá trình nhận thức ờ tất cả các mức độ. Trong quá trình lĩnh hội khái niệm, nhờ giao tiếp sư phạm mà
cơ sở khái quát hoá và trừu tượng hoá được mở rộng (so với hoạt động cá nhân), giao tiếp sư phạm
thúc đẩy việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ lĩnh hội. Giao tiếp sư phạm tạo ra các điều kiện
thuận lợi để xem xét các nhiệm vụ từ các quan điểm khác nhau và những thay đổi chiến lược tìm kiếm
cách giải quyết chúng, ở đây nhấn mạnh hiệu quả giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh, giữa học sinh
với học sinh trong quá trình dạy học.
- Kiểm soát xã hội: Giao tiếp sư phạm có chức nâng thể chế hoá hành vi và hoạt động của giáo viên và
học sinh, tức là làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định, nguyên tắc xác định.
- Xã hội hoá: Giao tiếp sư phạm hình thành cho cả giáo viên và học sinh kĩ năng, kĩ xảo tác động qua
lại trong xã hội phù hợp với các chuẩn mực và quy tắc, các phong tục, tập quán...
5) VAI TRÒ CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Vai trò của giao tiếp sư phạm trong hoạt động sư phạm:
- Giao tiếp sư phạm là phương tiện, điều kiện giúp thầy giáo thực hiện thành công hoạt động dạy
học và giáo dục
- Là điều kiện để tổ chức các mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò đảm bảo cho việc giảng dạy và
giáo dục có hiệu quả
- Qua GTSP, có thể kết hợp được sức mạnh của các lực lượng giáo dục trong việc giáo dục nhân
cách cho học sinh.
b. Vai trò của giao tiếp sư phạm với việc hình thành và phát triển nhân cách:
- Với học sinh:
+ là con đường để lĩnh hội kiến thức khoa học, các quy tắc đạo đức, các chuẩn mực xã hội để
hình thành tâm lý và phát triển nhân cách.
+ là con đường để hình thành và phát triển khả năng tự ý thức, tự đánh giá và các phẩm chất
nhân cách
‐ Với giáo viên: là cách thức quan trọng để tiếp thu kinh nghiệm từ người khác, trau dồi thêm kiến
thức chuyên môn và rèn luyện các phẩm chất đạo đức (đặc biệt là các phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp).

 Vậy trong hoạt động sư phạm, giao tiếp đóng vai trò là phưong tiện quan trọng nhất cho việc
giải quyết các nhiệm vụ dạy học, là nhân tố tâm lí - xã hội bảo đảm sự diễn tiến của quá trình
giáo dục, cách thức tổ chức các mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, tạo điều kiện
cho sự thành công của quá trình dạy học và giáo dục. Giao tiếp là một trong những phưong thức
chủ yếu tác động lên các quan hệ cùa học sinh. Giao tiếp giữa thầy và trò là một khâu quan trọng
trong quá trình hình thành nhân cách, phát triển tính tích cực nhận thức và xã hội của học sinh
trong quá trình hình thành tập thể học sinh.
- Thực tiễn cúa hoạt động dạy học cho thấy, thành công của việc dạy học phụ thuộc vào chỗ: dạy
học được tổ chức như là sự tác động qua lại giữa thầy và trò trên cơ sở một nội dung dạy học
xác định. Sự tác động qua lại giữa thầy và trò như là một quá trình giao tiếp với mục đích dạy
học có mặt thông tin của nó, bởi vì thầy thông báo cho trò những thông tin xác định. Sự giao
tiếp này cũng là sự tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh. Nó bao hàm cả sự tác động giáo
dục học sinh. Vì vậy, thầy giáo phải luôn ý thức ràng, mỗi hành động giao tiếp bàng cách này
hay cách khác đều có tác dụng giáo dục. Khi thầy giáo thông báo hay tổ chức hoạt động cho học
sinh, sự giao tiếp giữa thầy và trò mang tính chất chê định, tác động của nó sẽ khác với giao tiếp
tự do trong giờ nghỉ, trong thời gian ngoài giờ học.
- Trong hoạt động sư phạm diễn ra các loại giao tiếp giữa cá nhân giáo viên với cá nhân học sinh,
giữa cá nhân giáo viên với nhóm hay tập thổ học sinh, giữa cá nhân học sinh vói nhóm. Thầy
giáo không chỉ giao tiếp với học sinh trong giờ học trên lớp mà còn giao tiếp với các em trong
hoạt động lao động, vui chơi ờ trường cũng như ở ngoài nhà trường. Thầy còn giao tiếp với phụ
huynh học sinh cũng như với các lực lượng xã hội khác trong việc phối họp giáo dục.
 Như vậy, trong hoạt động sư phạm của giáo viên, kể cả trên lớp cũng như ngoài giờ lên lóp, nhất
thiết phải có sự giao tiếp giữa thầy và trò, giữa thầy và đồng nghiệp, giữa thầy và các nhóm học
sinh.
- Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông nói chung là hình thành nhân
cách ở mỗi học sinh. Trong giao tiếp sư phạm, với nét riêng biệt của nó là sự khéo léo đối xử sư
phạm, giáo viên có quan hệ trực tiếp với những con người mà nhân cách đang được hình thành,
từ những cơ sở đầu tiên của hành vi xã hội đến thái độ đối với lao động, với người khác, với
công việc, với bản thân... Vì vậy, ảnh hưởng của giáo viên là vô cùng quan trọng. Qua giao tiếp
sư phạm, giáo viên sẽ xác định và phát triển ở học sinh khả năng biết tự đánh giá bản thân, giúp
các em tự giải quyết đirợc nhiệm vụ của mình trong học tập, trong tổ chức sinh hoạt đòi sống.
Đồng thòi giao tiếp sư phạm là điều kiện tất yếu để hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh. Để việc hình thành nhân cách của học sinh có kết quả thì giáo viên phải hiểu sâu thế giới
tâm hồn của các em, phải đối xử với các em làm sao để có thể khoi gợi ờ các em lòng mong
muốn trở thành con người có ích cho xã hội. Khi giáo viên tổ chức đúng đắn quá trình sư phạm
trong giờ lên lớp sẽ kích thích học sinh tích cực lắng nghe, suy nghĩ tìm hiểu sâu tài liệu học tập
và khuyến khích các em ra sức khắc phục khó khản để tự mình hoàn thành những nhiệm vụ học
tập.
‐ Trong giao tiếp sư phạm, nếu giáo viên thiết lập được mối quan hệ mật thiết với học sinh thì sẽ
gạt bỏ được hàng rào tâm lí giữa thầy và trò. Muốn cho học sinh phát triển được tài năng của
mình, biết tự đánh giá đúng hành vi của mình và để quá trình rèn luyện nhân cách ở các em có
hiệu quả thì đòi hỏi giáo viên phải có năng lực giao tiếp. Giao tiếp sư phạm có một đặc thù là
giáo viên không chỉ giao tiếp với học sinh qua nội dung bài giảng tri thức khoa học, mà họ phải
là tấm gưong sáng mẫu mực về nhân cách đúng với đòi hỏi của quy định xã hội. Nghĩa là ở
người giáo viên lời nói và hành vi ứng xử phải thống nhất với nhau, có như vậy người giáo viên
mói đạt uy tín cao trong nghề nghiệp.
‐ Những điều đã trình bày trên chứng tỏ ràng, giao tiếp sư phạm là một vấn đề có tầm quan trọng
đặc biệt đối vói thành công của hoạt động sự phạm. Đó là một hoạt động phức tạp, bao gồm
nhiều phưong diện, đòi hỏi người giáo viên phải được chuẩn bị một cách chu đáo, cặn kẽ. Việc
chuẩn bị này là mục đích, nhiệm vụ của toàn bộ quá trình đào tạo giáo viên trong nhà trường sư
phạm. Vì vậy, cần phải chú trọng đến công tác rèn luyện năng lực giao tiếp cho sinh viên sư
phạm, góp phần giúp cho sinh viên vững vàng trong hoạt động nghề nghiệp khi ra trường.
6) CÁC NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Trình bày theo 3 bước: Là gì (Tại sao) – Biểu hiện – Hiệu quả
* Những nguyên tắc chung trong giao tiếp: đảm báo tính khoa học, tính đạo đức, tính thẩm
mỹ và tính dân tộc.
‐ Nguyên tắc: là hệ thống những chuẩn mực, quy định có tác dụng chỉ đạo, định hướng suy
nghĩ và hành động của con người.
‐ Nguyên tắc giao tiếp sư phạm: là hệ thống những quan điểm có tác dụng chỉ đạo, định
hướng thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể giao tiếp, cũng như việc lựa chọn các phương
pháp, phương tiện giao tiếp trong hoạt động sư phạm.

* Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm:


6.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mô phạm trong giao tiếp
Dạy học là một nghề đặc biệt, sản phẩm lao động của người giáo viên là những nhân cách phát
triển toàn diện ở thê hệ trẻ. Công cụ lao động quan trọng tạo nén sản phẩm ấy lại chính là nhân cách
của người giáo viên. Đó là những phẩm chất chính trị, ý thức nghề nghiệp, lòng yêu nghề, mến trẻ,
năng lực chuyên môn, kĩ năng giao tiếp... Người giáo viên trực tiếp dùng nhân cách của mình để tác
động đến học sinh.
Đối với xă hội, nhà trường là trung tâm văn hoá, mỗi giáo viên là đại diện, là điểm sáng của nền
vãn hoá. Không những thế, nhân cách mầu mực còn là yếu tô tạo nên uy tín của người giáo viên. Với
những đặc trưng nghề nghiệp cùa mình, đòi hỏi mỗi giáo viên phải thường xuyên tự rèn luyện mình,
trong quan hệ giao tiếp với học sinh phải đảm bảo tính mô phạm.
‐ Bản chất của nguyên tắc: đảm bảo sự mẫu mực trong nhân cách của người thầy giáo, có sự
thống nhất giữa lời nói và hành động.
‐ Cơ sở đề ra nguyên tắc: xuất phát từ đặc điểm nghề dạy học, yêu cầu đối với người thầy
giáo trong hoạt động sư phạm nói chung.
‐ Biểu hiện: Thầy giáo nhận thức được vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo
dục thế hệ trẻ, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của nhân cách mình tới nhân cách trẻ như thế nào.
Từ đó, cần hình thành:
+ Thái độ: yêu thương, tôn trọng học sinh, luôn mong học sinh tiến bộ.
+ Hành vi: mẫu mực trong trang phục, ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, trong hành vi ứng xử
với học sinh, đồng nghiệp và những người xung quanh; làm gương sáng cho học sinh
noi theo mọi lúc, mọi nơi.
+ Lời nói và hành động luôn thống nhất với nhau.
- Để thể hiện được tính mô pliạm trong giao tiếp, mỗi giáo viên phải ý thức rõ được vị trí,
trách nhiệm của mình trong nghề nghiệp, tích cực phấn đấu toàn diện về chuyên môn và lối
sống, luôn làm chủ được bản thân mình.
VD: Trong một lần, vì quá nóng vội, bạn đã phạt một học sinh vì cho rằng em đó đã vi
phạm kỉ luật. Nhưng rồi sau đó bạn phát hiện ra em đó ko có lỗi. Bạn sẽ xử lý ntn?
- Cách xử lí:
 Hãy thẳng thắn và trung thực với các em và với chính bản thân mình.
 Hãy công khai xin lỗi học sinh đó trước lớp. Chờ một dịp thuận lợi, một buổi sinh hoạt
lớp với không khí vui vẻ chẳng hạn, bạn hãy nói với các em học sinh thế này: “Hôm
trước, cô đã hơi nóng vội nên đã phạt oan bạn A. Người lớn cũng có những lúc mắc
khuyết điểm. Cô rất xin lỗi bạn A và cả lớp. Chắc các em cũng là những học sinh rộng
lượng đúng không?”
 Hoặc gặp riêng học sinh, bạn sẽ nói chuyện dễ dàng hơn, cô trò cảm thông và hiểu
nhau.

6.2. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trong giao tiếp sư phạm
- Tôn trọng nhân cách người học là phải coi học sinh như là một cá nhân, một con người với đầy
đủ các quyền vui chơi, học tập, nhận thức,… cùng những đặc điểm tâm lí riêng, bình đẳng với
mọi người trong quan hệ xã hội
- Học sinh đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, là chủ thể hoạt động tích cực,
có đặc điểm nhận thức, thái độ và kiểu hành vi ứng xử riêng (chịu ảnh hưởng của giáo dục gia
đình) => Giáo viên không nên áp đặt, ép buộc các em phải tuân theo ý kiến thầy cô một cách
duy ý chí.
- Tôn trọng nhân cách học sinh được thể hiện ở một số điểm như:
o Biết lắng nghe học sinh nói chuyện, trình bày ý muốn, nhu cầu, nguyện vọng của mình,…
(lắng nghe học sinh)
o Không ngắt lời bằng các cử chỉ, điệu bộ như phẩy tay, xem đồng hồ hoặc ngoảnh mặt đi
chỗ khác với vẻ mặt khó chịu khi học sinh đang trình bày (Tránh các cử chỉ, hành vi biểu
lộ sự thiếu tôn trọng với học sinh)
o Với các em khó nói, khó diễn đạt nên gợi ý nhẹ nhàng nếu thấy cần thiết hoặc biểu hiện
thái độ khích lệ, động viên các em nói được suy nghĩ, mong muốn của mình (Hỗ trợ học
sinh biểu lộ bản thân)
 Ví dụ: Với những học sinh ít nói có tính cách khép mình, có thể gọi phát biểu
trong giờ sinh hoạt, một câu hỏi rộng có thể chia thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn
như một sự gợi ý đối với học sinh đó. Ngoài ra, giáo viên nên giữ nụ cười của
mình sao cho thân thiện, biểu hiện mong chờ, điều này góp phần tạo cảm giác dễ
chịu cho học sinh được hỏi.
o Không được có lời lẽ, câu từ xúc phạm đến nhân cách học sinh, nhất là trước đám đông
như lớp học, bằng các từ ngữ như ngu, dốt, lười,… trong bất kì trường hợp nào (Không
dùng lời lẽ xúc phạm học sinh trước đám đông
 Ví dụ: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, không nên có những lời lẽ trách
mắng như “sao em lười học thế”, “Nếu em lười thế này thì sau này làm được cái
gì…”,…mà có thể hỏi riêng nhẹ nhàng như “sao em không làm bài tập về nhà, em
có việc bận gì à?”, “Sau nhớ làm bài tập về nhà, như vậy mới có thể hiểu bài
được”,…
o Ngoài ra tôn trọng học sinh còn thể hiện qua trang phục gọn gàng, sạch sẽ và lịch sự của
giáo viên. Quần áo lôi thôi là sự thiếu tôn trọng đối với học sinh của mình (giữ vẻ ngoài
gọn gàng, chỉnh tề).
6.3. Nguyên tắc thiện chí trong giao tiếp sư phạm
- Thiện ý trong giao tiếp sư phạm là ý tốt của thầy cô giáo đối với học sinh, thể hiện ở sự yêu
thương, tin tưởng các em, tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích các em tích cực hoàn thành
tốt nhiệm vụ trong học tập và trong các hoạt động khác ở nhà trường.
- Thiện ý của giáo viên với học sinh thể hiện:
o Trong giao tiếp, giáo viên luôn đặt quyền lợi của học sinh lên trên hết, chuẩn bị kĩ giáo
án, hướng dẫn các em tiếp thu tri thức bằng tất cả khả năng và lòng nhiệt tình của mình.
o Tin tưởng học sinh, khích lệ động viên các em. Không được có định kiến với học sinh.
Cho dù học sinh có yếu kém thực sự về năng lực hay đạo đức thì cũng luôn nghĩ đó là
tính cách chưa hoàn thiện, được yêu thương giúp đỡ, nhất định các em sẽ trở thành người
tốt.
 Ví dụ: Trong lớp có một học sinh rất nghịch ngợm hay pha trò trong giờ. Giáo
viên trong trường hợp này, không nên có định kiến xấu với học sinh (bởi từ đó có
thể nảy sinh những đánh giá chủ quan tiêu cực của giáo viên trong quá trình
tương tác của giáo viên với học sinh này), luôn phải tin rằng học sinh luôn có mặt
tốt, tìm hiểu nguyên nhân học sinh này nghịch như vậy là do đâu (có thể muốn thu
hút sự chú ý, có thể là do thừa năng lượng, hoặc do học sinh đó không có nhiều
cơ hội thể hiện bản thân với người khác,…), từ đó tìm hướng giải quyết thích hợp
vì sự tiến bộ của học sinh đó.
o Đánh giá, nhận xét bài làm của các em phải thực sự công bằng, khách quan, khích lệ,
động viên những em giỏi vươn lên, những học sinh trung bình và yếu cố gắng hết sức.
Giáo viên có thể cho điểm lẻ ở bài, ghi điểm chẵn vào sổ và công khai cho các em biết.
Lời phê trong bài cô đọng, súc tích; thể hiện sự động viên, khuyến khích, tạo niềm tin cho
các em nơi chính bản thân mình.
 Ví dụ: Sau khi chấm bài kiểm tra, giáo viên nhận thấy có hai bài khá giống nhau,
một của học sinh giỏi, một của học sinh yếu hơn. Lúc đó, giáo viên không nên có
đánh giá chủ quan như bạn yếu chép bài bạn giỏi. Giáo viên có thể gọi riêng hai
bạn lên để đối chất về hai bài làm và đưa ra cách giải quyết công bằng nhất bất
kể hai bạn có học lực ra sao. Dù ai chép bài, giáo viên vẫn cần phải nhắc nhở nhẹ
nhàng, trừ nhẹ bài chép. Nếu bài không phải chép mà chỉ tình cờ giống nhau
(điều này rất có thể xảy ra với các môn tự nhiên) nếu bài làm tốt, giáo viên có thể
khích lệ sự tiến bộ của bạn yếu.
o Tùy tình huống, hoàn cảnh, khả năng của từng em để giao công việc phù hợp. Tuyệt đối
không nhạo báng, giễu cợt, chê bai trước những thất bại của các em
o Mỗi khi giải quyết mâu thuẫn, sự việc bất thường xảy ra trong lớp (học sinh đánh nhau,
mất đồ dùng,…) thầy cô phải phân xử công bằng, phân minh, hình thực xử phạt phải vì
sự tiến bộ của học sinh, và phải có sự đồng tình của toàn bộ học sinh trong lớp.
 Ví dụ: Trong lớp có sự việc mất đồ, một bạn trong lớp được các bạn nghi ngờ
ngay vì từng bị phát hiện ra lấy đồ. Lúc này, giáo viên không nên hùa theo những
học sinh kia mà có động thái kiểm tra ngay túi bạn đó. Giáo viên có thể làm đúng
quy trình, hỏi người bị hại xem để quên ở đâu, yêu cầu tất cả học sinh kiểm tra
cặp của mình, kiểm tra chéo với bạn cùng bàn và tìm xung quanh lớp. Nếu vẫn
không tìm ra thì trước hết cần phải dập tắt ác cảm của các học sinh với bạn học
sinh bị nghi ngờ trước đó rằng (không ai thấy đồ mất trong cặp bạn ý tức là bạn ý
không lấy…) sau đó giáo viên có thể tiếp tục giải quyết với bạn bị mất đồ…
6.4. Nguyên tắc đồng cảm trong giao tiếp
- Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm có nghĩa là người giáo viên đặt mình vào vị trí của học sinh,
để hiểu được suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, nguyên vọng của các em, từ đó có các hành vi ứng xử
phù hợp
- Để đồng cảm với học sinh trong giao tiếp, giáo viên cần:
o Nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh.
VD: lứa tuổi THPT và THCS có các đặc điểm tâm lí khác nhau. Trong từng cấp học lại
có nhữung đặc điểm khác nhau ở từng khối học : lớp 8 lớp 9 là độ tuổi các em khao khát
được trở nên tự do, mong muốn trở thành người lớn, có những tình cảm đặc biệt dành
cho bạn khác giới,….
o Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và đặc điểm tâm lí riêng của từng học sinh, trên cơ sở phác
thảo được chân dung tâm lí đối tượng giao tiếp.
VD: hoàn cảnh sống cũng ảnh hướng khá nhiều đến đời sống tâm lí của học sinh. Một
học sinh luôn luôn không chú ý học, phá phách, không hợp tác luôn phạm khuyết điểm có
thể là do một tổn thương đến từ tâm lí. Là người giao viên, chúng ta cần tìm hiểu để có
thể có phương hướng giúp đỡ học sinh,…
o Đặt mình vào vị trí của học sinh trong những tình huống giao tiếp cụ thể, biết gợi lên
nhữung điều điều học sinh muốn nói nhưng không dám nói và tạo điều kiện để thỏa mãn
nguyện vọng chính đáng của các em.
VD: ở độ tuổi THCS, các em đã bắt đầu dậy thì, bắt đầu đã có những tò mò về cơ thể,…
nếu không hiểu và đồng cảm với các em về các vấn đề tế nhị này, có thể các em sẽ có
những hành động không chuẩn mực. Cần phải tạo điều kiện để học sinh nói lên những
thắc mắc và có những phướng án xử lí để đáp ứng nguyện vọng của các em
- Nhờ có đồng cảm, giáo viên mới có các biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả khi uốn nắn,
sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của các em. Đồng cảm tạo ra sự gần gũi, thân mật, tạo cảm
giác an toàn cho các em, là cơ sở hình thành các hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan
dung.
6.5. Nguyên tắc tạo niềm tin trong giao tiếp sư phạm
- Niềm tin giúp chúng ta làm những điều chúng ta cho là đúng, hoặc không làm những thứ mà
chúng ta không tin. => Niềm tin quyết định thái độ, là động lực thúc đẩy hành động.
- Niềm tin là yếu tố quyết định đến kết quả của hoạt động giao tiếp nói chung và giao tiếp sư
phạm nới riêng.
- Cách tạo niềm tin trong giao tiếp sư phạm:
o Hãy tin tưởng vào học sinh: Có 1 câu nói: Khi ta muốn người khác đối xử với mình như
thế nào, hãy đối xử ngược lại với họ như vậy. Khi ta muốn các em tin tưởng, hãy thể hiện
rằng ta hoàn toàn đặt niềm tin ở chúng trước. Nhưng điều này không dễ dàng thể hiện qua
một câu nói đâu. Nó yêu cầu chúng ta có một sự thành tâm tuyệt đối. Vì chỉ khi thật sự có
ý như vậy, ta mới có thể trả lời rành mạch câu hỏi “Tại sao thầy/cô lại có niềm tin như
vậy ở em?” nếu bên kia hỏi ngược lại.
o Hãy lắng nghe nhiều hơn: Học sinh sẽ cảm nhận được rằng ta rất coi trọng những điều họ
nói. Đó có thể là kinh nghiệm, chia sẻ từ chính con người chúng. Đừng quên đặt thêm
câu hỏi để thể hiện sự hứng thú và gây thiện cảm với các em.
o Hãy trở thành tấm gương: Học sinh sẽ chưa thể hoàn toàn tin tưởng hoặc ép chúng tin
tưởng chúng ta nếu chỉ qua lời nói. Hãy xây dựng hình ảnh tích cực của bản thân đối với
học sinh để có được hình tượng tốt trong lòng các em. Hãy chú ý từ cách ứng xử, trang
phục, thái độ tích cực,…
o Hãy kiên nhẫn: Không có một lối tắt nào để đạt được sự tin tưởng sâu sắc mà nó cần thời
gian và trải nghiệm để xây dựng. Cần tạo lập dựa trên những cơ sở: Ngưỡng mộ về khả
năng, tin tưởng về thực lực, trân quý về tính cách, chấp nhận về uy tín. Điều này không
thể thực thi ngày một ngày hai mà cả một chặng đường dài.

B. TÌNH HUỐNG (GIAO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH)


Giải quyết tình huống theo 3 bước: Nêu vấn đề - Nêu mục tiêu – Đề xuất giải pháp
(Ưu + Nhược) và lựa chọn giải pháp tối ưu
Tình huống 1: Trong giờ chữa bài tập, có một học sinh đưa ra cách giải quyết ngắn và độc đáo
hơn cách giải quyết của giáo viên. Là giáo viên đó, bạn sẽ giải quyết như thế nào?
1. Xác định vấn đề:
- Cách giải bài ngắn và độc đáo của học sinh
- Ý thức học tập của hoc sinh
- Cách chữa bài của giáo viên
2. Phân tích vấn đề:
- Cách giải bài ngắn và độc đáo của học sinh
 Học sinh có tư duy sáng tạo để làm bài tập. Việc có tư duy độc đáo, cách giải sáng tạo
giúp học sinh làm chủ được vốn kiến thức, chủ động tìm tòi những điều mới, giúp học
sinh tự tin đối mặt với những thử thách. Từ đó, học sinh sẽ dễ dàng đạt được những
thành tựu cao trong học tập và sự nghiệp sau này.
 Nói một cách dễ hiểu, tư duy sáng tạo là khả năng tư duy, sáng tạo, tìm tòi ra những
phương án, chủ đề mới của một hay nhiều người về một lĩnh vực nghiên cứu nào đó.
Và trong thời đại hiện nay, bất kỳ ngành nghề nào như chính trị, xã hội, kinh tế, nghệ
thuật, kỹ thuật… đều cần đến tư duy sáng tạo.Tại các trường học, ngoài các kiến thức
chuyên môn, nhà trường luôn ưu tiên rèn luyện cho học sinh những kỹ năng mềm như
giao tiếp, xử lý tình huống và đặc biệt là tư duy sáng tạo. Mục đích là để học sinh rèn
luyện sự nhạy bén, sáng tạo của mình để áp dụng vào đời sống hằng ngày và dễ dàng
đạt được thành công hơn.
 Bên cạnh đó, kỹ năng sáng tạo cũng giúp bạn tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với những
người xung quanh. Đặc biệt, với những ai tham gia vào lĩnh vực truyền thông hay
kinh doanh, để đạt được thành công, vượt trội so với những người khác thì tư duy
sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trong xã hội hiện nay, tư duy sáng tạo giúp
cho con người phát minh ra những công trình mới để cuộc sống ngày càng văn minh,
hiện đại.
 Thông qua cách giải độc đáo của học sinh thì người giáo viên cũng có thể học hỏi
thêm cách giải mới bởi vì giáo viên cũng chính là người học, người giáo viên phải
không ngừng trau dồi kiến thức kĩ năng để có thể truyền đạt cho những thế hệ sau.
- Ý thức học tập của hoc sinh
 Ý thức học tập là quá trình nhận thức về việc học tập, từ đó lĩnh hội các kiến thức học
tập áp dụng vào cuộc sống.Ý thức học tập là quá trình bản thân tự nhận thức, tự tư duy
về vai trò, lợi ích của việc học đối với tương lai của mình. Ý thức học tập được thể
hiện qua nhiều phương diện như là mục tiêu phấn đấu, cách thức học tập sao cho hiệu
quả trong trường lớp, trong xã hội. Học sinh đã có ý thức làm bài, có khả năng độc lập
suy nghĩ, việc học sinh có ý thức học tâp sẽ giúp học sinh đạt được kết quả tốt. Ý thức
học tập mà không có thì việc học cũng như không. Không có sự học tập, trau dồi, tu
luyện thì làm gì có kết quả. Khi việc học không được chú tâm, thì bản thân người học
sẽ gặp rất nhiều khó khăn sau này bởi họ sẽ gặp nhiều lỗ hổng trong kiến thức.
- Cách chữa bài của giáo viên
 Cách chữa bài của giáo viên sẽ giúp cho những bạn chưa biết cách làm có thể tham
khảo và những bạn làm được rồi sẽ có thêm cách giải khác, bên cạnh đó việc giáo viên
chữa bài có thể giúp các bạn học sinh hình thành được tư duy làm bài, giúp học sinh
củng cố và nắm vững kiến thức. Việc giáo viên chưa bài cũng là việc giao tiếp của
giáo viên với học sinh, học sinh được chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm và kĩ năng
của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm và kĩ năng không
chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp.
3. Mục tiêu:
- Giáo viên phân tích, đưa ra sự nhận xét và chỉ ra sự độc đáo trong cách giải mà học sinh
đó đưa ra. Đồng thời, giáo viên giải thích cho cả lớp biết rằng mỗi bài tập có thể có một
hay nhiều cách giải quyết: có cách giải thông thường mà tất cả học sinh đều hiểu và làm
được, có cách giải nhanh, độc đáo của những học sinh tích cực, ham học hỏi cái mới.
Cách giải của giáo viên là cách giải thông thường phù hợp với lực học của tất cả học sinh.
Giáo viên cần kịp thời khen ngợi học sinh đó chăm chỉ, sáng tạo, có cách giải hay và độc
đáo; khuyến khích các em khác tích cực để tìm ra nhiều cách giải khác nhau.
4. Xác định những giải pháp có thể:
- Giải pháp 1: Khen học sinh đó thông minh.
- Giải pháp 2: Khen học sinh đó có cách giải độc đáo và hay, khuyến khích các em khác
tích cực để tìm ra nhiều cách giải không giống cách giải của giáo viên.
- Giải pháp 3: Khen học sinh đó có cách giải độc đáo và hay, so sánh cách giải của giáo
viên và cách giải của học sinh, chỉ ra sự độc đáo trong cách giải của học sinh đó, khuyến
khích cả lớp cần học tập tích cực như học sinh đó và tìm tòi ra nhiều cách giải hay và từ
đó có thể giúp học sinh chọn cách giải phù hợp với thời gian làm bài.
- Giải pháp 4: Giải thích cho học sinh biết rằng mỗi bài toán có cách giải thông thường
mà tất cả học sinh có học lực trung bình đều làm được, có cách giải độc đáo giành cho
những em chịu khỏ tìm tòi, suy nghĩ. Cách giải của giáo viên là giành cho những em có
học lực trung bình.
- Giải pháp 5: Không thừa nhận cách giải của học sinh là hay mà cố gắng bảo vệ cách giải
của mình là hay hơn.
5. Nêu ra cụ thể các giải pháp và chọn giải pháp phù hợp:
 Nếu là giáo viên đó thì em sẽ chọn giải pháp thứ ba.
- Giải pháp 1: Khen học sinh đó thông minh.
 Ở giải pháp này, nếu chỉ khen học sinh thông minh thì sẽ dễ làm cho sinh tự cao và
cho mình là nhất, điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân cách của học
sinh, học sinh sẽ cứ nghĩ mình thông minh, không cần học hỏi ai và dễ tạo cho học
sinh thói ngạo mạn, ích kỉ và những học sinh kém hơn sẽ không tiếp nhận được kiến
thức và làm giảm chất lượng buổi học.
- Giải pháp 2: Khen học sinh đó có cách giải độc đáo và hay, khuyến khích các em khác
tích cực để tìm ra nhiều cách giải không giống cách giải của giáo viên.
 Ở giải pháp này khen học sinh có cách giải độc đáo và khuyến khích học sinh tìm ra
cách giải khác là tốt tuy nhiên giải pháp này chưa đủ vì giải pháp này chưa giúp học
sinh trong bài học, giải pháp này thiếu việc đánh giá so sánh giữa những cách giải với
nhau để nêu ra những tính chất, định lý quan trọng liên quan tới bài học, việc giải
quyết vấn đề phải đảm bảo về tính sư phạm có nghĩa là phải đảm bảo việc truyền thụ
kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm. Nếu chỉ khuyên học sinh tìm tòi cách khác với giáo
viên thì sẽ dễ làm cho học sinh không chú ý đến buổi học của giáo viên trên lớp và
một số học sinh có thể không hiểu và nắm được bài học.
- Giải pháp 3: Khen học sinh đó có cách giải độc đáo và hay, so sánh cách giải của giáo
viên và cách giải của học sinh, chỉ ra sự độc đáo trong cách giải của học sinh đó, khuyến
khích cả lớp cần học tập tích cực như học sinh đó và tìm tòi ra nhiều cách giải hay và từ
đó có thể giúp học sinh chọn cách giải phù hợp với thời gian làm bài.
 Đây là một trong những giải pháp tối ưu. Việc khen học sinh có cách giải hay và độc
đáo sẽ giúp học sinh đó hứng thú hơn trong buổi học, là động lực để cho các học sinh
khác noi theo. Việc so sánh các cách giải có thể giúp học sinh hiểu bài học hơn, qua
bài học thì học sinh có thể rút ra được những kiến thức bổ ích, quan trọng. Việc
khuyến khích các học sinh tìm tòi cách giải sẽ giúp học sinh khai phá bản thân, kích
thích sự sáng tạo và tìm tòi của học sinh. Việc khuyên học sinh chọn cách giải phù
hợp với bản thân sẽ đảm bảo tính dân chủ, tôn trọng nhân cách trong giao tiếp sư
phạm, cũng như tạo được niềm tin cho học sinh.
- Giải pháp 4: Giải thích cho học sinh biết rằng mỗi bài toán có cách giải thông thường
mà tất cả học sinh có học lực trung bình đều làm được, có cách giải độc đáo giành cho
những em chịu khỏ tìm tòi, suy nghĩ. Cách giải của giáo viên là giành cho những em có
học lực trung bình.
 Đây cũng là một cách giải quyết khá hay. Việc giải thích các cách giải khác nhau cho
từng đối tượng sẽ giúp học sinh chọn được cách giải phù hợp với bản thân. Tuy nhiên
việc nói rằng cách giải của giáo viên là giành cho những em có học lực trung bình thì
sẽ dễ làm cho những em học sinh giỏi chủ quan, không nắm kiến thức cơ bản và
không tập trung vào buổi học, bên cạnh đó nó sẽ làm cho các học sinh kém hơn không
cố gắng tìm tòi những cách giải mới để học hỏi mà sẽ học theo kiểu thụ động.
- Giải pháp 5: Không thừa nhận cách giải của học sinh là hay mà cố gắng bảo vệ cách giải
của mình là hay hơn.
 Đây là một cách giải quyết bảo thủ của giáo viên, nó sẽ làm cho học sinh giảm hứng
thú học tập và làm mất đi sự tự giác tìm tòi, tính sáng tạo của học sinh và làm giảm
chất lượng buổi học. Không có cách giải nào là hay nhất, mỗi cách giải đều có những
ưu nhược điểm của nó mà chỉ có cách giải tối ưu để phù hợp với từng điều kiện hoàn
cảnh. Bên cạnh đó là một người giáo viên thì trước hết phải là một người học, giáo
viên phải không ngừng trau dồi, tích lúy những kiến thức, kinh nghiệm và kĩ năng để
truyền lại cho những thế hệ sau này.
6. Bài học kinh nghiệm:
Người giáo viên không nên là người độc đoán trên bục giảng, chỉ cho phép mình đúng.
Người giáo viên cần ghi nhận sự nỗ lực, tìm tòi và phát hiện mới của học sinh, tạo điều kiện để
học sinh được chủ động, tích cực học tập và khích lệ học sinh phát huy khả năng của mình.
Người giáo viên cũng phải xem chính mình là một người học, không ngừng trau dồi bản thân để
truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng cho học sinh.
Tình huống 2: Hôm nay cô giáo Hoa có tiết dạy ở lớp 11C. Một đồng nghiệp trẻ mới tốt nghiệp
về công tác ở trường được 2 năm đến xin dự giờ ở lớp của cô. Khi cô đang giảng bài, bỗng
người đồng nghiệp trẻ đó nói to: “Chỗ này cô giảng sai rồi”. Cả lớp học nhốn nháo. Là cô giáo
Hoa trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
1. Xác định vấn đề:
- Mâu thuẫn về kiến thức chuyên môn giữa hai giáo viên trong khi tiết học đang diễn ra.
- Học sinh hoang mang về kiến thức mình đang học.
- Tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với học sinh, giáo viên với giáo viên.
2. Phân tích vấn đề:
- Sự nhầm lẫn trong kiến thức chuyên môn của người giáo viên có thể gây ra sự thiếu sót
trong kiến thức của nhiều thế hệ học sinh.
- Học sinh có thể hiểu sai bản chất kiến thức, mất niềm tin vào cô giáo dạy mình.
- Có thể ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người giáo viên với học sinh, mối quan hệ giữa
những người đồng nghiệp.
3. Mục tiêu:
- Cần giải quyết triệt để mâu thuẫn về kiến thức này để học sinh và cả hai người giáo viên
nhận thức đúng.
- Bảo toàn được uy tín, danh dự của hai người giáo viên trước học sinh, ai cũng có lúc
nhầm lẫn cả, không phải lúc nào cũng hoàn hảo, quan trọng là sau đó họ hiểu đúng, rút ra
được bài học kinh nghiệm cho bản thân.
- Khuyến khích học sinh mạnh dạn đưa ra ý kiến phát biểu của mình để hiểu rõ bản chất và
phát huy tính sáng tạo ở các em.
4. Các phương án giải quyết:
- Phương án 1: Giáo viên dừng việc giảng bài lại, cùng tranh luận với đồng nghiệp ngay
trong tiết học để đưa ra nhận định đúng.
- Phương án 2: Làm ngơ câu nói của đồng nghiệp, vờ như không nghe thấy, giáo viên
nhắc cả lớp trật tự và tiếp tục giảng bài để không ảnh hưởng đến tiến trình bài giảng.
- Phương án 3: Giáo viên nhắc lớp trật tự, ổn định tiếp tục tập trung vào bài học và mời
đồng nghiệp trẻ và học sinh cùng chỉ ra thắc mắc, đồng thời giáo viên cũng bình tĩnh
kiểm tra lại kiến thức vừa giảng có bị sai không. Đầu tiên giáo viên cảm ơn sự góp ý của
đồng nghiệp trẻ.
 Nếu nhận thấy kiến thức bị sai, giáo viên xin lỗi cả lớp và đồng nghiệp rồi sửa lại
nội dung đó.
 Nếu sau khi kiểm tra và thấy kiến thức đó không sai thì giáo viên nhấn mạnh, giải
thích lại nội dung đó cho học sinh và đồng nghiệp hiểu rõ (không tỏ thái độ khi
đồng nghiệp góp ý sai). Khẳng định đây là phần kiến thức dễ nhầm mà mọi người
hay mắc phải nếu không để ý kĩ, các em học sinh nên chú ý khi làm bài.
 Nếu trong phạm vi thời gian trao đổi ngắn mà giáo viên vẫn chưa đưa ra được nhận
định cuối cùng thì giáo viên nói trước lớp rằng đây là một phần kiến thức khá hay
nên phần này sẽ được giao về nhà để các em có thời gian suy nghĩ kĩ hơn, tiết học
sau cô sẽ giải đáp. Như vậy giáo viên sẽ có thêm thời gian để xem lại vấn đề này,
hoặc có thể cùng thảo luận với đồng nghiệp sau đó.
Sau tiết học, giáo viên góp ý với đồng nghiệp là nên góp ý riêng cho mình khi giáo viên
đi xuống cuối lớp hoặc sau giờ học chứ không nên nói to trước lớp như vậy sẽ ảnh hưởng
đến tâm lý học tập của học sinh trong giờ.
5. Lựa chọn phương án hợp lý:
Nếu em là cô giáo Hoa trong trường hợp này, em sẽ xử lý tình huống trên theo cách c. Vì
theo nguyên tắc giao tiếp sư phạm giáo viên cần tôn trọng nhân cách giao tiếp tức cần tôn trọng
ý kiến, hành vi, biết lắng nghe ý kiến không phân biệt đẳng cấp, không cáu gắt với đồng nghiệp
trẻ. Đồng thời nên sử dụng phong cách dân chủ để học sinh và đồng nghiệp cùng tham gia góp
ý.
Phương án a việc hai giáo viên tranh luận sẽ làm mất thời gian của học sinh, gây gián đoạn
tiết học, không kịp tiến trình bài giảng và có thể sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của giáo
viên trước học sinh.
Phương án b giáo viên lờ đi ý kiến của đồng nghiệp là không đúng với nguyên tắc tôn trọng
nhân cách trong giao tiếp, đồng thời như vậy sẽ làm gương xấu cho học sinh, có thể sau này các
em học sinh sẽ không có thái độ tôn trọng người đồng nghiệp trẻ ấy nữa.
6. Kết luận sư phạm:
- Trong quá trình giảng dạy cần tôn trọng ý kiến và nhân cách của đồng nghiệp và học sinh
- Giáo viên cần thường xuyên trau dồi cũng như sẵn sàng học hỏi kiến thức; góp ý thẳng
thắn, thành thật, hợp lý với đồng nghiệp, không tỏ thái độ chê bai, phê bình.
- Trong các trường hợp giáo viên cần thể hiện nhân cách mẫu mực để học sinh học tập.
Tình huống 3: Trong lớp cô giáo Lan chủ nhiệm có một học sinh hay gây gổ đánh nhau với
bạn, học lực lại quá yếu. Nhưng một lần cả lớp đi tham quan, em đó đã có hành động dũng cảm
cùng người khác bắt kẻ gian. Cô giáo chủ nhiệm và cả lớp đều chứng kiến chuyện đó. Là cô
giáo Lan, bạn sẽ làm gì trước tình huống đó.
1. Xác định vấn đề:
- Hành vi thường ngày chưa chuẩn mực.
- Hành động dũng cảm bất ngờ.
- Học lực bạn học sinh quá yếu.
2. Phân tích vấn đề:
- Bạn A được xác định là có hành vi không tốt (hay gây gổ đánh nhau với bạn), nhưng lại có hành
động dũng cảm bắt kẻ gian mà không mấy bạn học sinh có thể làm được.
- Việc A học không tốt khiến cho các bạn học và giáo viên có những suy nghĩ không tốt về bạn.
- Từ đó chứng tỏ bạn có thể thuộc các trường hợp sau:
 Bạn mong muốn được quan tâm, nhưng thực hiện bằng hành động không đúng cách.
 Bạn bị các bạn đối xử không tốt (có thể do học yếu, hoàn cảnh gia đình,…), xa lánh, cố tình
trêu chọc, tạo tình huống để bạn chủ động gây gổ đánh nhau với các bạn khác trước.
3. Mục tiêu:
Giáo viên cần làm sao để giúp các bạn trong lớp có thể hiểu rõ về con người của A, qua đó A có
thể hòa đồng, đoàn kết với các bạn trong lớp.
4. Giải quyết tình huống:
- Bước 1: Cô Lan cần tìm hiểu kĩ nguyên nhân khiến cho A lại có những hành động như thế bằng
cách tìm đến tận nhà nói chuyện với người thân. Có thể đem quà tặng, biểu dương vì hành động
tốt của A để gần gũi với gia đình học sinh, học sinh hơn.
- Bước 2: Sau khi cô Lan tìm hiểu rõ nguyên nhân, rồi dù trường hợp nào cô cũng có hướng giải
quyết như sau:
Cô Lan sẽ tuyên dương A trước lớp vì hành động dũng cảm cứu người đồng thời mong mọi
người sẽ noi gương A mà có những hành động giúp đỡ người khác. Ngoài ra cô còn có thể lồng
ghép trong giờ học giáo dục về hành vi tốt. Ngoài ra cô có thể tổ chức các hoạt động tập thể cho
lớp (có chủ đích vào A) để giúp A có thể hiểu được sự hòa đồng, đoàn kết tốt như thế nào. Từ
đó giúp mọi người trong lớp hiểu nhau nhiều hơn, không còn mâu thuẫn dẫn đến mất đoàn kết
trong lớp nữa. Sau đó, cô có thể nhờ sự giúp đỡ của các bạn trong lớp để giúp A tiến bộ đi lên
trong học tập.
Tình huống 4: Là một thầy giáo trẻ, bạn được học sinh nữ trong lớp mình chủ nhiệm tỏ ý cảm
mến, thậm chí có em đã viết thư, bộc lộ tình cảm yêu đương tha thiết với thầy. Nếu là giáo viên
trong tình huống này, bạn sẽ ứng xử thế nào?
1. Xác định vấn đề:
- Tình cảm chưa phù hợp giữa học sinh đối với thầy/cô giáo.
- Mối quan hệ giữa học sinh với thầy/cô giáo.
2. Phân tích vấn đề:
- Hiện tượng các em học sinh có cảm tình với thầy cô giáo không phải là điều hiếm gặp. Đặc biệt
là các thầy giáo trẻ thường rất hay được các em học sinh nữ cảm mến. Vì vậy nếu thầy giáo cư
xử không khéo sẽ có thể gây ra một loạt vấn đề phức tạp làm ảnh hưởng đến quan hệ thầy trò,
ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của người giáo viên.
3. Mục tiêu:
- Cách giải quyết cần làm cho học sinh hiểu ra được tình cảm của bản thân là chưa phù hợp với
lứa tuổi. Tránh để em học sinh đó bị tổn thương, cảm thấy không được tôn trọng.
- Đồng thời cũng cần giáo dục tâm lý tình cảm lứa tuổi cho các em học sinh hiểu rõ, nâng cao ý
thức, trách nhiệm với cảm xúc, tình cảm của bản thân, giúp học sinh hoàn thiện hơn trong nhân
cách, đạo đức và lối sống.
4. Các phương án giải quyết:
- Phương án 1: Giả vờ như không biết chuyện gì, vẫn đối xử với em học sinh đó bình thường
như những học sinh khác cả trong lẫn ngoài giờ.
- Phương án 2: Tìm mọi cách để tránh tiếp xúc trực tiếp với em học sinh đó.
- Phương án 3: Đề nghị Ban giám hiệu cho chuyển sang làm chủ nhiệm một lớp khác.
- Phương án 4: Gặp riêng em học sinh đó và nhắc nhở em chú tâm vào việc học, không nên có
tình cảm như vậy.
- Phương án 5: Khéo léo gửi một bức thư trả lời cho em học sinh đó (nội dung thư giải thích về
sự không phù hợp trong tình cảm đó, mong muốn em chú tâm vào việc học, hướng tới những
lựa chọn tốt cho tương lai; có thể bày tỏ bản thân thầy đã có bạn gái). Đồng thời, sắp xếp một
buổi giáo dục tâm lý tình cảm lứa tuổi cho cả lớp.
5. Phương án tối ưu.
- Nhìn chung, các phương áp 1 – 2 – 3 – 4 được nêu trên có một số điểm chưa được tối ưu:
+ Ở phương án 1 và 3, việc lảng tránh không giải quyết được vấn đề, có thể sẽ khiến em học
sinh đó càng mạnh dạn hơn nữa, cảm xúc phát triển sai lệch, không ý thức được sự không phù
hợp của nó.
+ Ở phương án 2, nếu thầy ngại ngùng và tìm mọi cách tránh tiếp xúc, gặp gỡ với em học sinh
đó, sẽ vô tình gây cho em một sự hiểu lầm tai hại, em sẽ “ảo tưởng” rằng “chắc thầy cũng có
cảm tình với mình thì thầy mới có thái độ như thế”.
+ Ở phương án 4, nếu quá thẳng thắn đến mức quyết định gặp ngay em học sinh đó để nhắc nhở,
“phê bình”. Em học sinh đó tình cảm trong sáng của mình bị tổn thương, xấu hổ. Có thể dẫn đến
một số vấn đề về tâm lí, như trầm cảm, hay hành động bỏ học.
- Phương án 5 là phương án tối ưu nhất:
+ Hành động viết thư sẽ giúp em học sinh có thể có khoảng suy ngẫm lại về tình cảm của bản
thân, không xấu hổ như khi nói chuyện trực tiếp.
+ Giải thích về sự chưa phù hợp của tình cảm, mong muốn em chú tâm vào việc học, hướng tới
những lựa chọn tốt cho tương lai; bày tỏ bản thân thầy đã có bạn gái là ẩn ý khuyên nhủ em cố
gắng phấn đấu học hành trong thời điểm hiện tại, tương lai rộng mở, em sẽ có nhiều lựa chọn,
tìm được người bạn đời phù hợp, dành tình cảm cho em.
+ Sắp xếp một buổi giáo dục tâm lý tình cảm lứa tuổi cho cả lớp: (khéo léo lồng nội dung tình
cảm thầy – trò vào các nội dung khác như tình cảm bạn bè, tình cảm gia đình…) nhằm giúp các
em học sinh hiểu rõ, nâng cao ý thức, trách nhiệm với cảm xúc, tình cảm của bản thân, đâu là
phù hợp, đâu là chưa phù hợp.
Tình huống 5: Trong giờ dạy, giáo viên bộ môn phát hiện hai học sinh ngồi cạnh nhau ở bàn
cuối lớp có tình cảm đặc biệt với nhau. Thỉnh thoảng, các em còn có những cử chỉ thân mật
trong giờ học như cầm tay, vuốt tóc, chọc ghẹo nhau. Nếu là thầy giáo đó, bạn sẽ xử lí như thế
nào?
1. Xác định vấn đề:
- Học sinh có vấn đề trong mối quan hệ với bạn bè (cụ thể: có rung cảm yêu đương).
- Học sinh thể hiện tình cảm, không tập trung trong giờ học.
2. Phân tích vấn đề:
- Hiện tượng các em có rung cảm yêu đương lứa tuổi học Vì vậy nếu thầy giáo cư xử không
khéo sẽ có thể gây ra một loạt vấn đề phức tạp làm ảnh hưởng đến quan hệ thầy trò, ảnh hưởng
đến danh dự và uy tín của người giáo viên.
3. Mục tiêu:
- Cách giải quyết cần làm cho học sinh hiểu ra được tình cảm của bản thân là chưa phù hợp với
lứa tuổi. Tránh để em học sinh đó bị tổn thương, cảm thấy không được tôn trọng.
- Đồng thời cũng cần giáo dục tâm lý tình cảm lứa tuổi cho các em học sinh hiểu rõ, nâng cao ý
thức, trách nhiệm với cảm xúc, tình cảm của bản thân, giúp học sinh hoàn thiện hơn trong nhân
cách, đạo đức và lối sống.
4. Các phương án giải quyết:
- Phương án 1: Giả vờ như không biết chuyện gì, tiếp tục bài giảng.
- Phương án 2: Tiếp tục giảng bài đến hết tiết và trao đổi việc với GVCN để GVCN tự giải
quyết.
- Phương án 3: Phê bình hai em trước lớp, bắt hai em đứng tách xa nhau và học vì không tập
trung vào bài.
- Phương án 4: Xuống bàn cuối hai em học sinh đó và nhắc nhở các chú tâm vào việc học, không
nên có tình cảm như vậy.
- Phương án 5: Mời một trong hai em trả lời bài học để các em tập trung vào tiết học trước. Sau
đó, trao đổi lại vấn đề này với giáo viên chủ nhiệm lớp, kết hợp lắng nghe tâm tư của các em và
có những chia sẻ, phân tích phù hợp về tình yêu học trò cho 2 em học sinh nói riêng và tập thể
lớp nói chung.
5. Phương án tối ưu.
- Các phương áp 1 – 2 – 3 – 4 được nêu trên có một số điểm chưa được tối ưu:
+ Ở phương án 1 và 2, việc lảng tránh không giải quyết được vấn đề, có thể sẽ khiến các em học
sinh đó càng mạnh dạn thể hiện tình cảm và phát triển cảm xúc sai lệch, không phù hợp với lứa
tuổi.
+ Ở phương án 3, việc nhắc nhở trực tiếp sẽ khiến các em xấu hổ trước bạn bè, nếu có những lời
nói không phù hợp có thể khiến học sinh “thù hận”, chán ghét và bỏ môn học.
+ Ở phương án 4, nếu nhắc nhở khéo thì cũng vẫn sẽ làm tiết học gián đoạn và các bạn trong lớp
sẽ bị tập trung vào hai bạn đó thay vì chú ý đến bài giảng
- Phương án 5 là phương án tối ưu nhất:
+ Mời một trong hai em trả lời câu hỏi nằm trong bài học, các em sẽ tự giác tập trung vào bài
học hơn vì phải suy nghĩ để trả lời câu hỏi và cũng biết giáo viên đang để ý đến mình.
+ Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để có các giải pháp lâu dài hơn:
Với học sinh: Tế nhị tìm cách gặp trực tiếp hai học sinh có rung cảm yêu đương để lắng nghe
tâm tư của các em. Không nên phán xét đúng sai, xấu tốt, không đổ lỗi hoặc cấm đoán, ngăn cản
gay gắn nhưng cũng không khuyến khích, cổ súy mà nên giữ thái độ tôn trọng, khách quan, công
bằng. Chia sẻ về tình yêu học trò, phân tích cho học sinh nhận thức rõ mặt tích cực và hạn chế,
cái tốt và cái hại của tình yêu tuổi học trò để các em biết giữ gìn và thể hiện tình cảm vừa đủ,
biến những rung cảm trong sáng đó thành động lực để học tập và hoàn thiện bản thân.
Với tập thể lớp: Tổ chức nhiều hoạt động tập thể phong phú để tập thể học sinh và các em có
những rung cảm yêu đương tích cực tham gia, gắn bó hơn với tập thể và có nhiều trải nghiệm
đáng quý trong giai đoạn đi học. Tổ chức các buổi tọa đàm về tình bạn, tình yêu, giới tính, sức
khỏe sinh sản để học sinh hiểu biết đầy đủ, khoa học, phù hợp về những vấn đề liên quan đến
tình yêu; Tổ chức và thực hiện chương trình phòng ngừa về kĩ năng thể hiện cảm xúc, cách thể
hiện tình cảm với bạn khác giới sao cho trong sáng, đúng mực với học trò; Giáo dục học sinh
biết tôn trọng tình cảm riêng tư của chính mình và ngừi khác. Không dùng chuyện tình cảm của
mình để gây phiền phức đến người khác, ngược lại, cũng không soi mói, giễu cợt tình cảm riêng
tư của người khác.
Với gia đình của học sinh và các lực lượng giáo dục khác: Giữ mỗi liên hệ và phối hợp với gia
đình, đoàn thanh niên, câu lạc bộ…cùng tham gia tác động, giáo dục những học sinh có rung
cảm yêu đương nói riêng và tập thể HS nói chung.

Tình huống 6: Em Nga, một học sinh nữ, từ tỉnh khác chuyển đến học tại lớp 7B ở nội thành
Hà Nội. Học sinh trong lớp không thích chơi với Nga. Trong khi đó, cô Yến - giáo viên chủ
nhiệm nhận thấy, Nga khá hiền lành và có phần học giỏi hơn các bạn khác trong lớp. Trong các
buổi sinh hoạt lớp, cô Yến đã nhắc nhở cách ứng xử của các học sinh khác với bạn mới đến,
nhưng không thấy hiệu quả. Nếu là cô Yến, bạn sẽ xử lí tình huống này như thế nào?
1. Phân tích tình huống:
- Học sinh trong lớp không thích chơi với Nga. Có thể vì những lý do sau đây:
 Tẩy chay Nga có thể vì (phân biệt vùng miền,...)
 Các bạn không tìm thấy điểm chung để chơi với Nga (nên có thể các bạn coi người lạ
thôi).
- Có thể một trong số những lý do sau đây xuất phát từ Nga:
 Nga có thể bị mắc những bệnh về tâm lý.
 Nga có thể không thích giao tiếp với mọi người.
 Nga có thể là người cảm thấy ổn khi ở một mình.
 Nga có thể là người khó thích nghi được với môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới…
 Nga có thể là người không hợp khi chơi với bạn bè trong lớp.
 Vì đề bài có đề cập tới chuyện Nga học giỏi, hiền lành nên dễ có thể trở thành đối tượng
ngon lành để cả lớp bắt nạt. (Nga xuất hiện trong lớp lại còn học giỏi nữa, dễ làm cả lớp tự
nạnh, còn hiền hiền thì điều kiện quá dễ để bị bắt nạt).

2. Các phương án có thể giải quyết

Bước 1: Giáo viên cần thiết phải hiểu THỰC SỰ SÂU về Nga. Lý do tại sao Nga lại như thế, hoàn
cảnh gia đình, để ý một cách tinh tế cách bạn bè đối xử với Nga và Nga đối xử với bạn bè…

Bước 2: Sau khi tìm hiểu rồi thì tùy xem Nga rơi vào trường hợp nào mà có các phương án giải quyết
phù hợp.

- Trường hợp 1: Nga là người thích sự cô độc, không thực sự thích chơi với bạn bè. Rất thoải
mái khi ở một mình.
=> Thì thôi.
=> Trong trường hợp này, cô Yến nên tôn trọng cá tính riêng của Nga, để em lựa chọn cách
sống riêng của mình và làm những việc em thích, miễn là không gây ảnh hưởng tiêu cực đến các
bạn khác trong lớp.

- Trường hợp 2: Nga bị những bệnh về tâm lý (trầm cảm, hội chứng sợ đám đông,...)
=> Đây là vấn đề rấc-nghiêm-trọng. Cho nên giáo viên cần thiết phải can thiệp sớm, nhờ sự trợ
giúp từ gia đình, các lực lượng giáo dục và quan trọng nhất là bác sĩ tâm lý.

- Trường hợp 3: Bạn bè tẩy chay Nga, xa lánh Nga, không thích chơi với Nga.
=> Đây là một tình huống rất phổ biến trong trường học. Ðây chính là tâm lý đám đông, bởi vậy
cần làm cho các em nhận thức rõ vấn đề đâu là sự đoàn kết thật sự, đâu là sự ngụy biện. Giải
thích, phân tích cho các em thấy hậu quả nghiêm trọng của việc tẩy chay đối với sức khỏe và
tâm sinh lý của bạn như thế nào.
=> Hoặc tách khỏi môi trường tẩy chay, chuyển học sinh sang lớp khác cũng là một biện pháp
hay như một cô giáo ở Trường Gia Ðịnh đã làm. Kết quả khi sang môi trường mới bạn bè thân
thiện hơn, học sinh bị tẩy chay đã nhìn lại mình nên trở lại bình thường, tự tin hơn với bản thân
và các mối quan hệ.
Thầy cô chủ nhiệm nắm bắt kịp thời các hiện tượng tẩy chay để có thể ngăn chặn sự việc khi chỉ
mới manh nha. Gia đình cần quan tâm đến sự thay đổi của các em để tìm hiểu kỹ những nguyên
nhân và có giải pháp hữu hiệu, kịp thời phối hợp với nhà trường để giúp đỡ các em.

- Trường hợp 4: Nga muốn chơi với các bạn nhưng không biết nên bắt đầu thế nào, các bạn đã
thân nhau từ trước…
=> Trong trường hợp này, trước tiên, cô Yến không nên nóng vội hay mất bình tĩnh. Ở lứa tuổi
THCS, các em thường muốn khẳng định cái tôi của mình và không thích nghe theo sự ép buộc
của người lớn, do vậy, cô Yến có thể làm những việc sau:
 Cô Yến cũng không nên quán triệt trước lớp về việc không được thành kiến với bạn mới hay
phải chơi với bạn vì nếu như vậy, học sinh trong lớp có thể nghĩ rằng cô đang bênh vực bạn
mới, từ đó dẫn đến những kết quả tiêu cực hơn.
 Cô Yến nên gặp riêng Nga để hướng dẫn em về cách tiếp cận với các bạn trong lớp, gợi ý
cho Nga về việc tham gia các hoạt động tập thể với một thái độ nhiệt tình, thân thiện và
không kiêu căng. Nếu Nga thật sự là một người đáng mến, theo thời gian, các bạn trong lớp
sẽ dần yêu quý Nga hơn và từ đó Nga cũng dễ dàng hơn trong việc hoà đồng với các bạn.
 Cô Yến có thể tổ chức các hoạt động nhóm, các trò chơi để gắn kết bạn bè trong lớp với
nhau và đặc biệt để tâm, chú ý đến Nga, giúp Nga hòa nhập với lớp nhanh hơn.
 Cô Yến có thể dùng sự nhiều não của Nga để chia thành các nhóm học, Nga (và các bạn học
giỏi) sẽ ngồi vào một nhóm. Nga chuyên đi giảng cho các bạn học chưa tốt => Nga có thể tự
tin dùng học lực của mình để ban phát kiến thức, vừa có thể cùng làm bài với cộng đồng học
giỏi trong lớp.
Tình huống 7: Là giáo viên chủ nhiệm lớp 10A7, cô Minh Thanh biết được tình trạng có một
nhóm học sinh thường xuyên bắt nạt Trung - một học sinh đồng tính ở trong lớp . Tuy nhiên,
học sinh cầm đầu nhóm bắt nạt lại là Nam - con trai của bác trưởng ban phụ huynh. Ban cán sự
lớp đã nhắc nhở song nhóm này còn có thái độ đe dọa ngược lại. Nếu là cô Minh Thanh, bạn sẽ
làm gì để giảm thiểu vấn đề bắt nạt học đường cũng như giữ được mối quan hệ tốt với ban phụ
huynh của lớp?
1. Xác định vấn đề:
- Có học sinh trong lớp bị bắt nạt (thể chất & tinh thần) vì sự khác biệt về cơ thể.
- Có tình trạng học sinh lợi dụng địa vị của phụ huynh để bắt nạt các bạn khác.
- Có sự mất đoàn kết trong lớp học, có nhóm đối đầu với phần còn lại cảu lớp học.
2. Phân tích vấn đề:
- Việc học sinh bị bắt nạt là một vấn đề nghiêm trọng, có thể gây những hậu quả trực tiếp đến học
sinh, bao gồm sức khỏe thể chất – thương tích từ việc có thể có bạo lực, lẫn sức khỏe tinh thần –
tự ti, bi quan với cuộc sống, tự cô lập với môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến cuộc sống của
học sinh cả trong mỗi trường học đường và ngoài xã hội.
- Học sinh lợi dụng địa vị gia đình để cổ súy cho hành động của bản thân, tự đề cao bản thân, yêu
cầu các học sinh khác phải theo quan điểm của mình, chia tầng lớp, tạo dựng bè phái, điều này
xuất phát từ nhận thức của học sinh bị sai lệch, không được giáo dục đúng cách, vì vậy, cần phải
định hướng lại nhận thức cho học sinh.
- Có sự chia rẽ, không đoàn kết giữa các học sinh, các học sinh công khai công kích, đe dọa khi bị
các bạn khác nhắc nhở, vì vậy không phải chỉ cần giải quyết tình trạng bắt nạt mà hơn nữa cần
làm cho các nhóm lẻ hòa nhập với môi trường lớp học, không tự tách biệt, đối đầu với phần còn
lại của lớp.
3. Mục tiêu:
- Giảm thiểu vấn đề bắt nạt học đường trong lớp học, can thiệp trực tiếp những tình huống có thể
dẫn đến bắt nạt, đồng thời giải quyết tận gốc vấn đề, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, giáo
dục vấn đề giới tính và LGBT, nâng cao ý thức của học sinh để cả nhóm bắt nạt hiểu ra đó là sự
khác biệt mà thế giới đã công nhận, cùng lúc giúp cho nạn nhân bị bắt nạt thêm tự tin, phát triển
bản thân, hòa đồng với môi trường lớp học.
- Giải quyết tận gốc vấn đề của các học sinh có nhận thức sai lệch, cố gắng định hướng cho các
học sinh đó có nhận thức, suy nghĩ đúng đắn, từ đó đưa những nhóm tách biệt lại gần với lớp
học, gắn kết lớp học.
- Giữ mối quan hệ tốt với ban phụ huynh, cho phụ huynh của bạn Trung tin tưởng vào môi trường
học và những phụ huynh của nhóm học sinh bắt nạt cảm thấy thỏa đáng, không phật lòng.
4. Định hướng cách giải quyết:
- Bước 1: Cô Minh Thanh phải đảm bảo an toàn sức khỏe của cả chủ thể bắt nạt – Nhóm của
Nam lẫn nạn nhân bị bắt nạt – bạn Trung. Nếu việc bắt nạt trở nên nghiêm trọng ngoài tầm có
thể xử lí nội bộ thì ngay lập tức báo cáo, huy động gia đình, nhà trường (Ban giám hiệu, đoàn
thanh niên,…) hoặc cấp thiết là các cơ quan chức năng (Công an, bảo vệ,…) can thiệp nhằm
mục đích quan trọng nhất là bảo đảm sự an toàn của học sinh.
Giải thích: Khi xảy ra tình huống bị bắt nạt, có khả năng xảy ra xô xát giữa hai bên, không chỉ
bên nạn nhân tổn hại về sức khỏe thể xác, tinh thần mà có khả năng bị dồn đến đường cùng mà
phản kháng, tấn công ngược chủ thể bắt nạt.
Cô Minh Thanh cần xác định mức độ của việc bắt nạt bằng cách thu thập thông tin từ phía toàn
thể học sinh. Liệu việc bắt nạt đang dừng ở mức bắt nạt tinh thần: miệt thị, tẩy chay, dọa nạt, cô
lập, đe dọa bằng tin nhắn, thư từ, cống nạp vật chất hay đã đến mức bạo lực, hành hạ thể chất
như đánh đập bằng chân tay, bằng cách phương tiện vũ lực khác.
Nếu mức bắt nạt mới dừng ở mức bắt nạt tinh thần như nói xấu, miệt thị, cô lập, tẩy chay,…, cô
Thanh cần phải đảm bảo an toàn về mặt sức khỏe của nạn nhân, đảm bảo sự việc không tiến tới
bạo hành thể xác, gây thương tích bằng cách yêu cầu các học sinh khác ngay lập tức báo cáo và
ngay lập tức báo tin về cho giáo viên nếu hành vi bắt nạt trở nên thái quá, mất kiểm soát, có thể
gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng đồng thời đảm bảo an toàn cho các học sinh báo tin.
Nếu sự việc đã tới mức hành hung, đánh đập, giáo viên ngay lập tức can thiệp, có thể huy động
sự can thiệp của phụ huynh, nhà trường, cơ quan chức năng can thiệp, yêu cầu học sinh bắt nạt
ngay lập tức dừng hành vi, đông thời thông báo cho phụ huynh kiểm tra sức khỏe tại nhà tất cả
các học sinh liên quan, ngay lập tức đưa đến bệnh viện nếu phát hiện thương tích nguy hiểm.
- Bước 2: Cô Thanh cần làm việc riêng với từng bên (nhóm bắt nạt và bạn Trung), nói chuyện,
đối chất để tìm hiểu tường tận nguyên nhân, bản chất, mức độ của sự việc, có thể yêu cầu học
sinh viết bản tường trình nếu cần thiết, tiến hành phân tích từng hành vi, mức độ chịu trách
nhiệm với các hành vi đã gây ra.
Khi nói chuyện với học sinh, cô Thanh phân tích, giải thích rõ cho những học sinh thực hiện
hành vi bắt nạt mức độ nguy hại của hành vi vi phạm, quy chế xử lí của lớp, trường như thế nào
với các hành vi đó.
Nếu những việc bắt nạt chỉ mới nhỏ lẻ, đơn thuần như nói xấu, tẩy chay thì cô Thanh chủ động
nói chuyện, khuyên chủ, để học sinh rút kinh nghiệm với những việc làm của mình. Nếu hành vi
bắt nạt nghiêm trọng thì tiến hành giáo dục mang tính răn đe cho cá nhân và tập thể học sinh để
không xảy ra các hành vi tương tự ở trong và ngoài nhà trường.
- Bước 3: Tiến hành nói chuyện và định hướng lại nhân thức cho nhóm học sinh bắt nạt, kết hợp
nói chuyện với phụ huynh để định hướng nhận thức sai lệch của học sinh.
Để giữ được mối quan hệ tốt với ban phụ huynh những vẫn đạt được mục tiêu là huy động phụ
huynh thay đổi nhận thức của học sinh, cô Thanh tiến hành trao đổi riêng với từng phụ huynh
của nhóm học sinh vi phạm, cô cần giải thích những hành vi học sinh đã làm và tùy theo mức độ
vi phạm mà xử lý theo qui định của nhà trường, đồng thời huy động phụ huynh giáo dục lại nhận
thức của học sinh, sát sao, quán triệt hành vi của học sinh để học sinh không tái diễn.
- Bước 4: Tiền hành giáo dục, tổ chức các hoạt động trải nghiệm, hoạt động tập thể, hoạt động
nhóm.
Với Trung, tiếp cận, gặp gỡ và lắng nghe những khúc mắc trong suy nghĩ, hành vi, nhân thức
của Trung, nghe những tâm sự của em để em có thể cởi mở, hòa đồng trở lại với lớp sau khoảng
thời gian bị bắt nạt.
Với cả lớp, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về các vấn đề bắt nạt học đường, giáo dục về kỷ
luật, quy tắc ứng xử trong trường lớp và xã hội, giáo dục tính năng quyết đoán, tự bảo vệ bản
thân trong các mối quan hệ.
Với nhóm bắt nạt, giáo dục các em về những hành vi vi phạm của mình, sẽ còn bị xử lí nếu còn
tái phạm, đồng thời nâng cao nhân thức của học sinh, tổ chức các hoạt động trải nghiệm để học
sinh hòa nhập với môi trường lớp học, đồng thời cho học sinh cơ hội để tự kiểm điểm, rút kinh
nghiệm, sửa đổi những hành vi của mình.
Với toàn thể lớp nói chung, tổ chức thêm các hoạt động trải nghiệm, hoạt động nhóm (VD như
tìm hiểu về LGBT) để các học sinh khác thay đổi nhận thức, đề cao sự khác biệt riêng của mỗi
cá nhân, đông thời tổ chức các hoạt động gắn kết lớp học, xếp nhưng học sinh của nhóm bắt nạt
vào khác nhóm khác nhau, mục tiêu là để học sinh tự làm quen và hòa đồng hơn với những bạn
khác trong lớp, dẫn đến sự đoàn kết trong lớp học.
Tình huống 8: Trong lớp 10C, có một học sinh rất thích tham gia vào các hoạt động tập thể,
nhưng lại chưa chuyên cần trong học tập. Em thường lấy lí do đi tổ chức các hoạt động, sự kiện
của trường, lớp để xin nghỉ một số tiết. Nếu là giáo viên chủ nhiệm lớp 10C, bạn sẽ làm gì?
1. Xác định vấn đề:
- Việc học tập của học sinh
- Việc tham gia vào các hoạt động, sự kiện của trường lớp
- Ý thức của học sinh
- Kĩ năng mềm của học sinh
2. Phân tích vấn đề:
- Việc học của học sinh: Việc học của học sinh có thể đang bị ảnh hưởng, dù ít dù nhiều cũng làm
chậm tiến độ tiếp thu kiến thức của học sinh, ảnh hưởng lâu dài về nền tảng kiến thức sau này.
- Việc tham gia vào các hoạt động, sự kiện của trường lớp: Tham gia vào các hoạt động của
trường, lớp là điều rất đáng hoan nghênh và khuyến khích, tuy nhiên việc tham gia một cách
không có kế hoạch và để nó ảnh hưởng đến việc học là khá nguy hiểm.
- Ý thức, trách nhiệm của học sinh: Khi học sinh quyết định lấy việc tham gia sự kiện của trường
lớp làm lý do để trì hoãn hay thậm chí bỏ bê việc học thì điều đó chứng tỏ ý thức học tập của
học sinh khá thấp. Nếu không tự cải thiện sau này sẽ để lại những ảnh hưởng khá lớn không chỉ
trong học tập mà còn cho tương lai sau này.
- Kỹ năng mềm của học sinh: Dù vô tình hay cố ý lấy việc tham gia sự kiện của trường, lớp để
lảng tránh việc học cho thấy học sinh không có kỹ năng quản lý và sắp xếp thời gian của bản
thân. Học sinh khá yếu trong việc làm chủ thời gian của mình để mọi việc vốn rất tốt làm ảnh
hưởng đến nhau, làm giảm hiệu quả của nhau.
3. Mục tiêu
Cách giải quyết cần làm cho học sinh tôn trọng, nể phục; cho học sinh thấy tầm quan trọng
của việc học không chỉ ở thời điểm hiện tại và còn có giá trị đến tương lai sau này. Đồng thời
cũng không giảm nhẹ việc tham gia các hoạt động, sự kiện của trường, lớp tuy nhiên cần khuyến
khích cũng như hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu, cách quản lý tốt quỹ thời gian của bản
thân. Hơn nữa giúp học sinh nâng cao ý thức, trách nhiệm với những việc mà bản thân lựa chọn,
giúp học sinh hoàn thiện hơn trong nhân cách, đạo đức và lối sống.
4. Xác định những giải pháp có thể
- Giáo viên gọi học sinh lên trước lớp và phê bình trước mặt cả lớp nói rằng: “ Em nên xem lại
cách học của bản thân, nếu muốn bản thân có thành tích tốt hơn trong học tập thì nên bỏ việc
tham gia các hoạt động sự kiện của trường lớp vì nó là vô bổ, là không cần thiết.”
- Giáo viên gọi điện thoại cho phụ huynh học sinh phê bình việc học của HS đang bị sa sút do mải
tham gia vào các hoạt động ngoài lề và không giúp ích gì được cho tương lai. Đồng thời yêu cầu
phụ huynh HS cần có những biện pháp răn đe nặng hơn để HS tập trung vào việc học.
- Giáo viên gọi học sinh ở lại sau giờ học và nói rằng: “Nếu còn để tình trạng này tiếp tục xảy ra,
cô sẽ đình chỉ việc học và có những biện pháp mạnh hơn để răn đe.” Đồng thời có thái độ không
tán thành việc HS tham gia quá nhiều và đang có ý định lấy việc tham gia đó làm lý do để bỏ
việc học. Điều đó là không chấp nhận được.
- Giáo viên cố gắng tìm hiểu thời gian tổ chức những sự kiện gần đây, xem xét việc học sinh nghỉ
học là do vô tình trùng lịch hay cố ý viện lý do để trốn tránh để đưa ra giải pháp thích hợp. Tìm
hiểu xem sự việc tương tự có xảy ra ở bộ môn khác hay không. Sau khi tìm hiểu kĩ mọi việc,
giáo viên sẽ nhẹ nhàng khuyên nhủ học sinh sau giờ học, rằng, cả hai việc đều rất quan trọng,
mỗi việc đem lại cho chúng ta một trải nghiệm và những kinh nghiệm khác nhau, không nên chỉ
tập trung vào một việc mà bỏ bê việc kia. Cần phải sắp xếp mọi việc một cách hợp lý để không
ảnh hưởng tới việc học và tới tương lai.
5. Lựa chọn giải pháp
Nếu là giáo viên em sẽ chọn giải pháp thứ 4.
- Ở giải pháp thứ nhất, khi giáo viên gọi HS lên trước lớp để phê bình, điều đó đã đánh vào lòng
tự trọng của một học sinh lớp 10. Ở độ tuổi này, HS dễ bị tổn thương bởi những tác động bên
ngoài, đặc biệt là do lời nói tác động lên. Việc bị phê bình trước lớp không những không giải
quyết được những vấn đề nêu ra mà còn để lại những tác động tiêu cực nghiêm trọng. Có thể
khiến HS càng thêm ghét việc học và càng lảng tránh, hay thậm chí bỏ bê hoàn toàn và cũng
không còn tâm trạng để tham gia những hoạt động, sự kiện của trường, lớp.
- Ở giải pháp thứ hai,việc giáo viên gọi điện cho phụ huynh học sinh để phê bình khiến phụ huynh
học sinh có cái nhìn không toàn diện về sự việc đang diễn ra. Hiện nay, tuy suy nghĩ của những
bậc phụ huynh và thế hệ trước đang dần hiện đại hơn nhưng vẫn còn không ít người lấy việc đòn
roi để răn dạy con. Có thể chính việc gọi điện thoại đó mà em học sinh có thể bị cha mẹ mắng,
đánh đòn hay thậm chí có những biện pháp mạnh hơn khiến em đó sợ và thậm chí để lại những
vết đen trong tâm lý, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển nhân cách sau này.
- Ở giải pháp thứ ba, tuy giáo viên đã gọi học sinh ra nói chuyện riêng sau giờ học nhưng lại dùng
những lời lẽ không đúng dễ khiến học sinh hiểu lầm. Đặc biệt khi em học sinh là người năng
động và luôn tích cực tham gia vào các hoạt động của trường, lớp mà lại nghe từ giáo viên chủ
nhiệm rằng đó là việc vô bổ, không cần thiết có thể gây ra một cú sốc lớn trong tâm lý học sinh.
HS đó có thể không còn niềm tin vào giáo viên và cả bên phía nhà trường và càng làm cho sự
việc thêm nghiêm trọng.
- Ở giải pháp thứ tư, các vấn đề đều được giải quyết. Khi giáo viên chủ động tìm hiểu các vấn đề
đang xảy ra, cho thấy họ là người có trách nhiệm với học sinh và với nghề nghiệp. Chỉ khi hiểu
rõ sự việc và nhìn nhận nó một cách toàn diện giáo viên mới có thể giải quyết vấn đề một cách
triệt để nhất. Giáo viên đã khuyên nhủ và cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học nhưng
không phủ nhận tầm quan trọng của các hoạt động bên ngoài khiến cho học sinh nể phục và nhìn
ra cái sai của mình. Ở độ tuổi đẹp nhất thời học sinh, em xứng đáng có một người giáo viên tâm
huyết và sẻ chia những khúc mắc và ấm ức trong lòng, để phát triển nhân cách một cách toàn
diện nhất. Đồng thời giáo viên cũng có thể giúp em HS lập thời gian biểu, nâng cao kĩ năng
quản lý thời gian để hoàn thành các công việc một cách nhanh chóng và không ảnh hưởng lẫn
nhau. Khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động phù hợp với quỹ thời gian của bản
thân để không ảnh hưởng đến việc học và có thời gian dành cho gia đình. Và chỉ khi học sinh
hiểu được mọi việc và thật sự muốn cải thiện nó thì đó mới là giải pháp tối ưu nhất.
Tình huống 9: Một em học sinh trong lớp bạn chủ nhiệm trước đây rất ngoan và chăm học,
nhưng thời gian gần đây, có biểu hiện bỏ tiết, kết quả học tập giảm sút. Sau khi tìm hiểu, bạn
biết được, bố mẹ em ấy mới li hôn và mỗi khi bỏ học, em thường đi chơi games. Là giáo viên
trong tình huống này, bạn sẽ làm gì?
1. Vấn đề đặt ra
- Sự xáo động về tâm lí của học sinh khi đứng trước biến cố lớn trong gia đình.
- Học sinh bị sa ngã vào trò chơi điện tử.
- Học sinh không chú tâm vào học tập, kết quả học tập sa sút.
2. Phân tích vấn đề
Nguyên nhân: do bố mẹ li hôn, gia đình tan vỡ.
 Nguyên nhân trên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đứa trẻ. Do thiếu đi sự yêu thương
của cả bố và mẹ, em học sinh dễ bị hình thành tâm lí tự ti, mặc cảm, bị bỏ rơi. Do thiếu sự định
hướng, dẫn dắt từ phía gia đình, em sẽ dễ bị lạc hướng, cám dỗ từ các tệ nạn xã hội,... và cả dễ
mắc các bệnh về rối loạn tâm lí (trầm cảm, tự kỉ,…).
3. Xác định mục tiêu
- Giúp bạn học sinh ổn định về tâm lí.
- Xác định vai trò, tầm quan trọng của việc học tập đối với cuộc đời mỗi con người.
- Phân tích tác hại của trò chơi điện tử khi chơi quá nhiều.
- Định hướng lại mục tiêu học tập của em học sinh.
4. Xác định các giải pháp có thể
Giải pháp 1: Bắt tại trận em học sinh chơi game => Phê bình trực tiếp => Thông báo với phụ
huynh và yêu cầu viết bản kiểm điểm.
Giải pháp 2: Gặp riêng em học sinh, phê bình và nhắc nhở học sinh về kết quả học tập giảm sút.
Giải pháp 3:
- Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình hiện tại của em học sinh (ở với ai, điều kiện sống như thế nào,
bố mẹ có quan tâm đến em học sinh hay không,…).
- Gặp mặt phụ huynh.
- Gặp mặt trò chuyện với em học sinh.
- Những ngày sau đó, quan tâm, gần gũi với em học sinh hơn.
5. Lựa chọn giải pháp (Ưu, nhược điểm của từng giải pháp)
Giải pháp 1:
Ưu điểm:
- Có thể khiến em học sinh sợ ngay lập tức.
Nhược điểm:
- Khiến em học sinh càng thêm xấu hổ và tự ti (ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lí).
- Khiến cho khoảng cách giữa cô và trò thêm xa cách.
- Khiến cho vấn đề càng khó giải quyết.
Giải pháp 2:
Ưu điểm:
- Có thể giúp em hiểu ra được một số vấn đề.
Nhược điểm:
- Tính hiệu quả không lâu dài và cách xử lí chưa triệt để, do học sinh vẫn bị ảnh hưởng tâm lí từ
phía gia đình.
Giải pháp 3:
Ưu điểm:
- Bao quát được vấn đề.
- Tôn trọng học sinh.
- Tạo được mối quan hệ thiện cảm gần gũi giữa giáo viên với học sinh.
- Có được sự tin tưởng của học sinh.
- Là cơ sở để giáo viên có thể phân tích đúng sai với học sinh.
- Học sinh có thể rút ra được bài học, cách xử lí khi đứng trước biến cố lớn trong cuộc đời.
Nhược điểm:
- Mất nhiều thời gian để thay đổi (do đây là cả một quá trình).
Vì vậy, xét về mọi mặt, giải pháp 3 là khả thi và hiệu quả nhất.
6. Thực hiện giải pháp
Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình hiện tại của em học sinh (ở với ai, điều kiện sống như thế nào, bố
mẹ có quan tâm đến em học sinh hay không, thái độ của em đối với bố mẹ, …).
Đối với phụ huynh: Gọi điện, gặp riêng trò chuyện về tình hình học tập và hoàn cảnh gia đình và
tâm lí học sinh.
TH1: Gia đình quan tâm  Cùng gia đình định hướng giải pháp giúp em thay đổi, ổn định tâm lí.
TH2: Gia đình không quan tâm  Không nhất thiết trao đổi về tình hình của em học sinh.
Đối với học sinh:
Xác định đối tượng học sinh (nam/nữ, độ tuổi, tính cách,…)
Gặp riêng, trò chuyện tâm sự, lắng nghe để em mở lòng. Dần dần, khi đã gần gũi với em hơn, giáo
viên có thể kể các câu chuyện về những người có hoàn cảnh tương tự, nhưng vẫn thành công sau
này, để khơi gợi lại được tinh thần học tập của em và giúp em định hướng lại được mục tiêu học tập
ban đầu.
Những ngày sau đó:
Quan tâm, gần gũi với em học sinh đó hơn; trò chuyện, động viên em sau mỗi buổi học.
Giáo viên tổ chức nhiều hoạt động tập thể, giúp cả lớp thêm gắn kết, giúp cho em học sinh không
cảm thấy tự ti vì bản thân khác biệt.
Trong những tiết sinh hoạt, giáo viên có thể kể những câu chuyện, những tấm gương tiêu biểu về
tinh thần vượt khó, để giúp các bạn học sinh trong lớp có cái nhìn tích cực hơn trước mỗi khó khăn,
sóng gió trong cuộc sống mà sau này các em phải đối mặt.

You might also like