Professional Documents
Culture Documents
A. LÝ THUYẾT
1) KHÁI NIỆM GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Giao tiếp
Trong Tâm lí học, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hộ người -
người, hiện thực hoá quan hệ xã hội giữa người với nhau. Nói cách khác, giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí
giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẩn
nhau, ảnh hướng tác động qua lại với nhau.
VD:
+ Khi tổ chức trò chơi cho trẻ, bằng giao tiếp, cô giáo và trẻ cũng như giữa các trẻ với nhau
thống nhất về luật chơi, cách chơi.
+ Giao tiếp giữa các quốc gia , các cộng đồng trên thế giới để cùng hành động bảo vệ môi
trường.
b. Giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính nghề nghiệp giữa giáo viên và học sinh trong quá trình
giáo dục, có chức năng sư phạm nhất định, tạo ra các tiếp xúc tâm lí, xây dựng bầu không khí tâm lí
thuận lợi cùng với các quá trình târn lí khác (chú ý, tư duy...) tạo ra kết quả tối ưu của quan hệ thầy trò
trong hoạt động dạy và hoạt động học cũng như trong nội bộ tập thể học sinh.
VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh trong lớp nghe giảng.
+ Giáo viên trao đổi về kiến thức với các đồng nghiệp.
2) PHÂN LOẠI GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Căn cứ vào phưong tiện giao tiếp, có hai loại giao tiếp sau:
Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con
người bằng cách sử dụng những tín hiệu chung là từ, ngữ. Từ, ngữ là những tín hiệu quy ước của con
người dùng để chí chính bản thân sự vật. hiện tượng, lúc là làm vật thay thế cho chúng, và do dó khác
hản với tiếng kêu của con vật. Thông qua giao tiếp bàng ngôn ngừ, con người mới có thể lưu giữ,
truyền đạt, lĩnh hội và phát triển kinh nghiệm xã hội - lịch sứ.
VD:
+ Giao tiếp giữa thầy, cô giáo với học sinh khi thầy cô giáo đặt câu hỏi và học sinh trả lời; khi
thầy cô giảng bài và học sinh nghe giảng;...
+ Giáo viên trao đổi với phụ huynh học sinh về tình hình học tập của con cái qua thư điện tử,
email,...
Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ: là giao tiếp bàng các tín hiệu không phải là ngôn ngữ mà
bắng sự chuyển động của thân thể, của cơ mặt, trang phục, điệu bộ, giọng nói, bài trí không gian, âm
nhạc, màu sắc, vật thể, khoảng cách... Sự kết họp giữa các tín hiệu phi ngôn ngữ khác nhau có thể thể
hiện các sắc thái tâm li khác nhau của con người.
VD:
+ “Lắc đầu” đi cùng với "nét mặt hầm hầm” thì có nghĩa là tức giận...
Người ta cũng thông qua hành động với vật thể hoặc các giá trị vật chất mà tiếp xúc tàm lí với
nhau.
VD:
+ Cô giáo gõ mạnh thước lên mặt bàn là có dụng ý nhác học sinh trật tự.
+ Trao nhẫn cưới để cầu hôn...
b. Căn cứ vào khoảng cách giao tiếp, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:
Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu của nhau,
ví dụ: cô giáo giao tiếp trong lóp với học sinh. Trong quá trình giao tiếp trực tiếp, ngoài việc sử dụng
ngôn ngữ, con người còn sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ để phụ hoạ và có thể biết ngay kết quả
cuộc giao tiếp.
Giao tiếp gián tiếp: giao tiếp thông qua nhân vật trung gian, phương tiện kĩ thuật (thư từ, điện
tín...) hoặc có khi qua ngoại cảm, thần giao cách cảm...
VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh ở trên lớp là giao tiếp trực tiếp, giảng bài qua các phần
mềm dạy học trực tuyến là giao tiếp gián tiếp.
+ Sinh viên và giảng viên trao đổi bài tập qua thư điện tử là giao tiếp gián tiếp.
c. Căn cứ vào quy cách giao tiếp, người ta thường chia làm hai loại:
Giao tiếp chính thức: giao tiếp diễn ra theo quy định, thể chế, chức trách. Những người tham gia
giao tiếp phải tuân thủ một số yêu cầu xác định.
VD:
+ Giao tiếp giữa giáo viên và học sinh.
+ Giao tiếp giữa các nguyên thủ quốc gia...
Giao tiếp không chinh thức: giao tiếp không bị ràng buộc bởi các nghi thức, mà dựa vào tírứi tự
nguyện, tự giác, phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú, cảm xúc... của những người tham gia giao tiếp.
VD:
+ Giao tiếp nhóm bạn bè; giao tiếp giữa các cá nhân trên một chuyến xe, cùng xem bóng đá...
=> Các loại giao tiếp nói trên liên quan chặt chê với nhau, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho
mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng phong phú, đa dạng.
3) ĐẶC TRƯNG CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Giao tiếp sư phạm mang tính chuẩn mực (mẫu mực).
Tính chuẩn mực là một tất yếu trong giao tiếp sư phạm. Khi giảng bài, khi đánh giá học sinh và
khi gặp gỡ trò chuyện với học sinh, thầy luôn phải có sự mẫu mực, thống nhất giữa lời nói với việc
làm... phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
VD: Chuẩn mực, tác phong của nhà giáo luôn là một yếu tố được quan tâm và đặt lên hàng đầu,
nhà nước cũng đã quy định rất rõ tại Điều 5 Quy định về đạo đức nhà giáo ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT thì Tiêu chuẩn lối sống, tác phong của nhà giáo. Trong mỗi
trường sư phạm, tác phong của người giáo viên không chỉ là bộ mặt của nền giáo dục, mà còn
ảnh hưởng trực tiếp tới học sinh, tác động tới hành vi và nhân cách của học sinh.
b. Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên chú yếu tác động đến học sinh bằng tình cảm.
+ Giáo viên tác động bằng tình cảm của mình.
+ Giáo viên tác động tới mặt tình cảm của học sinh.
Các loại giao tiếp khác đòi hỏi cả lí và tình hoặc thiên về lí, thậm chí chi có lí (nguyên tắc).
VD: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, người giáo viên không nên trách cứ, mắng, hay có
những hành động tiêu cực trực tiếp. Thay vào đó, người giáo viên nên tìm hiểu kĩ nguyên nhân,
lí do khiến học sinh không làm bài tập, đồng thời ôn tồn trò chuyện để từ đó, đưa ra lời khuyên
để học sinh khắc phục lỗi sai của mình.
c. Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên tác động đến học sinh bằng nhân cách của mình.
+ Giáo viên dùng nhân cách của mình làm công cụ tác động. Hiệu quả tác động bằng lời nói hay
hành động tới học sinh do nhân cách của giáo viên quy định.
+ Giáo viên không thể giáo dục một phẩm chất nào đó cho học sinh mà bản thân họ chưa có.
VD: Khi đi học, chúng ta thường có thói quen trình bày bài giống những gì thầy, cô giáo làm.
Không chỉ dừng lại ở bài tập, tác phong và cử chỉ của người giáo viên còn ảnh hưởng trực tiếp
tới thói quen, cảm xúc của học sinh. Một người thầy có thói quen dừng lại giữa bục giảng chào
học sinh khi vào lớp, hành động này khiến học sinh hình thành thói quen đứng dậy nghiêm
chỉnh chào thầy giáo. Dần dần, điều này trở thành một phản xạ, mỗi khi đến môn học của thầy
học sinh đều chủ động đứng dậy trước để chào, thể hiện sự tôn trọng của bản thân.
d. Giao tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội. (Được xã hội thừa nhận và tôn trọng)
+ Giao tiếp sư phạm diễn ra trong môi trường sư phạm - an toàn, lành mạnh.
+ Nhà nước và xã hội đều tôn trọng người thầy giáo.
VD: Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt
động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”. Từ nhận định trên, có thể thấy rõ giao tiếp sư
phạm là giao tiếp xã hội.
4) CHỨC NĂNG CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Trao đổi thông tin.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm trước hết là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các giá trị... mà
thầy giáo truyền đạt đến học sinh. Đó là nội dung bài học, môn học, cách học..., hay nói rộng hơn, đó là
kinh nghiệm xã hội lịch sử mà mỗi người đến trường cần được lĩnh hội để sống bình thường trong xã
hội. Để lĩnh hội được, học sinh phải thông qua giao tiếp với thầy giáo, với bạn bè... Quá trình đó xét về
chức năng của nó là quá trình giáo dục. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, học sinh tiếp thu được tri thức
của nhân loại để hình thành, phát triển trí tuệ, nhân cách và trên cơ sở tri thức đó mà phát triển nền vãn
hoá xã hội.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm còn là những cảm xúc, là thế giới tâm hồn của những người
tham gia giao tiếp. Mỗi con người là một thế giới tâm hồn chứa đựng cảm xúc.
VD: Trong một tiết học, thầy giáo kể một câu chuyện của bản thân về lần đầu được điểm kém
do không ôn bài. Không chỉ nằm ở việc giúp học sinh biết về một kỉ niệm trong quá khứ của
mình, thầy giáo còn giúp học sinh nhận ra được sai lầm trong cách ôn thi, từ đó rút ra kinh
nghiệm và học tập cẩn thận. Việc trao đổi thông tin trong giao tiếp sư phạm diễn ra từ cả hai
phía, giữa thầy và trò, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục.
b. Tri giác lẫn nhau.
Giao tiếp sư phạm luôn diễn ra sự nhận thức và hiểu biết nhau giữa giáo viên và học sinh. Đặc
tính quan trọng của tri giác lẫn nhau không chỉ là nhận thức về đối tượng giao tiếp mà còn nhận thức
được chính bản thân trong mối quan hệ đó. Tri giác lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình giao tiếp, giúp
mỗi người thu thập thông tin cả cảm tính (tư thế, tác phong, ánh mắt, nụ cười, trang phục...) lẫn lí tính
(phẩm chất, tính cách, tình cảm...) của đối tượng giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp sư phạm, giáo viên
và học sinh hiểu biết lẫn nhau bằng cách cùng chia sẻ cảm xúc, bằng con đường đồng nhất hoá bản
thân mình với người kia và bằng biện pháp suy nghĩ về người kia. Nhờ tri giác lẫn nhau mà giáo viên
hiểu rõ học sinh của mình hơn, chất lượng quan hệ cũng như hiệu quả của tác động giáo dục nâng cao
hơn. Tri giác lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm là một hình thức tri giác liên nhân cách.
VD: Khi người giáo viên đặt ra một câu hỏi khiến học sinh lộ ra vẻ lúng túng. Lúc này, người
giáo viên không nên gặng hỏi, mà chủ động gợi ý, đặt ra những câu hỏi phụ đơn giản hơn, để
học sinh có thể tự tin và tìm ra câu trả lời chính xác. Từ đó, tạo ra cảm giác tự tin cho người
học, cũng như không khí thoải mái cho giờ học. Việc quan sát thái độ của người học, cũng như
người dạy, có lợi ích rất lớn nhằm nâng cao chất lượng của giờ học, đem lại cảm giác thoải
mái, hứng khởi.
c. Đánh giá lẫn nhau.
Cùng với sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp, con người luôn có sự đánh
giá lẫn nhau trên cơ sở định hướng giá trị của mình. Kết quả của nó ảnh hướng quyết định tới tiến trình
cũng như hiệu quả của quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, từ chỗ hiểu nhầm dẫn đến đánh giá sai về học
sinh, giáo viên có thể căng thẳng trong cư xử với các em, và tất nhiên, giáo viên sẽ hứng chịu phản ứng
có thể là trực tiếp hoặc ngấm ngầm không lấy gì là tốt đẹp từ phía học sinh, thậm chí có thể phá vỡ
quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học sinh.
VD: Khi gặp phải một bài làm điểm kém của một học sinh, người giáo viên không nên lập tức
trách móc hay có những hành động tiêu cực. Thay vào đó, người giáo viên cần tìm hiểu kĩ lực
học của học sinh này, từ đó đưa ra những phương án giảng dạy phù hợp, đem lại sự thoải mái
cũng như động lực cho học sinh phấn đấu.
d. Ảnh hưởng lẫn nhau.
Mỗi người tham gia giao tiếp quan hệ với người cùng giao tiếp với mình như là chủ thể có tâm
lí, ý thức. Nếu trong hoạt động thực tiễn có đối tượng, kết quả là vật chất (đối tượng được cải tạo), thì
trong giao tiếp kết quả trước hết liên quan đến những thay đổi này hay khác trong ý thức, hành vi và
phẩm chất của những người giao tiếp. Mỗi thành viên tham gia giao tiếp có thể có kế hoạch nào đó,
nhưng trong quá trình giao tiếp trên thực tế có thể diễn ra khác với dự kiến của kế hoạch cá nhân.
Trong quá trình giao tiếp, các kế hoạch cá nhân được biến đổi và có thể tạo ra một kế hoạch chung nào
đó năng động hơn, hoặc ngược lại, bất đồng hơn. Như vậy, giao tiếp dẫn đến sự thay đổi không chỉ là
tư tưởng mà còn thay đổi cả chức năng tâm lí, trạng thái, thuộc tính tâm lí của những người giao tiếp.
Trong giao tiếp sư phạm, với chức năng xã hội là người hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển hoạt động nhận
thức cũng như quá trình hình thành nhân cách của học sinh, giáo viên có ảnh hường vô cùng lớn tới học
sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi. Tuy nhiên trong quá trình này, giáo viên củng chịu ảnh hưởng không
nhỏ từ phía học sinh (liên hệ ngược). Một khía cạnh đặc biệt lưu ý là, giữa học sinh với học sinh cũng
có ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn trong quá trình các em giao tiếp với nhau (học thầy không tày học bạn).
VD: Khi giảng bài, tâm lí cũng như cảm xúc, thái độ của người giáo viên có những ảnh hưởng
nhất định tới học sinh. Người giáo viên có cảm xúc vui vẻ, hào hứng sẽ đem lại một bầu không
khí sôi nổi và thoải mái cho lớp học. Người giáo viên có cảm xúc không tốt, cáu giận sẽ tạo cho
lớp học không khí căng thẳng, nặng nề. Ngoài ra, trạng thái và kết quả của lớp học cũng ảnh
hưởng tới tâm lý của người giáo viên. Chính vì vậy, giáo viên và học sinh ảnh hưởng tới nhau
trong quá trình giao tiếp sư phạm.
e. Điều khiển hoạt động nhóm.
Giao tiếp luôn mang ý nghĩa xã hội, đó là giao tiếp đảm bảo tổ chức mọi người tiến hành hoạt
động chung, đảm bảo cho sự liên hệ qua lại của họ. Đặc điểm cơ bản của chức năng này thể hiện ở chỗ
chính quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, tư tưởng, biểu tượng... Sự thống nhất các ý đồ,
tư tưởng... sẽ điều khiển hoạt động chung của nhóm, cộng đồng. Trong giao tiếp sư phạm, sự thống
nhất các ý đồ, tư tưởng... giữa giáo viên và học sinh là điều kiện lí tưởng đảm bảo hiệu quả cao trong
dạy học và giáo dục, và điều này phụ thuộc phần lớn vào nâng lực giao tiếp của người giáo viên. Thông
qua giao tiếp, giáo viên tổ chức các mối quan hệ, các tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học
sinh với nhau nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh - đó là khía cạnh bản chất của phương
pháp dạy học tích cực. Trong hoạt động chung này, giao tiếp thực hiện chức năng điều chỉnh từng
thành viên tham gia. Nhiệm vụ của người thầy giáo trong trường hợp này là tổ chức quá trình giao tiếp
của học sinh bằng chính giao tiếp của mình.
VD: Người giáo viên giống như một nghệ sĩ trên sân khấu, một người diễn viên tài năng sẽ biết
cách lôi cuốn khán giả về phía mình. Một giáo viên hiệu quả sẽ biết thu hút sự tham gia của học
sinh. Để trở thành một giáo viên hiệu quả, thầy cô phải làm chủ được các chiến thuật, các kĩ
thuật dạy học đảm bảo học sinh tham gia vào các hoạt động mà mình tổ chức, lắng nghe những
gì mà mình nói, thực hiện những nhiệm vụ mà mình yêu cầu.
*Ở một cách diễn đạt khác, giao tiếp sư phạm gồm các chức năng sau:
- Công cụ: Giao tiếp sư phạm là cơ chế xã hội của việc điều khiển và truyền đạt thông tin cần thiết cho
việc thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục.
- Liên kết: Giao tiếp sư phạm là phương tiện liên kết giáo viên vói giáo viên, giáo viên với học sinh,
học sinh với học sinh...
- Tự thể hiện: Giao tiếp sư phạm là sự trình diện thế giới nội tâm của giáo viên và học sinh, và do đó là
hình thức hiểu biết lẫn nhau.
- Chuyển dời: Quá trình sư phạm (dạy học và giáo dục) về bản chất là quá trình tổ chức cho học sinh
hoạt động nhằm chiếm lĩnh nền văn hóa của xã hội. Trong quá trình này, thầy giáo là cầu nối giữa học
sinh và nền văn hoá đó. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, thầy giáo và học sinh đã "chuyển dời” những
tri thức cần thiết từ nền văn hoá nhân loại vào bản thân mình. Đây là chức năng quan trọng nhất của
giao tiếp sư phạm.
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, giao tiếp là yếu tố quyết định quan trọng nhất của các
quá trình nhận thức ờ tất cả các mức độ. Trong quá trình lĩnh hội khái niệm, nhờ giao tiếp sư phạm mà
cơ sở khái quát hoá và trừu tượng hoá được mở rộng (so với hoạt động cá nhân), giao tiếp sư phạm
thúc đẩy việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ lĩnh hội. Giao tiếp sư phạm tạo ra các điều kiện
thuận lợi để xem xét các nhiệm vụ từ các quan điểm khác nhau và những thay đổi chiến lược tìm kiếm
cách giải quyết chúng, ở đây nhấn mạnh hiệu quả giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh, giữa học sinh
với học sinh trong quá trình dạy học.
- Kiểm soát xã hội: Giao tiếp sư phạm có chức nâng thể chế hoá hành vi và hoạt động của giáo viên và
học sinh, tức là làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định, nguyên tắc xác định.
- Xã hội hoá: Giao tiếp sư phạm hình thành cho cả giáo viên và học sinh kĩ năng, kĩ xảo tác động qua
lại trong xã hội phù hợp với các chuẩn mực và quy tắc, các phong tục, tập quán...
5) VAI TRÒ CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Vai trò của giao tiếp sư phạm trong hoạt động sư phạm:
- Giao tiếp sư phạm là phương tiện, điều kiện giúp thầy giáo thực hiện thành công hoạt động dạy
học và giáo dục
- Là điều kiện để tổ chức các mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò đảm bảo cho việc giảng dạy và
giáo dục có hiệu quả
- Qua GTSP, có thể kết hợp được sức mạnh của các lực lượng giáo dục trong việc giáo dục nhân
cách cho học sinh.
b. Vai trò của giao tiếp sư phạm với việc hình thành và phát triển nhân cách:
- Với học sinh:
+ là con đường để lĩnh hội kiến thức khoa học, các quy tắc đạo đức, các chuẩn mực xã hội để
hình thành tâm lý và phát triển nhân cách.
+ là con đường để hình thành và phát triển khả năng tự ý thức, tự đánh giá và các phẩm chất
nhân cách
‐ Với giáo viên: là cách thức quan trọng để tiếp thu kinh nghiệm từ người khác, trau dồi thêm kiến
thức chuyên môn và rèn luyện các phẩm chất đạo đức (đặc biệt là các phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp).
Vậy trong hoạt động sư phạm, giao tiếp đóng vai trò là phưong tiện quan trọng nhất cho việc
giải quyết các nhiệm vụ dạy học, là nhân tố tâm lí - xã hội bảo đảm sự diễn tiến của quá trình
giáo dục, cách thức tổ chức các mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, tạo điều kiện
cho sự thành công của quá trình dạy học và giáo dục. Giao tiếp là một trong những phưong thức
chủ yếu tác động lên các quan hệ cùa học sinh. Giao tiếp giữa thầy và trò là một khâu quan trọng
trong quá trình hình thành nhân cách, phát triển tính tích cực nhận thức và xã hội của học sinh
trong quá trình hình thành tập thể học sinh.
- Thực tiễn cúa hoạt động dạy học cho thấy, thành công của việc dạy học phụ thuộc vào chỗ: dạy
học được tổ chức như là sự tác động qua lại giữa thầy và trò trên cơ sở một nội dung dạy học
xác định. Sự tác động qua lại giữa thầy và trò như là một quá trình giao tiếp với mục đích dạy
học có mặt thông tin của nó, bởi vì thầy thông báo cho trò những thông tin xác định. Sự giao
tiếp này cũng là sự tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh. Nó bao hàm cả sự tác động giáo
dục học sinh. Vì vậy, thầy giáo phải luôn ý thức ràng, mỗi hành động giao tiếp bàng cách này
hay cách khác đều có tác dụng giáo dục. Khi thầy giáo thông báo hay tổ chức hoạt động cho học
sinh, sự giao tiếp giữa thầy và trò mang tính chất chê định, tác động của nó sẽ khác với giao tiếp
tự do trong giờ nghỉ, trong thời gian ngoài giờ học.
- Trong hoạt động sư phạm diễn ra các loại giao tiếp giữa cá nhân giáo viên với cá nhân học sinh,
giữa cá nhân giáo viên với nhóm hay tập thổ học sinh, giữa cá nhân học sinh vói nhóm. Thầy
giáo không chỉ giao tiếp với học sinh trong giờ học trên lớp mà còn giao tiếp với các em trong
hoạt động lao động, vui chơi ờ trường cũng như ở ngoài nhà trường. Thầy còn giao tiếp với phụ
huynh học sinh cũng như với các lực lượng xã hội khác trong việc phối họp giáo dục.
Như vậy, trong hoạt động sư phạm của giáo viên, kể cả trên lớp cũng như ngoài giờ lên lóp, nhất
thiết phải có sự giao tiếp giữa thầy và trò, giữa thầy và đồng nghiệp, giữa thầy và các nhóm học
sinh.
- Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông nói chung là hình thành nhân
cách ở mỗi học sinh. Trong giao tiếp sư phạm, với nét riêng biệt của nó là sự khéo léo đối xử sư
phạm, giáo viên có quan hệ trực tiếp với những con người mà nhân cách đang được hình thành,
từ những cơ sở đầu tiên của hành vi xã hội đến thái độ đối với lao động, với người khác, với
công việc, với bản thân... Vì vậy, ảnh hưởng của giáo viên là vô cùng quan trọng. Qua giao tiếp
sư phạm, giáo viên sẽ xác định và phát triển ở học sinh khả năng biết tự đánh giá bản thân, giúp
các em tự giải quyết đirợc nhiệm vụ của mình trong học tập, trong tổ chức sinh hoạt đòi sống.
Đồng thòi giao tiếp sư phạm là điều kiện tất yếu để hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh. Để việc hình thành nhân cách của học sinh có kết quả thì giáo viên phải hiểu sâu thế giới
tâm hồn của các em, phải đối xử với các em làm sao để có thể khoi gợi ờ các em lòng mong
muốn trở thành con người có ích cho xã hội. Khi giáo viên tổ chức đúng đắn quá trình sư phạm
trong giờ lên lớp sẽ kích thích học sinh tích cực lắng nghe, suy nghĩ tìm hiểu sâu tài liệu học tập
và khuyến khích các em ra sức khắc phục khó khản để tự mình hoàn thành những nhiệm vụ học
tập.
‐ Trong giao tiếp sư phạm, nếu giáo viên thiết lập được mối quan hệ mật thiết với học sinh thì sẽ
gạt bỏ được hàng rào tâm lí giữa thầy và trò. Muốn cho học sinh phát triển được tài năng của
mình, biết tự đánh giá đúng hành vi của mình và để quá trình rèn luyện nhân cách ở các em có
hiệu quả thì đòi hỏi giáo viên phải có năng lực giao tiếp. Giao tiếp sư phạm có một đặc thù là
giáo viên không chỉ giao tiếp với học sinh qua nội dung bài giảng tri thức khoa học, mà họ phải
là tấm gưong sáng mẫu mực về nhân cách đúng với đòi hỏi của quy định xã hội. Nghĩa là ở
người giáo viên lời nói và hành vi ứng xử phải thống nhất với nhau, có như vậy người giáo viên
mói đạt uy tín cao trong nghề nghiệp.
‐ Những điều đã trình bày trên chứng tỏ ràng, giao tiếp sư phạm là một vấn đề có tầm quan trọng
đặc biệt đối vói thành công của hoạt động sự phạm. Đó là một hoạt động phức tạp, bao gồm
nhiều phưong diện, đòi hỏi người giáo viên phải được chuẩn bị một cách chu đáo, cặn kẽ. Việc
chuẩn bị này là mục đích, nhiệm vụ của toàn bộ quá trình đào tạo giáo viên trong nhà trường sư
phạm. Vì vậy, cần phải chú trọng đến công tác rèn luyện năng lực giao tiếp cho sinh viên sư
phạm, góp phần giúp cho sinh viên vững vàng trong hoạt động nghề nghiệp khi ra trường.
6) CÁC NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Trình bày theo 3 bước: Là gì (Tại sao) – Biểu hiện – Hiệu quả
* Những nguyên tắc chung trong giao tiếp: đảm báo tính khoa học, tính đạo đức, tính thẩm
mỹ và tính dân tộc.
‐ Nguyên tắc: là hệ thống những chuẩn mực, quy định có tác dụng chỉ đạo, định hướng suy
nghĩ và hành động của con người.
‐ Nguyên tắc giao tiếp sư phạm: là hệ thống những quan điểm có tác dụng chỉ đạo, định
hướng thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể giao tiếp, cũng như việc lựa chọn các phương
pháp, phương tiện giao tiếp trong hoạt động sư phạm.
6.2. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trong giao tiếp sư phạm
- Tôn trọng nhân cách người học là phải coi học sinh như là một cá nhân, một con người với đầy
đủ các quyền vui chơi, học tập, nhận thức,… cùng những đặc điểm tâm lí riêng, bình đẳng với
mọi người trong quan hệ xã hội
- Học sinh đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, là chủ thể hoạt động tích cực,
có đặc điểm nhận thức, thái độ và kiểu hành vi ứng xử riêng (chịu ảnh hưởng của giáo dục gia
đình) => Giáo viên không nên áp đặt, ép buộc các em phải tuân theo ý kiến thầy cô một cách
duy ý chí.
- Tôn trọng nhân cách học sinh được thể hiện ở một số điểm như:
o Biết lắng nghe học sinh nói chuyện, trình bày ý muốn, nhu cầu, nguyện vọng của mình,…
(lắng nghe học sinh)
o Không ngắt lời bằng các cử chỉ, điệu bộ như phẩy tay, xem đồng hồ hoặc ngoảnh mặt đi
chỗ khác với vẻ mặt khó chịu khi học sinh đang trình bày (Tránh các cử chỉ, hành vi biểu
lộ sự thiếu tôn trọng với học sinh)
o Với các em khó nói, khó diễn đạt nên gợi ý nhẹ nhàng nếu thấy cần thiết hoặc biểu hiện
thái độ khích lệ, động viên các em nói được suy nghĩ, mong muốn của mình (Hỗ trợ học
sinh biểu lộ bản thân)
Ví dụ: Với những học sinh ít nói có tính cách khép mình, có thể gọi phát biểu
trong giờ sinh hoạt, một câu hỏi rộng có thể chia thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn
như một sự gợi ý đối với học sinh đó. Ngoài ra, giáo viên nên giữ nụ cười của
mình sao cho thân thiện, biểu hiện mong chờ, điều này góp phần tạo cảm giác dễ
chịu cho học sinh được hỏi.
o Không được có lời lẽ, câu từ xúc phạm đến nhân cách học sinh, nhất là trước đám đông
như lớp học, bằng các từ ngữ như ngu, dốt, lười,… trong bất kì trường hợp nào (Không
dùng lời lẽ xúc phạm học sinh trước đám đông
Ví dụ: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, không nên có những lời lẽ trách
mắng như “sao em lười học thế”, “Nếu em lười thế này thì sau này làm được cái
gì…”,…mà có thể hỏi riêng nhẹ nhàng như “sao em không làm bài tập về nhà, em
có việc bận gì à?”, “Sau nhớ làm bài tập về nhà, như vậy mới có thể hiểu bài
được”,…
o Ngoài ra tôn trọng học sinh còn thể hiện qua trang phục gọn gàng, sạch sẽ và lịch sự của
giáo viên. Quần áo lôi thôi là sự thiếu tôn trọng đối với học sinh của mình (giữ vẻ ngoài
gọn gàng, chỉnh tề).
6.3. Nguyên tắc thiện chí trong giao tiếp sư phạm
- Thiện ý trong giao tiếp sư phạm là ý tốt của thầy cô giáo đối với học sinh, thể hiện ở sự yêu
thương, tin tưởng các em, tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích các em tích cực hoàn thành
tốt nhiệm vụ trong học tập và trong các hoạt động khác ở nhà trường.
- Thiện ý của giáo viên với học sinh thể hiện:
o Trong giao tiếp, giáo viên luôn đặt quyền lợi của học sinh lên trên hết, chuẩn bị kĩ giáo
án, hướng dẫn các em tiếp thu tri thức bằng tất cả khả năng và lòng nhiệt tình của mình.
o Tin tưởng học sinh, khích lệ động viên các em. Không được có định kiến với học sinh.
Cho dù học sinh có yếu kém thực sự về năng lực hay đạo đức thì cũng luôn nghĩ đó là
tính cách chưa hoàn thiện, được yêu thương giúp đỡ, nhất định các em sẽ trở thành người
tốt.
Ví dụ: Trong lớp có một học sinh rất nghịch ngợm hay pha trò trong giờ. Giáo
viên trong trường hợp này, không nên có định kiến xấu với học sinh (bởi từ đó có
thể nảy sinh những đánh giá chủ quan tiêu cực của giáo viên trong quá trình
tương tác của giáo viên với học sinh này), luôn phải tin rằng học sinh luôn có mặt
tốt, tìm hiểu nguyên nhân học sinh này nghịch như vậy là do đâu (có thể muốn thu
hút sự chú ý, có thể là do thừa năng lượng, hoặc do học sinh đó không có nhiều
cơ hội thể hiện bản thân với người khác,…), từ đó tìm hướng giải quyết thích hợp
vì sự tiến bộ của học sinh đó.
o Đánh giá, nhận xét bài làm của các em phải thực sự công bằng, khách quan, khích lệ,
động viên những em giỏi vươn lên, những học sinh trung bình và yếu cố gắng hết sức.
Giáo viên có thể cho điểm lẻ ở bài, ghi điểm chẵn vào sổ và công khai cho các em biết.
Lời phê trong bài cô đọng, súc tích; thể hiện sự động viên, khuyến khích, tạo niềm tin cho
các em nơi chính bản thân mình.
Ví dụ: Sau khi chấm bài kiểm tra, giáo viên nhận thấy có hai bài khá giống nhau,
một của học sinh giỏi, một của học sinh yếu hơn. Lúc đó, giáo viên không nên có
đánh giá chủ quan như bạn yếu chép bài bạn giỏi. Giáo viên có thể gọi riêng hai
bạn lên để đối chất về hai bài làm và đưa ra cách giải quyết công bằng nhất bất
kể hai bạn có học lực ra sao. Dù ai chép bài, giáo viên vẫn cần phải nhắc nhở nhẹ
nhàng, trừ nhẹ bài chép. Nếu bài không phải chép mà chỉ tình cờ giống nhau
(điều này rất có thể xảy ra với các môn tự nhiên) nếu bài làm tốt, giáo viên có thể
khích lệ sự tiến bộ của bạn yếu.
o Tùy tình huống, hoàn cảnh, khả năng của từng em để giao công việc phù hợp. Tuyệt đối
không nhạo báng, giễu cợt, chê bai trước những thất bại của các em
o Mỗi khi giải quyết mâu thuẫn, sự việc bất thường xảy ra trong lớp (học sinh đánh nhau,
mất đồ dùng,…) thầy cô phải phân xử công bằng, phân minh, hình thực xử phạt phải vì
sự tiến bộ của học sinh, và phải có sự đồng tình của toàn bộ học sinh trong lớp.
Ví dụ: Trong lớp có sự việc mất đồ, một bạn trong lớp được các bạn nghi ngờ
ngay vì từng bị phát hiện ra lấy đồ. Lúc này, giáo viên không nên hùa theo những
học sinh kia mà có động thái kiểm tra ngay túi bạn đó. Giáo viên có thể làm đúng
quy trình, hỏi người bị hại xem để quên ở đâu, yêu cầu tất cả học sinh kiểm tra
cặp của mình, kiểm tra chéo với bạn cùng bàn và tìm xung quanh lớp. Nếu vẫn
không tìm ra thì trước hết cần phải dập tắt ác cảm của các học sinh với bạn học
sinh bị nghi ngờ trước đó rằng (không ai thấy đồ mất trong cặp bạn ý tức là bạn ý
không lấy…) sau đó giáo viên có thể tiếp tục giải quyết với bạn bị mất đồ…
6.4. Nguyên tắc đồng cảm trong giao tiếp
- Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm có nghĩa là người giáo viên đặt mình vào vị trí của học sinh,
để hiểu được suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, nguyên vọng của các em, từ đó có các hành vi ứng xử
phù hợp
- Để đồng cảm với học sinh trong giao tiếp, giáo viên cần:
o Nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh.
VD: lứa tuổi THPT và THCS có các đặc điểm tâm lí khác nhau. Trong từng cấp học lại
có nhữung đặc điểm khác nhau ở từng khối học : lớp 8 lớp 9 là độ tuổi các em khao khát
được trở nên tự do, mong muốn trở thành người lớn, có những tình cảm đặc biệt dành
cho bạn khác giới,….
o Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và đặc điểm tâm lí riêng của từng học sinh, trên cơ sở phác
thảo được chân dung tâm lí đối tượng giao tiếp.
VD: hoàn cảnh sống cũng ảnh hướng khá nhiều đến đời sống tâm lí của học sinh. Một
học sinh luôn luôn không chú ý học, phá phách, không hợp tác luôn phạm khuyết điểm có
thể là do một tổn thương đến từ tâm lí. Là người giao viên, chúng ta cần tìm hiểu để có
thể có phương hướng giúp đỡ học sinh,…
o Đặt mình vào vị trí của học sinh trong những tình huống giao tiếp cụ thể, biết gợi lên
nhữung điều điều học sinh muốn nói nhưng không dám nói và tạo điều kiện để thỏa mãn
nguyện vọng chính đáng của các em.
VD: ở độ tuổi THCS, các em đã bắt đầu dậy thì, bắt đầu đã có những tò mò về cơ thể,…
nếu không hiểu và đồng cảm với các em về các vấn đề tế nhị này, có thể các em sẽ có
những hành động không chuẩn mực. Cần phải tạo điều kiện để học sinh nói lên những
thắc mắc và có những phướng án xử lí để đáp ứng nguyện vọng của các em
- Nhờ có đồng cảm, giáo viên mới có các biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả khi uốn nắn,
sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của các em. Đồng cảm tạo ra sự gần gũi, thân mật, tạo cảm
giác an toàn cho các em, là cơ sở hình thành các hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan
dung.
6.5. Nguyên tắc tạo niềm tin trong giao tiếp sư phạm
- Niềm tin giúp chúng ta làm những điều chúng ta cho là đúng, hoặc không làm những thứ mà
chúng ta không tin. => Niềm tin quyết định thái độ, là động lực thúc đẩy hành động.
- Niềm tin là yếu tố quyết định đến kết quả của hoạt động giao tiếp nói chung và giao tiếp sư
phạm nới riêng.
- Cách tạo niềm tin trong giao tiếp sư phạm:
o Hãy tin tưởng vào học sinh: Có 1 câu nói: Khi ta muốn người khác đối xử với mình như
thế nào, hãy đối xử ngược lại với họ như vậy. Khi ta muốn các em tin tưởng, hãy thể hiện
rằng ta hoàn toàn đặt niềm tin ở chúng trước. Nhưng điều này không dễ dàng thể hiện qua
một câu nói đâu. Nó yêu cầu chúng ta có một sự thành tâm tuyệt đối. Vì chỉ khi thật sự có
ý như vậy, ta mới có thể trả lời rành mạch câu hỏi “Tại sao thầy/cô lại có niềm tin như
vậy ở em?” nếu bên kia hỏi ngược lại.
o Hãy lắng nghe nhiều hơn: Học sinh sẽ cảm nhận được rằng ta rất coi trọng những điều họ
nói. Đó có thể là kinh nghiệm, chia sẻ từ chính con người chúng. Đừng quên đặt thêm
câu hỏi để thể hiện sự hứng thú và gây thiện cảm với các em.
o Hãy trở thành tấm gương: Học sinh sẽ chưa thể hoàn toàn tin tưởng hoặc ép chúng tin
tưởng chúng ta nếu chỉ qua lời nói. Hãy xây dựng hình ảnh tích cực của bản thân đối với
học sinh để có được hình tượng tốt trong lòng các em. Hãy chú ý từ cách ứng xử, trang
phục, thái độ tích cực,…
o Hãy kiên nhẫn: Không có một lối tắt nào để đạt được sự tin tưởng sâu sắc mà nó cần thời
gian và trải nghiệm để xây dựng. Cần tạo lập dựa trên những cơ sở: Ngưỡng mộ về khả
năng, tin tưởng về thực lực, trân quý về tính cách, chấp nhận về uy tín. Điều này không
thể thực thi ngày một ngày hai mà cả một chặng đường dài.
Tình huống 6: Em Nga, một học sinh nữ, từ tỉnh khác chuyển đến học tại lớp 7B ở nội thành
Hà Nội. Học sinh trong lớp không thích chơi với Nga. Trong khi đó, cô Yến - giáo viên chủ
nhiệm nhận thấy, Nga khá hiền lành và có phần học giỏi hơn các bạn khác trong lớp. Trong các
buổi sinh hoạt lớp, cô Yến đã nhắc nhở cách ứng xử của các học sinh khác với bạn mới đến,
nhưng không thấy hiệu quả. Nếu là cô Yến, bạn sẽ xử lí tình huống này như thế nào?
1. Phân tích tình huống:
- Học sinh trong lớp không thích chơi với Nga. Có thể vì những lý do sau đây:
Tẩy chay Nga có thể vì (phân biệt vùng miền,...)
Các bạn không tìm thấy điểm chung để chơi với Nga (nên có thể các bạn coi người lạ
thôi).
- Có thể một trong số những lý do sau đây xuất phát từ Nga:
Nga có thể bị mắc những bệnh về tâm lý.
Nga có thể không thích giao tiếp với mọi người.
Nga có thể là người cảm thấy ổn khi ở một mình.
Nga có thể là người khó thích nghi được với môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới…
Nga có thể là người không hợp khi chơi với bạn bè trong lớp.
Vì đề bài có đề cập tới chuyện Nga học giỏi, hiền lành nên dễ có thể trở thành đối tượng
ngon lành để cả lớp bắt nạt. (Nga xuất hiện trong lớp lại còn học giỏi nữa, dễ làm cả lớp tự
nạnh, còn hiền hiền thì điều kiện quá dễ để bị bắt nạt).
Bước 1: Giáo viên cần thiết phải hiểu THỰC SỰ SÂU về Nga. Lý do tại sao Nga lại như thế, hoàn
cảnh gia đình, để ý một cách tinh tế cách bạn bè đối xử với Nga và Nga đối xử với bạn bè…
Bước 2: Sau khi tìm hiểu rồi thì tùy xem Nga rơi vào trường hợp nào mà có các phương án giải quyết
phù hợp.
- Trường hợp 1: Nga là người thích sự cô độc, không thực sự thích chơi với bạn bè. Rất thoải
mái khi ở một mình.
=> Thì thôi.
=> Trong trường hợp này, cô Yến nên tôn trọng cá tính riêng của Nga, để em lựa chọn cách
sống riêng của mình và làm những việc em thích, miễn là không gây ảnh hưởng tiêu cực đến các
bạn khác trong lớp.
- Trường hợp 2: Nga bị những bệnh về tâm lý (trầm cảm, hội chứng sợ đám đông,...)
=> Đây là vấn đề rấc-nghiêm-trọng. Cho nên giáo viên cần thiết phải can thiệp sớm, nhờ sự trợ
giúp từ gia đình, các lực lượng giáo dục và quan trọng nhất là bác sĩ tâm lý.
- Trường hợp 3: Bạn bè tẩy chay Nga, xa lánh Nga, không thích chơi với Nga.
=> Đây là một tình huống rất phổ biến trong trường học. Ðây chính là tâm lý đám đông, bởi vậy
cần làm cho các em nhận thức rõ vấn đề đâu là sự đoàn kết thật sự, đâu là sự ngụy biện. Giải
thích, phân tích cho các em thấy hậu quả nghiêm trọng của việc tẩy chay đối với sức khỏe và
tâm sinh lý của bạn như thế nào.
=> Hoặc tách khỏi môi trường tẩy chay, chuyển học sinh sang lớp khác cũng là một biện pháp
hay như một cô giáo ở Trường Gia Ðịnh đã làm. Kết quả khi sang môi trường mới bạn bè thân
thiện hơn, học sinh bị tẩy chay đã nhìn lại mình nên trở lại bình thường, tự tin hơn với bản thân
và các mối quan hệ.
Thầy cô chủ nhiệm nắm bắt kịp thời các hiện tượng tẩy chay để có thể ngăn chặn sự việc khi chỉ
mới manh nha. Gia đình cần quan tâm đến sự thay đổi của các em để tìm hiểu kỹ những nguyên
nhân và có giải pháp hữu hiệu, kịp thời phối hợp với nhà trường để giúp đỡ các em.
- Trường hợp 4: Nga muốn chơi với các bạn nhưng không biết nên bắt đầu thế nào, các bạn đã
thân nhau từ trước…
=> Trong trường hợp này, trước tiên, cô Yến không nên nóng vội hay mất bình tĩnh. Ở lứa tuổi
THCS, các em thường muốn khẳng định cái tôi của mình và không thích nghe theo sự ép buộc
của người lớn, do vậy, cô Yến có thể làm những việc sau:
Cô Yến cũng không nên quán triệt trước lớp về việc không được thành kiến với bạn mới hay
phải chơi với bạn vì nếu như vậy, học sinh trong lớp có thể nghĩ rằng cô đang bênh vực bạn
mới, từ đó dẫn đến những kết quả tiêu cực hơn.
Cô Yến nên gặp riêng Nga để hướng dẫn em về cách tiếp cận với các bạn trong lớp, gợi ý
cho Nga về việc tham gia các hoạt động tập thể với một thái độ nhiệt tình, thân thiện và
không kiêu căng. Nếu Nga thật sự là một người đáng mến, theo thời gian, các bạn trong lớp
sẽ dần yêu quý Nga hơn và từ đó Nga cũng dễ dàng hơn trong việc hoà đồng với các bạn.
Cô Yến có thể tổ chức các hoạt động nhóm, các trò chơi để gắn kết bạn bè trong lớp với
nhau và đặc biệt để tâm, chú ý đến Nga, giúp Nga hòa nhập với lớp nhanh hơn.
Cô Yến có thể dùng sự nhiều não của Nga để chia thành các nhóm học, Nga (và các bạn học
giỏi) sẽ ngồi vào một nhóm. Nga chuyên đi giảng cho các bạn học chưa tốt => Nga có thể tự
tin dùng học lực của mình để ban phát kiến thức, vừa có thể cùng làm bài với cộng đồng học
giỏi trong lớp.
Tình huống 7: Là giáo viên chủ nhiệm lớp 10A7, cô Minh Thanh biết được tình trạng có một
nhóm học sinh thường xuyên bắt nạt Trung - một học sinh đồng tính ở trong lớp . Tuy nhiên,
học sinh cầm đầu nhóm bắt nạt lại là Nam - con trai của bác trưởng ban phụ huynh. Ban cán sự
lớp đã nhắc nhở song nhóm này còn có thái độ đe dọa ngược lại. Nếu là cô Minh Thanh, bạn sẽ
làm gì để giảm thiểu vấn đề bắt nạt học đường cũng như giữ được mối quan hệ tốt với ban phụ
huynh của lớp?
1. Xác định vấn đề:
- Có học sinh trong lớp bị bắt nạt (thể chất & tinh thần) vì sự khác biệt về cơ thể.
- Có tình trạng học sinh lợi dụng địa vị của phụ huynh để bắt nạt các bạn khác.
- Có sự mất đoàn kết trong lớp học, có nhóm đối đầu với phần còn lại cảu lớp học.
2. Phân tích vấn đề:
- Việc học sinh bị bắt nạt là một vấn đề nghiêm trọng, có thể gây những hậu quả trực tiếp đến học
sinh, bao gồm sức khỏe thể chất – thương tích từ việc có thể có bạo lực, lẫn sức khỏe tinh thần –
tự ti, bi quan với cuộc sống, tự cô lập với môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến cuộc sống của
học sinh cả trong mỗi trường học đường và ngoài xã hội.
- Học sinh lợi dụng địa vị gia đình để cổ súy cho hành động của bản thân, tự đề cao bản thân, yêu
cầu các học sinh khác phải theo quan điểm của mình, chia tầng lớp, tạo dựng bè phái, điều này
xuất phát từ nhận thức của học sinh bị sai lệch, không được giáo dục đúng cách, vì vậy, cần phải
định hướng lại nhận thức cho học sinh.
- Có sự chia rẽ, không đoàn kết giữa các học sinh, các học sinh công khai công kích, đe dọa khi bị
các bạn khác nhắc nhở, vì vậy không phải chỉ cần giải quyết tình trạng bắt nạt mà hơn nữa cần
làm cho các nhóm lẻ hòa nhập với môi trường lớp học, không tự tách biệt, đối đầu với phần còn
lại của lớp.
3. Mục tiêu:
- Giảm thiểu vấn đề bắt nạt học đường trong lớp học, can thiệp trực tiếp những tình huống có thể
dẫn đến bắt nạt, đồng thời giải quyết tận gốc vấn đề, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, giáo
dục vấn đề giới tính và LGBT, nâng cao ý thức của học sinh để cả nhóm bắt nạt hiểu ra đó là sự
khác biệt mà thế giới đã công nhận, cùng lúc giúp cho nạn nhân bị bắt nạt thêm tự tin, phát triển
bản thân, hòa đồng với môi trường lớp học.
- Giải quyết tận gốc vấn đề của các học sinh có nhận thức sai lệch, cố gắng định hướng cho các
học sinh đó có nhận thức, suy nghĩ đúng đắn, từ đó đưa những nhóm tách biệt lại gần với lớp
học, gắn kết lớp học.
- Giữ mối quan hệ tốt với ban phụ huynh, cho phụ huynh của bạn Trung tin tưởng vào môi trường
học và những phụ huynh của nhóm học sinh bắt nạt cảm thấy thỏa đáng, không phật lòng.
4. Định hướng cách giải quyết:
- Bước 1: Cô Minh Thanh phải đảm bảo an toàn sức khỏe của cả chủ thể bắt nạt – Nhóm của
Nam lẫn nạn nhân bị bắt nạt – bạn Trung. Nếu việc bắt nạt trở nên nghiêm trọng ngoài tầm có
thể xử lí nội bộ thì ngay lập tức báo cáo, huy động gia đình, nhà trường (Ban giám hiệu, đoàn
thanh niên,…) hoặc cấp thiết là các cơ quan chức năng (Công an, bảo vệ,…) can thiệp nhằm
mục đích quan trọng nhất là bảo đảm sự an toàn của học sinh.
Giải thích: Khi xảy ra tình huống bị bắt nạt, có khả năng xảy ra xô xát giữa hai bên, không chỉ
bên nạn nhân tổn hại về sức khỏe thể xác, tinh thần mà có khả năng bị dồn đến đường cùng mà
phản kháng, tấn công ngược chủ thể bắt nạt.
Cô Minh Thanh cần xác định mức độ của việc bắt nạt bằng cách thu thập thông tin từ phía toàn
thể học sinh. Liệu việc bắt nạt đang dừng ở mức bắt nạt tinh thần: miệt thị, tẩy chay, dọa nạt, cô
lập, đe dọa bằng tin nhắn, thư từ, cống nạp vật chất hay đã đến mức bạo lực, hành hạ thể chất
như đánh đập bằng chân tay, bằng cách phương tiện vũ lực khác.
Nếu mức bắt nạt mới dừng ở mức bắt nạt tinh thần như nói xấu, miệt thị, cô lập, tẩy chay,…, cô
Thanh cần phải đảm bảo an toàn về mặt sức khỏe của nạn nhân, đảm bảo sự việc không tiến tới
bạo hành thể xác, gây thương tích bằng cách yêu cầu các học sinh khác ngay lập tức báo cáo và
ngay lập tức báo tin về cho giáo viên nếu hành vi bắt nạt trở nên thái quá, mất kiểm soát, có thể
gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng đồng thời đảm bảo an toàn cho các học sinh báo tin.
Nếu sự việc đã tới mức hành hung, đánh đập, giáo viên ngay lập tức can thiệp, có thể huy động
sự can thiệp của phụ huynh, nhà trường, cơ quan chức năng can thiệp, yêu cầu học sinh bắt nạt
ngay lập tức dừng hành vi, đông thời thông báo cho phụ huynh kiểm tra sức khỏe tại nhà tất cả
các học sinh liên quan, ngay lập tức đưa đến bệnh viện nếu phát hiện thương tích nguy hiểm.
- Bước 2: Cô Thanh cần làm việc riêng với từng bên (nhóm bắt nạt và bạn Trung), nói chuyện,
đối chất để tìm hiểu tường tận nguyên nhân, bản chất, mức độ của sự việc, có thể yêu cầu học
sinh viết bản tường trình nếu cần thiết, tiến hành phân tích từng hành vi, mức độ chịu trách
nhiệm với các hành vi đã gây ra.
Khi nói chuyện với học sinh, cô Thanh phân tích, giải thích rõ cho những học sinh thực hiện
hành vi bắt nạt mức độ nguy hại của hành vi vi phạm, quy chế xử lí của lớp, trường như thế nào
với các hành vi đó.
Nếu những việc bắt nạt chỉ mới nhỏ lẻ, đơn thuần như nói xấu, tẩy chay thì cô Thanh chủ động
nói chuyện, khuyên chủ, để học sinh rút kinh nghiệm với những việc làm của mình. Nếu hành vi
bắt nạt nghiêm trọng thì tiến hành giáo dục mang tính răn đe cho cá nhân và tập thể học sinh để
không xảy ra các hành vi tương tự ở trong và ngoài nhà trường.
- Bước 3: Tiến hành nói chuyện và định hướng lại nhân thức cho nhóm học sinh bắt nạt, kết hợp
nói chuyện với phụ huynh để định hướng nhận thức sai lệch của học sinh.
Để giữ được mối quan hệ tốt với ban phụ huynh những vẫn đạt được mục tiêu là huy động phụ
huynh thay đổi nhận thức của học sinh, cô Thanh tiến hành trao đổi riêng với từng phụ huynh
của nhóm học sinh vi phạm, cô cần giải thích những hành vi học sinh đã làm và tùy theo mức độ
vi phạm mà xử lý theo qui định của nhà trường, đồng thời huy động phụ huynh giáo dục lại nhận
thức của học sinh, sát sao, quán triệt hành vi của học sinh để học sinh không tái diễn.
- Bước 4: Tiền hành giáo dục, tổ chức các hoạt động trải nghiệm, hoạt động tập thể, hoạt động
nhóm.
Với Trung, tiếp cận, gặp gỡ và lắng nghe những khúc mắc trong suy nghĩ, hành vi, nhân thức
của Trung, nghe những tâm sự của em để em có thể cởi mở, hòa đồng trở lại với lớp sau khoảng
thời gian bị bắt nạt.
Với cả lớp, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về các vấn đề bắt nạt học đường, giáo dục về kỷ
luật, quy tắc ứng xử trong trường lớp và xã hội, giáo dục tính năng quyết đoán, tự bảo vệ bản
thân trong các mối quan hệ.
Với nhóm bắt nạt, giáo dục các em về những hành vi vi phạm của mình, sẽ còn bị xử lí nếu còn
tái phạm, đồng thời nâng cao nhân thức của học sinh, tổ chức các hoạt động trải nghiệm để học
sinh hòa nhập với môi trường lớp học, đồng thời cho học sinh cơ hội để tự kiểm điểm, rút kinh
nghiệm, sửa đổi những hành vi của mình.
Với toàn thể lớp nói chung, tổ chức thêm các hoạt động trải nghiệm, hoạt động nhóm (VD như
tìm hiểu về LGBT) để các học sinh khác thay đổi nhận thức, đề cao sự khác biệt riêng của mỗi
cá nhân, đông thời tổ chức các hoạt động gắn kết lớp học, xếp nhưng học sinh của nhóm bắt nạt
vào khác nhóm khác nhau, mục tiêu là để học sinh tự làm quen và hòa đồng hơn với những bạn
khác trong lớp, dẫn đến sự đoàn kết trong lớp học.
Tình huống 8: Trong lớp 10C, có một học sinh rất thích tham gia vào các hoạt động tập thể,
nhưng lại chưa chuyên cần trong học tập. Em thường lấy lí do đi tổ chức các hoạt động, sự kiện
của trường, lớp để xin nghỉ một số tiết. Nếu là giáo viên chủ nhiệm lớp 10C, bạn sẽ làm gì?
1. Xác định vấn đề:
- Việc học tập của học sinh
- Việc tham gia vào các hoạt động, sự kiện của trường lớp
- Ý thức của học sinh
- Kĩ năng mềm của học sinh
2. Phân tích vấn đề:
- Việc học của học sinh: Việc học của học sinh có thể đang bị ảnh hưởng, dù ít dù nhiều cũng làm
chậm tiến độ tiếp thu kiến thức của học sinh, ảnh hưởng lâu dài về nền tảng kiến thức sau này.
- Việc tham gia vào các hoạt động, sự kiện của trường lớp: Tham gia vào các hoạt động của
trường, lớp là điều rất đáng hoan nghênh và khuyến khích, tuy nhiên việc tham gia một cách
không có kế hoạch và để nó ảnh hưởng đến việc học là khá nguy hiểm.
- Ý thức, trách nhiệm của học sinh: Khi học sinh quyết định lấy việc tham gia sự kiện của trường
lớp làm lý do để trì hoãn hay thậm chí bỏ bê việc học thì điều đó chứng tỏ ý thức học tập của
học sinh khá thấp. Nếu không tự cải thiện sau này sẽ để lại những ảnh hưởng khá lớn không chỉ
trong học tập mà còn cho tương lai sau này.
- Kỹ năng mềm của học sinh: Dù vô tình hay cố ý lấy việc tham gia sự kiện của trường, lớp để
lảng tránh việc học cho thấy học sinh không có kỹ năng quản lý và sắp xếp thời gian của bản
thân. Học sinh khá yếu trong việc làm chủ thời gian của mình để mọi việc vốn rất tốt làm ảnh
hưởng đến nhau, làm giảm hiệu quả của nhau.
3. Mục tiêu
Cách giải quyết cần làm cho học sinh tôn trọng, nể phục; cho học sinh thấy tầm quan trọng
của việc học không chỉ ở thời điểm hiện tại và còn có giá trị đến tương lai sau này. Đồng thời
cũng không giảm nhẹ việc tham gia các hoạt động, sự kiện của trường, lớp tuy nhiên cần khuyến
khích cũng như hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu, cách quản lý tốt quỹ thời gian của bản
thân. Hơn nữa giúp học sinh nâng cao ý thức, trách nhiệm với những việc mà bản thân lựa chọn,
giúp học sinh hoàn thiện hơn trong nhân cách, đạo đức và lối sống.
4. Xác định những giải pháp có thể
- Giáo viên gọi học sinh lên trước lớp và phê bình trước mặt cả lớp nói rằng: “ Em nên xem lại
cách học của bản thân, nếu muốn bản thân có thành tích tốt hơn trong học tập thì nên bỏ việc
tham gia các hoạt động sự kiện của trường lớp vì nó là vô bổ, là không cần thiết.”
- Giáo viên gọi điện thoại cho phụ huynh học sinh phê bình việc học của HS đang bị sa sút do mải
tham gia vào các hoạt động ngoài lề và không giúp ích gì được cho tương lai. Đồng thời yêu cầu
phụ huynh HS cần có những biện pháp răn đe nặng hơn để HS tập trung vào việc học.
- Giáo viên gọi học sinh ở lại sau giờ học và nói rằng: “Nếu còn để tình trạng này tiếp tục xảy ra,
cô sẽ đình chỉ việc học và có những biện pháp mạnh hơn để răn đe.” Đồng thời có thái độ không
tán thành việc HS tham gia quá nhiều và đang có ý định lấy việc tham gia đó làm lý do để bỏ
việc học. Điều đó là không chấp nhận được.
- Giáo viên cố gắng tìm hiểu thời gian tổ chức những sự kiện gần đây, xem xét việc học sinh nghỉ
học là do vô tình trùng lịch hay cố ý viện lý do để trốn tránh để đưa ra giải pháp thích hợp. Tìm
hiểu xem sự việc tương tự có xảy ra ở bộ môn khác hay không. Sau khi tìm hiểu kĩ mọi việc,
giáo viên sẽ nhẹ nhàng khuyên nhủ học sinh sau giờ học, rằng, cả hai việc đều rất quan trọng,
mỗi việc đem lại cho chúng ta một trải nghiệm và những kinh nghiệm khác nhau, không nên chỉ
tập trung vào một việc mà bỏ bê việc kia. Cần phải sắp xếp mọi việc một cách hợp lý để không
ảnh hưởng tới việc học và tới tương lai.
5. Lựa chọn giải pháp
Nếu là giáo viên em sẽ chọn giải pháp thứ 4.
- Ở giải pháp thứ nhất, khi giáo viên gọi HS lên trước lớp để phê bình, điều đó đã đánh vào lòng
tự trọng của một học sinh lớp 10. Ở độ tuổi này, HS dễ bị tổn thương bởi những tác động bên
ngoài, đặc biệt là do lời nói tác động lên. Việc bị phê bình trước lớp không những không giải
quyết được những vấn đề nêu ra mà còn để lại những tác động tiêu cực nghiêm trọng. Có thể
khiến HS càng thêm ghét việc học và càng lảng tránh, hay thậm chí bỏ bê hoàn toàn và cũng
không còn tâm trạng để tham gia những hoạt động, sự kiện của trường, lớp.
- Ở giải pháp thứ hai,việc giáo viên gọi điện cho phụ huynh học sinh để phê bình khiến phụ huynh
học sinh có cái nhìn không toàn diện về sự việc đang diễn ra. Hiện nay, tuy suy nghĩ của những
bậc phụ huynh và thế hệ trước đang dần hiện đại hơn nhưng vẫn còn không ít người lấy việc đòn
roi để răn dạy con. Có thể chính việc gọi điện thoại đó mà em học sinh có thể bị cha mẹ mắng,
đánh đòn hay thậm chí có những biện pháp mạnh hơn khiến em đó sợ và thậm chí để lại những
vết đen trong tâm lý, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển nhân cách sau này.
- Ở giải pháp thứ ba, tuy giáo viên đã gọi học sinh ra nói chuyện riêng sau giờ học nhưng lại dùng
những lời lẽ không đúng dễ khiến học sinh hiểu lầm. Đặc biệt khi em học sinh là người năng
động và luôn tích cực tham gia vào các hoạt động của trường, lớp mà lại nghe từ giáo viên chủ
nhiệm rằng đó là việc vô bổ, không cần thiết có thể gây ra một cú sốc lớn trong tâm lý học sinh.
HS đó có thể không còn niềm tin vào giáo viên và cả bên phía nhà trường và càng làm cho sự
việc thêm nghiêm trọng.
- Ở giải pháp thứ tư, các vấn đề đều được giải quyết. Khi giáo viên chủ động tìm hiểu các vấn đề
đang xảy ra, cho thấy họ là người có trách nhiệm với học sinh và với nghề nghiệp. Chỉ khi hiểu
rõ sự việc và nhìn nhận nó một cách toàn diện giáo viên mới có thể giải quyết vấn đề một cách
triệt để nhất. Giáo viên đã khuyên nhủ và cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học nhưng
không phủ nhận tầm quan trọng của các hoạt động bên ngoài khiến cho học sinh nể phục và nhìn
ra cái sai của mình. Ở độ tuổi đẹp nhất thời học sinh, em xứng đáng có một người giáo viên tâm
huyết và sẻ chia những khúc mắc và ấm ức trong lòng, để phát triển nhân cách một cách toàn
diện nhất. Đồng thời giáo viên cũng có thể giúp em HS lập thời gian biểu, nâng cao kĩ năng
quản lý thời gian để hoàn thành các công việc một cách nhanh chóng và không ảnh hưởng lẫn
nhau. Khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động phù hợp với quỹ thời gian của bản
thân để không ảnh hưởng đến việc học và có thời gian dành cho gia đình. Và chỉ khi học sinh
hiểu được mọi việc và thật sự muốn cải thiện nó thì đó mới là giải pháp tối ưu nhất.
Tình huống 9: Một em học sinh trong lớp bạn chủ nhiệm trước đây rất ngoan và chăm học,
nhưng thời gian gần đây, có biểu hiện bỏ tiết, kết quả học tập giảm sút. Sau khi tìm hiểu, bạn
biết được, bố mẹ em ấy mới li hôn và mỗi khi bỏ học, em thường đi chơi games. Là giáo viên
trong tình huống này, bạn sẽ làm gì?
1. Vấn đề đặt ra
- Sự xáo động về tâm lí của học sinh khi đứng trước biến cố lớn trong gia đình.
- Học sinh bị sa ngã vào trò chơi điện tử.
- Học sinh không chú tâm vào học tập, kết quả học tập sa sút.
2. Phân tích vấn đề
Nguyên nhân: do bố mẹ li hôn, gia đình tan vỡ.
Nguyên nhân trên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đứa trẻ. Do thiếu đi sự yêu thương
của cả bố và mẹ, em học sinh dễ bị hình thành tâm lí tự ti, mặc cảm, bị bỏ rơi. Do thiếu sự định
hướng, dẫn dắt từ phía gia đình, em sẽ dễ bị lạc hướng, cám dỗ từ các tệ nạn xã hội,... và cả dễ
mắc các bệnh về rối loạn tâm lí (trầm cảm, tự kỉ,…).
3. Xác định mục tiêu
- Giúp bạn học sinh ổn định về tâm lí.
- Xác định vai trò, tầm quan trọng của việc học tập đối với cuộc đời mỗi con người.
- Phân tích tác hại của trò chơi điện tử khi chơi quá nhiều.
- Định hướng lại mục tiêu học tập của em học sinh.
4. Xác định các giải pháp có thể
Giải pháp 1: Bắt tại trận em học sinh chơi game => Phê bình trực tiếp => Thông báo với phụ
huynh và yêu cầu viết bản kiểm điểm.
Giải pháp 2: Gặp riêng em học sinh, phê bình và nhắc nhở học sinh về kết quả học tập giảm sút.
Giải pháp 3:
- Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình hiện tại của em học sinh (ở với ai, điều kiện sống như thế nào,
bố mẹ có quan tâm đến em học sinh hay không,…).
- Gặp mặt phụ huynh.
- Gặp mặt trò chuyện với em học sinh.
- Những ngày sau đó, quan tâm, gần gũi với em học sinh hơn.
5. Lựa chọn giải pháp (Ưu, nhược điểm của từng giải pháp)
Giải pháp 1:
Ưu điểm:
- Có thể khiến em học sinh sợ ngay lập tức.
Nhược điểm:
- Khiến em học sinh càng thêm xấu hổ và tự ti (ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lí).
- Khiến cho khoảng cách giữa cô và trò thêm xa cách.
- Khiến cho vấn đề càng khó giải quyết.
Giải pháp 2:
Ưu điểm:
- Có thể giúp em hiểu ra được một số vấn đề.
Nhược điểm:
- Tính hiệu quả không lâu dài và cách xử lí chưa triệt để, do học sinh vẫn bị ảnh hưởng tâm lí từ
phía gia đình.
Giải pháp 3:
Ưu điểm:
- Bao quát được vấn đề.
- Tôn trọng học sinh.
- Tạo được mối quan hệ thiện cảm gần gũi giữa giáo viên với học sinh.
- Có được sự tin tưởng của học sinh.
- Là cơ sở để giáo viên có thể phân tích đúng sai với học sinh.
- Học sinh có thể rút ra được bài học, cách xử lí khi đứng trước biến cố lớn trong cuộc đời.
Nhược điểm:
- Mất nhiều thời gian để thay đổi (do đây là cả một quá trình).
Vì vậy, xét về mọi mặt, giải pháp 3 là khả thi và hiệu quả nhất.
6. Thực hiện giải pháp
Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình hiện tại của em học sinh (ở với ai, điều kiện sống như thế nào, bố
mẹ có quan tâm đến em học sinh hay không, thái độ của em đối với bố mẹ, …).
Đối với phụ huynh: Gọi điện, gặp riêng trò chuyện về tình hình học tập và hoàn cảnh gia đình và
tâm lí học sinh.
TH1: Gia đình quan tâm Cùng gia đình định hướng giải pháp giúp em thay đổi, ổn định tâm lí.
TH2: Gia đình không quan tâm Không nhất thiết trao đổi về tình hình của em học sinh.
Đối với học sinh:
Xác định đối tượng học sinh (nam/nữ, độ tuổi, tính cách,…)
Gặp riêng, trò chuyện tâm sự, lắng nghe để em mở lòng. Dần dần, khi đã gần gũi với em hơn, giáo
viên có thể kể các câu chuyện về những người có hoàn cảnh tương tự, nhưng vẫn thành công sau
này, để khơi gợi lại được tinh thần học tập của em và giúp em định hướng lại được mục tiêu học tập
ban đầu.
Những ngày sau đó:
Quan tâm, gần gũi với em học sinh đó hơn; trò chuyện, động viên em sau mỗi buổi học.
Giáo viên tổ chức nhiều hoạt động tập thể, giúp cả lớp thêm gắn kết, giúp cho em học sinh không
cảm thấy tự ti vì bản thân khác biệt.
Trong những tiết sinh hoạt, giáo viên có thể kể những câu chuyện, những tấm gương tiêu biểu về
tinh thần vượt khó, để giúp các bạn học sinh trong lớp có cái nhìn tích cực hơn trước mỗi khó khăn,
sóng gió trong cuộc sống mà sau này các em phải đối mặt.