You are on page 1of 19

Chương 6

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM ĐỜI SỐNG MỚI


(Trang 109 – 128; Hồ Chí Minh toàn tập; tập 5, Nxb CTQG, HN 2011)
I. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát động phong trào “Xây dựng đời sống mới”. Ngày 3/4/1946, Ủy
ban vận động đời sống mới Trung ương được thành lập. Một năm sau (20/3/1947),
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đời sống mới” với bút danh là Tân Sinh để
chỉ đạo và động viên phong trào. Tác phẩm “Đời sống mới” được viết xong vào
tháng 3 năm 1947. Lúc này, tình hình nước ta có những đặc điểm đáng chú ý: Việt
Nam vừa được giải phóng khỏi ách đế quốc, thực dân, giành được độc lập dân tộc
với rất nhiều khó khăn, phức tạp chồng chất. Cả nước phải thực hiện nhiệm vụ mới
kháng chiến gắn liền với kiến quốc nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc vừa giành
được và xây dựng nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã soạn thảo chương trình
xây dựng đất nước, nhất là trên lĩnh vực văn hóa tinh thần. Tháng 4 - 1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về xây dựng đời sống mới; tháng 12 - 1946, Người
lại ký sắc lệnh thành lập Ủy ban xây dựng kế hoạch kiến thiết đất nước.
Để có tài liệu tuyên truyền, vận động thực hiện đời sống mới, Hồ Chí Minh
đã viết tác phẩm này.
2. Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm Lời tựa, 19 mục, đánh số thứ tự từ I đến XIX, trình bày dưới
dạng hỏi - đáp. Mỗi mục giải quyết một vấn đề. Có thể chia tác phẩm thành ba
phần lớn:
Từ mục I đến mục V: Những vấn đề chung có liên quan đến đời sống mới.
Từ mục VI đến mục XV: Đối tượng, nội dung và phạm vi xây dựng đời sống
mới.
Từ mục XVI đến mục XIX: Phương pháp xây dựng đời sống mới.
II. Nội dung cơ bản của tác phẩm
1. Những vấn đề chung liên quan đến đời sống mới
Sự cần thiết phải xây dựng đời sống mới: Xây dựng đời sống mới là nhu cầu
khách quan của sự phát triển đất nước sau khi giành được độc lập dân tộc, là trách
nhiệm của tất cả mọi người, mọi ngành, mọi giới, hợp với xu thế tiến hóa của thời
đại. “Trong lúc kháng chiến cứu quốc chúng ta phải đồng thời kiến quốc. Thực
hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc” 1. Là
nhiệm vụ của tất cả mọi người, mọi giới, hợp với xu thế thời đại.
- Mục đích xây dựng đời sống mới: Làm cho đời sống vật chất của nhân dân
được đầy đủ hơn, đời sống tinh thần được vui mạnh hơn.
- Thực chất nội dung xây dựng đời sống mới: Xây dựng tất cả các mặt của
đời sống xã hội, trước hết là đời sống tinh thần, tập trung vào thực hành đạo đức
Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
- Nguyên tắc xây dựng đời sống mới: Hủy bỏ, sửa đổi những tập tục, tập
quán lỗi thời, lạc hậu; kế thừa những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; xác
lập những giá trị mới.
2. Đối tượng và phạm vi xây dựng đời sống mới
- Xây dựng đời sống mới của một người:
Vai trò của con người: Gốc của làng nước. Thực hành đời sống mới là công
việc của mọi người dân, bắt đầu từ cội nguồn là mỗi người, gia đình, làng xã.
Người viết: “Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà
thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước
hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 111.
nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ
phú cường”2.
Nội dung đời sống mới của từng người: Tinh thần, cách ăn, cách mặc, cách
ở, học tập, cách làm việc: “Về tinh thần,... Việc gì lợi cho nước, phải ra sức làm.
Việc gì hại đến nước, phải hết sức tránh; Hai là sẵn lòng công ích. Bất kỳ việc to
việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm…; Ba là mình hơn người thì chớ kiêu
căng… Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, loè
loẹt. Cách làm việc, phải siêng năng, có ngăn nắp…; Cách cư xử, đối với đồng bào
thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ; Biết ham học…”3.
- Xây dựng đời sống mới của một nhà:
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; quan hệ giữa các gia đình với
nhau; làm cho gia đình trở thành kiểu mẫu.
Trong gia đình, thực hiện đời sống mới về quan hệ thì trên thuận, dưới hòa,
bình đẳng, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau, không thiên tư, thiên ái; về vật chất từ ăn
mặc, đến việc làm đều tiêu pha có kế hoạch, ngăn nắp; cưới hỏi giỗ tết nên đơn
giản tiết kiệm; quan tâm tới con cái, đến việc tu dưỡng học hành, kỷ cương nề nếp;
giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng.
“Mỗi người làm đúng theo đời sống mới thì đời sống mới trong một nhà
cũng dễ dàng thôi. Cũng như mỗi viên đá trơn tru vững chắc, thì chỉ cần một ít vôi
là đắp thành một bức tường tốt…Đó cũng không có gì là khó, không cần tốn tiền,
tốn công. Có chí làm là làm được. Mà một nhà như thế, nhất định phải phát đạt” 4.
- Xây dựng đời sống mới của một làng:
Xác định vai trò của làng; đời sống mới của làng bao gồm: Công việc làm
ăn, văn hóa, phong tục, vệ sinh, phục vụ kháng chiến; tổ chức đời sống mới của
làng bằng cách thi đua.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 116-117.


2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 117.


3

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 118.


4
Đối với làng xã, việc thực hiện đời sống mới, theo Người, cần phải làm
những việc sau: Về văn hóa phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và
trách nhiệm của công dân. Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa cờ bạc, hút sách,
trộm cắp, đĩ điếm. Tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau.
Làm cho làng mình trở thành một làng “thuần phong mỹ tục”.
- Xây dựng đời sống mới trong trường học:
Xác định vị trí, vai trò của thế hệ trẻ; nội dung dạy và học trong nhà trường
phải toàn diện, chú trọng nhất là giáo dục đạo đức cách mạng; thực hiện nguyên
tắc giáo dục học đi đôi với hành, lao động gắn với sản xuất, chiến đấu.
Người yêu cầu: “Trong chương trình học, phải trọng về môn tinh thần và
đạo đức. Phải tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ, mà giáo dục thực dân còn để lại” 5.
- Xây dựng đời sống mới trong bộ đội:
Hồ Chí Minh đề cập tới 7 vấn đề cần phải xây dựng, bao gồm các mặt: Một
là, phải kỷ luật cực kỳ nghiêm; Hai là, siêng tập luyện…; Ba là, mỗi người binh sĩ
phải biết chính trị ít nhiều…; Bốn là, bộ đội cũng phải tăng gia sản xuất...; Năm là,
tiết kiệm. Tiết kiệm thuốc đạn, bắn cho đúng, không bắn phí đạn…; Sáu là, vệ
sinh. Bộ đội đông người ăn chung, ở chung, nếu có bệnh tật càng dễ lây cho nhau.
Cho nên càng phải rất chú ý việc vệ sinh. Bảy là, ăn ở cho được dân tin, dân phục,
dân yêu. Hãy giúp đỡ dân, giữ đúng kỷ luật thì được như thế…
- Xây dựng đời sống mới trong công sở:
Những người ở trong các công sở từ làng (xã) cho đến Chính phủ Trung
ương đều dễ tìm dịp phát tài hoặc hoặc khoét đục nhân dân. Vì vậy, những người
trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu: “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người
chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương

5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 120.
của dân, làm việc cho dân, phải được dân tin cậy. Vì vậy, những người làm trong
các công sở càng phải làm gương đời sống mới cho dân bắt chước”6.
Xây dựng đời sống mới trong công sở phải thực hành nội dung Cần, Kiệm,
Liêm. “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu
không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt
của dân”7.
- Xây dựng đời sống mới trong các nhà máy, xí nghiệp: Xác lập quan hệ giữa
chủ và thợ chặt chẽ, hợp tác, cùng có lợi, yêu thương nhau.
3. Phương pháp xây dựng đời sống mới
- Những thuận lợi và khó khăn trong xây dựng đời sống mới ở nước ta: Về
điều kiện vật chất, về nhận thức, tâm lý của người dân...
- Các phương pháp chủ yếu cần thực hiện trong quá trình xây dựng đời sống
mới: Giải thích, vận động, tuyên truyền; thuyết phục, giáo dục kết hợp với cưỡng
chế; nêu gương; phát huy sức mạnh của toàn dân, của cả hệ thống chính trị (nhất là
vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước) trong xây dựng đời sống mới.
“Trước hết, phải tuyên truyền, giải thích và làm gương… Nói thì phải nói một cách
giản đơn, thiết thực với hoàn cảnh mỗi người; nói sao cho người ta nghe rồi làm
được ngay. Việc dễ, việc nhỏ làm được rồi, sẽ nói đến việc to, việc khó...Tốt nhất
là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước” 8.
- Một phương pháp có tính nguyên tắc trong xây dựng đời sống mới là phải
tiếp thu, kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp. Người viết: “Đời sống
mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ
mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi
lại cho hợp lý…Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì
ta phải làm”9.
6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 122.
7

8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 125-126.
9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 112-113.
III. Giá trị của tác phẩm đối với cách mạng Việt Nam hiện nay
1. Giá trị lý luận
Trong lời tựa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa của tác phẩm là
giúp nhân dân ta thực hành đời sống mới để cứu quốc và kiến quốc: “Trong lúc
kháng chiến cứu quốc chúng ta phải đồng thời kiến quốc. Thực hành đời sống mới
là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc”. Anh TÂN SINH viết
quyển "Đời sống mới" một cách vắn tắt, rõ ràng, thiết thực, dễ hiểu. Đó là một
quyển sách nhỏ, chỉ rõ bước đường đời sống mới. Tôi mong đồng bào ta mỗi người
có một quyển Đời sống mới để xem, để hiểu, để thực hành đời sống mới. Như thế,
chúng ta nhất định sẽ tiến bộ lớn”10.
Cách trình bày vấn đề một cách rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, sinh động, thiết
thực, phù hợp với các loại đối tượng khác nhau.
Khái quát một số vấn đề lý luận thành các nguyên lý có ý nghĩa phổ biến
chung. Tác phẩm lịch sử này được Hồ Chí Minh viết dưới dạng câu hỏi và trả lời,
rất rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và dễ nhớ.
2. Giá trị thực tiễn
Định hướng khoa học cho việc xây dựng đời sống mới ở nước ta trước đây
và cả hiện nay.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhằm giáo dục cho cán bộ, nhân
dân nếp sống mới, yêu nước, cần kiệm liêm chính, đồng thời bài trừ các hủ tục, tập
quán lạc hậu cũng như các thói hư tật xấu, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác
phẩm “Đời sống mới” với bút danh là Tân Sinh để chỉ đạo và động viên phong
trào.
Ngày nay, tác phẩm “Đời sống mới”của Người vẫn còn nguyên giá trị đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Lời dạy của Bác 70 năm
qua đã tạo nên động lực thúc đẩy kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, và
10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 111.
vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây dựng nếp sống văn minh ở chốn công
đường và cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá ở địa bàn dân cư từ thành thị
đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi trong phạm vi cả nước hiện nay và sau
này.
Tác phẩm “Đời sống mới” góp phần vận dụng có hiệu quả cho công cuộc
xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta trong công cuộc đổi mới, đặc biệt là văn hóa
đạo đức. Theo Người, thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính, đó cũng
chính là xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Quan điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Phân tích nội dung cơ bản của tác phẩm Đời sống mới?
2. Phân tích giá trị lý luận và thực tiễn tác phẩm Đời sống mới?

Chương 7
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
(Trang 269 – 308; Hồ Chí Minh toàn tập; tập 5, Nxb CTQG, HN 2011)
I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời và kết cấu của tác phẩm
1. Hoàn cảnh ra đời ra đời của tác phẩm
Tác phẩm ''Sửa đổi lối làm việc" được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và hoàn
thành vào tháng 10 năm 1947. Lúc này tình hình cách mạng của đất nước và công
tác xây dựng Đảng có nhiều đặc điểm và đặt ra nhiều yêu cầu mới.
- Về tình hình cách mạng của đất nước. Năm 1947, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân ta nhằm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được, bảo
vệ nền cộng hòa non trẻ đang ở năm đầu tiên, việc quân, việc nước biết bao khó
khăn, bộn bề. Ở thành thị, nhân dân ta nghe theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Hồ Chí Minh đã thực hiện tản cư, tiêu thổ kháng chiến. Cả thành thị và nông
thôn đã tự phá hoại cầu, đường để ngăn chặn bước tiến của kẻ thù, phá hoại âm
mưu "đánh nhanh, thắng nhanh" của chúng. Quân và dân Thủ đồ Hà Nội đã chiến
đấu oanh liệt, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Trong cuộc đối đầu, đụng độ
giữa ta và địch, quân đội viễn chinh Pháp đã thiệt hại ở Bắc Cạn, ở sông Lô. Chiến
thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 vang dội đã có tác dụng tạo niềm tin chiến
thắng, khích lệ, cổ vũ tinh thần kháng chiến của quân và dân cả nước, trên khắp
các chiến trường.
- Về phía Đảng ta. Sau khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền trong
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Trước vận
mệnh mất còn của dân tộc, Đảng ta nhận vào mình trọng trách tổ chức, lãnh đạo
toàn dân đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn, gian khổ để trường kỳ kháng chiến
nhưng nhất định thắng lợi. Kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh
sinh là đường lối chính trị, là chiến lược cách mạng của Đảng ta lúc bấy giờ. Nhân
tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là vai
trò lãnh đạo của Đảng với đường lối kháng chiến khoa học, đúng đắn ngay từ đầu.
Song, để đường lối kháng chiến đúng đắn đó được thực hiện trong thực tiễn, Đảng
ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác tư tưởng và
tổ chức của Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ "kháng chiến, kiến quốc".
Thực hiện đường lối của Đảng đặt ra những thách thức, yêu cầu mới đối với
mọi cán bộ, đảng viên, nhất là phát huy vai trò tiền phong gương mẫu, nêu cao đạo
đức cách mạng, biết hy sinh gian khổ, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của
Đảng lên trên hết, trước hết, gắn bó với quần chúng, học hỏi quần chúng, khêu gợi
và tổng kết những sáng kiến của quần chúng, tổ chức quần chúng trong phong trào
thiết thực, xây dựng các tiềm lực đủ sức tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài, toàn
dân, toàn diện.
Cuộc kháng chiến thần thánh càng đặt ra yêu cầu thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, chống quan liêu, xa rời quần chúng, đòi hỏi gay gắt mọi chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thiết thực, có lợi cho nhân dân, cho
kháng chiến, chống thói ba hoa, lý luận suông, những lời hô hào hình thức, sáo
rỗng. Cuộc đấu tranh cách mạng và vai trò xung kích của người đảng viên đòi hỏi
đội ngũ cán bộ phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức.
Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, Đảng chủ trương xây dựng các "chi
bộ tự động công tác" nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo của các
cấp bộ Đảng. Đồng thời, phát động kết nạp "lớp đảng viên tháng Tám để tăng lực
lượng lãnh đạo của Đảng". Trong quá trình thực hiện các chủ trương trên đã bộc lộ
những thiếu sót trong công tác lãnh đạo và lối làm việc, trong công tác tổ chức và
tư tưởng của Đảng. Những thiếu sót, nhược điểm của cán bộ, đảng viên làm giảm
uy tín của Đảng, có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Nhằm tăng cường công tác giáo dục cán bộ, đảng viên, phát huy ưu điểm, khắc
phục khuyết điểm, tạo ra sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, ngày 1-3-1947, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi các đồng chí đảng viên ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
Hai địa phương đó đang có nhiều vấn đề bức xúc trong công tác xây dựng Đảng.
Qua mấy tháng theo dõi việc thực hiện các bức thư, Hồ Chí Minh thấy rõ sự
chuyển biến của đảng viên chưa nhiều. Cán bộ, đảng viên các nơi hoặc chỉ nghiên
cứu qua loa, hoặc nhận thấy khuyết điểm rồi nhưng không cố gắng sửa chữa. Đặc
biệt: "Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng
việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa
người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa"11.
Để có tài liệu cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng trên các
mặt tư tưởng, đạo đức và phương pháp làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút
danh X.Y.Z đã viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" vào tháng 10-1947 và được
Nhà xuất bản Sự thật xuất bản và phát hành đầu năm 1948.
2. Kết cấu của tác phẩm
- Về hình thức, tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" được chia thành 6 mục lớn,
đánh số thứ tự từ I đến VI. Cụ thể: I. Phê bình và sửa chữa; II. Mấy điều kinh
nghiệm; III. Tư cách và đạo đức cách mạng; IV. Vấn đề cán bộ; V. Cách lãnh đạo;
VI. Chống thói ba hoa. Trong mỗi mục lớn có nhiều mục nhỏ được sắp xếp theo
một trật tự lôgíc chặt chẽ, bảo đảm tính liên hoàn, chỉnh thể của một tác phẩm lý
luận.
- Về nội dung, tác phẩm tập trung vào ba vấn đề lớn, quan trọng nhất: Đạo
đức cách mạng; cán bộ và công tác cán bộ của Đảng; phương thức, phương pháp
lãnh đạo của Đảng. Đây chính là ba vấn đề liên quan mật thiết và ảnh hưởng qua
lại trong vai trò lãnh đạo của Đảng: Cán bộ, đảng viên phải là tấm gương về đạo
đức cách mạng; có cán bộ tốt, có đạo đức cách mạng thì mới có thể tổ chức, lãnh
đạo được nhân dân; trong vai trò tổ chức, lãnh đạo của Đảng thì cán bộ là khâu
quyết định.
II. Nội dung cơ bản của tác phẩm
"Sửa đổi lối làm việc'' là một tác phẩm quan trọng về xây dựng Đảng, một
tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực, một cuốn sách "gối đầu giường" của cán bộ,
đảng viên để tu dưỡng về tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách công tác.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 271.


11
1. Sửa đổi lối làm việc của Đảng - yêu cầu khách quan của sự nghiệp
cách mạng
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Hồ Chí Minh đặt vấn đề cần thiết
phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, phong cách,
phương pháp công tác; xác định đó là nhiệm vụ thường xuyên, vừa lâu dài, vừa cấp
bách như là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng cách mạng chân chính, nhất
là khi Đảng đứng ra đảm nhận sứ mệnh lớn lao đối với sự phát triển của dân tộc.
Người giải thích rõ: "Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh
lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng, nếu mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát
hơn nữa"12.
Sửa đổi lối làm việc giúp cho Đảng rút ra nhiều bài học bổ ích, đẩy mạnh
công tác, hiệu quả công việc, làm cho Đảng lớn mạnh không ngừng; mặt khác nó
giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên khắc phục những sai lầm, khuyết điểm. Khuyết
điểm có nhiều thứ. Chúng ta có thể chia tất cả các khuyết điểm vào ba hạng:
- Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan.
- Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp
hòi.
- Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa 13.
Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, cá nhân, bản vị, cục bộ... mỗi
chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ địch
bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá
hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức ngăn ngừa, đề phòng những kẻ địch đó,
phải kiên quyết chữa trị bằng hết những căn bệnh đó. Điều này cho thấy sửa đổi lối
làm việc là nhiệm vụ chung của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên.

12
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 272.
13
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 273.
2. Vai trò của lý luận và tổ chức thực tiễn
Nói đến lý luận và tổng kết thực tiễn là nói đến các yếu tố làm nên trí tuệ của
Đảng. Trong "Sửa đổi lối làm việc'', Hồ Chí Minh hiểu lý luận là "đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ
lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính"14. Lý luận có vai trò rất to lớn, nó như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế; không có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi. Đối với Đảng, cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
nâng cao hiểu biết cả về lý luận và thực tiễn, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Người nói: "Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một
mắt mờ", "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp
dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý
luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" 15. Lý
luận và thực hành có quan hệ qua lại: Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành
phải nhìn theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng
như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có
tên.
Đánh giá cao vai trò của lý luận và thực hành, Hồ Chí Minh đi đến kết luận:
Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công
việc thực tế; phải gắng học, học thì phải hành; phải chữa cái bệnh kém lý luận,
khinh lý luận và lý luận suông. Bên cạnh học lý luận, người cán bộ phải có ý thức
biết tổng kết kinh nghiệm trong công tác. Phê bình và tổng kết kinh nghiệm công
tác là quy luật tiến bộ trong sự nghiệp cách mạng.
3. Vấn đề bản chất và tư cách của Đảng cách mạng

14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 273.
15
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 274.
Theo Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng và lợi
ích mà nó đại diện. Đối với Đảng ta, bản chất đó được Người xác định rất rõ:
Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên
Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và
để nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải
phóng thì tức là Đảng được giải phóng.
"Sửa đổi lối làm việc'' đã đưa ra 12 điều thuộc về tư cách của một Đảng chân
chính cách mạng, theo đó "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài.
Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng"16. Dó đó, Đảng phải biết lý luận cách mạng, phải kết hợp lý luận
với thực tế, với kinh nghiệm cách mạng trong nước và trên thế giới. Đảng phải liên
hệ mật thiết với quần chúng, giữ kỷ luật nghiêm từ trên xuống dưới, thường xuyên
thực hiện tự phê bình và phê bình, không che giấu khuyết điểm của mình. Theo Hồ
Chí Minh: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để
sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”17. Để kết luận, Người viết:
Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào
4. Vấn đề đạo đức cách mạng
Trong "Sửa đổi lối làm việc", Hồ Chí Minh đề cập đến đạo đức cách mạng
trên nhiều khía cạnh, thể hiện rõ nét quan niệm tổng quát, toàn diện của Người.
Trước hết, Hồ Chí Minh xác định rõ vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng
đối với Đảng nói chung và với từng cán bộ, đảng viên nói riêng. Người gắn vấn đề

16
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 289.
17
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 301.
đạo đức cách mạng liên quan đến thắng lợi hay thất bại của cách mạng. Hồ Chí
Minh viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" 18. Sự
nghiệp cách mạng vẻ vang, cao cả, to tát, khó khăn đòi hỏi người cách mạng phải
có các phẩm chất tương ứng về đạo đức và đạo đức đó phải trở thành "cái căn
bản" của mỗi người.
Về nội dung, đạo đức cách mạng bao gồm năm tính tốt: Nhân, Nghĩa, Trí,
Dũng, Liêm. Những tính tốt này của đạo đức cách mạng mang đậm đà bản sắc
truyền thống dân tộc, được Người kế thừa từ đạo đức Nho giáo, nhưng được thêm,
bớt, thay đổi trật tự vị trí các chuẩn mực đạo đức và nhất là nội dung của từng
chuẩn mực đó được Hồ Chí Minh giải thích theo một tinh thần hoàn toàn mới,
mang tính cách mạng. Đạo đức cách mạng với năm tính tốt đó khác với đạo đức
cũ, nó "không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó
không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người"19.
5. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ của Đảng
Trong tác phẩm ''Sửa đổi lối làm việc'', Hồ Chí Minh đã nêu ra một cách có
hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ.
- Người xác định rất rõ: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách
cho đúng"20. Cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân. Trong tư duy
Hồ Chí Minh, cán bộ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng: Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém.
18 2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 292.
19

20
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 309.
Người cán bộ cách mạng phải hội đủ các tiêu chuẩn: Đức và tài, phẩm chất
và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác
tốt, trong đó phẩm chất đạo đức phải là yếu tố hàng đầu, là gốc, là nền tảng.
- Phẩm chất và năng lực cán bộ quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng, vì thế công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng; là một vấn đề rất trọng yếu,
rất cần kíp.
Đối với Đảng, thực chất công tác cán bộ là "nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng
mỗi con người có ích cho công việc chung của chúng ta".
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu liên hoàn, được Hồ Chí Minh chỉ ra
một cách rất chi tiết, cụ thể, dễ hình dung, dễ thực hiện. Đó là:
+ Huấn luyện cán bộ: Rất cần thiết; huấn luyện cán bộ toàn diện, mọi mặt
như huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp theo phương châm làm việc
gì học việc ấy; huấn luyện chính trị, gồm cả thời sự và chính sách; huấn luyện văn
hóa, khoa học, kỹ thuật; huấn luyện lý luận.
+ Dạy cán bộ và dùng cán bộ: Hồ Chí Minh lưu ý các điểm chính như phải
biết rõ cán bộ; cất nhắc cán bộ cho đúng; phải khéo dùng cán bộ; phải phân phối
cán bộ cho đúng; phải giúp cán bộ cho đúng; phải giữ cán bộ.
+ Lựa chọn cán bộ: Theo Hồ Chí Minh phải căn cứ vào các tiêu chuẩn cụ thể
như lòng trung thành, hăng hái; sâu sát, gần gũi, gắn bó với nhân dân, phải hiểu
dân, thương yêu dân; có gan phụ trách, giải quyết vấn đề; có ý thức tổ chức kỷ luật.
+ Bồi dưỡng cán bộ: Phải làm tốt các nội dung như có chỉ đạo, tập trung; bồi
dưỡng để nâng cao, thạo nghề, thạo việc; bồi dưỡng phải có kiểm tra, đánh giá; bồi
dưỡng kết hợp giữa xây dựng và cải tạo, nhất là tư tưởng; sẵn sàng giúp đỡ cán bộ.
+ Thực hiện chính sách đối với cán bộ: Bao gồm các nội dung như hiểu biết
cán bộ; khéo dùng cán bộ; cất nhắc cán bộ; thương yêu cán bộ; phê bình cán bộ.
6. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong "Sửa đổi lối làm việc", Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ "cách lãnh
đạo"; từ đó đồng nghĩa với thuật ngữ "phương thức, phương pháp" lãnh đạo mà
chúng ta dùng hiện nay. Người cho rằng, muốn giữ vững vai trò lãnh đạo, tập hợp
quần chúng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Đảng cầm quyền phải có
cách lãnh đạo đúng, thích hợp.
Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng nghĩa là:
- Phải giải quyết mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định
phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu
đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng
giúp thì không xong.
- Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần
chúng giúp mới được.
Về phương thức lãnh đạo, Người lưu ý kết hợp chặt chẽ giữa các mặt. Liên
hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng; liên hợp lãnh đạo với quần chúng.
Hồ Chí Minh đã xác định rõ 5 nguyên tắc trong lãnh đạo của Đảng, về đại
thể là việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với quần chúng; tin tưởng quần chúng,
theo trình độ giác ngộ và tự giác của quần chúng; tuyệt đối không theo đuôi quần
chúng; việc gì cũng phải từ "dưới nhoi lên".
7. Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng
Hồ Chí Minh cho rằng, lực lượng quần chúng, của dân chúng nhiều vô cùng.
Nếu được dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được; dân chúng không ủng hộ,
việc gì làm cũng không nên. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, sửa đổi lối
làm việc của Đảng cũng phải vì dân, dựa vào dân thì mới thành công, mới có kết
quả mong muốn.
Muốn tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng, vấn đề rất quan trọng là
phải có cách tuyên truyền, vận động hợp lý, khoa học nhất là nói và viết sao cho
hiệu quả, làm thế nào mà "mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái
tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng".
Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng cần thực hiện đúng các yêu
cầu: Học cách nói của quần chúng; dùng lời lẽ thí dụ thiết thực, dễ hiểu; đúng đối
tượng người đọc, người nghe; điều tra, nghiên cứu kỹ trước khi nói, khi viết; chưa
biết rõ chớ nói chớ viết; chuẩn bị kỹ, sắp đặt cẩn thận, kiểm tra sau khi viết v.v...
III. Giá trị của tác phẩm đối với cách mạng Việt Nam hiện nay
1. Giá trị lý luận
"Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt sâu sắc. Nó thể
hiện những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ
Chí Minh.
- Tác phẩm trình bày một cách hệ thống các mặt cơ bản hợp thành nội dung
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm
quyền, lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng, kiến thiết đất
nước. Đó là xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, công tác cán bộ, về đạo đức, tư
cách của cán bộ, đảng viên, về phương thức, phương pháp, phong cách lãnh đạo
của Đảng, quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Những nội dung này vừa là sự
kế thừa lý luận Mác - Lênin về xây dựng Đảng, vừa bổ sung, phát triển, làm phong
phú lý luận đó trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là nhấn mạnh vai trò của nhân
tố đạo đức trong việc nâng cao uy tín, sức mạnh, sức chiến đấu của Đảng. Điều đó
thể hiện quan điểm thực tiễn trong cách tiếp cận và giải quyết vấn đề của Hồ Chí
Minh.
- Cắt nghĩa một cách khoa học mối quan hệ giữa các khâu của công tác xây
dựng Đảng: Cán bộ, đảng viên cần tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và năng lực làm
việc để trở thành cán bộ tốt; xây dựng thể chế là biện pháp thực thi việc quản lý,
điều hành công việc trên nguyên tắc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; thể chế
mà cơ bản nhất là thể chế dân chủ có tác dụng kiểm soát và ngăn ngừa sự lộng
quyền trong sử dụng quyền lực.
Các quan điểm lý luận của tác phẩm có tác dụng chỉ đạo công tác xây dựng
Đảng trong mọi giai đoạn phát triển đất nước.
2. Giá trị thực tiễn
Giá trị thực tiễn của tác phẩm được thể hiện trên nhiều mặt.
- Tác phẩm là một tài liệu học tập thiết thực, bổ ích, có đóng góp to lớn vào
việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên trở thành những người cách mạng trung
thành với sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, góp phần tạo động lực đẩy mạnh
kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.
- Tác động tích cực tới đông đảo quần chúng nhân dân, mang lại sự hứng
khởi, niềm tin tưởng cho họ vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng lãnh đạo với mục
tiêu duy nhất: Phục vụ nhân dân, vì độc lập dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc của mọi
người dân; làm cho quần chúng nhân dân tin yêu Đảng, gắn bó với Đảng, thực hiện
tốt đường lối của Đảng, chủ động, tích cực tham gia xây dựng Đảng, làm cho Đảng
trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đất nước.
- Ra đời trên 60 năm nay, nhưng tác phẩm vẫn là một trong những văn kiện
quan trọng về xây dựng Đảng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Những chỉ dẫn cụ
thể của Hồ Chí Minh trong tác phẩm nếu được học tập, quán triệt tốt sẽ góp phần
đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục các biểu hiện
tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền, kém kỷ luật, thiếu ý
thức trách nhiệm v.v... của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, đổi mới
phương thức và phong cách lãnh đạo, làm cho Đảng thật sự trở thành một Đảng
cầm quyền "là đạo đức, là văn minh" như mong muốn của Bác Hồ.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Phân tích nội dung cơ bản tác phẩm Sửa đổi lối làm việc?
2. Giá trị lý luận và thực tiễn tác phẩm Sửa đổi lối làm việc?

You might also like