You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING

KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


------------------------------------------

Giá trị lịch sử tác phẩm


Đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1947)
(Tiểu luận môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh)

Cán bộ hướng dẫn khoa học: ThS. Vũ Văn Quế


Nhóm sinh viên thực hiện đề tài: Nhóm 3

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- THÁNG 2 NĂM 2023


NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

ST
HỌ VÀ TÊN MSSV CHỮ KÝ GHI CHÚ
T
1 Trần Thị Kim Châu 2121008440

2 Huỳnh Ngọc Mỹ Hương 2121004480

3 Lê Vũ Ngọc Nga 2121004858

4 Trần Tiến Thảo Nguyên 2121004693

5 Nguyễn Ngọc Minh Thư 2121004746

6 Trần Phan Như Thùy 2121001476

7 Nguyễn Trần Hoàng Ánh Thư 2121004769

1
2
Phần II
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm "Đời sống mới"

I. Bối cảnh lịch sử:

 Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ
đứng trước muôn vàn khó khăn phải đương đầu với thù trong giặc ngoài và nhiệm
vụ quan trọng nhất lúc này là cải thiện đời sống của nhân dân, cần phải thay đổi
nếp sống lạc hậu. Đảng ta chủ trương phát động phong trào “Xây dựng đời sống
mới”, chính thức thành lập Uỷ ban vận động đời sống mới Trung ương (1946). Sau
đó một năm vào tháng 3, lấy bút danh Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và
công bố tác phẩm “Đời sống mới” chỉ đạo và động viên toàn nhân dân tham gia
xây dựng đời sống mới với mục đích là làm cho đời sống của nhân dân ấm no, vật
chất đầy đủ, tinh thần vui vẻ, khỏe mạnh, và tập trung xây dựng một nước Việt
Nam giàu mạnh. 

II. Văn hóa thời đại:

Theo Người, để thực hành đời sống mới cần phải có đủ 4 yếu tố quan trọng là Cần,
Kiệm, Liêm, Chính ở cả mọi ngành, mọi giới và mọi người. Người đã coi “tứ đức”
này là nền tảng của Đời sống mới.

“Cần” là cần cù, siêng năng để chỉ quân đội phải siêng năng đánh, tập, rèn luyện
thân thể và nhân dân phải tham gia tăng gia sản xuất, phải siêng làm, thì kháng
chiến chắc chắn thắng lợi.

“Kiệm” là tiết kiệm, nhắc nhở binh lính phải tiết kiệm súng ống, đạn dược trong
lúc chiến đấu vì mỗi một viên đạn bắn ra là một kẻ thù.

“Liêm” là sự liêm khiết, anh minh. Mọi người dân kể cả quan chức cấp cao đều
phải sống trong sạch, không tham ô, không đem của công dùng vào việc riêng thì
mọi việc mới suôn sẻ. 

3
“Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. Luôn đặt việc nước lên hàng đầu, vì nước quên
thân, hăng hái ủng hộ kháng chiến và tích cực tham gia gia tăng sản xuất để diệt
trừ bọn bán nước hại dân để đất nước thống nhất độc lập mới.

Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng
bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản được
bao hàm trong “tứ đức”. Song, Đảng ta yêu cầu: “Từng bước vươn lên khắc phục
các hạn chế của con người Việt Nam bằng việc được nhận biết, được phê bình, tự
phê bình nghiêm khắc, cần phải được sửa chữa, khắc phục để cho dân giàu, nước
mạnh. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng.

III. Xung đột giai cấp:

Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ
và cái bảo thủ, trì trệ của những lực lượng đi ngược với lợi ích của dân tộc, của
nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Nội dung cuộc đấu tranh giai cấp lớn lao và
phức tạp nhằm khắc phục tình trạng đất nước lạc hậu, kém phát triển, thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, khắc phục những tư tưởng và hành động
tiêu cực, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch, bảo vệ nền độc lập dân tộc bằng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau
vừa linh hoạt, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh trực diện bằng bạo lực, trấn áp
đối với thế lực thù địch, kể cả đấu tranh bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, cả
hành chính và đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản.

 Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà là loại trừ những
thành phần thoái hóa, chống đối cách mạng. Tăng cường và phát huy vai trò của sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân. Bảo vệ nền độc lập dân tộc,
xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa thịnh vượng, nhân dân ấm no
hạnh phúc.

4
IV. Truyền thống gia đình:

Vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta - Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên
trong một gia đình nghèo ở xứ Nghệ có truyền thống văn hóa yêu nước, rất coi
trọng đạo đức, học vấn và phương pháp giáo dục con cái. Từ nhỏ, Người đã nhận
được nền tảng giáo dục bền vững từ tình thương yêu của một người cha, một người
yêu nước, thương nòi của dân tộc Việt Nam, song, Người được rèn dũa tính giản
dị, khiêm tốn, đức hy sinh, yêu lao động của mẹ và tinh thần sức mạnh gan dạ của
anh chị em trong gia đình. Vì vậy, Bác đã sớm hình thành một tư duy và nhân cách
cao thượng, giúp kiến tạo nên mục tiêu, lý tưởng về con đường cứu dân, cứu nước
đúng đắn của Người sau này.

V. Tư tưởng tình cảm:

Hồ Chí Minh, một minh chứng cho người sẵn lòng vì đồng bào, Tổ quốc, lý tưởng
cộng sản mà quên bản thân. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn thể hiện qua
lòng nhân ái cao cả của Người đối với giai cấp vô sản, nhân dân lao động và những
người bị áp bức bóc lột bằng việc đấu tranh cách mạng, xóa bỏ ách thống trị của đế
quốc, thực dân để giải phóng dân tộc ta. Hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động thế giới là lý tưởng, mục tiêu
phấn đấu của Người, đó là chủ nghĩa nhân văn của thời đại mới.

Nhận thấy quá trình xây dựng công cuộc đổi mới đất nước còn nhiều khó khăn và
mâu thuẫn bởi các yếu tố chủ quan cũng như khách quan. Hồ Chí Minh với lòng
yêu nước sâu sắc khát khao cống hiến đã cho ra đời tác phẩm “Đời sống mới” bao
gồm hai nội dung chính là xây dựng con người mới và xây dựng xã hội mới toàn
diện. Người nhận định: “Chỉ có bắt đầu sửa đổi từ những nhu cầu cơ bản nhất của
con người: ăn, mặc, ở, … mới có thể thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đời
sống mới với mục đích cải thiện chất lượng đời sống nhân dân ta”.

5
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới” không chỉ có
giá trị vĩ đại trong việc xây dựng con người - xã hội Việt Nam mới mà còn góp
phần kháng chiến thắng lợi, xây dựng đất nước thành công. Đặc biệt có ý nghĩa
thời sự đối với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ngày nay trong xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới, đô thị
văn minh, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.

Chương 2. Nội dung cơ bản của tác phẩm "Đời sống mới"

I. Mục đích xây dựng đời sống mới:


Đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn 
Theo Hồ Chí Minh, để đời sống nhân dân được đầy đủ, ấm no hơn, tinh thần thoải mái
hơn thì cần thực hiện đời sống mới Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thay đổi cách nhận thức về
lối sống trong xã hội cũ, là thay đổi trong văn hoá, để có đời sống kinh tế mới ổn định,
phát triển. Tiến hành đời sống mới “không phải cao xa gì, cũng không phải khó khăn gì”
vì nó không có gì gay go, khó làm.
II. Bản chất xây dựng đời sống mới:
Đó là “bỏ cái xấu”, “sửa phiền phức”, “phát triển cái tốt”, “sửa đổi cách ăn, cách
mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”
Cần loại bỏ những cái xấu như thói làm biếng, tham lam, không làm mà muốn có
ăn, các tệ nạn xã hội, bài trừ những hủ tục mê tín dị đoan. Sửa cái phiền phức
thành việc hợp lý (Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi),
phát triển thành cái tốt hơn như cải cách giáo dục, mở các lớp bình dân học vụ,
tham gia hăng say vào lao động, tăng gia sản xuất thì đời sống mới phát triển. Phải
thực hiện sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách đi lại, cách làm việc một cách lề lối, kỷ
cương để đi đúng theo chiều hướng đời sống mới tốt hơn.

Xưa Nay

6
Đàn ông gia trưởng, cờ bạc rượu chè, đánh đập chia sẻ công việc gia đình, thấu
vợ con hiểu

Phụ nữ tri thức thấp, phụ thuộc kinh tế học hành tử tế, độc lập tài chính

Quan lại lạm quyền, tham nhũng công bằng, minh bạch

Người lạc hậu, cổ hủ, mê tín dị đoan đổi mới tư duy


dân

III. Đối tượng tham gia xây dựng đời sống mới:
Bác Hồ nhấn mạnh quá trình xây dựng đời sống mới - hình thành tiến bộ xã hội
không phải là một quá trình tự động, mà phải thông qua hoạt động của mọi người
trong xã hội. Vì vậy, phát triển toàn diện con người là mục tiêu cao nhất, quan
trọng nhất của mỗi quốc gia, là động lực để phát triển xã hội. Những con người
thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy
tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại. Đặc
biệt trong thời đại mới, con người phải có khả năng thích nghi nhanh với những
biến đổi xã hội, phải có khả năng làm chủ bản thân, gia đình và xã hội. 
IV. Phạm vi thực hành đời sống mới:
Phải là rộng khắp cả nước, bao gồm người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. 
Dù “Đời sống mới” đã tồn tại hơn 70 năm nhưng những bài học kinh nghiệm cũng
như giá trị cốt lõi của tác phẩm vẫn được Đảng và nhà nước ta chắt lọc học hỏi

7
trong xây dựng một nếp sống lề lối theo sự chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Không chỉ nhân dân ở Việt Nam mà kể cả kiều bào ta ở nước ngoài cũng chú trọng
và giữ vững một lối sống mới không phai mờ qua bao năm tháng.
V. Nội dung xây dựng đời sống mới:
1. Xây dựng đời sống mới có nội dung chính là xây dựng con người mới và xây
dựng xã hội mới toàn diện:

Thứ nhất, là xây dựng con người mới: cần, kiệm, liêm, chính, có lối sống lành
mạnh, văn minh. Bác chỉ rõ, người là “gốc của làng nước”, nếu “mỗi người đều
tốt” thì “làng tốt” và “nước sẽ mạnh”. Vì vậy, để xây dựng con người mới, mỗi cá
nhân cần chủ động: sẵn sàng đóng góp cho cộng đồng mà không mưu cầu lợi ích,
tuyên truyền và bài trừ những hành động ảnh hưởng xấu đến xã hội; rèn dũa những
đức tính tốt, và không ngừng học tập để tiến bộ.

Thứ hai, là xây dựng xã hội mới toàn diện trên tất cả các hoạt động của đời sống xã
hội như giáo dục, kinh tế, văn hóa, chính trị…

2.Về lĩnh vực giáo dục:

Trong tác phẩm “Đời sống mới” năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những
việc cần làm ngay với giáo dục, đó là xóa bỏ nền giáo dục thực dân và xây dựng
nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Và theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “cốt nhất là
phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự
cường, quyết không chịu thua kém ai”. Ngay từ thời điểm này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thể hiện tư tưởng giáo dục toàn dân, giáo dục toàn diện, giáo dục suốt đời.
Đây có thể xem là 3 nội dung cơ bản bao quát toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục, cũng là hướng đích của quản lý giáo dục nước nhà trong suốt những năm
qua.

Giáo dục toàn dân là việc xây dựng nền giáo dục hướng tới mọi đối tượng, ai cũng
được học hành, không chỉ tập trung vào một bộ phận, một giai cấp, tầng lớp nào.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để

8
phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân
loại”.

 Giáo dục toàn diện chỉ ra hướng đích của nền giáo dục là phải đào tạo ra những
con người toàn diện cả về tư cách, nhân phẩm, đạo đức, chứ không chỉ có tri thức,
kiến thức.  
Giáo dục suốt đời được xem là tư tưởng tiến bộ vượt bậc của Người vào thời điểm
đó. Học tập suốt đời chính là bao hàm hai yếu tố học tập toàn dân và toàn diện. Chỉ
khi xây dựng được nền giáo dục toàn dân và toàn diện thì sẽ bảo đảm được mục
đích học tập suốt đời. Đây là luận điểm quan trọng mà giáo dục Việt Nam hiện đại
đang rất cần nghiên cứu, áp dụng. Việc hình thành nhân cách con người là do yếu
tố gia đình trước hết, nhưng việc biến đổi, phát triển nhân cách con người lại do tác
động xã hội là chủ yếu. Do vậy, trong suốt cuộc đời, con người vẫn luôn phải học
tập, tu dưỡng, rèn luyện, luôn phải tự trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết. Xây
dựng một xã hội học tập, bảo đảm cho mọi người dân đều được học khi có nhu cầu
là nền tảng quan trọng và bền vững cho sự phát triển của đất nước.

3.Về lĩnh vực văn hoá - kinh tế - chính trị:

Trong một nhà, về tinh thần, “phải trên thuận, dưới hòa, không thiên tư, thiên ái”;
về vật chất, mọi việc đều phải “có kế hoạch, có ngăn nắp”…

Trong một làng xã, phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm
của công dân. Về phong tục, phải cấm hẳn tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu.

Trong một trường học, cốt nhất phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi, chí
tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ …

Trong bộ đội, phải thực hành kỷ luật cực kỳ nghiêm, siêng tập luyện, ai cũng biết
chính trị ít nhiều, phải tăng gia sản xuất, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu…

Trong các công sở mỗi người phải giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính để tránh tình
trạng “dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”…

9
Trong một nhà máy, phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa chủ và thợ, cùng tiết kiệm để
tăng năng suất, để cùng hưởng lợi…

 Tất cả những nội dung về xây dựng đời sống mới theo Hồ Chí Minh là “không có
gì khó, chỉ sợ chí không bền”. Xây dựng đời sống mới “lợi nhiều chứ không hại.
Lợi cho toàn thể, mà không hại đến cá nhân. Vì vậy có quyết tâm thì đời sống mới
rất dễ làm.
VI. Nguyên tắc thực hành đời sống mới:
Dân chủ, tự nguyện, bình đẳng, toàn diện, rộng khắp, kiên trì, thiết thực, phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể, làm từ việc dễ đến việc khó. 
Nguyên tắc thực hành đời sống mới phải đảm bảo dân chủ, tự nguyện, bình đẳng
và toàn diện. Theo Bác, khi tuyên truyền cần phải dần dần nói cho người ta hiểu,
khi người ta hiểu sẽ vui lòng làm, không nên ép buộc; phải hăng hái, kiên trì, cẩn
thận và khôn khéo. Nếu đến khi tất cả mọi người đều thực hiện, chỉ có một số ít
vận động mãi không được, lúc đó mới dùng đến cách cưỡng chế, bắt họ phải làm
theo. Và phải làm từ việc dễ đến việc khó, có như thế, đời sống mới sẽ đạt kết quả
tốt trên nhiều mặt như kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục,… và phạm vi thực hành
sẽ rộng khắp cả nước.
VII. Cách thức, phương châm thực thi đời sống mới:
Bác cũng nhấn mạnh phương pháp xây dựng đời sống mới là tuyên truyền, vận
động quần chúng nhân dân nhưng phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng, từng
hoàn cảnh. Trước hết là “phải tuyên truyền, giải thích, làm gương” bắt đầu từ mỗi
cá nhân và sau đó lan tỏa ra khắp cả nước. Phải nói một cách đơn giản, thiết thực,
không chỉ nói một lần mà phải nói nhiều lần, khi nào người ta hiểu và làm mới
thôi. Song, cần ra sức khuyến khích giúp đỡ cho dân làm, tổ chức thi đua gắn với
khen thưởng để tạo động lực, gắn kết các bộ phận cùng nhau hăng hái thực hành
đời sống mới. Tiếp đến Hồ Chí Minh yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải phát
huy vai trò nêu gương trong mọi lúc, ở mọi nơi; nói phải đi đôi với làm, để quần
chúng noi theo; tự mình phải gương mẫu thực hiện. Cũng theo Người: “Một tấm
gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và “Muốn hướng
10
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, nên mỗi cán bộ,
đảng viên phải thể hiện rõ tinh thần tiên phong, “đảng viên đi trước, làng nước
theo sau”, “làm mực thước cho người ta bắt chước”.
VIII. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không thể không
tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn:
Đưa người nông dân hội nhập với sản xuất hàng hóa kinh tế thị trường, xây dựng
văn hóa, con người phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, tạo nên văn hóa gia
đình, làng xã, ngõ phố văn minh, sạch đẹp.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống mới, trong lý luận và thực tiễn, hơn
35 năm đổi mới, Đảng luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến
lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Chính vì vậy, bộ mặt nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam thay đổi đáng kể: xanh hơn, sạch hơn, đẹp hơn. Xây dựng
nông thôn mới là một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên tục và việc vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh và những nội dung của “Đời sống mới” sẽ tiếp tục được kế
thừa, phát huy và ngày càng sáng tạo, linh hoạt hơn, phù hợp với bối cảnh mới. Từ
thực tiễn đất nước hiện nay, có thể thấy, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đời
sống mới từ 75 năm qua không chỉ tạo nên động lực to lớn thúc đẩy kháng chiến
thắng lợi, kiến quốc thành công, mà đến ngày nay, vẫn còn nguyên giá trị đối với
sự nghiệp xây dựng đất nước ta trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu
rộng.

11
Chương 3. Giá trị của tác phẩm "Đời sống mới" đối với cách mạng
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
(1996- 2022)

I. Ý nghĩa lịch sử ra đời tác phẩm “Đời sống mới”:


Nhìn lại tác phẩm “Đời sống mới” chúng ta thấy rằng, thực chất tư tưởng xây dựng
đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Xây dựng con người mới, xã hội mới
của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và xây dựng đời sống
mới tức là thực hiện đường lối “Kháng chiến - Kiến quốc”, đường lối “Kháng
chiến toàn dân, toàn diện” sáng tạo của Đảng.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới, trong 9 năm trường
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đảng và Chính phủ Việt Nam
đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị hướng dẫn xây dựng đời sống văn hóa. Nổi
bật trong thời kỳ này là tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”,“Chủ nghĩa
Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam”, “Bàn về văn hóa Việt Nam” của Tổng Bí thư
Trường Chinh.
II. Giá trị thực tiễn tác phẩm Đời sống mới:
Từ Đại hội Toàn quốc năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công
cuộc Đổi mới, nhằm đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội kéo
dài gần 10 năm sau chiến tranh. Cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc xóa bỏ chế
độ bao cấp, công nhận và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; đồng nghĩa với
việc cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,...
Cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ xã hội và con người Việt Nam, đưa đến sự
cạnh tranh mọi mặt trong cuộc sống và tất yếu không tránh khỏi sự cạnh tranh
không lành mạnh, vi phạm pháp luật về kinh doanh, thương mại, về an sinh xã hội,
môi trường,... Cơ chế thị trường có thể làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Sẽ có cán bộ, đảng viên lạm dụng chức quyền, thực thi công vụ trái nguyên tắc và
đạo lý, chỉ lo vun vén lợi ích cá nhân, thiếu trách nhiệm, vô cảm với đời sống
người dân, gây những hậu quả nghiêm trọng

12
Lĩnh vực văn hóa đã trở thành mặt trận quan trọng, góp phần xây dựng một xã hội
mới, xã hội dân chủ nhân dân, hình thành con người Việt Nam mới, con người sẵn
sàng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc. 

1. Về văn hóa:

Thực tiễn của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, “đô thị
văn minh” thời gian qua cho thấy, phát triển sản xuất hàng hóa luôn đi đôi, gắn liền
với xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa cần gắn với cội nguồn
mà nhân tố trung tâm là con người và cộng đồng trong các gia đình, làng xã. Trong
xây dựng nông thôn mới, mỗi cá nhân, gia đình, làng xã, nhất là người nông dân là
chủ thể.
2. Về văn hóa xã hội:
Đó là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa của văn hóa nhân loại và góp phần vào bản sắc thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng ASEAN mà Việt Nam đã là thành viên từ năm 1995. Bên cạnh
xây dựng đời sống mới ở khía cạnh tiếp thu văn hóa tiên tiến, chúng ta cần phát
huy đức tính tốt đẹp của người nông dân như lòng yêu nước, tính cần cù, trung
thực, lối sống “tình làng, nghĩa xóm” và xóa bỏ tâm lý tiểu nông hạn hẹp, phải lấy
văn hóa làm nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. 
3. Về nhận thức:

Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam ngày càng đạt đến những nhận thức đúng đắn, sâu
sắc và toàn diện hơn về văn hóa. Sức mạnh của văn hóa, những giá trị tiềm tàng,
đích thực của các di sản văn hóa, của các không gian văn hóa vùng miền; vai trò
của văn hóa, môi trường văn hóa trong xây dựng hệ thống chính trị, nhà trường,
gia đình, cộng đồng ngày càng được ghi đậm trong các mục tiêu, kế hoạch, chiến
lược phát triển từ trung ương đến địa phương. Trong nhiều năm, do những thúc ép
của tình trạng ngưng trệ, thấp kém về kinh tế nên Việt Nam đã phải tập trung nhiều
nguồn lực, ưu tiên đầu tư cho đổi mới về kinh tế với hai nội dung chủ yếu: Thứ
nhất, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thể chế kinh tế thị trường

13
định hướng XHCN; Thứ hai, chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang mở cửa,
hội nhập với đời sống kinh tế khu vực và thế giới

Thành tựu nổi bật của 3 thập niên đổi mới về văn hóa là đã xác định đúng, đánh giá
ngày càng chuẩn xác vai trò, sứ mệnh, tầm quan trọng của văn hóa đối với sự
nghiệp xây dựng con người và phát triển xã hội. Văn hóa chính là nền tảng cốt yếu
của xã hội, là động lực cho sự phát triển bền vững và các mục tiêu an sinh của đất
nước. Hơn thế, văn hóa còn là hồn cốt, là nhân tố định dạng đồng thời là tiêu chí
quan trọng, là thước đo trình độ phát triển của các quốc gia. Văn hóa có chức năng
kết tụ, lan tỏa và nhân lên sức mạnh của một dân tộc
Nhìn lại chặng đường 30 năm ta thấy, phương châm chỉ đạo mang tính chiến lược
về văn hóa đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng sâu rộng đến sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa, xây dựng chuẩn mực và nhân cách con người Việt
Nam. Một số mô hình, thiết chế, phong trào văn hóa (như Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa), đã được thiết lập, triển khai sâu rộng và đem lại nhiều kết
quả tích cực. Mặt khác, các chủ trương, định hướng cơ bản về văn hóa đã xác định
khá rõ những nguyên tắc, định chế căn bản cho việc xây dựng các chính sách phát
triển văn hóa, quản lý văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được thể
hiện bằng các văn bản pháp quy với sự ra đời của nhiều đạo luật, pháp lệnh, nghị
định về văn hóa, trong đó nổi bật là Luật di sản văn hóa, Luật giáo dục, Luật bình
đẳng giới.

4. Về giáo dục:
Giáo dục thay đổi sau cách mạng: Sau khi nhận được những ý kiến chỉ đạo trực
tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc gia Giáo dục xác định rõ chính sách giáo
dục sẽ thi hành để thay thế chế độ giáo dục thực dân dựa trên ba nguyên tắc là dân
chủ (đại chúng), dân tộc, khoa học .
Với tinh thần dân chủ, nền giáo dục mới của ta là một nền giáo dục duy nhất và
bình đẳng, không phải là nền giáo dục dành cho một thiểu số có điều kiện vật chất,
trong khi đại đa số dân chúng là người nghèo mù chữ. (VD) Trước đây, bọn thực

14
dân pháp áp dụng chính sách ngu dân không cho phép mở nhiều trường học và đề
ra các điều luật nghiêm khắc để hạn chế dân ta tiếp nhận nền giáo dục mới của ta.
Nền giáo dục mới, xây dựng trên nguyên tắc dân tộc, một mặt mở mang những đặc
tính, những năng lực của giống nòi, mặt khác đào tạo tinh thần quốc gia mạnh mẽ
sáng suốt, để quốc dân biết đem toàn lực phụng sự Tổ quốc, lý tưởng dân chủ.
Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất ở việc phản ánh khát vọng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước. (VD) Từ năm 1998, khi Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung
ương V khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa càng được các cấp ủy đảng,
chính quyền và toàn dân coi trọng.
Với tinh thần khoa học, nền giáo dục mới sẽ phát triển toàn diện những tài năng
của thanh thiếu niên phù hợp với đời sống tinh thần lẫn vật chất. Hệ thống giáo dục
mới mang tính thực tế tạo cho thanh niên một tinh thần khoa học, biết vận dụng
kiến thức vào đời sống của mình và của đoàn thể. (VD) Học toán và vật lý để áp
dụng vào xây dựng công trình, cơ sở hạ tầng.
5. Về kinh tế - xã hội:
Toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; là yếu tố
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các nước. 
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh mẽ,
mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ, phát triển
các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ sinh học… đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính
trị và xã hội nhân loại.
Giai đoạn (Đại hội IX, X, XI, XII), Đảng đã nhấn mạnh tới việc chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế song vẫn phải đảm bảo độc lập tự chủ. Khác với giai
đoạn trước, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực của giai đoạn
này không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở các lĩnh vực khác, thể hiện tinh thần
hội nhập toàn diện với khu vực và thế giới

15
Đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không thể không tiến
hành công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, đưa người nông dân hội nhập với
sản xuất hàng hóa kinh tế thị trường; xây dựng văn hóa, con người phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng, tạo nên văn hóa gia đình, làng xã, ngõ phố văn minh,
sạch đẹp. 

Trong quá trình ấy, “Đời sống mới” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều gợi ý vô
cùng quý báu, là kim chỉ nam giúp soi sáng con đường phát triển đất nước.

Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội: Đại hội X của
Đảng đã nêu: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế,
giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực
hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”.
Đảng luôn khẳng định, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển:
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy,
bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.

Ví dụ 1: Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật. Chênh lệch
thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần
năm 2008. Các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyết được tình trạng
nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rất ấn
tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuống còn khoảng 11% (năm
2009).
Ví dụ 2: Các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước
nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và
toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã

16
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho
nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
Nhấn mạnh vai trò của sự đổi mới toàn diện nền kinh tế là yêu cầu cấp bách ở
nước ta và công cuộc đổi mới đất nước được chính thức tiến hành.

III. Thành tựu sau cách mạng Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế (1996- 2022)

1. Thành tựu trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá:

Trong các năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế nhờ vào sự
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch
vụ có giá trị cao. Trong khi đó, những phân tích từ báo cáo của Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) và ILO cho biết AEC tiếp tục tác động mạnh tới chuyển đổi cơ
cấu nghề nghiệp hiện tại ở Việt Nam. Tỷ trọng việc làm của ngành công nghiệp sẽ
tăng lên tới 23,5% tổng việc làm vào năm 2025, trái lại, tỷ trọng việc làm của
ngành nông nghiệp sẽ giảm xuống còn 35,2%(210). Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế
từ nông nghiệp sang các lĩnh vực. Chất lượng lao động còn được đánh giá thông
qua chỉ tiêu về năng suất lao động. Năng suất lao động và tiền lương lao động cũng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Năng suất lao động của Việt Nam liên tục được
cải thiện (từ năm 2011-2015 tăng bình quân 4,2%/năm) góp phần thu hẹp dần
khoảng cách tương đối so với năng suất lao động của các nước ASEAN.

Đường lối công nghiệp hóa nhằm đưa đất nước từng bước  chuyển sang thời đại
văn minh công nghiệp đã đem lại nhiều thành công, ngày càng làm thay đổi bộ mặt
kinh tế - xã hội nước nhà. Đồng thời cũng đã xuất hiện những cơ sở đầu tiên của
văn minh thông tin. Việt Nam nhanh chóng hoà vào tiến trình phát triển các ngành
công nghệ thông tin của thế giới, xây dựng nền tảng ban đầu cho những bước đi xa
của xã hội thông tin trong một tương lai gần. Hoạt động nhà nước, quy trình sản
xuất, đời sống xã hội cũng bước đầu chuyển biến theo hướng văn minh công
nghiệp và văn minh thông tin.

17
2. Thành tựu trong quá trình hội nhập quốc tế:

Bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với Việt Nam trong những năm 90 của thế kỷ XX. Không chỉ là thiết lập quan hệ
với hai cường quốc trên thế giới, Việt Nam còn hoàn thành nhiệm vụ thiết lập quan
hệ ngoại giao đầy đủ với 5 nước thường trực trong hội đồng bảo an Liên hợp Quốc,
nâng tổng số nước có quan hệ ngoại giao chính thức và đầy đủ với Việt Nam lên
con số 155 và tăng thêm cơ hội để phát triển các mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục, khoa học công nghệ...
2.1 Về mặt an ninh - quốc phòng:
Việt Nam đã phá được thế bao vây, cấm vận và không còn tình trạng căng thẳng,
đối đầu với Trung Quốc và Mỹ, có liên lạc trực tiếp với từng nước và có cơ sở thúc
đẩy các mối quan hệ khác của Việt Nam. Việt Nam đã khiến Mỹ ủng hộ Việt Nam
trong việc gia nhập ASEAN, là thành viên đầy đủ của tất cả các diễn đàn thuộc
ASEAN và tham gia diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF).
2.2 Về phát triển kinh tế - xã hội:
Từ sau năm 1995, hoạt động ngoại thương của Việt Nam tăng lên nhanh chóng,
nhờ hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ được kí kết, việc buôn bán giữa
hai bên đã được thúc đẩy. Hoa Kỳ trở thành thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng
song cũng vẫn còn đó những trở ngại như vụ kiện cá tra, cá ba sa hoặc Mỹ cáo
buộc hàng Việt Nam bán phá giá. Nhưng trình độ phát triển của hai nền kinh tế
cách nhau quá xa nên khi xung đột, tranh chấp xảy ra thì phần thua thiệt luôn thuộc
về Việt Nam. Đối với Trung Quốc, nhờ sự thúc đẩy quan hệ chính trị, ngoại giao,
bảo đảm về an ninh, quân sự và bổ sung những thuận lợi của điều kiện địa lý, văn
hóa thì kinh tế Việt Nam-Trung Quốc đã có sự phát triển nhanh chóng về cả quy
mô và số lượng, nổi bật trên nhiều lĩnh vực, nhất là quan hệ thương mại, đầu tư và
du lịch.
Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế tài chính, kinh tế thương
mại của ASEAN, khu vực châu Á-Thái Bình Dương (APEC, ASEM...) và thế giới
(tổ chức thương mại thế giới _WTO).
18
Phần V
TƯ LIỆU, TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.194
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.112
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2000, tr.28
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nx. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 207
4.Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2019, phần I, tr. 97
5. TS. Lê Đức Hoàng, Tác phầm “Đời sống mới” của Hồ Chí Minh với thực tiễn
xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2017
6. PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật, Tác phẩm “Đời sống mới” và những vấn đề đặt ra
trong xây dựng đời sống văn hóa, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Hà Nội, 2018

19

You might also like