Professional Documents
Culture Documents
https://dvn.com.vn/so-do-am-tiet-1645200837/
Đinh Lê Thư
…………
II. ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
1
Đây chính là âm đệm /w/ (NNQ).
2
Bán âm cuối chính là phụ âm cuối /-j/ và /-w/.
Tóm lại, có những sự kiện ngữ âm cũng như hình thái học cho thấy rằng các yếu tố của âm tiết
tiếng Việt có mức độ độc lập khác nhau, chia thành hai bậc.
+ Bậc một là những yếu tố độc lập về mặt ngữ âm và có thể được tách rời về mặt hình thái học, đó
là thanh điệu, âm đầu và vần.
+ Bậc hai là các yếu tố của phần vần, gồm bán nguyên âm trước nguyên âm âm tiết tính (được gọi
là âm đệm), nguyên âm âm tiết tính (được gọi là âm chính), phụ âm hoặc bán nguyên âm cuối (được gọi
là âm cuối). Các yếu tố này gán liền với nhau về mặt ngữ âm do tính chất cố định về trường độ của âm
tiết và chỉ được tách ra bằng những ranh giới thuần túy ngữ âm học. Nói cách khác, âm tiết tiếng Việt có
cấu trúc hai bậc.
Các thành tố của âm tiết tiếng Việt và quan hệ hai bậc giữa các thành tố có thể được trình bày
trong lược đồ sau đây:
3
Có người cho đây là âm cuối zê-rô.
Vấn đề giải quyết âm vị học các nguyên âm đôi là một trong những vấn đề âm vị học phức tạp
nhất. Vấn đề này cần được giải quyết cụ thể trong từng ngôn ngữ. Vấn đề nguyên âm đôi trong tiếng
Việt sẽ được đề cập đến kỹ hơn trong phần vần.
Cần phân biệt nguyên âm đôi với các nguyên âm chuyển sắc. Nguyên âm chuyển sắc không phải
là tổ hợp hai nguyên âm, mà chỉ là một nguyên âm nhưng có âm hưởng không đồng chất trong quá trình
phát âm, có nghĩa là được mở đầu hay kết thúc bởi một yếu tố nguyên âm phụ khác nhưng rất ngắn (khi
phiên âm yếu tố phụ này có thể ghi thêm bảng ký hiệu phiên âm nhỏ ở trên về phía trước hay sau nguyên
âm, ví dụ uo, ie, v.v…).
4.2. Sự biến hoá ngữ âm
Khái niệm âm tiết cũng liên quan mật thiết đến sự biến hoá ngữ âm. Vì các âm tố lời nói không
phát âm đơn lập mà được phát âm trong dòng lời nói liên tục, cho nên các âm tố có thể ảnh hưởng lẫn
nhau, đặc biệt là những âm tố lân cận được phát âm trong cùng một âm tiết, hoặc ở những âm tiết đi liền
nhau. Ảnh hưởng lẫn nhau của các âm tố có thể gây ra những hiện tượng biến hoá ngữ âm khác nhau
như: sự thích nghi, sự đồng hoá, dị hoá, bớt âm, thêm âm và nhược hoá của nguyên âm ở những âm tiết
không có trọng âm v.v…
Một số hiện tượng biến hoá ngữ âm thường gặp trong tiếng Viết là:
a. Sự thích nghi:
Sự thích nghi xuất hiện giữa phụ âm và nguyên âm đứng cạnh nhau. Nếu âm tố sau biến đổi cho
giống với âm tố đi trước, đó là thích nghi xuôi, còn nếu âm tố trước biến đổi cho hợp với âm tố sau là
thích nghi ngược. Trong tiếng Việt, nguyên âm và phụ âm cuối kết hợp với nhau rất chặt chẽ, tạo thành
phần vần của âm tiết. Hiện tượng thích nghi biểu hiện rõ rệt trong những vần có nguyên âm dòng trước
và dòng sau tròn môi kết hợp với phụ âm cuối ng và c.
b. Sự đồng hoá:
Xuất hiện giữa những âm tố hay hiện tượng ngữ âm cùng loại (giữa nguyên âm với nguyên âm,
phụ âm với phụ âm, thanh điệu với thanh điệu v.v…) khi một yếu tố thay đổi để giống với yếu tố kia.
Ví dụ:
vỏn vẹn -> vẻn vẹn
muôn vạn -> muôn vàn
c. Sự dị hoá:
Xuất hiện giữa những âm tố hay nhưng hiện tượng âm thanh cùng loại, khi một yếu tố biến đổi cho
khác với yếu tố kia. Ví dụ:
nhỏ nhỏ -> nho nhỏ
nhợt nhạt -> nhàn nhạt
d. Sự bớt âm:
Là hiện tượng rút gọn để dễ phát âm hơn. Hiện tượng này thường xuất hiện trong khẩu ngữ. Trong
tiếng Việt, đó có thể là sự bớt âm và sáp nhập các âm tiết như:
ba mươi mốt -> băm mốt
phải không -> phỏng
hay bỏ hãn âm tiết như: bốn mươi sau thành bốn sáu. Sự bớt âm cũng thường gặp trong các từ vay
mượn tiếng nước ngoài.
--------------------.