Professional Documents
Culture Documents
CHƯƠNG I
1.1.1. Trong tiếng Việt, có một loại đơn vị xưa nay ta thường quen gọi
là “tiếng”, “tiếng một” hay là “chữ”, ví dụ: đi, học, ăn, nói, và, nhưng, đã,
đang, thiên, sơn, bất...
Đơn vị dễ nhận diện nhất trong chuỗi lời nói tiếng Việt là “tiếng” chứ
không phải là “từ” như trong các ngôn ngữ Ấn - Âu. Người Việt nói rời từng
tiếng và viết rời từng chữ chứ không nói và viết rời từng từ.
1.1.2. Hệ thống âm vị tiếng Việt phong phú và có tính cân đối, tạo ra
tiềm năng to lớn của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa.
Trong ngôn ngữ Ấn - Âu, người ta thường chia hệ thống âm vị ra làm hai
hệ thống con là: hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm, không cần thiết phân
biệt sự khác nhau của một phụ âm khi ở vị trí đầu và cuối.
Tiếng Việt có 5 hệ thống âm vị, tương ứng với 5 thành tố trong âm tiết
tiếng Việt. Vị trí và chức năng của các thành tố trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt
mang tính ổn định cao.
1.1.3. Đặc điểm cấu tạo ngữ âm của âm tiết tiếng Việt (tiếng) cũng là cơ
sở để tạo nên nhạc điệu cho câu thơ, câu văn xuôi tiếng Việt. Khi tạo câu, tạo
lời, người Việt rất chú ý đến sự hài hòa về ngữ âm, tạo nên một sự trầm bổng,
nhịp nhàng.
Những nét đặc sắc về ngữ âm của tiếng Việt đã được người Việt không
ngừng khai thác trong quá trình sử dụng.
1.2.1. Ở phần Ngữ âm, ta đã nói đến vai trò của đơn vị gọi là “tiếng”. Về
ngữ pháp, “tiếng” cũng được xem là đơn vị cơ sở của ngữ pháp học. “Tiếng”
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 1
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
là điểm mốc đầu tiên từ đấy bắt đầu quá trình tổng hợp và là cái điểm mốc cuối
cùng đến đấy chấm dứt quá trình phân tích của ngữ pháp học. Trong ngôn ngữ
Việt, “tiếng” trùng với âm tiết, trùng với hình vị nên còn được gọi là hình tiết
hay từ tố.
1.2.2. Do đặc điểm của loại hình ngôn ngữ đơn lập, khi xét từ tiếng Việt
về mặt cấu tạo, cần thiết vạch ra sự đối lập giữa từ đơn tiết và từ đa tiết - căn cứ
vào số lượng tiếng. Trong khi ở ngôn ngữ biến hình, việc phân biệt giữa từ đơn
tiết và từ đa tiết không có giá trị ngữ pháp.
Phương thức cấu tạo từ chủ yếu trong tiếng Việt là phương thức ghép và
phương thức láy.
Trong khi đó, phương thức cấu tạo từ chủ yếu trong ngôn ngữ Ấn Âu là
phương thức phụ gia: phương thức gắn một phụ tố vào một căn tố hoặc một
thân từ để tạo nên từ mới.
Hình vị trong tiếng Việt không chia ra căn tố và phụ tố - hay nói cách khác
tiếng Việt không có phụ tố - vì thế tiếng Việt không có phương thức cấu tạo từ phụ
gia.
Về mặt từ loại, nếu như ở ngôn ngữ Ấn Âu, người ta có thể dựa vào một
vài dấu hiệu hình thức nào đó để ít nhiều đoán định từ loại của từ thì ở tiếng
Việt không thể như vậy. Do đặc điểm của từ tiếng Việt là đơn lập, không biến
hình nên để xác định tư cách từ loại của từ ta phải dựa vào ý nghĩa khái quát,
khả năng kết hợp của từ trong ngữ và chức vụ cú pháp của từ trong câu.
1.2.3. Các ngôn ngữ biến hình chủ yếu sử dụng các phương thức ngữ
pháp bên trong từ như: phương thức phụ gia (phụ tố), phương thức luân phiên
âm vị học (biến tố bên trong), phương thức thay căn tố (thay từ căn) để biểu thị
những ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Tiếng Việt - cũng như các ngôn ngữ biến
hình khác - ngược lại, thường sử dụng các phương thức ngữ pháp bên ngoài từ:
cụ thể là phương thức trật tự từ, hư từ và ngữ điệu.
Trong tiếng Việt, việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách
chủ yếu để biểu thị các quan hệ cú pháp. Khi các từ kết hợp với nhau theo quan
hệ chính phụ, từ đứng trước giữ vai trò chính, từ đứng sau giữ vai trò phụ.
Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp trọng yếu của tiếng
Việt. Để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp số nhiều của danh từ, ta có các hư từ:
những, các, ...; biểu thị thời gian của động từ, ta có: đã, đang, vừa, mới, sẽ ...;
biểu thị mức độ: rất, hơi, quá ... Tuy đã định nghĩa rằng hư từ là những từ
không có ý nghĩa từ vựng chân thực nhưng vẫn lưu ý rằng có những hư từ tiếng
Việt tiềm ẩn những nét nghĩa tinh tế. Sự có mặt của hư từ khiến cho tiếng Việt
có những câu cùng nội dung thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về
sắc thái bổ sung.
1. Trình bày các đặc điểm chính của loại hình ngôn ngữ đơn lập.
4. Trình bày các phương thức ngữ pháp được sử dụng phổ biến trong loại
hình ngôn ngữ đơn lập.
5. Trình bày các phương thức ngữ pháp được sử dụng phổ biến trong loại
hình ngôn ngữ hòa kết.
Chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác
nhau. Đơn vị phát âm ngắn (nhỏ) nhất là âm tiết (syllable).
Về mặt cấu tạo vật lý -sinh lý thì âm tiết là một đoạn của lời nói mà khi
phát âm, độ vang của nó tăng lên rồi giảm xuống, còn bộ máy phát âm thì căng
lên rồi chùng xuống. Vậy có 3 giai đoạn trong quá trình phát âm một âm tiết:
a) Giai đoạn đầu: tăng độ vang, độ căng của cơ trong bộ máy phát âm.
b) Giai đoạn giữa: đạt đến đỉnh của độ vang, độ căng cơ - đỉnh âm tiết.
c) Giai đoạn cuối: giảm độ vang và độ căng - kết thúc âm tiết. Có thể
hình dung một chuỗi âm tiết liên tiếp nhau như một chuỗi đường cong hình
sin, mỗi âm tiết tương ứng với một hình sin.
đỉnh đỉnh
biên giới
Âm tố nào trong âm tiết có độ vang lớn hơn cả thì đứng ở đỉnh âm tiết.
Đỉnh của âm tiết thường là nguyên âm (vì nguyên âm có độ vang lớn hơn nhiều
so với phụ âm). Trường hợp có một âm tiết là kết hợp chỉ gồm toàn phụ âm thì
đỉnh âm tiết sẽ là phụ âm nào có độ vang lớn hơn (phụ âm vang có độ vang lớn
hơn phụ âm hữu thanh và cuối cùng là phụ âm vô thanh).
Trong tiếng Việt, mỗi âm tiết đều mang trong mình nó một nguyên âm.
Vì thế đỉnh của âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng là nguyên âm.
2.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
2.2.1. Âm tiết tiếng Việt có tính độc lập cao
Ranh giới giữa các âm tiết là dứt khoát trên dòng ngữ lưu.
Âm tiết tiếng Việt không có các hiện tượng: nhược hóa, nối âm...
Trong một phát ngôn gồm nhiều âm tiết, các âm tiết tiếng Việt tách bạch
nhau rất rõ. Mỗi âm tiết tiếng Việt đều mang một thanh điệu và toàn bộ âm tiết
được gói gọn trong thanh điệu đó. So với các ngôn ngữ Ấn Âu, việc vạch ranh
giới giữa các âm tiết trong tiếng Việt dễ dàng hơn.
2.2.2. Ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị
Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa. Trong các ngôn ngữ Âu
Châu, số lượng âm tiết và số lượng hình vị trong một phát ngôn có thể không
bằng nhau, và cho dù có bằng nhau thì ranh giới của âm tiết cũng không trùng
với ranh giới của hình vị. Ví dụ trong tiếng Anh:
- tomato: có 3 âm tiết (to-ma-to), 1 hình vị (tomato)
- teacher: có 2 âm tiết (tea-cher), 2 hình vị (teach-er). Ranh giới của
âm tiết và hình vị không trùng nhau.
Trong tiếng Việt, một phát ngôn có bao nhiêu âm tiết thì có bấy nhiêu
hình vị, mỗi âm tiết là hình thức ngữ âm của một hình vị. Chẳng hạn trong câu
“Tôi là giáo viên" có 4 âm tiết và cũng có 4 hình vị; số lượng âm tiết và hình vị
bằng nhau, ranh giới của chúng cũng trùng nhau.
2.2.3. Âm tiết tiếng Việt là điểm xuất phát của việc phân tích âm vị học
Âm tiết tiếng Việt có tính độc lập cao, có cấu trúc chặt chẽ, rõ ràng nên dễ
phân định các thành tố cấu tạo âm tiết. Các thành tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt
cũng tương ứng với 5 loại âm vị tiếng Việt. Vì vậy âm tiết tiếng Việt là đơn vị ngữ
âm được chọn làm điểm xuất phát để phân tích âm vị học.
2.3. CẤU TRÚC ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
2.3.1. Khả năng phân xuất âm tiết thành những yếu tố nhỏ hơn
Quan sát các hiện tượng ngôn ngữ cũng như việc sử dụng ngôn ngữ của
người Việt, ta thấy hàng loạt sự kiện chứng tỏ rằng âm tiết tiếng Việt không
phải là một khối bất khả phân mà nó là một cấu trúc có thể phân xuất thành
những yếu tố nhỏ hơn. Các sự kiện chứng tỏ khả năng phân xuất các thành tố
trong âm tiết:
a) Cách cấu tạo từ láy
b) Hiện tượng “iếc hóa”
c) Cách hiệp vần trong tục ngữ, thơ ca
d) Cách nói lái
e) Cách cấu tạo biến thể tùy tiện
2.3.2. Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ, rõ ràng
Ở dạng đầy đủ nhất, mỗi âm tiết tiếng Việt gồm 5 thành tố, mỗi thành tố có
một chức năng riêng.
2.3.2.1. Chức năng của các thành tố trong âm tiết
- Thành tố thứ nhất có chức năng phân biệt các âm tiết với nhau về cao độ;
“Toan” phân biệt được với “toán” là do cao độ khác nhau (thanh ngang - thanh
huyền). Thành tố này được gọi là thanh điệu.
- Thành tố thứ hai có chức năng mở đầu âm tiết, đó là âm đầu. Âm đầu bao
giờ cũng do một phụ âm đảm nhận. Trong âm tiết “toan” thành tố thứ hai là
âm /t/.
- Thành tố thứ ba có chức năng làm thay đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở
đầu, đó là âm đệm, “toan” và “tan” khác biệt nhau do âm sắc của âm tiết thứ
nhất trầm hơn. Âm đệm có chức năng trầm hóa âm tiết.
- Thành tố thứ tư quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là hạt nhân của âm
tiết. Thành tố này được gọi là âm chính. Trong âm tiết “toan”, /a/ giữ vai trò là
âm chính.
- Thành tố cuối cùng đảm nhiệm chức năng kết thúc âm tiết - đó là âm cuối.
Âm cuối trong âm tiết tiếng Việt có thể là một phụ âm hoặc là bán âm.
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 6
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Để đơn giản, người ta thường trình bày cấu trúc âm tiết tiếng Việt bằng
sơ đồ hình hộp sau:
Thanh điệu
Vần
Âm đầu
Âm đệm Âm chính Âm cuối
Câu 2: Nêu chức năng của mỗi thành tố trong âm tiết tiếng Việt.
Câu 3: So sánh sơ đồ cấu trúc hình cây 2 bậc với sơ đồ hình cây 4 bậc.
Câu 4: a) Phân loại các âm tiết sau: cố, gắng, học, tốt, làm, đẹp, giàu,
quê, hương, mai, sau.
b) Anh (chị) hãy thực hành phân loại âm tiết của các câu: “Không có gì
quí hơn độc lập tự do”, “Bốn phương vô sản dều là anh em”. “Tưởng giếng
sâu em nối sợi gàu dài, Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”
Câu 5: Hãy phân tích cấu trúc của các âm tiết đã cho trong câu 4 bằng
sơ đồ hình hộp.
Vì các âm đầu trong tiếng Việt đều là phụ âm nên ta phân loại âm đầu
tiếng Việt theo cách phân loại phụ âm.
* Tiêu chí phương thức phát âm:
Vang (mũi): / m , n , ɲ, ŋ /
Vang l
3.1.2.2. Miêu tả: Trình bày nội dung ngữ âm học của từng âm vị
Ví dụ: / ʐ / : phụ âm xát, ồn, hữu thanh, đầu lưỡi-ngạc.
/m/ (mờ) m mẹ
/f/ (phờ) ph phở
/v/ (vờ) v vở
/ t’/ (thờ) th thu
/t/ (tờ) t ta
/d/ (đờ) đ đỏ
/n/ (nờ) n nắng
/s/ (xờ) x xa xôi
/z/ (dờ) d dân
gi gian
/l/ (lờ) l lo
/ţ/ (trờ) tr trời
/ / (sờ) s sân
/ ʐ/ (rờ) r rộn ràng
- Có 18 âm vị âm đầu được ghi bằng một hình thức duy nhất (tương ứng
với 1 âm vị chỉ có 1 hình thức chữ viết) nhưng lại có những âm vị được ghi
bằng 2 hay 3 hình thức khác nhau. Cụ thể là có 4 âm vị sau:
+ Âm vị / z / được viết bằng “d” hoặc “gi”. Nói cách khác, hai cách viết
“d” và “gi” ngày nay đều được phát âm là / z /.
+ Âm vị / k / được viết bằng “k” khi đi trước các nguyên âm / i , e, ɛ,
ie/; bằng “q” khi đi trước âm đệm /w/, ví dụ: “quên” , “qua” ; bằng “c” trong
các trường hợp còn lại.
+ Âm vị // được viết bằng “ngh” khi đi trước / i , e, ɛ, ie/ và viết bằng
+ Âm đệm /w/ được ghi bằng con chữ “u” khi đi trước các nguyên âm
còn lại. Ví dụ: huệ, tuy, huân, khuya...
- Căn cứ vào vị trí của lưỡi, độ mở của miệng, hình dáng của môi, thời
gian phát âm, âm sắc..., ta có thể mô tả các nguyên âm đơn tiếng Việt như sau:
Vị trí lưỡi Trước Sau
Hình dáng môi Không tròn môi Không tròn môi Tròn môi
Độ mở Trường độ D N D N D N
miệng
Hẹp i ɯ U
Vừa e ɤ ɤ o
Rộng ɛ ɛ a ă ɔ
- Ba nguyên âm đôi / ie, ɯɤ, Uo / lần lượt thuộc về 3 dòng: dòng trước
không tròn môi, dòng sau không tròn môi và dòng sau tròn môi. Đây là các âm
dài; độ mở không cố định (được phát âm trượt từ hẹp đến vừa); về âm sắc thì
/ie/ có âm sắc bổng, /ɯɤ, Uo / có âm sắc trầm.
3.3.2.2. Miêu tả: Trình bày nội dung âm vị học của từng âm vị. Ví dụ:
- / i / : nguyên âm đơn, dài, dòng trước, không tròn môi, độ mở hẹp.
- /ɔ / : nguyên âm đơn, dài, dòng sau, tròn môi, độ mở rộng.
/ɯ/ ư sư, tự
/a / a ta, xa
/ă/ a (chỉ có trong các vần “au, ay”) đau, hay
ă: trong các trường hợp còn lại năm, trăn
/U / u thu
/o/ ô ô tô
/ ɔ/ oo (chỉ xuất hiện ở các vần “oong, ooc”) soóc, goòng
/w/ thì cũng không bao giờ kết hợp với các phụ âm cuối là âm môi /p , m /.
- Tất cả các nguyên âm đơn và đôi có trường độ bình thường (không phải
là nguyên âm ngắn) đều có thể xuất hiện để tạo thành âm tiết có hay không có
âm cuối. Riêng các nguyên âm ngắn bao giờ cũng phải có âm cuối.
Ồn (Tắc,vô thanh) -p -t -k
Phụ âm
cuối Tắc (vang, mũi) -m -n -
- Âm cuối zêrô: Âm tiết có âm cuối zêrô thì âm tiết đó sẽ được cấu tạo
bằng nguyên âm dài.
3.5. HỆ THỐNG THANH ĐIỆU
3.5.1. Đặc trưng ngữ âm tổng quát
- Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết
có tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị.
- Thanh điệu là yếu tố xuất hiện đồng thời với các âm vị khác của âm tiết
nhưng nó có khả năng phân biệt ý nghĩa giống như âm vị đoạn tính khác.
Âm điệu
Bằng Trắc
Âm vực
Gãy Không gãy
Cao
Thấp
2. Thanh điệu được ghi bằng ký hiệu số ở góc trên, trước gạch nghiêng
cuối âm tiết.
3. Các âm vị: âm đầu tắc thanh hầu, âm đệm zêrô, âm cuối zêrô được
ghi bằng sự vắng mặt của ký hiệu (không phiên âm). Riêng thanh ngang dù
cũng như các âm vị kia là không được thể hiện trên chữ viết nhưng khi phiên
âm vẫn phải ghi ký hiệu số 1.
4. Ký hiệu âm vị học tuân thủ nguyên tắc 1/1 giữa âm và ký hiệu (1
âm được ghi bằng 1 ký hiệu duy nhất).
Câu 1: Hãy nêu đặc trưng ngữ âm tổng quát của âm đầu, âm đệm, âm
chính, âm cuối, thanh điệu tiếng Việt.
Câu 2: Hãy trình bày các tiêu chí phân loại phụ âm và thực hành
phân loại hệ thống âm đầu tiếng Việt.
Câu 3: Hãy trình bày các tiêu chí phân loại nguyên âm và thực hành
phân loại hệ thống âm chính tiếng Việt.
Câu 4: a) Nhận xét về con chữ “u” và “y” trong hai phát ngôn: “cô
thú y” và “cô Thúy”.
b) Nhận xét về con chữ “o” và “a” trong hai phát ngôn: “Tôi về kho a”
và “tôi về khoa”.
Câu 5: Phân biệt các dấu hiệu sau: dấu bán âm, dấu nguyên âm ngắn,
dấu nguyên âm đôi.
Câu 6: Các phát ngôn sau đây có bao nhiêu âm vị đoạn tính:
a) lấp lánh
b) nhanh nhẹn
c) bánh tráng
d) chim khách
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 20
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Câu 8: Nhận xét về sự phân bố của âm chính và âm cuối của các cặp
âm tiết hiệp vần trong đoạn thơ ở mục a câu 7.
Câu 9: Hãy phân loại các âm tiết trong đoạn thơ ở mục b câu 7.
Từ đơn Từ phức
(một tiếng) (nhiều tiếng)
- Ý nghĩa của từng hình vị cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa chung
của cả từ ghép, trong ý nghĩa chung đó có thể có phần ý nghĩa của từng hình vị.
- Khi sử dụng, nghĩa chung của từ ghép có thể ứng với tất cả các sự vật,
các đặc trưng do từng hình vị gọi tên, cũng có thể chỉ ứng với một số sự vật,
đặc trưng được nhắc đến trong một hình vị mà thôi.
- Khi có thể sử dụng riêng từng hình vị với tư cách từ đơn, ý nghĩa của
từng từ rời này rất xác định và khác nhau. Ví dụ: sách khác vở.
a2. Từ ghép lặp nghĩa (từ ghép đẳng lập lặp nghĩa, từ ghép trùng ứng).
* Ví dụ: núi non, binh lính, cấp bậc, may phúc, thay đổi, tìm kiếm,...
* Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép lặp nghĩa:
- Các hình vị trong nó là những yếu tố đồng nghĩa hoặc gần nghĩa, cùng
nhau gộp lại để biểu thị những ý nghĩa chung của từ ghép, chẳng hạn: binh lính,
thay đổi, tìm kiếm...
- Ý nghĩa của từ ghép này tương đương với ý nghĩa của từng hình vị (trừ
ý nghĩa ngữ pháp “tổng hợp”) khi những hình vị này được dùng như từ đơn. Ví
dụ: ý nghĩa của từ “tìm kiếm” tương đương với ý nghĩa từ “tìm”, từ “kiếm” trừ
ý nghĩa tổng hợp.
a3. Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa (từ ghép đẳng lập đơn ứng)
* Ví dụ: chợ búa, đường sá, xe cộ, tre pheo, bếp núc, sầu muộn,...
* Đặc điểm tạo nghĩa của từ ghép đẳng lập đơn nghĩa
- Ý nghĩa của từ ghép ứng với ý nghĩa của hình vị rõ nghĩa nhất trong số
các hình vị có mặt (trừ ý nghĩa ngữ pháp tổng hợp). Chẳng hạn nghĩa của từ
“bếp núc” ứng với ý nghĩa “bếp” trừ ý nghĩa ngữ pháp tổng hợp.
- Ý nghĩa của hình vị còn lại có xu hướng phai dần, hư hóa, chỉ còn có
tác dụng góp sức tạo ra ý nghĩa tổng hợp của chung cả từ ghép. Đặc điểm này
cho thấy kiểu từ ghép đẳng lập này xét về mặt cấu tạo nghĩa có xu hướng gần
từ ghép chính phụ.
b) Từ ghép chính phụ
Từ ghép chính phụ có những đặc trưng chung là:
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 24
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong nó là quan hệ bất bình đẳng,
quan hệ chính phụ. Trong đó yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật
lớn, loại đặc trưng lớn và yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa loại sự
vật, loại đặc trưng đó.
- Ý nghĩa của từ ghép chính phụ là ý nghĩa không tổng hợp. Nó là ý
nghĩa dị biệt, ý nghĩa sắc thái hóa.
Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa của từ ghép, có
thể chia từ ghép chính phụ thành 2 kiểu chính là: từ ghép dị biệt và từ ghép sắc
thái hóa.
b1. Từ ghép (chính phụ) dị biệt: là từ ghép trong đó tên gọi nêu ở thành
tố chính được cụ thể hóa bằng cách thêm vào một tên gọi ở thành tố phụ, làm
cho những sự vật cùng loại được gọi tên ở thành tố chính phân biệt được với
nhau nhờ thành tố phụ. Trong kiểu từ ghép chính phụ dị biệt này nếu thành tố
chính là yếu tố gốc Việt thì trật tự thường là yếu tố chính đứng trước, yếu tố
phụ đứng sau; nếu thành tố chính gốc Hán thì yếu tố phụ lại đứng trước.
Ví dụ: - xe đạp, xe máy, xe lửa, xe bò ...
- toán học, sử học, vật lý học, khảo cổ học
b2. Từ ghép (chính phụ) sắc thái hóa: là từ ghép trong đó thành tố phụ
có tác dụng bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho toàn từ ghép này
khác nghĩa với thành tố chính khi thành tố chính hoạt động như từ đơn và từ
ghép sắc thái hóa này khác từ ghép sắc thái hóa cùng gốc khác.
Ví dụ: - xanh lè, xanh um, xanh rì, xanh lục, xanh lơ ...
- thẳng đơ, thẳng tắp, thẳng đuột, thẳng tuột ...
4.2.2.2. Từ láy
Từ láy là “từ phức được tạo ra bằng phương thức láy âm có tác dụng tạo
nghĩa”.
Ý nghĩa của từ láy là ý nghĩa biểu trưng. Sự hòa phối ngữ âm giữa các
tiếng tạo từ phải có tác dụng biểu trưng hóa thì từ đó mới được xem là từ láy.
Căn cứ vào số luợng tiếng người ta thường chia từ láy ra làm 3 lớp: từ
láy đôi, từ láy ba, từ láy tư.
a) Từ láy đôi
Từ láy đôi được xem xét dựa vào cách cấu tạo tương ứng của hai tiếng
trong từ. Căn cứ vào yếu tố ngôn ngữ được lặp lại có thể phân biệt các kiểu:
- Từ láy toàn bộ
- Từ láy bộ phận
a1. Từ láy toàn bộ: là từ láy trong đó tiếng gốc được lặp lại hoàn toàn ở
tiếng láy với sự khác biệt về nhấn giọng hoặc thanh điệu.
Ví dụ: - hao hao, lăm lăm, đùng đùng; đo đỏ, hơ hớ, sừng sững,...
a2. Từ láy bộ phận:
+ Từ láy âm đầu là từ có phụ âm đầu trùng lặp và có phần vần khác biệt
ở tiếng gốc và tiếng láy. Ví dụ: đủng đỉnh, rung rinh, mộc mạc, lúc lắc, ..
+ Từ láy vần: là từ có phần vần trùng lặp và có phụ âm đầu khác biệt ở
tiếng gốc và tiếng láy. Ví dụ: luẩn quẩn, bâng khuâng, chạng vạng,…
b) Từ láy ba
Từ láy ba là từ láy gồm 3 tiếng. Kiểu phối thanh thường gặp là yếu tố thứ
hai (ở giữa) mang thanh bằng, yếu tố thứ nhất và thứ ba phải đối lập về âm vực
(cao / thấp) hoặc âm điệu (bằng / trắc).
Ví dụ: sạch sành sanh, dửng dừng dưng, cỏn còn con ...
c) Từ láy tư
Là từ láy gồm 4 tiếng. Phần lớn từ láy tư có phần gốc là một từ láy đôi.
Ví dụ: ấm a ấm ớ ấm ớ
hì hà hì hục hì hục
4.2.2.3. Từ ngẫu kết
Là những từ mà các thành tố trực tiếp của nó được kết hợp một cách
ngẫu nhiên, không dựa trên quan hệ ngữ nghĩa hay quan hệ ngữ âm nào cả. Tuy
nhiên, kết hợp được tạo thành lại có nghĩa và hoàn toàn có tư cách của từ.
Trong tiếng Việt thực từ sẽ gồm các từ loại sau đây: danh từ, động từ,
tính từ, số từ, đại từ; hư từ bao gồm: lượng từ, phó từ, quan hệ từ, trợ từ, tình
thái từ, thán từ; còn chỉ từ có thể xem là loại trung gian.
5.2.1. Danh từ
5.2.1.1. Ý nghĩa khái quát
Danh từ là những từ mang ý nghĩa chỉ thực thể. Hiểu theo nghĩa rộng: ý
nghĩa thực thể là ý nghĩa chỉ sự vật và những gì được “sự vật hóa”.
5.2.1.2. Khả năng kết hợp
Danh từ có khả năng làm thành tố chính trong cụm danh từ; có khả năng
kết hợp với các đại từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ ...; có khả năng kết hợp trực tiếp
hay gián tiếp với số từ.
5.2.1.3. Chức năng cú pháp
Chức năng cú pháp chính của nó là làm chủ ngữ trong câu.
5.2.1.4. Phân loại và miêu tả
a) Danh từ riêng: Danh từ riêng là tên riêng của từng người, từng sự vật
cụ thể ...Trên chữ viết, danh từ riêng phân biệt với danh từ chung ở chỗ mỗi
chữ cái đầu âm tiết thường viết hoa. Danh từ riêng bao gồm:
- Danh từ riêng chỉ tên người: Tên riêng của người Việt thường gồm 3
yếu tố: họ, đệm, tên.
Bên cạnh tên riêng chính thức, người Việt còn dùng tên riêng thông dụng
và tên riêng đặc biệt (bí danh, bút danh, biệt hiệu...).
- Danh từ riêng chỉ sự vật: gồm tên gọi một con vật cụ thể, tên gọi một
đồ vật cụ thể, tên gọi tổ chức xã hội cụ thể, địa danh...
b) Danh từ chung: là từ chỉ tên chung của một chủng loại sự vật, có tính
khái quát, trừu tượng, không có mối liên hệ đơn nhất giữa tên gọi và vật cụ thể
được gọi tên. Bao gồm các loại: Danh từ chỉ đơn vị và danh từ chỉ sự vật.
b1) Danh từ chỉ đơn vị: Đây là một tiểu loại danh từ rất đa dạng, bao
gồm các lớp từ không thuần nhất. Nét nổi bật của nó là khả năng kết hợp trực
tiếp, vô điều kiện với số từ (là danh từ đếm được tiêu biểu).
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 29
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Nhóm danh từ chỉ đơn vị tính toán quy ước: (thường đứng ở vị trí
trung gian giữa số từ và danh từ chỉ chất liệu), ví dụ: cân, tạ, lít, yến, mét, sào,
mẫu, cốc, thúng, bó, chai, ly ...
Nhóm danh từ chỉ đơn vị tự nhiên (danh từ chỉ loại, loại từ): Đây
là một tiểu loại danh từ khá đặc biệt. Tiếng Việt có các danh từ chỉ loại chuyên
dùng như: con, tấm, bức, cái, chiếc, ngôi, hòn, đứa, thằng; có những danh từ chỉ
loại lâm thời như: người, ông, bà, cô, bác, anh, chị, em ..., cây, quả, lá, ngọn ...
b2) Danh từ chỉ sự vật
- Danh từ tổng hợp: danh từ tổng hợp dùng để gọi tên những sự vật tồn
tại thành từng tổng thể gồm nhiều sự vật cùng loại với nhau hoặc có chung một
số đặc điểm nào đấy. Ví dụ: quần áo, sách vở, chợ búa, đất đai, bàn ghế ...
- Danh từ không tổng hợp: bao gồm các tiểu loại khác nhau
+ Nhóm danh từ chỉ chất liệu: biểu thị sự vật có ý nghĩa chỉ về chất liệu
ở các thể chất khác nhau. Ví dụ: nước, dầu, mỡ, khí, hơi, đường, bột, cát, sạn,…
+ Nhóm danh từ chỉ khái niệm thời gian, không gian: chốn, miền, phía
hướng, hồi, dạo, buổi, vụ, mùa, khi, lúc, thuở ...
+ Nhóm danh từ chỉ khái niệm về sự vật, sự việc, khái niệm trừu tượng:
sự, nỗi, niềm, cuộc, trận, phen, trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, nam, bắc ...
+ Nhóm danh từ chỉ người: bao gồm từ chỉ quan hệ thân thuộc, chức vụ,
nghề nghiệp, học hàm, tầng lớp xã hội ... Ví dụ: ông, bà, anh, chị, cô, bác, đàn
ông, đàn bà, bác sĩ, kỹ sư, học sinh, hiệu trưởng ...
+ Nhóm danh từ chỉ đồ vật, động vật, thực vật. Ví dụ: bàn, ghế, sách, vở,
tre, trúc, hoa, quả, trâu, bò, gà, vịt ...
+ Nhóm danh từ chỉ đơn vị tổ chức, địa lý, chẳng hạn: tỉnh, xã, phường,
đoàn, ủy ban, viện, khoa, trường ...
5.2.2. Động từ
5.2.2.1. Ý nghĩa khái quát
Động từ biểu thị ý nghĩa quá trình, trạng thái.
* Tính từ chỉ đặc trưng tuyệt đối. Ví dụ: riêng, chung, công, tư, chính,
phụ, công cộng, đỏ lòm, trắng phau, đen sì, xanh mượt ...
* Tính từ chỉ đặc trưng mô phỏng: chúng thường là từ láy. Ví dụ: ào ào,
đùng đùng, chênh vênh, gập ghềnh…
5.2.4. Số từ
5.2.4.1. Ý nghĩa khái quát
Số từ gồm những từ biểu thị ý nghĩa số. Ý nghĩa số vừa có tính chất thực,
vừa có tính chất hư.
5.2.4.2. Khả năng kết hợp
Số từ phổ biến là được dùng kèm với danh từ để biểu thị số lượng sự vật
nêu ở danh từ. Số từ có thể có từ kèm bổ nghĩa cho nó (hạn chế): độ, chừng,
khoảng, hơn, ngót ...
5.2.4.3. Chức năng cú pháp
Có thể đảm nhiệm một số chức năng cú pháp như chủ ngữ, vị ngữ
nhưng rất hạn chế.
5.2.4.4. Phân loại
d1) Số từ xác định: gồm những từ chỉ ý nghĩa số luợng chính xác như:
một, hai, ba, năm, trăm, hai phần ba, bốn phần năm ...
Số từ xác định khi đặt trước danh từ thì biểu thị ý nghĩa về số lượng, khi
đặt sau danh từ thì biểu thị ý nghĩa về thứ tự.
d2) Số từ không xác định: biểu thị số không chính xác với ý nghĩa phỏng
định hay phiếm định. Loại này có số lượng không nhiều lắm.
Ví dụ: vài, dăm, mươi, mấy, vài ba, đôi ba, dăm ba, một vài, một hai, ba
bảy, hai ba, năm sáu ...
5.2.5. Đại từ
5.2.5.1. Ý nghĩa khái quát
Đại từ là lớp từ dùng để thay thế và chỉ trỏ. Nó mang nội dung phản ánh
vốn có của các thực từ được chúng thay thế.
5.2.5.2. Khả năng kết hợp: Đại từ có khả năng kết hợp rất hạn chế.
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 33
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
5.2.7.3. Chức năng: làm thành tố phụ trong cụm danh từ.
5.2.7.4. Phân loại:
+ Nhóm: “những, các, một”. Trong đó “những, các” ý nghĩa số nhiều;
“một” chỉ ý nghĩa số đơn.
+ Nhóm “mọi, mỗi, từng”: chỉ ý nghĩa phân phối về số lượng.
+ Nhóm “cả, tất cả, tất thảy”: (trước đây gọi là đại từ chỉ tổng thể)
5.2.8. Phó từ
5.2.8.1. Ý nghĩa khái quát: là những từ biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa quá
trình và đặc trưng với thực tại, biểu thị ý nghĩa về cách thức nhận thức và phản
ánh các quá trình và đặc trưng trong hiện thực.
5.2.8.2. Khả năng kết hợp: thường dùng kèm với động từ, tính từ.
5.2.8.3. Chức năng cú pháp: làm thành tố phụ trong cụm động từ, cụm tính từ
khi các cụm từ tham gia cấu tạo thành phần câu.
5.2.8.4. Phân loại:
+ Nhóm phó từ thời gian: đã, từng, vừa, mới, đang, sẽ, sắp,...
+ Nhóm phó từ so sánh và phó từ tiếp diễn: cũng, cùng, lại, đều, vẫn,
cứ, còn, mãi, mải, nữa ...
+ Nhóm phó từ chỉ sự kết thúc hành động: xong, rồi…
+ Nhóm phó từ trình độ (mức độ): rất, quá, lắm, cực kỳ, hơi, khí, khá ...
+ Nhóm phó từ khẳng định, phủ định: không, chẳng, chưa, có ...
+ Nhóm phó từ gây khiến: hãy, đừng, chớ, hẵng ...
+ Nhóm phó từ chỉ kết quả, chỉ hướng: mất, được, ra, đi, lên, nổi, lấy,
xuống, qua, về, lại, tới ...
+ Nhóm phó từ chỉ tần số: thường, năng, ít, hiếm, luôn ...
+ Nhóm phó từ tác động: cho
+ Nhóm phó từ tình thái: vụt, thốt, chợt, bỗng ... thình lình, đột nhiên,
thoắt, ắt, ắt là, nhất định, chắc, chắc hẳn ...
5.2.9. Quan hệ từ
5.2.9.1. Ý nghĩa khái quát
Quan hệ từ là từ loại biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và
đối tượng được phản ánh. Nó là dấu hiệu biểu thị các quan hệ cú pháp giữa các
thực từ.
5.2.9.2. Khả năng kết hợp
Không làm thành tố trung tâm trong cụm từ. Quan hệ từ được dùng để
nối kết các từ, các kết hợp từ, các câu, các đoạn văn với nhau.
5.2.9.3. Chức năng cú pháp
Không làm thành phần chính trong câu.
5.2.9.4. Phân loại
d1) Quan hệ từ chính phụ: chỉ ý nghĩa quan hệ chính phụ. Chúng dùng
để nối kết thành tố phụ vào thành tố chính. Kết từ chính phụ thường có xu
hướng gắn với thành tố phụ. Chẳng hạn: của, cho, bằng, do, vì, bởi, tại, để, mà,
về, đến, tới, từ, trong, ngoài, trên, dưới, giữa ...
d2) Quan hệ từ đẳng lập: chỉ ý nghĩa quan hệ đẳng lập. Quan hệ từ đẳng
lập không gắn bó với bất cứ thành tố nào trong một kết hợp có quan hệ đẳng
lập. Chẳng hạn: và, với, cùng, hay, hoặc, rồi, còn , là, thì, thà, chứ ...
5.2.10. Trợ từ
5.2.10.1. Ý nghĩa khái quát
Trợ từ là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái bằng cách nhấn mạnh vào từ,
ngữ…có nội dung phản ánh liên quan đến thực tại mà người nói muốn lưu ý
người nghe.
5.2.10.2. Khả năng kết hợp
Trợ từ không có khả năng làm trung tâm trong cụm từ. Nó có thể đứng
trước từ mà nó bổ sung ý nghĩa tình thái.
5.2.10.3. Chức năng cú pháp
Không có khả năng làm thành phần câu.
5.2.10.4. Phân loại: Những trợ từ thường gặp: chính, tự, ngay, cả, những,
hàng, đích, chỉ, đến, thật ra, thì, là, mà, cái, ngay cả, ngay như, ngay những,...
5.2.11. Tình thái từ
5.2.11.1. Ý nghĩa khái quát
Tình thái từ là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái nhằm thể hiện thái độ của
người nói đối với hiện thực khách quan và với đối tượng tham dự trực tiếp.
5.2.11.2. Khả năng kết hợp
Tình thái từ không có mối liên hệ hình thức với từ đứng trước hoặc sau
chúng.
5.2.11.3. Chức năng cú pháp
Chức năng: tạo kiểu câu theo mục đích phát ngôn.
5.2.11.4. Phân loại:
- Tình thái từ nghi vấn (dùng để hỏi): à, ư, nhỉ, nhé, chứ, chăng, hử, hả,
không, phỏng…
- Tình thái từ cầu khiến: đi, thôi, nào, với, kia…
- Tình thái từ cảm thán: thay, sao…
- Tình thái từ biểu hiện cảm xúc: a, á, ạ, vậy, mà, cơ, hử, nhé, đấy…
5.2.12. Thán từ
5.2.12.1. Ý nghĩa khái quát
Thán từ là từ loại dùng để biểu hiện cảm xúc, thái độ,…của người nói
hoặc dùng làm lời gọi, đáp.
5.2.12.2. Khả năng kết hợp
Thán từ không có mối liên hệ hình thức với từ đứng trước hoặc sau
chúng.
5.2.12.3. Chức năng cú pháp
Thán từ có thể dùng độc lập như một câu đơn đặc biệt, có thể dùng kết
hợp với các từ khác làm hô ngữ.
5.2.12.4. Phân loại
d1) Thán từ bộc lộ tình cảm, cảm xúc: ồ, ôi, chao ôi, ủa, chà, ơ hay, ô
kìa, ơ này, trời ơi, trời đất ơi, ái chà, eo ôi ... Loại thán từ này thường đi kèm
với dấu than.
d2) Thán từ gọi đáp: a, hỡi, ơi, này, vâng, dạ ...
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Trình bày khái niệm từ loại và các căn cứ phân định từ loại trong tiếng
Việt.
2. Phân biệt thực từ và hư từ.
3. Những đặc trưng chính của danh từ tiếng Việt?
4. Những đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của động từ tiếng Việt.
5. Thế nào là đại từ? Các tiểu nhóm của đại từ?
6. Sự giống nhau và khác nhau của các từ “những” và “các”?
7. Làm các bài tập trong Giáo trình Tiếng Việt, (trang 80).
8. Hãy xác định từ loại có trong những đoạn văn sau:
a). Đối với các cháu học sinh đại học sau mấy năm học, các cháu
sẽ bước vào đời, trở thành những cán bộ có văn hóa, khoa học khá. Nhưng các
cháu ấy có biết cán bộ nghĩa là gì không? Các chú dạy các cháu rất nhiều điều
nhưng có một điều phải làm thật rõ. Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ
trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu,
phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được. (Hồ Chí Minh - Tuyển tập văn học,
NXB Văn học).
b) Xe tôi chạy trên lớp sương bồng bềnh. Mảnh trăng khuyết đứng
yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc. Khung cửa xe phía cô gái ngồi
lồng đầy bóng trăng. Không hiểu sao, lúc ấy, như có một niềm tin vô cớ mà
chắc từ trong không gian ùa tới tràn ngập cả lòng tôi. Tôi tin chắc chắn người
con gái đang ngồi cạnh mình chính là Nguyệt, chính là người mà chị tôi thường
nhắc đến. (Trích Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu).
- Cụm từ có động từ làm thành tố chính, gọi là cụm động từ (hay còn gọi
là động ngữ). Ví dụ: hãy đưa đây, đã ăn rồi ...
- Cụm từ có tính từ làm thành tố chính, gọi là cụm tính từ (hay còn gọi là
tính ngữ). Ví dụ: vẫn tốt hơn, rất bến ...
- Cụm từ có số từ làm thành tố chính, gọi là cụm số từ.
Ví dụ: độ 30, chừng 200 km, khoảng 10 phút….
- Cụm từ có đại từ làm thành tố chính, gọi là cụm đại từ
Ví dụ: Tất cả chúng tôi đây, ...
6.1.2.2. Trong 5 loại cụm từ thì cụm danh từ và cụm động từ có cấu tạo đa
dạng hơn hẳn.
Thông thường người ta chỉ xét hai loại này với tư cách là hiện tượng tiêu
biểu. (Cụm tính từ có nhiều nét giống cụm động từ).
6.1.2.3. Mỗi loại cụm từ, thông thường, đều có thể chia làm 3 bộ phận rõ rệt:
- Phần trung tâm: là phần chứa thành tố chính. Nó chi phối sự xuất hiện
các thành tố phụ trước và sau nó.
- Phần phụ trước: phần đứng trước thành tố chính.
- Phần phụ sau: phần đứng sau thành tố chính.
Các thành tố phụ của cụm từ có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho trung tâm
(thực tại hóa trung tâm).
6.1.2.4. Dạng đầy đủ của cụm từ gồm 3 phần, nhưng ở dạng khuyết, có thể
chỉ xuất hiện một trong hai phần phụ (hoặc phụ trước, hoặc phụ sau). Việc có
mặt của thành tố chính trong cụm từ mang tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, trong
những ngữ cảnh cho phép, đôi khi có thể lược bỏ thành tố chính.
6.2. PHÂN LOẠI CỤM TỪ
6.2.1. Cụm danh từ
6.2.1.1. Khái niệm về cụm danh từ
Cụm danh từ là tổ hợp tự do không có kết từ đứng đầu, có quan hệ chính
phụ giữa thành tố chính và thành tố phụ, và thành tố chính là danh từ.
* Vị trí từ chỉ lượng (-2): bao gồm các số từ và định từ. Cụ thể là gồm:
số từ xác định, hoặc số từ phỏng định hay các định từ: mỗi, từng, mọi, những,
các, một, mấy,
* Vị trí từ chỉ tổng thể (-3): tất cả, cả, tất thảy, hết thảy ...
c) Phần phụ sau của cụm danh từ
* Vị trí (1): Đây là vị trí của các thực từ, các kiến trúc có đặc trưng miêu
tả, giữa chúng không có quan hệ ngữ pháp với nhau nhưng đều có quan hệ
chính phụ với thành tố chính. Căn cứ vào đặc điểm này ta có thể chia cắt các
kiến trúc độc lập nhau ở vị trí (1) ra thành 1a, 1b, 1c, 1d ... Giữa 1a, 1b, 1c ...
không có mối quan hệ ràng buộc nhau mà là các thành tố đồng chức năng: phụ
cho thành tố chính.
Ví dụ: - Tất cả những con chó bông ấy
-3 -2 D1 D2 +1 +2
- Tất cả những chiếc quần jean màu xanh mà
-3 -2 D1 D2 1a 1b
tôi mua hôm qua, và tôi đã tặng cho anh ấy
1c 1d +2
* Vị trí (+2) là vị trí của từ chỉ định. Nó đánh dấu đường ranh giới sau
cùng của cụm danh từ. Ở vị trí này thường là các đại từ chỉ định như: này, kia,
nọ, ấy, đấy, đó.
6.2.2. Cụm động từ
6.2.2.1. Khái niệm cụm động từ
Cụm động từ là tổ hợp tự do không có kết từ đứng đầu, có quan hệ chính
phụ giữa thành tố chính với thành tố phụ và thành tố chính là động từ.
6.2.2.2. Cấu tạo cụm động từ
Cũng như cụm danh từ, cụm động từ cũng gồm ba phần: phần phụ trước,
phần trung tâm và phần phụ sau. Nhưng nếu ở cụm danh từ, sự phân bố các
thành tố phụ trước và phụ sau khá chặt chẽ, cố định thì ở cụm động từ có
những thành tố vừa có thể đứng trước, vừa có thể đứng sau trung tâm. Ví dụ:
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 42
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
chảy róc rách (+), róc rách chảy (+); thiu thiu ngủ, ngủ thiu thiu...
TT TT TT TT
Vì thế không thể mô hình hóa cấu trúc của cụm động từ thành các vị trí -
1, -2 hay +1, +2 giống cụm danh từ được mà chỉ có thể phân tích cụm động từ
thành: phần phụ trước (ký hiệu Pt) trong đó có Pt1, Pt2, Pt3 ...; phần trung tâm
(TT); phần phụ sau (Ps) trong đó có Ps1, Ps2, Ps3 ...
a) Trung tâm (O)
* Mọi tiểu loại động từ đều có thể làm thành tố chính (trung tâm).
* Đối với trường hợp có hai động từ đi liền nhau, ta qui ước động từ đi
trước làm thành tố trung tâm.
Ví dụ: - thích đi chơi
TT Ps
- ngồi đọc sách
TT Ps
b) Thành phần phụ trước
Như trên đã nói, thành tố phụ của cụm động từ thường không có vị trí cố
định. Tuy nhiên có thể kể ra các tiểu loại phó từ sau đây chuyên đảm nhiệm vai
trò thành phần phụ trước của cụm động từ và chúng thường ưu tiên thứ tự trước
sau như sau:
- Nhóm 1, chỉ sự so sánh: cũng, đều, vẫn, cứ, còn ...
- Nhóm 2, chỉ thời gian: đã, đang, sẽ, vừa, mới, sắp ...
- Nhóm 3, chỉ sự phủ định, khẳng định: có, không, chưa,chẳng ...
- Nhóm 4, chỉ mức độ: rất, hơi, khí, khá ...
- Nhóm 5, chỉ sự sai khiến: hãy, đừng, chớ ...
c) Thành phần phụ sau
* Về cấu tạo, thành phần phụ sau của cụm động từ có thể là từ, cụm từ,
cụm chủ vị, cụm đẳng lập.
Ví dụ: - mượn của bạn quyển sách
TT Ps1 Ps2
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 43
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
* Đặc điểm của tiểu loại động từ làm trung tâm cũng quyết định đến kết
cấu của thành tố phụ sau.
6.2.3. Cụm tính từ
6.2.3.1. Khái niệm về cụm tính từ
Cụm tính từ là tổ hợp từ tự do không có kết từ đứng đầu, có quan hệ
chính phụ giữa thành tố chính và thành tố phụ và thành tố chính là tính từ.
6.2.3.2. Cấu tạo của cụm tính từ
Ở dạng đầy đủ, cụm tính từ gồm 3 phần: phần phụ trước, phần trung tâm
và phần phụ sau.
a) Trung tâm (O)
* Trung tâm của cụm tính từ là tính từ. Tất cả các tiểu loại tính từ đều có
thể làm thành tố chính.
Ví dụ: - rất giỏi tiếng Anh
TT
- nặng 50 kg
TT
b) Phần phụ trước
Các thành tố phụ trước của cụm tính từ nói chung hoàn toàn như các
thành tố phụ trước của cụm động từ. Riêng các phó từ chỉ mức độ như: rất, hơi,
khá ... xuất hiện thường xuyên.
Ví dụ: - rất dũng cảm
- hơi khó chịu
c) Phần phụ sau
Cũng như cụm động từ, thành phần phụ sau của cụm tính từ có thể là từ,
ngữ, kết cấu chủ vị, đẳng lập ... Cũng như ở cụm động từ, thành tố phụ sau của
cụm tính từ có thể kết hợp trực tiếp hay gián tiếp với thành tố trung tâm.
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 44
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Câu ghép là câu được làm thành từ hai cụm chủ vị trở lên, mỗi cụm
chủ vị đó tương đương một nòng cốt câu đơn và chúng tiếp xúc với nhau làm
thành những vế trong câu ghép. Những cụm chủ vị là vế của câu ghép không bị
bao chứa bên trong cụm chủ vị khác, chúng ghép lại với nhau để làm thành câu.
Tuy trời // mưa nhưng nó // vẫn kiên quyết đi
CN1 VN1 CN2 VN2
7.2. CÁC THÀNH PHẦN CỦA CÂU
7.2.1. Thành phần nòng cốt câu
7.2.1.1. Chủ ngữ
Là đối tượng được tường thuật ở vị ngữ và có những đặc trưng do vị ngữ
biểu thị. Chủ ngữ là thành phần chi phối sự xuất hiện của vị ngữ.
Về cấu tạo, cấu tạo của chủ ngữ trong câu tiếng Việt là rất đa dạng. Nói
chung các từ loại, các loại cụm từ đều có thể làm chủ ngữ. Nhưng do đặc trưng
về mặt nội dung với tư cách là “cái được thông báo” nên tần số xuất hiện của
danh từ, cụm danh từ và đại từ xưng hô ở phần này là lớn hơn cả.
Về mặt thông báo, trong tương quan với vị ngữ, chủ ngữ thường là “cái
đã biết”, cái được xác định. Vì thế, trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể có
thể rút gọn thành phần này. Ví dụ: Biết là sao bây giờ?
7.2.1.2. Vị ngữ
Là bộ phận tường thuật về đặc trưng của chủ ngữ. Vị ngữ là thành phần
chịu sự chi phối của chủ ngữ.
Về cấu tạo, vị ngữ trong câu tiếng Việt cũng rất đa dạng.
Tất cả các kết cấu ngữ pháp đều có khả năng đảm nhiệm thành phần này.
Nhưng phổ biến nhất là ngữ động từ, ngữ tính từ. Nếu danh từ làm vị ngữ
thường phải có kết từ “là”.
7.2.2. Thành phần ngoài nòng cốt câu
7.2.2.1. Trạng ngữ
Trạng ngữ là thành phần phụ thường đứng ở đầu câu để bổ sung một ý
nghĩa nào đó về thời gian, địa điểm, mục đích, nguyên nhân, cách thức, phương
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 47
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
tiện ... cho cả câu. Nó được tách với nòng cốt câu bằng ngữ điệu (khi nói), hoặc
có thể có trợ từ “thì” hoặc dấu phẩy (khi viết).
Ví dụ: - Năm nay, thời tiết không bình thường.
- Bằng đôi tay này, chúng ta sẽ làm ra tất cả.
7.2.2.2. Đề ngữ
Là loại thành phần phụ của câu, đứng trước nòng cốt câu, được dùng để
nêu lên một vật, một đối tượng, một nội dung cần bàn bạc với tư cách là chủ đề
của câu chứa nó. Giá trị thông báo của câu thường tập trung ở phần này.
Giữa đề ngữ với phần câu tiếp theo có thể có trợ từ “thì” hay trợ từ
“là” để nhấn mạnh.
Ví dụ: - Tôi thì tôi ///chẳng tin.
Đề ngữ CN VN
- Vấn đề này tôi /// trình bày rồi.
Đề ngữ CN VN
7.2.2.3. Tình thái ngữ
Tình thái ngữ là thành phần phụ nhằm bổ sung ý nghĩa tình thái cho câu,
nó biểu thị thái độ, sự đánh giá của người nói. (Khác với trợ từ - chỉ bổ sung ý
nghĩa tình thái cho từ hoặc ngữ). Tình thái ngữ có vị trí tương đối tự do: có thể
đứng ở đầu, ở giữa hoặc cuối câu.
Ví dụ: - Đúng là ông ấy bận.
- Làm như vậy, theo ý tôi, là tốt rồi.
- Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan.
7.2.2.4. Giải ngữ
Giải ngữ của câu thường đứng giữa hoặc đứng sau nòng cốt câu. Giải
ngữ câu được dùng trong câu để làm sáng tỏ thêm về một phương diện nào đó
liên quan gián tiếp đến câu, làm cho người ta hiểu câu nói đúng hơn, rõ hơn.
Về cấu tạo, giải ngữ có thể là một từ, một cụm từ chính phụ hoặc chủ vị,
hay một chuỗi cụm từ ... Trên chữ viết, nó được tách khỏi nòng cốt câu bằng
dấu phẩy, dấu ngang cách hoặc dấu ngoặc đơn; khi đọc, nó được đọc nhỏ hơn
và lướt nhanh hơn phần nòng cốt.
Ví dụ: - Những vẻ nên thơ này - hiểu theo nghĩa hẹp - là chất liệu
đầu tiên, trực tiếp để sáng tạo nên thơ.
7.2.2.5. Liên ngữ
Liên ngữ thường đứng ở đầu câu, có khi đứng sau chủ ngữ. Liên ngữ
được dùng để nối ý của câu chứa nó với ý của câu đứng trước hoặc đứng sau,
với ý của cả cụm gồm nhiều câu đứng trước hoặc đứng sau câu ấy.
Liên ngữ thường do các quán ngữ sau đảm nhiệm: tóm lại, vả lại, nhìn
chung, thật vậy, tuy nhiên, ngược lại, vì thế ...
Ví dụ: - Tôi đã nói rồi. Nhưng họ không đồng ý.
- Thật vậy, vấn đề này rất quan trọng.
7.3. CÁC KIỂU CÂU
7.3.1. Các kiểu câu đơn
7.3.1.1. Câu đơn bình thường
Câu đơn bình thường là câu đơn do một kết cấu chủ vị tạo thành.
Căn cứ vào cách cấu tạo của hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ, có thể
chia câu đơn ra mấy loại sau:
- Loại câu Danh - Động là loại câu trong đó chủ ngữ là danh từ (ngữ
danh từ), hoặc đại từ tương ứng, vị ngữ là động từ (ngữ động từ) hoặc đại từ
tương ứng.
Ví dụ: - Gió thổi.
- Tôi đi học.
- Loại câu Danh - Tính từ là loại câu trong đó chủ ngữ là danh từ (ngữ
danh từ), hoặc đại từ tương ứng, vị ngữ là tính từ (ngữ tính từ) hoặc đại từ
tương ứng. Ví dụ: Quyển sách này rất hay.
- Loại câu Danh - là - Danh là loại câu trong đó chủ ngữ là danh từ (ngữ
danh từ) hoặc đại từ tương ứng, vị ngữ do từ “là” kết hợp với danh từ (ngữ
danh từ) tạo thành. Ví dụ: - Đà Nẵng là quê hương tôi.
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 49
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Là câu phức có chủ ngữ của nòng cốt câu là một kết cấu chủ vị.
Ví dụ: - Mỹ / thua // đã rõ ràng.
b) Câu phức vị ngữ
Là câu phức có vị ngữ của nòng cốt câu là một kết cấu chủ vị.
Ví dụ: Chiếc xe này // lốp / đã hỏng.
c) Câu phức trạng ngữ
Là câu phức có thành phần trạng ngữ là một kết cấu chủ vị.
Ví dụ: Khi nước nhà được thống nhất, tôi // mới 8 tuổi
d) Câu phức định ngữ
Là câu phức có định ngữ (thành phần phụ bổ nghĩa cho danh từ) là kết
cấu chủ vị.
Ví dụ: Vấn đề do anh ấy nêu ra// vẫn chưa được giải quyết.
e. Câu phức bổ ngữ:
Là câu phức có thành phần bổ ngữ (thành phần phụ bổ nghĩa cho động
từ, tính từ) là kết cấu chủ vị.
Ví dụ: Tôi // nghĩ rằng anh ấy đúng.
7.3.3. Các kiểu câu ghép
7.3.3.1. Khái niệm
Câu ghép là câu được làm thành từ hai cụm chủ vị trở lên, mỗi cụm chủ
vị đó tương đương một nòng cốt câu đơn và chúng tiếp xúc với nhau làm thành
những vế trong câu ghép. Những cụm chủ vị là vế của câu ghép không bị bao
chứa bên trong cụm chủ vị khác, chúng ghép lại với nhau để làm thành câu.
7.3.3.2. Phân loại
a) Câu ghép đẳng lập
Là câu ghép mà trong đó các vế câu bình đẳng với nhau về ngữ pháp và
liên kết với nhau bằng các kết từ đẳng lập, các kết từ thường nằm giữa các vế
câu (đứng đầu vế cuối).
- Gió mùa đông bắc về và trời trở rét.
- Hoặc anh đi hoặc tôi đi.
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 51
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Sự chuyển nghĩa làm cho nghĩa của từ được mở rộng nhưng cũng có
khi bị thu hẹp. Ví dụ:
“phản động” nghĩa cũ: hành động ngược lại
nghĩa hiện dùng: hoạt động chống lại cách mạng
- Sự chuyển nghĩa có thể làm thay đổi ý nghĩa biểu thái
Ví dụ: từ “đểu cáng” ban đầu có sắc thái trung hòa, nghĩa hiện dùng lại
mang sắc thái xấu.
8.1.2.3. Các phương thức chuyển nghĩa
c1. Ẩn dụ
Là phương thức chuyển đổi tên gọi, dùng tên gọi của đối tượng này để
gọi tên đối tượng kia dựa vào sự giống nhau giữa hai đối tượng.
Ví dụ: - răng (người) -> răng (bừa, lược)
- tim (người) -> tim (sen, đèn, đường)
c2. Hoán dụ
Là phương thức chuyển tên gọi, dùng tên gọi của đối tượng này để gọi
tên đối tượng kia dựa trên mối liên hệ lô-gích giữa các đối tượng được gọi tên.
Ví dụ: - (chiếc) ly -> ly (chè)
- tay (người) -> (là) tay (bút có tài)
8.2. HỆ THỐNG NGỮ NGHĨA TRONG TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
8.2.1. Trường từ vựng - ngữ nghĩa (trường nghĩa)
8.2.1.1. Khái niệm: Trường nghĩa (trường từ vựng, trường từ vựng - ngữ nghĩa)
là tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa. Trường nghĩa là tập
hợp từ đồng nhất với nhau về nghĩa từ vựng.
Còn có thể chia ra là trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm,
trường nghĩa liên tưởng,...
8.2.1.2. Đặc điểm của trường nghĩa
- Một trường nghĩa có thể bao gồm nhiều trường nghĩa nhỏ hơn
Ví dụ: Trường nghĩa chỉ "người" bao gồm các trường nhỏ: bộ phận của
người, hoạt động của người, tính cách con người, trạng thái con người, nghề
nghiệp, giới tính, tuổi tác...
- Một trường nghĩa có thể bao gồm nhiều từ khác biệt nhau về từ loại
- Một từ nhiều nghĩa có thể thuộc về nhiều trường nghĩa khác nhau
- Các từ trong một trường nghĩa thường chuyển nghĩa theo cùng một hướng
-Trong phong cách sinh hoạt hàng ngày hay trong ngôn ngữ nghệ thuật,
đôi khi người ta cố tình chuyển trường nghĩa để tăng hiệu quả diễn đạt.
8.2.1.3. Các loại trường nghĩa
c1. Trường nghĩa biểu vật
Tập hợp những từ đồng nhất với nhau về một nghĩa chỉ vật nào đấy gọi
là trường nghĩa biểu vật. Ví dụ: xác lập trường nghĩa biểu vật về “cá” ta có:
+ Các loại cá: thu, nục, chép, rô, bống,...
+ Bộ phận cá: đầu, thân, đuôi, bụng, vây, vẩy, mắt,...
+ Trạng thái của cá: tươi, ươn, khô, sống, chết,...
c2. Trường nghĩa biểu niệm
Tập hợp các từ có cấu trúc nghĩa biểu niệm giống nhau được gọi là
trường nghĩa biểu niệm. Ví dụ: Dựa vào cấu trúc biểu niệm: (đồ dùng) (liên
quan đến ăn uống, nấu nướng), trường nghĩa biểu niệm được xác lập gồm các
từ: bếp, nồi, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt...
c3. Trường liên tưởng
Tập hợp những từ cùng được gợi ra từ mối liên tưởng với một từ trung
tâm gọi là trường liên tưởng. Chẳng hạn, khi nhắc tới từ cho, nó gợi ra một loạt
từ khác như tặng, biếu, hiến, dâng,...
c4. Trường tuyến tính (trường nghĩa ngang)
Trường nghĩa ngang là tập hợp các từ có thể kết hơp với một từ cho
trước thành một chuỗi chấp nhận được. Ví dụ, trường tuyến tính với từ tay là
một tập hợp các từ sau: búp măng, thô, dùi đục,..hoặc nắm, cầm, khoác, bắt,
víu,...
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 57
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
8.2.2. Hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa trong tiếng Việt
8.2.2.1. Từ đồng âm
a1. Khái niệm: Từ đồng âm là những từ trùng nhau về hình thức âm thanh
nhưng khác nhau về nghĩa.
Ví dụ: - đường1 ( con đường) - đường2 (một cân đường)
- chát1 (chuối chát) - chát2 (chát với bạn)
a2. Những con đường hình thành từ đồng âm trong tiếng Việt
- Do sự trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm của một số từ
Ví dụ: - lợi1 (có lợi) - lợi2 (răng, lợi)
- ba1 (số ba) - ba2 (ba mẹ)
- Do vay mượn từ ngữ.
Ví dụ: la1 (con la) - la2 (nốt nhạc, vay mượn)
- Do rút gọn từ ngữ:
- lý1 (lý lẽ) - lý2 (vật lý)
- đá1 (hòn đá) - đá2 (nước đá)
- Do biến đổi ngữ âm trong quá trình biến đổi ngữ âm lịch sử
Ví dụ: mlời -> lời1 (lời nói)
lợi -> lời2 (có lời)
- Do sự chuyển biến ý nghĩa của từ nhiều nghĩa.
8.2.2.2. Từ đồng nghĩa
b1. Khái niệm
Từ đồng nghĩa là những từ gần nhau về nghĩa nhưng khác nhau về âm
thanh, biểu thị các sắc thái của một khái niệm.
Ví dụ: chết, mất, toi, nghẻo, từ trần,... là những từ đồng nghĩa.
b2. Phân loại
* Từ đồng nghĩa hoàn toàn (đồng nghĩa tuyệt đối)
Là những từ hoàn toàn đồng nhất với nhau về nghĩa (cả nghĩa biểu vật,
biểu niệm, biểu thái) chỉ khác nhau ở phạm vi hoạt động của chúng.
Ví dụ: - xe lửa - tàu lửa, tàu hoả, hoả xa...
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 58
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
9.1. CÁC LỚP TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT XÉT THEO NGUỒN GỐC
9.1.1. Từ thuần Việt
Từ thuần Việt là hệ thống từ gốc, từ cơ bản vốn có của tiếng Việt. Nhưng
từ thuần Việt là những từ được dân tộc ta dùng từ thượng cổ tới nay, chúng
biểu thị những sự vật, hiện tượng cơ bản nhất.
Ví dụ: vợ, chồng, ăn, uống, khó, mệt, cười, tắm,...
Khác với các từ vay mượn - có phạm vi sử dụng hạn chế hơn - các từ
thuần Việt ngày càng được sử dụng trong mọi văn bản, mọi hoạt động giao tiếp
khác, và dần dần thay thế các từ vay mượn.
9.1.2. Từ gốc Hán
Là hệ thống từ vay mượn tiếng Hán trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện
đại. Trong tiếng Việt có một số lượng rất lớn các từ gốc Hán.
Từ gốc Hán trong tiếng Việt sẽ gồm 2 bộ phận chính:
- Từ gốc Hán đọc theo âm Hán - Việt (từ Hán - Việt).
- Từ gốc Hán không đọc theo âm Hán - Việt.
9.1.2.1. Từ gốc Hán đọc theo âm Hán - Việt (từ Hán - Việt)
- Những từ ngữ vốn có trong tiếng Hán được người Việt mượn. Ví dụ:
quốc, anh, kỳ, anh hùng,...
- Những đơn vị được cấu tạo trong tiếng Việt bằng các từ gốc Hán hoặc
do một yếu tố gốc Hán và một yếu tố tiếng Việt tạo thành. Ví dụ: tiểu đoàn, y
sĩ, thúc bách, lịch sự, tàu thủy,...
9.1.2.2. Từ gốc Hán không đọc theo âm Hán - Việt.
Từ gốc Hán không đọc theo âm Hán Việt bao gồm những từ Hán cổ và
những từ Hán Việt đã được Việt hóa
- Từ Hán cổ là những từ tiếng Hán du nhập vào nước ta trước đời
Đường. Những từ này được đọc theo âm Hán cổ, vì thế trong tiếng Việt tồn tại
những cặp từ ngoại lai cùng gốc nhưng có cách đọc khác nhau:
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 61
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Từ ngữ địa phương có nghĩa tương ứng với từ toàn dân hoặc từ địa
phương khác nhưng khác về hình thức ngữ âm.
Ví dụ:
Từ toàn dân Từ địa phương
lợn --> heo
thuyền --> ghe
không --> nỏ
9.2.3. Tiếng lóng
9.2.3.1. Khái niệm
Tiếng lóng là những từ ngữ được dùng hạn chế về mặt xã hội, là những
tên gọi song song của những hiện tượng thực tế nào đó vốn đã có từ toàn dân
biểu thị rồi nhưng do một mục đích nhất định mà một nhóm người đặt ra.
Tiếng lóng là “ngôn ngữ riêng của một nhóm xã hội hoặc nghề nghiệp có tổ
chức gồm các yếu tố của một hoặc một số các ngôn ngữ tự nhiên đã được chọn
lọc và biến đổi đi nhằm tạo ra sự cách biệt ngôn ngữ với những người không
liên đới” (Đái Xuân Ninh, 1986).
Có tiếng lóng của bọn trộm cắp, dân buôn, lái trâu, học sinh, binh lính...
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 64
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Ví dụ:
- Tiếng lóng trong học sinh: ngỗng, gậy, trứng vịt, ghi-đông,
chuồn, lặn...
- Tiếng lóng của bọn phe phẩy, ăn chơi: phe phẩy (buôn bán), bắt
mồi (tìm hàn); té (chạy trốn), thơm: (tốt, khá). bổ: nhảy tàu; lính mổ (tên ắp
cắp), anh cả: đầu đảng, tẩm (quê kệch)....
9.2.3.2. Đặc điểm
- Tiếng lóng gắn liền với cái môi trường, hoàn cảnh và bản thân những
tầng lớp xã hội đã sinh ra nó. Vì vậy, tiếng lóng thay đổi thường xuyên, không
ngừng.
- Tiếng lóng không được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp vì nó là cái
dùng riêng, bí mật của một lớp người.
- Trong các tác phẩm văn học, việc sử dụng tiếng lóng góp phần tạo nên
những nét nghĩa khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, có giá trị tu từ.
9.2.4. Biệt ngữ
Biệt ngữ là những từ được sử dụng trong phạm vi một cộng đồng xã hội
nhất định. Biệt ngữ được sử dụng hạn chế và nằm ngoài từ vựng toàn dân.
Điển hình cho biệt ngữ là những từ xưng hô và những từ nói về vua chúa
trong triều đình phong kiến ngày trước, như: trẫm, khanh, bệ hạ, thăng hà, long
nhan, thăng hà,... và những từ ngữ được sử dụng trong phạm vi một tôn giáo
hay một hoạt động tín ngưỡng nào đó: bố trí, trì giới, giới sát, Niết bàn, ta bà...
9.2.5. Từ nghề nghiệp
Từ nghề nghiệp là những từ gọi tên các công cụ, các sản phẩm lao động
hoặc các thao tác của một nghề cụ thể nào đó trong xã hội. Từ nghề nghiệp chủ
yếu là từ thuần Việt.
Do đặc điểm về nghề nghiệp, các từ nghề nghiệp trong tiếng Việt được
dùng hạn chế về mặt xã hội. Ví dụ:
- Thuộc nghề dệt có: xa, ống, suốt, thoi, cửi, go, trục, đánh ống, đánh
suốt, lấy go...
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 65
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Thuộc nghề mộc có: đục, tua, mộng, xẻ, chàng, ra rui, thượng thu hạ
thách, mộc gia, nề giảm, cắt cưa phóng đanh...
Tuy là lớp từ vựng hạn chế về mặt xã hội nhưng khác với tiếng lóng, từ
nghề nghiệp là tên gọi duy nhất của hiện tượng thực tế. Nó không có từ đồng
nghĩa trong vốn từ toàn dân. Vì vậy, từ nghề nghiệp dễ dàng trở thành vốn từ
toàn dân khi những khái niệm riêng của nghề này trở thành phổ biến rộng rãi
trong toàn xã hội.
9.2.6. Thuật ngữ
Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt. Đó là hệ thống các từ và cụm từ cố
định dùng để gọi tên các khái niệm trong các ngành khoa học cụ thể.
Thuật ngữ có 3 đặc điểm cơ bản sau:
- Tính chính xác: Các khái niệm gắn với các từ mang tính chính xác cao,
được rút ra từ các thực nghiệm, kiểm nghiệm trong đời sống, vì vậy thuật ngữ
phải chính xác. Một thuật ngữ chính xác là một thuật ngữ chỉ mang một nghĩa
trong mọi hoàn cảnh.
- Tính hệ thống: Mỗi ngành khoa học có một hệ thống thuật ngữ riêng,
mang tính đặc thù của từng ngành. Giá trị của mỗi thuật ngữ được xác định khi
nó ở trong mối tương quan với các thuật ngữ khác trong hệ thống.
- Tính quốc tế: Những thành tựu khoa học là tài sản chung của nhân
loại, thuật ngữ phải mang tính quốc tế và thực hiện tốt việc giao lưu quốc tế.
Có những từ còn để lại dấu vết trong tiếng Việt hiện đại nhưng ý nghĩa
đã bị lu mờ vì chúng không được sử dụng độc lập.
Ví dụ: - Nhà ngặt ít kẻ han (han - hỏi han)
9.3.2. Từ lịch sử
Là những từ ngữ đã trở nên lỗi thời do đối tượng biểu thị của chúng
trong hiện thực khách quan không còn nữa.
Ví dụ: Tên gọi các chức tước, phẩm hàm quan lại trong triều: Thái thú,
tuần phủ, tổng đốc, thái tử, công chúa, vương phi, thái phi, hoàng thân, hoàng
thúc, trạng nguyên, viên ngoại, thị lang,…
Khác với từ ngữ cổ, từ ngữ lịch sử không có từ đồng nghĩa tương ứng
trong vốn từ tiếng Việt hiện đại. Từ ngữ lịch sử chỉ được sử dụng khi cần diễn
đạt những vấn đề có tính chất lịch sử.
9.3.3. Từ mới và ý nghĩa mới
9.3.3.1. Từ mới
Hiện thực khách quan ngày càng phong phú dẫn theo nhu cầu định danh
các sự vật hiện tượng ngày càng tăng và hệ quả của điều này là xuất hiện các từ
mới. Có hai loại từ mới:
- Loại thứ nhất là những từ mới biểu thị những sự vật, hiện tượng, khái
niệm mới nảy sinh. Ví dụ: nhạc trẻ, nhạc xanh, nhạc vàng; tin học, bàn phím, ổ
cứng,…
- Loại thứ hai là những từ dùng gọi tên những đối tượng vốn trước đây
đã có tên gọi. Ví dụ: tàu lửa, xe lửa (hỏa xa), người giúp việc, osin (con sen,
con ở), họp mặt (tề tựu),…
9.3.3.2. Ý nghĩa mới
Bên cạnh việc cấu tạo từ mới để gọi tên các sự vật hiện tượng khách
quan mới xuất hiện, để tiết kiệm, người ta còn mở rộng nghĩa của những từ cũ
đã có sẵn.
Ví dụ: cày, rửa, phản động, vé, chai, xị,…
b) Đoạn quy nạp: là đoạn văn trình bày nội dung theo chiều ngược lại
với đoạn diễn dịch. Các câu diễn đạt ý cụ thể đứng trước, câu diễn đạt ý chung,
khái quát đứng sau.
Ví dụ: “Hiện nay trình độ của đại đa số đồng bào ta bây giờ không cho
phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in dài, thời
giờ của ta, người lính đánh giặc, người dân đi làm không cho phép xem lâu. Vì
vậy, nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy” (Hồ Chí Minh)
c) Đoạn móc xích: Nội dung được trình bày theo cách ý câu sau nối tiếp
ý câu trước, phát triển ý câu trước và cứ thế nối tiếp nhau đến hết đoạn. Cách
trình bày này thường chặt chẽ vì tạo ra được sự liên tục của các ý trong đoạn
văn.
Ví dụ: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ
Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ
hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu.
(Hoài Thanh).
10.2. LIÊN KẾT TRONG VĂN BẢN
10.2.1. Tính liên kết
10.2.1.1. Khái niệm
Tính liên kết là mạng lưới các mối liên hệ giữa các câu trong một văn
bản. Nó chính là nhân tố quan trọng nhất có tác dụng biến một chuỗi câu trở
thành văn bản.
10.2.1.2. Các mặt liên kết trong văn bản
Mỗi văn bản đều phải có đủ hai mặt liên kết là: liên kết hình thức và
liên kết nội dung. Giữa hai mặt liên kết này có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ: liên kết nội dung được thể hiện bằng một hệ thống các phương tiện liên kết
hình thức và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt liên kết nội dung.
Liên kết nội dung bao gồm hai bình diện là liên kết chủ đề và liên kết lô-
gich.
- Liên kết chủ đề là các câu trong văn bản tập trung thể hiện xoay quanh
khẳng định hạt nhân nghĩa của văn bản. Đó là nội dung cô đúc của văn bản.
- Liên kết lô-gich là các câu theo một trình tự hợp với sự phát triển lô-
gich của sự vật, sự kiện để thể hiện liên kết chủ đề của văn bản.
10.2.1.3. Văn bản điển hình, văn bản không điển hình và phi văn bản
a) Văn bản điển hình: là văn bản có đầy đủ 3 liên kết: liên kết hình thức,
liên kết chủ đề và liên kết lô-gich.
b) Văn bản không điển hình: là văn bản cũng có hai mặt liên kết hình
thức và liên kết nội dung, nhưng mặt liên kết nội dung không được thể hiện đầy
đủ: chúng chỉ có một trong hai bình diện.
c) Phi văn bản: là một chuỗi phát ngôn hỗn độn thuộc một trong ba
trường hợp sau đây:
- Chỉ có liên kết hình thức và hoàn toàn không có liên kết nội dung.
- Chỉ có liên kết nội dung và hoàn toàn không có liên kết hình thức.
- Không có cả liên kết hình thức lẫn nội dung.
10.2.2. Các phương thức liên kết câu
10.2.2.1. Phép lặp
a) Phép lặp từ vựng: khi dùng đi dùng lại nhiều lần trong văn bản những
từ ngữ nhất định ở những phần không quá xa nhau trong văn bản, nhằm mục
đích tạo sự liên kết, ta gọi cách liên kết đó là phép lặp từ vựng.
Ví dụ: Trung ương đã nhất trí về đường lối,chính sách, chỉ tiêu, biện
pháp. Chúng ta phải biến sự nhất trí ấy thành quyết tâm.
b) Phép lặp cú pháp: Lặp cú pháp là dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo cú
pháp nào đó (có thể nguyên vẹn hoặc biến đổi chút ít) nhằm tạo ra tính liên kết
ở những phần văn bản chứa chúng. Thông thường, người viết thường lặp lại
những cấu tạo cú pháp đơn giản và ngắn gọn để gây hiệu quả về nhịp điệu, nhờ
đó gia tăng được tính liên kết. Phép lặp cú pháp thường có lặp từ vựng đi kèm.
Ví dụ: Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt. (Hồ Chí
Minh)
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 71
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
c) Phép lặp ngữ âm: là phương thức lặp các yếu tố ngữ âm như: vần,
cách ngắt nhịp, số lượng âm tiết, thanh điệu ... ở các câu trong văn bản.
Ví dụ: Một tiếng reo hò trở thành một nốt nhạc. Một ánh pháo là một hạt
kim cương. (Lưu Quý Kì)
10.2.2.2. Phép thế
Phép thế là cách thay những từ ngữ nhất định bằng những từ ngữ có ý
nghĩa tương đương (cùng chỉ sự vật ban đầu) nhằm tạo tính liên kết giữa các
phần văn bản chứa chúng.
a) Thế đồng nghĩa: là phép thế được thực hiện bằng các từ ngữ cùng
nghĩa. Ngoài tác dụng liên kết, nó còn giúp cho việc diễn đạt thêm sinh động.
Phép thế đồng nghĩa có hai kiểu:
a1.Thế đồng nghĩa từ điển: thế bằng các từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa.
Ví dụ: “Một cái mũ len xanh nếu chị sinh con gái. Cái mũ sẽ đỏ tươi nếu chị
đẻ con trai.” (Anh Đức).
a2. Thế đồng nghĩa lâm thời: thế bằng các từ ngữ khác. Những từ ngữ
này chỉ lâm thời đồng nghĩa với nhau (đồng nghĩa ngữ cảnh).
Ví dụ: Trâu đã già....Trông xa, con vật thật đẹp dáng (Chu Văn).
b) Thế đại từ: là dùng đại từ (nhân xưng, phiếm định, chỉ định) để thay
cho một từ ngữ, một câu, hay một ý gồm nhiều câu ... nhằm tạo ra tính liên kết
giữa các phần văn bản chứa chúng. Ngoài chức năng liên kết nó còn có chức
năng rút gọn văn bản.
Ví dụ: - “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quí báu của ta.” (Hồ Chí Minh)
10.2.2.3. Phép liên tưởng
Phép liên tưởng là cách sử dụng những từ ngữ chỉ những sự vật, hiện
tượng có thể nghĩ đến theo một định hướng nào đó, xuất phát từ những từ ngữ
ban đầu nhằm tạo ra mối liên kết giữa các phần chứa chúng trong văn bản.
Ví dụ 1: Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt
(Kim Lân).
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 72
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Phép tuyến tính là phương thức liên kết không có các yếu tố liên kết. Các
phát ngôn được sắp xếp hoặc theo trình tự về thời gian, hoặc theo trình tự nhân
quả.
Ví dụ: Tháng 5 năm 1945, Đức đầu hàng. Tháng 8, Nhật đầu hàng. Liên
Xô và Đồng Minh hoàn toàn thắng lợi.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Văn bản: khái niệm và các đặc trưng cơ bản.
2. Thế nào là đoạn văn diễn dịch? Thực hành viết đoạn diễn dịch.
3. Thế nào là đoạn văn qui nạp? Thực hành viết đoạn qui nạp.
4. Thế nào là đoạn văn móc xích? Thực hành viết đoạn móc xích.
5. Khái niệm về tính liên kết trong văn bản.
6. Trình bày về phép lặp. Cho ví dụ minh họa.
7. Trình bày về phép thế. Cho ví dụ minh họa.
8. Trình bày về phép liên tưởng. Cho ví dụ minh họa.
9. Làm bài tập trong Giáo trình Tiếng Việt (trang 132)
Chuẩn
Lời nói
Hệ thống ngôn ngữ
12.1.3. Phân loại
- Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày (khẩu ngữ).
- Phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ.
- Phong cách ngôn ngữ khoa học.
- Phong cách ngôn ngữ chính luận.
- Phong cách ngôn ngữ báo chí - công luận.
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 78
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Dựa vào phạm vi biểu đạt và các đặc điểm về ngôn ngữ, loại thể của
ngôn bản hành chính - công vụ người ta phân chia thành các kiểu dạng:
Văn bản văn thư:
- thông báo, thông tư, chỉ thị, quyết định, nghị quyết.
- đơn từ, báo cáo, biên bản, tường trình, phúc trình
- văn bằng, giấy chứng nhận, giấy phép, giấy biên nhận
- giấy mời, giấy gọi, giấy báo
- công văn, công điện, điện báo
Văn bản pháp quyền: hiến pháp, các bộ luật, sắc lệnh, điều lệ, quy chế,
quy định, nội quy.
Văn bản ngoại giao: công điện, công hàm, quốc thư diễn từ, đáp từ, hiệp
định, điều ước, nghị định thư...
Văn bản quân sự: mệnh lệnh, báo cáo, điều lệnh, nhật lệnh
12.3.2. Đặc trưng cơ bản của PCNNHCCV
12.3.2.1. Tính chính xác, minh bạch
Tính chính xác trong cách dùng từ đặt câu cùng với sự minh bạch, khúc
chiết trong kết cấu các đoạn mạch của văn bản đã đảm bảo cho tính xác định,
tính đơn nghĩa của nội dung.
12.3.2.2. Tính nghiêm túc, khách quan
Tính nghiêm túc, khách quan là dấu hiệu chung của các văn bản hành
chính để diễn đạt tính chất xác nhận, chỉ thị, mệnh lệnh. Hình thức thể hiện
phong cách hành chính phải nghiêm túc và không chấp nhận xu hướng diễn đạt
có tính chất cá nhân.
12.3.2.3. Tính khuôn mẫu
Tính khuôn mẫu là đòi hỏi bắt buộc đối với văn bản hành chính. Văn bản
hành chính phải được viết theo các mẫu đã được quy định. Mỗi thể loại thuộc
văn bản hành chính đều phải được trình bày thống nhất theo những khuôn mẫu
nhất định, có thể được in sẵn như: văn bằng, hộ chiếu, giấy khai sinh,…và
không được in sẵn như: quyết định, biên bản,…
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 81
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
+ Dạng viết: Các công trình nghiên cứu khoa học, các tạp chí, tập san,
báo cáo khoa học, các hình thức phê bình, giới thiệu khoa học, các sách giáo
khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo, các bài thi, luận văn, đề án tốt nghiệp...
+ Dạng nói: Lời giảng bài, lời thuyết trình, lời phát biểu trong các buổi
thảo luận khoa học, hội nghị khoa học, lời hỏi đáp về các vấn đề khoa học.
12.4.2. Các đặc trưng cơ bản
12.4.2.1. Tính trừu tượng, khái quát
Mục đích của khoa học là phát hiện ra những quy luật tồn tại trong các
sự vật, hiện tượng; vì vậy, phong cách ngôn ngữ khoa học phải mang tính trừu
tượng, khái quát để nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan.
12.4.2.2. Tính lô-gích nghiêm ngặt (tính trí tuệ)
Cơ sở để tạo nên phong cách khoa học là tư duy logic. Trong phong cách
này, người viết chủ yếu tác động và thuyết phục người đọc thông qua hệ thống
lập luận, cách trình bày chặt chẽ và cách thức tư duy của mình.
12.4.2.3. Tính chính xác - khách quan
Khoa học yêu cầu phản ánh chính xác, chân thực, khách quan các quy
luật của tự nhiên và xã hội. Do đó, ngôn ngữ khoa học phải có tính chính xác,
khách quan.
12.4.3. Đặc điểm ngôn ngữ của PCNNKH
12.4.3.1. Đặc điểm ngữ âm
- Sử dụng âm chuẩn, viết đúng chính tả. Bên cạnh chữ viết còn có các ký
hiệu, sơ đồ.
- Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thông tin khoa học, phong cách ngôn
ngữ này đã khai thác tất cả các tiềm năng của hệ thống ngữ âm tiếng Việt.
Ví dụ: axit, cacbuya, lôgarit, ampixilin...
12.4.3.2. Đặc điểm từ vựng
- Thành phần quan trọng nhất của từ ngữ trong PCNNKH là các thuật
ngữ, nhất là các thuật ngữ chuyên ngành. Ví dụ: thuật ngữ trong ngôn ngữ học:
ngữ âm, âm vị, ngữ dụng,…
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 83
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
hành động nên hệ thống từ ngữ và cách diễn đạt phải gần gũi đối với quần
chúng.
12.5.2.4. Tính bình giá công khai: Phong cách ngôn ngữ chính luận
biểu thị một cách rõ ràng, trực tiếp thái độ của tác giả đối với sự kiện.
12.5.3. Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách chính luận
12.5.3.1. Đặc điểm ngữ âm và chữ viết
- Phong cách ngôn ngữ chính luận đòi hỏi phải đúng chính tả, phát âm
chuẩn.
- Ở dạng nói, ngữ điệu đóng vai trò quan trọng để tăng tính hùng biện,
tăng tính thuyết phục.
12.5.3.2. Đặc điểm từ vựng
- Sử dụng nhiều lớp từ ngữ chính trị.
- Để tăng tính thuyết phục, người viết chính luận thường sử dụng những
đơn vị từ vựng giàu sắc thái tu từ.
- Ngôn ngữ trong phong cách chính luận phải giản dị, rõ ràng, chính xác,
dễ hiểu.
12.5.3.3. Đặc điểm cú pháp
- Thường sử dụng nhiều kiểu loại câu giàu sắc thái tu từ: câu tường thuật,
câu nghi vấn,…
- Sử dụng cả các phương tiện cú pháp khẩu ngữ quen thuộc của quần
chúng để trình bày vấn đề.
12.5.3.4. Đặc điểm tu từ
- Sử dụng rộng rãi các biện pháp tu từ.
- Sử dụng các tục ngữ, thành ngữ.
12.6. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ CÔNG LUẬN
12.6.1. Khái niệm
Phong cách ngôn ngữ báo chí công luận là khuôn mẫu thích hợp để xây
dựng một lớp văn bản trong lĩnh vực hoạt động thông tin đại chúng như báo
chí, cổ động, quảng cáo, tuyên truyền.
Phong cách ngôn ngữ báo chí - công luận tồn tại ở hai dạng: dạng viết và
dạng nói. Bao gồm:
+ Văn bản cung cấp tin tức: mẩu tin, tin tổng hợp, phỏng vấn, điều tra,
phóng sự.
+ Văn bản phản ánh công luận: các bài trao đổi ý kiến, ý kiến bạn đọc,
trả lời bạn đọc.
+ Văn bản thông tin quảng cáo: thông báo, rao vặt, quảng cáo.
+ Văn bản thông tin cổ động.
12.6.2. Các đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí công luận
12.6.2.1. Tính thời sự: Là sự đưa tin một cách nhanh nhạy, kịp thời, cập
nhật.
12.6.2.2. Tính hấp dẫn: Cách hành văn, dùng từ phải kích thích, gợi mở
sự hứng thú của người đọc, người nghe, người xem.
12.6.2.3. Tính ngắn gọn: Câu chữ ít nhưng chứa dung lượng thông tin
cao
12.6.2.4. Tính chiến đấu: Vì báo chí là công cụ đấu tranh cách mạng của
Nhà nước ta, của nhân dân ta nên luôn luôn hướng về lợi ích của đất nước,
nhân dân, tuyên truyền và bảo vệ đường lối của Đảng ta.
12.6.3. Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách báo chí công luận
12.6.3.1. Đặc điểm ngữ âm
- Phát âm chuẩn, dễ nghe, ngữ điệu phải phù hợp với nội dung.
- Đúng chính tả, để tạo hấp dẫn phải dùng nhiều kiểu chữ khác nhau.
- Khai thác tất cả mọi tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt.
12.6.3.2. Đặc điểm từ vựng
- Sử dụng một lớp từ ngữ cấu tạo đặc biệt mang màu sắc biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: thảm họa hạt nhân, leo thang chiến tranh,…
- Sử dụng từ ngữ theo khuôn mẫu (đã mất màu sắc tu từ) rất năng động,
linh hoạt.
- Sử dụng một lớp từ ngữ thuộc nghề báo như: tiết lộ, đưa tin, đặc phái
viên, theo nguồn tin...
12.6.3.3. Đặc diểm cú pháp
- Phong cách ngôn ngữ báo chí - công luận thường dùng câu khuyết chủ
ngữ khi thông tin sự kiện thời sự.
- Phong cách ngôn ngữ báo chí - công luận thường dùng câu có đề ngữ
để làm nổi bật thông tin. Vị trí thường gặp của câu có đề ngữ này là ở đầu các
bảng tin và thường được tách ra thành nhan đề các bản tin.
- Trong đầu đề các bản tin cũng thường có mặt dạng câu có nhiều thành
phần tách biệt được in thành dòng riêng.
12.6.3.4. Các đặc điểm diễn đạt khác
- Dùng nhiều cách diễn đạt biểu cảm, có hình ảnh... để làm nổi bật nội
dung thông tin. Ví dụ: + “Chuyên nghiệp hoá bóng đá VN - tại sao không?”
+ “Vườn hoa – vườn hoang”
- Các văn bản thông tin báo chí thường có kết cấu theo khuôn mẫu
nhất định: + nguồn tin
+ thời gian
+ địa điểm
+ sự kiện
+ diễn biến
+ kết quả
- Diễn đạt linh hoạt thể hiện trực tiếp thái độ của người viết.
- Các văn bản quảng cáo thường dùng lối nói khoa trương, kích động.
12.7. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
12.7.1. Khái niệm
Là phong cách ngôn ngữ được sử dụng trong các loại hình văn chương,
được xây dựng trên cơ sở tư duy hình tượng.
Các loại văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là:
+ Tự sự (truyện ngắn, truyện dài, ký, truyện ký)
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 87
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật còn sử dụng một lớp từ ngữ riêng,
mang sắc thái văn chương. Ví dụ: giấc mơ: giấc mộng, cõi mộng, giấc mộng
Nam Kha, mộng tưởng...
12.7.3.3. Đặc điểm ngữ pháp
- Tận dụng mọi kiểu câu tiếng Việt để có thể bao quát được bề rộng và
chiều sâu của hiện thực.
- Trong thơ, tồn tại kiểu câu gọi là cú pháp thơ ca, có khi trái với cách
diễn đạt thông thường.
12.7.3.4. Đặc điểm tu từ
- Sử dụng triệt để các biện pháp tu từ tiếng Việt
- Người viết luôn có sự sáng tạo ngôn ngữ bằng cách cố tình sử dụng
lệch chuẩn trong ngôn ngữ.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Chỉ ra các đặc điểm ngôn ngữ của PCSHHN trong các đoạn văn sau:
a) “Hai phụ nữ nói chuyện với nhau về giá cả quần áo:
- Bao nhiêu hả chị?
- Năm ngàn rưỡi! Giá hữu nghị đấy. Nó hô một câu, mình cũng hét một
tiếng. Thế là xong. Cũng chưa hay bằng cái áo lông gấu Bắc Cực, có biết bao
nhiêu không? Hai mươi tư ngàn.
- Trời!
- Hé hé…Đúng là cô nàng tỉnh lẻ mới về thành phố. Này cô em ơi, mỗi
khi đã quyết định ăn chơi thì không sợ tốn kém nhé.”
b) “Con gái viết thư cho bố:
Ba ơi, ba mua cho con cái đồng hồ Longin nhé. Cái cũ có hai kim, phải
lên giây, con không thích. Ba ạ, hè năm nay ba, con và mẹ đi Sầm Sơn hay Nha
Trang nghỉ, hả ba? Con thích đi vũng tàu kia, ba ạ!”
2. Làm các bài tập trong Giáo trình Tiếng Việt (trang233).
So sánh tu từ là sự so sánh giữa hai đối tượng khác loại nhau với mục
đích diễn tả có hình ảnh, biểu cảm đặc điểm của một đối tượng. Hiện tượng
khúc xạ tăng lên gấp nhiều lần vì còn mang sắc thái chủ quan của người so
sánh.
Ví dụ: “Cổ tay em trắng như ngà”
13.2.1.2. Cấu tạo của so sánh tu từ
Hình thức đầy đủ nhất của phép so sánh tu từ gồm 4 yếu tố sau:
Cái được so sánh Cơ sở so sánh Từ so sánh Cái dùng để so sánh
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
- Chức năng nhận thức: Với tính chất của mình, qui tắc so sánh thiên về
chức năng nhận thức hơn chức năng biểu cảm.
- Chức năng biểu cảm: Bên cạnh chức năng nhận thức là chức năng biểu
cảm. Qua so sánh, ta thấy được sự gợi cảm, bay bổng của tưởng tượng:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng” (Chế Lan Viên)
- Chức năng thẩm mỹ: Tài năng của người so sánh là ở chỗ biết khai thác
những thuộc tính giống nhau của hai đối tượng khác loại một cách chính xác,
bất ngờ, tạo ra những liên tưởng sâu sắc.
13.2.2. Ẩn dụ tu từ
13.2.2.1. Khái niệm
Ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi của đối tượng này để gọi
tên đối tượng khác dựa trên cơ sở so sánh ngầm, thừa nhận ngầm một thuộc
tính chung nào đó giống nhau giữa hai đối tượng.
Ví dụ: “ Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. (Nguyễn Bính)
13.2.2.2. Các kiểu ẩn dụ tu từ
* Ẩn dụ chân thực là những ẩn dụ được cấu tạo bằng sự so sánh ngầm
những nét tương đồng giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu”
* Ẩn dụ bổ sung (hay ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) là sự thay thế một cảm
giác này bằng một cảm giác khác khi nhận thức và diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Trong văn chương, ẩn dụ bổ sung được sử dụng khá phổ biến.
Ví dụ: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn...
Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 92
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
- Coi đối tượng không phải con người như con người và trò chuyện tâm
tình với chúng. Ví dụ:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương?
c3) Giá trị phong cách
- Nhân hóa được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ sinh hoạt và trong văn
chương.
- Đây là cách đưa thế giới khách quan vào cuộc sống con người khiến
cho cảnh vật vô tri vô giác trở nên có hồn và gần gũi thêm. Nhân hóa vừa có
chức năng nhận thức vừa có chức năng biểu cảm.
13.2.3.2. Vật hoá
b1) Khái niệm
Vật hoá là cách dùng những từ ngữ vốn biểu thị về sự vật, thực vật, động
vật để biểu thị về con người. Đó là hướng chuyển ngược lại so với nhân hoá:
dùng những từ có phạm vi biểu vật vốn dùng cho vật đem dùng cho người.
Ví dụ: “Ba đồng một mớ đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha” (Ca dao)
b2) Giá trị phong cách:
- Được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ sinh hoạt và trong văn chương.
- Vật hoá là một cách thức châm biếm, mỉa mai bằng cách thay đổi phạm
vi biểu vật của từ. Tuy nhiên, vật hoá không phải lúc nào cũng nhằm “châm
biếm, mỉa mai” đối tượng mà đôi khi lại là những tưởng tượng rất dí dỏm:
Ví dụ: “Người yêu ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ
Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy dậy sờ thì không” (Ca dao)
13.2.4. Phúng dụ
13.2.4.1. Khái niệm
Là hệ thống những ẩn dụ, nhân hoá được sử dụng để biểu đạt một nội
dung triết lý hay bài học luân lý mà người nói không muốn trình bày trực tiếp
và làm cho nội dung vấn đề thâm thúy hơn.
Ví dụ: bài ca dao “Con cò đi ăn đêm”, “Con mèo trèo cây cau” là những
bài được viết theo lối phúng dụ.
13.2.4.2. Giá trị phong cách
- Phúng dụ là phương thức chủ yếu của truyện ngụ ngôn và của những
bài ca dao ứng xử đạo lý.
- Chức năng chủ yếu của phúng dụ là chức năng nhận thức.
13.2.5. Hoán dụ tu từ
13.2.5.1. Khái niệm
Hoán dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi của đối tượng này gọi
tên đối tượng kia dựa vào mối quan hệ lôgích khách quan giữa hai đối tượng.
Ví dụ: “Hỡi cô yếm thắm lòa xòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh” (Ca dao)
13.2.5.2. Các kiểu hoán dụ
- Hoán dụ trên cơ sở quan hệ giữa chức năng và cơ quan thực hiện
chức năng:
Trái tim nhầm chỗ để trên đầu.
- Hoán dụ trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể:
“Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”
- Hoán dụ trên cơ sở quan hệ giữa chủ sở hữu và vật sở thuộc:
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
- Hoán dụ dựa trên cơ sở quan hệ giữa số lượng và số lượng (phép cải
số): Ba quân chỉ ngọn cờ đào
- Hoán dụ trên cơ sở quan hệ giữa vật chứa và vật bị chứa (phép cải
dung): “Vì sao trái đất nặng ân tình
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 95
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Điệp ngữ là biện pháp tu từ lặp lại có nghệ thuật một hay nhiều lần
những từ, ngữ, câu, kiểu cấu trúc cú pháp để nhằm mục đích nhấn mạnh một
nội dung ý nghĩa tạo nhạc tính, mở rộng nghĩa, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra
những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe.
Ví dụ: “Những cánh đồng thơm mát
Những cánh đồng bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.” (Nguyễn Đình Thi)
Dựa vào quy mô cấu tạo, người ta chia phép điệp thành điệp từ ngữ và
điệp cú pháp.
Điệp ngữ được sử dụng nhiều trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và
phong cách chính luận.
13.3.2. Đồng nghĩa kép
Là phương thức lặp lại từ ngữ đồng nghĩa hay gần nghĩa để nhấn mạnh,
xoáy sâu vào một nội dung nhất định. Đồng nghĩa kép tạo sức nặng cho câu
văn, thường dùng trong văn chính luận.
Ví dụ:
- “Phàm cái gì chống lại dân tộc thống nhất, phải thẳng cánh đập tan,
phải kiên quyết bài trừ, phải nhất loạt san phẳng” (Trường Chinh).
13.3.3. Liệt kê và tăng cấp
13.3.3.1. Phép liệt kê
Là phương thức xếp đặt một loạt các khái niệm, sự vật, hình ảnh, có khi
chỉ là tên riêng, là những con số để tăng cường hiệu quả biểu đạt.
Ví dụ: “Thế mà đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái còn bày la liệt
những thứ mà người yếu bóng vía phải rùng mình: thanh quất, súng lục, súng
trường, gươm giáo, bát xà mâu...”
Phép liệt kê thường có tác dụng thể hiện sự phong phú, đa dạng, nhiều
mặt của sự vật hiện tượng.
13.3.3.2. Phép tăng cấp
Là một loạt liệt kê nhưng là một sự sắp xếp có hướng hoặc tiến dần (tiệm
tiến), hoặc lùi dần (tiệm thoái).
Ví dụ: Bài ca dao Thằng Bờm.
13.3.4. Đột giáng
Là biện pháp tu từ gây ra sự chú ý đặc biệt vào một chi tiết nội dung nào
đó bằng cách xếp đặt từ ngữ câu văn sao cho khi chuyển sang chi tiết đó thì mặt
trình bày bị chuyển đổi một cách đột ngột.
Ví dụ:
“Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua quan, sĩ tử người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người”
13.3.5. Tương phản
Là phương thức sử dụng những từ ngữ biểu thị những khái niệm trái
ngược nhau trong cùng một văn cảnh để chỉ một sự thật chứa đựng mâu thuẫn
hoặc nhằm mục đích làm rõ hơn đối tượng được miêu tả.
Ví dụ: - “Miệng nam mô bụng bồ dao găm”, “Đầu voi đuôi chuột”,
13.3.6. Phép lặng
Phép lặng (im lặng, ẩn ngữ) là phương thức biểu đạt bằng cách bỏ trống
để người đọc, người nghe tự hiểu, không cần diễn đạt bằng lời.
Ví dụ: "Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà
Ra thế
Lượm ơi!...”
13.3.7. Ngoa dụ
Còn có tên gọi là phóng đại, khoa trương, thậm xưng tức là phương thức
cường điệu một mức độ, tính chất, đặc điểm nào đó của sự vật.
Ví dụ: “Lỗ mũi em 18 gánh lông
Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho...”
NCS. Th.S Hồ Trần Ngọc Oanh
Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Sư phạm - ĐHĐN 98
Bài giảng Tiếng Việt (Dành cho sinh viên Ngoại ngữ) – Lưu hành nội bộ
Nguyên văn:
“Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” (Nguyễn Du)
14.Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh
Thuyết (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.