Professional Documents
Culture Documents
Trong sự so sánh với âm tiết của các ngôn ngữ biến hình, âm tiết tiếng Việt có những
đặc điểm đáng chú ý sau đây:
1. Âm tiết tiếng Việt có tính độc lập cao:
Trong một phát ngôn tiếng Việt gồm nhiều âm tiết, các âm tiết tách bạch nhau rất rõ.
Ta không thấy có hiện tượng nhược hóa, tức là những âm tiết không mang trọng âm bị
đọc yếu đi (reduction); hay hiện tượng bớt âm của từ trong khi nói (elision) , ví dụ
trong tiếng Anh, khi nói: “No, they do not” (4 âm tiết) có thể nói: “No, they don’t” (3
âm tiết); tiếng Việt cũng không có hiện tượng nối âm (liaison) như một số ngôn ngữ
Âu Châu. Người Việt không có quyền đọc “đêm ấy” thành “đê mấy”, trong khi đó,
người Anh lại khuyến khích cách đọc nối âm: các âm tiết ở những từ gần nhau trong
câu được phát âm nối với nhau, hay nói cách khác, một bộ phận của âm tiết này bị
tách ra để nối với âm tiết tiếp theo. Ví dụ: “good afternoon” hay “this is a book”. Âm
tiết tiếng Việt cũng không bao giờ bị biến dạng trong lời nói.
Do sự thể hiện rõ ràng như vậy nên việc vạch ra ranh giới giữa các âm tiết trong tiếng
Việt dễ dàng hơn nhiều so với việc phân chia ranh giới âm tiết trong các ngôn ngữ Âu
Châu. Trong ngữ lưu, các âm tiết được phát ra hết sức rành rọt khiến cho người nghe
có thể nhận biết một cách dễ dàng ranh giới của chúng và số lượng âm tiết trong một
câu nói. Tính chất tách bạch từng âm tiết còn được phản ánh trên văn tự: người Việt
viết rời mỗi âm tiết (tiếng) thành từng chữ chứ không viết liền thành từ như kiểu chữ
Nga, chữ Anh, chữ Pháp.
Những điều vừa trình bày trên chứng tỏ so với âm tiết trong các ngôn ngữ Âu Châu,
âm tiết tiếng Việt có tính độc lập cao.
2. Ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị:
Trong các ngôn ngữ Âu Châu như Anh, Nga, Pháp, ta thấy trong một phát ngôn số
lượng âm tiết và số lượng hình vị (morpheme, đơn vị nhỏ nhất có nghĩa) có thể không
bằng nhau, và cho dù có bằng nhau thì ranh giới của âm tiết cũng không trùng với
ranh giới của hình vị. Ví dụ như trong tiếng Anh, từ “boys” có 1 âm tiết, 2 hình vị; từ
“student” có 2 âm tiết, 1 hình vị.Từ "teacher" có 2 âm tiết, 2 hình vị nhưng ranh giới
của chúng là không trùng nhau (ranh giới âm tiết: tea/cher; ranh giới hình vị:
teach//er). Âm tiết chỉ là các đơn vị ngữ âm thuần tuý.
Trong tiếng Việt, tình hình lại khác hẳn. Một phát ngôn có bao nhiêu âm tiết thì có
bấy nhiêu hình vị, mỗi âm tiết là hình thức ngữ âm của một hình vị. Chẳng hạn trong
câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn" có 8 âm tiết và cũng có 8 hình vị; số
lượng âm tiết và hình vị bằng nhau, ranh giới của chúng cũng trùng nhau. Hay nói
cách khác, mỗi âm tiết tiếng Việt đếu có khả năng mang nghĩa. Có những âm tiết vốn
bị xem là vô nghĩa, ví dụ như “lẽo” trong “lạnh lẽo”, “lùng” trong “lạnh lùng”...
nhưng thật ra nó vẫn có nghĩa - gọi là nghĩa cấu trúc. Nó làm cho kết hợp chứa nó
khác với các kết hợp khác: “lạnh lẽo” ≠“lạnh lùng” ≠“lạnh”. Chúng ta có thể nói:
"Vào mùa đông, trời lạnh lẽo." nhưng không thể nói: "Vào mùa đông, trời lạnh lùng.".
Ngược lại, ta có thể nói: "Anh ấy có khuôn mặt lạnh lùng." nhưng không thể nói:
"Anh ấy có khuôn mặt lạnh lẽo".
Tóm lại, trong tiếng Việt, ranh giới âm tiết trùng với ranh giới của hình vị. Đây chính
là một nét đặc trưng của loại hình ngôn ngữ đơn lập mà tiêu biểu là tiếng Việt, tiếng
Hán...
3. Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ, rõ ràng:
Âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc gồm những yếu tố nhỏ. Ở dạng đầy đủ nhất, mỗi âm
tiết tiếng Việt gồm 5 thành tố, mỗi thành tố có một chức năng riêng.
a) Chức năng của các thành tố trong âm tiết:
* Thành tố thứ nhất có chức năng phân biệt các âm tiết với nhau về cao độ, đó là
thanh điệu. Mỗi âm tiết đều mang một trong sáu thanh điệu. Những âm tiết như
“sương nương theo trăng” mặc dù không có dấu thanh nhưng vẫn mang một thanh
điệu - thanh ngang. Trong âm tiết “toàn”, thành tố thứ nhất là thanh huyền.
* Thành tố thứ hai có chức năng mở đầu âm tiết - đó là âm đầu. Âm đầu bao giờ cũng
do một phụ âm đảm nhận. Trong âm tiết “toàn” thành tố thứ hai là âm /t/.
* Thành tố thứ ba có chức năng làm thay đổi ít nhiều âm sắc của âm tiết sau lúc mở
đầu, cụ thể là làm trầm hóa âm tiết - đó là âm đệm. Trong âm tiết “toàn” thành tố thứ
hai là âm /w9/ được thể hiện ra bằng con chữ "o".
* Thành tố thứ tư quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là hạt nhân của âm tiết - đó
là âm chính. Thành tố này bao giờ cũng do một nguyên âm đảm nhận. Trong âm tiết
“toàn”, /a / giữ vai trò này.
* Thành tố cuối cùng đảm nhiệm chức năng kết thúc âm tiết - đó là âm cuối. Nó có
thể là một phụ âm như /n/ trong “toàn”, hay một bán âm như /u9/ trong “cau”, hoặc /
i9 / trong “hai”.
b) Sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Việt:
Sự kết hợp của các bộ phận trong âm tiết không phải là một sự nối kết đơn giản, cơ
giới mà là sự sắp xếp có thứ lớp, theo một cơ chế tầng bậc. Cơ chế này phản ánh mức
độ chặt chẽ, lỏng lẻo khác nhau trong sự kết hợp các thành tố tạo thành âm tiết. Âm
tiết tiếng Việt là một cấu trúc có thể biểu diễn bằng các sơ đồ sau: (1)
* Sơ đồ hình cây 4 bậc:
Trên cơ sở muốn chỉ rõ mức độ chặt chẽ trong sự kết hợp với nhau giữa các
thành tố trong âm tiết, ta có thể chi tiết hóa cấu trúc âm tiết bằng sơ đồ hình cây 4 bậc
sau đây: (2)
Dựa vào cách kết thúc âm tiết - cách phân loại truyền thống - ta chia ra 4 loại hình âm
tiết sau:
1. Âm tiết mở: kết thúc bằng nguyên âm (âm cuối zêrô)
Ví dụ: ba bé đi Huế
2. Âm tiết nửa mở: kết thúc bằng bán âm. Cụ thể trong tiếng Việt có hai âm cuối bán
âm sau: /u9/ (u, o) , / i9 / (i, y)
Ví dụ: cao, cau, hai, hay ...
3. Âm tiết nửa khép: kết thúc bằng âm mũi. Cụ thể trong tiếng Việt có 3 âm mũi sau
đây làm âm cuối: / m, n, N/ (m, n, nh, ng)
Ví dụ: nam, lan, làng, xanh ...
4. Âm tiết khép: kết thúc bằng âm tắc, vô thanh. Cụ thể những âm tiết tận cùng bằng
các phụ âm sau được gọi là âm tiết khép: /p, t, k / (p, t, c, ch).
Ví dụ: lớp, hạt, học, sách ...
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP:
Bài này có những nội dung chính cần nắm vững sau đây:
• Khái niệm âm tiết. Phân biệt giữa âm tiết (đơn vị phát âm nhỏ nhất) với hình vị (đơn
vị có nghĩa nhỏ nhất). Nắm những đặc điểm về cấu tạo vật lý - sinh lý của âm tiết nói
chung.
• Nắm những đặc điểm riêng của âm tiết tiếng Việt trong sự so sánh với âm tiết của
các ngôn ngữ biến hình. Từ đó thấy rõ vị trí quan trọng của âm tiết tiếng Việt đối với
ngữ âm học tiếng Việt, vì sao Ngữ âm tiếng Việt đặc biệt quan tâm đến đơn vị ngữ âm
là âm tiết trong khi ngôn ngữ Châu Âu thường ít để ý đến đơn vị này.
• Cấu trúc chặt chẽ gồm 5 thành tố của âm tiết tiếng Việt.
• Bốn kiểu loại hình âm tiết tiếng Việt. Xác định được kiểu loại của một âm tiết bất kỳ
căn cứ vào âm cuối của nó.
Bài 2: HỆ THỐNG ÂM VỊ TIẾNG VIỆT (phần 1)
Các âm tiết tiếng Việt đối lập nhau theo 5 vị trí, tương ứng với 5 thành tố: thanh
điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Ở mỗi vị trí đều có một loại âm vị cùng
đảm nhiệm một chức năng như nhau. Như vậy, xét theo chức năng khu biệt, tiếng Việt
có 5 hệ thống âm vị khác nhau: hệ thống âm đầu, hệ thống âm đệm, hệ thống âm
chính, hệ thống âm cuối, hệ thống thanh điệu.
Dưới đây chúng ta sẽ tiến hành khảo sát từng hệ thống con này:
I. HỆ THỐNG ÂM ĐẦU:
1. Đặc trưng ngữ âm tổng quát: Các âm đầu trong tiếng Việt hiện đại đều là phụ âm
và là các phụ âm đơn.
2. Phân loại và miêu tả:
a) Phân loại: Tiếng Việt có tất cả 23 phụ âm làm nhiệm vụ âm đầu. Đó là /p, b, m , f ,
v , t’ , t , d , n , s , z , l , ÿ , § , ½, c , ŋ , k , N , x , , h, //
Vì các âm đầu trong tiếng Việt đều là phụ âm nên ta phân loại âm đầu tiếng Việt
theo cách phân loại phụ âm.
* Tiêu chí phương thức phát âm:
*Lưu ý: Nói chung, mỗi âm vị âm đầu đều được thể hiện bằng một con chữ. Nhưng
cũng có một số âm vị được ghi bằng cách ghép hai hoặc ba con chữ (th, ng, ngh, tr,
gh, kh...).
Có 18 âm vị âm đầu được ghi bằng một hình thức duy nhất (tương ứng với 1 âm vị chỉ
có 1 hình thức chữ viết) nhưng lại có những âm vị được ghi bằng 2 hay 3 hình thức
khác nhau. Cụ thể là có 4 âm vị sau:
• Âm vị / z / được viết bằng “d” hoặc “gi”. Nói cách khác, hai cách viết “d” và “gi”
ngày nay đều được phát âm là / z /.
Ví dụ: “da”, “gia” được đọc như nhau. Một điểm đặc biệt là nếu âm tiết có âm đầu /
z / với cách viết “gi”, mà sau nó lại là nguyên âm đôi /ie/ - tức là hai con chữ “i” đi
liền nhau
- thì theo qui ước chính tả, ta bỏ bớt một chữ “i”.
Ví dụ: âm tiết / zieN5/ lẽ ra phải viết “giiếng” nhưng nay viết “giếng”. Vậy ở đây con
chữ “g” được đọc /z/ chứ không đọc / / như trong “gà”, “gù”. Do đó cũng có thể nói
/ z / có 3 cách viết là “d”, “gi” và “g” (nếu sau nó là / ie /).
• Âm vị / k / được viết bằng “k” khi đi trước các nguyên âm / i , e, E, ie/; bằng “q”
khi đi trước âm đệm /w9/ ví dụ: “quên” , “qua” ; bằng “c” trong các trường hợp còn
lại (trừ hai trường hợp ngoại lệ trên).
• Âm vị / N / được viết bằng “ngh” khi đi trước / i , e, E, ie / và viết bằng “ng”
trong các trường hợp còn lại.
• Âm vị / / được viết bằng “gh” khi đi trước / i , e, E, ie / và viết bằng “g” trong
các trường hợp còn lại.
II. ÂM ĐỆM:
Sự khác nhau đó là do ở âm tiết “toán” có một âm lướt xuất hiện giữa âm đầu và âm
chính.
* Vậy âm đệm /w9/ là âm xuất hiện giữa âm đầu và âm chính. Nó đóng vai trò của
một âm lướt. Nó là một bán âm có cấu tạo gần giống như nguyên âm hẹp, hàng sau,
tròn môi /U/, nhưng khác ở chỗ nó không được làm đỉnh âm tiết như / U /, hay nói
cách khác nó là yếu tố phi âm tiết tính, được kí hiệu / 9 /
* Ở những âm tiết như “tán”, “bụt”, yếu tố tròn môi như trên không tồn tại. Ta nói
các âm tiết ấy có âm đệm zêrô.
3. Sự thể hiện trên chữ viết:
Âm đệm /w9/ được thể hiện trên chữ viết bằng hai hình thức:
* Âm đệm /w9/ được ghi bằng con chữ “o” khi đi trước các nguyên âm rộng /a,
ă, E, E(/.. Ví dụ: họa hoằn, hòe , hoạch...
* Âm đệm /w9/ được ghi bằng con chữ “u” khi đi trước các nguyên âm còn lại. Ví
dụ: huế , huy , huân , thuở , huyền ...
* Đặc biệt là khi đi sau phụ âm / k / (với cách viết là “q”) âm đệm /w9/ bao giờ
cũng được viết là “u”, dù sau nó là nguyên âm rộng hay hẹp. Ví dụ: quê, quán, qui,
que...
4. Sự phân bố của âm đệm:
* Âm đệm /w9/không phân bố sau các phụ âm môi / b , m , f , v /. Một số trường
hợp đi ra ngoài qui luật này đều là các từ phiên âm từ tiếng nước ngoài: buýt (bus) ,
phuy (fut) , voan (voile) , muy ()..
* Âm đệm /w9/ xuất hiện hạn chế sau các phụ âm / n , ½, /. Chỉ có một vài
trường hợp như: noa (thê noa) , noãn (noãn sào) , góa - là những tiếng gốc Hán; hay
roa (courroie - cua roa) - gốc Pháp.
* Âm đệm /w9/ không xuất hiện trước các nguyên âm tròn môi / U , o , /
- Việc âm đệm /w9/ không xuất hiện sau / b , m , f , v / và không xuất hiện trước /U ,
o, / có thể được giải thích theo nguyên lý âm vị học tiếng Việt sau: hai âm có cấu
tạo như nhau hoặc gần như nhau thì không thể kết hợp với nhau; /w9/là một bán
nguyên âm tròn môi vì vậy nó không đi với các âm môi.