You are on page 1of 15

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

(BIÊN SOẠN VÀ THAM KHẢO)

CÂU 1. Trình bày hoàn cảnh ra đời và quá trình phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ cổ
đại?
Mở bài:
“Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi
chỗ này” là lời thề nổi tiếng của Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập ra Phật giáo. Thái tử sinh
khoảng năm 624 trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vương
Đầu Đà Na). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân
sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên của
đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm
thày học đạo, Thái tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho
con người hết khổ được. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới gốc cây Bồ đề, Thái tử đã đạt được Đạo
vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước trên thế
giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh
xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ
và hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.

Điều kiện hình thành:


Thứ nhất về tiền đề kinh tế - xã hội: Cuối thế kỷ thứ VI TCN, ở miền Bắc AD, phía Nam
dãy Himalaya, vùng biên giới AD với Nepal, sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp khiến cho LLSX phát triển dẫn đến sự phát triển vượt bậc của kinh tế AD so
với trước đó. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết phải có sự thay đổi trong tổ chức sản xuất và xã hội
(hình thức sở hữu, phân công lao động, phân công sản phẩm…) mở đường cho kinh tế phát triển.
Dựa trên nền tảng kinh tế phát triển như thế quá trình phân hóa xã hội ở AD diễn ra sâu sắc đẩy
một bộ phận lớn dân cư vào chỗ khốn cùng. Nó đặt ra yêu cầu cần có một cơ cấu xã hội mới bình
đẳng hơn đáp ứng nguyện vọng của các giai cấp thấp trong xã hội lúc bấy giờ.

Trang 1
Thứ hai về tiền đề tư tưởng – chính trị: Cuộc sống khổ cực làm cho nhân dân lao động
thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp, không còn tin vào các vị thần
Bàlamôn. Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lí ngày càng khó hiểu làm cho
người dân ngày càng xa rời tôn giáo này. Trong bối cảnh đó vào thế kỷ VI TCN ở Ấn Độ đã xuất
hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại, khổ hạnh, ép xác, tiêu
cực, tự kỉ nhưng có 1 điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng
cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của đạo Bàlamôn.

Quá trình truyền bá và phát triển


Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, vào thời điểm rất hưng thịnh
của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của con người với đồng loại,
chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh phục được đông đảo
các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động. Từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ V
SCN là quá trình truyền bá và phát triển đạo Phật, từ khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo
Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết tập:
Thứ nhất, hội nghị kết tập lần 1
- Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, một số tăng sỹ bắt đầu có những biểu hiện sống tự do
vượt ra ngoài những giới luật ràng buộc. Trước tình hình đó, Ca Diếp - đệ tử tối cao của Đức Phật
đã triệu tập một đại hội kết tập lại giáo pháp Phật tổ dạy một cách thống nhất để mọi người tuân
theo. Hội nghị kết tập lần này diễn ra ở thành Vương Xá, kinh đô nước Ma Kiệt Đà, kéo dài bảy
tháng. Thành phần hội nghị gồm 500 vị đã chứng quả A La Hán.
- Cuộc kết tập này có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong lịch sử Phật giáo. Bước đầu hình
thành nên cơ cấu tổ chức giáo hội, Luật và Pháp được phân chia rõ ràng: Pháp gồm những lời
thuyết giáo của Phật được nhớ lại theo ký ức của các đệ tử lúc bấy giờ; Luật là quy chế của hội
Phật giáo do Đại hội thảo ra.
Thứ hai, hội nghị kết tập lần 2
- 100 năm sau kỳ kết tập lần thứ nhất, 12.000 tăng sỹ thành Tỳ Xá Lỵ không sống theo tất cả
giới luật. Theo họ, trong giới luật có 10 điều được châm chế và họ đã không giữ những giới luật
này. Để xem xét lại 10 điều luật trên, cũng là để một lần nữa xác định lại giới pháp nhằm ngăn
ngừa mọi điều phi pháp có thể xảy ra, hội nghị kết tập lần thứ hai được triệu tập. Hội nghị quy tụ

Trang 2
700 vị trưởng lão tại thành Phệ Xá Lỵ kéo dài khoảng 8 tháng
- Sau nhiều lần thảo luận với nhiều ý kiến khác nhau, cuối cùng, hội nghị tuyên bố, 10 điều
trên vẫn là những giới luật cần tuân giữ, nếu không sẽ phạm giới. Tuy nhiên, đa số các vị Đông
bộ không phục tùng nghị quyết này, họ (gọi là Đại chúng bộ, là mầm móng của phái Đại thừa sau
này) cùng nhau hội họp ở nơi khác để kết tập kinh điển, gọi là Đại chúng kết tập. Từ đấy, giáo
đoàn Phật giáo chia thành hai bộ phái khác nhau. Thượng toạ bộ theo khuynh hướng bảo thủ, Đại
chúng bộ theo khuynh hướng cách tân.
Thứ ba, hội nghị kết tập lần 3
- Diễn ra vào khoảng thế kỷ III TCN với 1000 tăng ni tham dự trong 9 tháng.
- Với sự giúp đỡ của Asoka, nhiệm vụ chính là chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý của giáo hội,
đồng thời đặt ra kinh kệ và các nghi thức. Asoka còn cho xây dựng nhiều chùa tháp, thành lập
nhiều tăng đoàn, khuyến khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều vùng đất trên báo đảo Ấn Độ
và một số quốc gia khác (Sri Lanka, Mianma, Thái Lan,…). Tuy nhiên, sau khi vương quốc
Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu dần.
Thứ tư, hội nghị kết tập lần 4
- Diễn ra vào thế kỷ I SCN với sự giúp đỡ của vua Kanisca với 500 tăng ni tham dự ở Casmia.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có một hiện tượng mang tính quy luật, đó là sự phân phái
của các hệ thống triết lý tôn giáo lớn trong quá trình phát triển của chúng. Phật giáo cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách và phái Phật giáo này được gọi
là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ (gọi là phái Tiểu Thừa).
- Phái Tiểu (hay Nam tông) thừa nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp”, cho
rằng những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.
+ Quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh, gắn với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não
khổ đau, không còn nhân quả luân hồi, cũng tức là hư vô.
+ Phật Thích Ca là người đầu tiên đạt đến cảnh giới Niết bàn lúc 35 tuổi.
+ Được truyền bá từ Ấn Độ sang Sri Lanca rồi đến các quốc gia ở Đông Nam Á như Myanma,
Thái Lan, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam,…
- Phái Đại Thừa (Bắc tông) nghĩa là “cỗ xe lớn” hoặc “con đường cứu vớt rộng”, cho rằng
không chỉ những tu hành mà cả những người quy y cũng được cứu vớt.
+ Quan niệm Niết bàn như thiên đường, tức là vương quốc của các vị Phật, cũng là nơi Cực lạc.

Trang 3
+ Đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.
+ Phật giáo Đại thừa được truyền bá từ Ấn Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên
và Bắc Việt Nam,…
Sau đại hội Phật giáo lần thứ tư, các nhà sư được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo;
do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Những thế kỉ tiếp
sau đó, đạo Phật suy dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát triển ở phần lớn Châu Á và đã trở thành
quốc giáo của một số nước như Xri Lanca, Mianma, Lào, Thái Lan và Campuchia.

Liên hệ Việt Nam:


Còn đối với Việt Nam, gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều
thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi để giáo hoá
chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền thống yêu
nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà bình, tôn trọng sự
sống, GHPGVN hôm nay với phương châm hoạt động “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”
luôn tích cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ cộng đồng, góp phần xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã hội bình đẳng và văn minh, xứng đáng
là một tôn giáo “Hộ quốc - An dân”./.

Câu 2: Trình bày hoàn cảnh ra đời và quá trình truyền bá của Thiên chúa giáo (Ki
Tô giáo) ở La Mã cổ đại.
Mở bài:
Được hình thành tại vùng đất Palestine (lúc bấy giờ nằm trong lãnh thổ của đế quốc La
Mã), do Chúa Giêsu Kitô là người sáng lập ra. Trải qua hơn 2 nghìn năm lịch sử hình thành và
phát triển, có thể nói Ki - tô giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất của thế giới khi có đến gần
2 tỷ người theo đạo, chiếm 1/3 số người số người sống trên Trái Đất.

Hoàn cảnh ra đời:


Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là con của Chúa Trời đầu thai vào người
con gái đồng trinh Maria và được sinh ra ở Bétlêhem vào khoảng năm 5 hoặc 4TCN, người đã
sáng lập ra đạo Ki tô. Đến năm 30 tuổi, Chúa Giêsu vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh, có thể làm

Trang 4
co người chết sống lại. Trong khi truyền đạo, Chúa Giêsu khuyên mọi người phải nhẫn nhục chịu
đựng mọi đau khổ ở đời, sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở thiên đường.
Sự ra đời của Ki tô giáo khởi nguyên từ năm 63 TCN, khi La Mã thôn tính vùng Palextin,
nơi mà từ thế kỉ VI TCN cư dân đã theo một tôn giáo nhất thần gọi là đạo Do Thái. Người La Mã
áp dụng một chế độ cai trị hà khắc khiến nô lệ, dân nghèo và thợ thủ công bị áp bức hết sức nặng
nề. Họ đã bao lần nôi dậy đấu tranh nhưng đều bị đàn áp đè bẹp, khiến họ mất niềm tin vào hạnh
phúc, tự do trong cuộc sống hiện thực. Trong khi đó tư tưởng của phái triết học khắc kỉ với các
nội dung như thần thống trị thế giới, sống nhẫn nhục chịu đựng là đức tính tốt đẹp, mọi người đều
bình đẳng, đang được lưu hành ở La Mã. Chính giáo lí của đạo Do Thái, tư tưởng của phái khắc
kỉ và đời sống cực khổ không có lối thóa của nhân dân bị áp bức là những yếu tó dẫn đến sự ra
đời của đạo kitô.
Vì không tìm được lối thoát nên con người tìm đến sự ảo mộng trong tôn giáo như một lối
thoát cho mình. Do vậy Kito giáo trở thành tôn giáo của người bị áp bức bốc lột: nô lệ, nông dân,
thợ thủ công.

Quá trình truyền bá và phát triển:


2.1. Kitô giáo buổi đầu
 Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ của đạo Kitô bao gồm nô lệ, nô lệ được giải phóng, dân nghèo
thành thị. Họ lập thành những công xã nhỏ. Đó không những là những đoàn thể của các giáo hữu
mà còn là những tổ chức giúp đỡ lẫn nhau và làm việc từ thiện.
 Các công xã đều có quỹ chung để tiêu dùng và tổ chức những bữa tiệc chung. Mọi thành viên
của công xã đều bình đẳng. Quyền lãnh đạo các công xã Kitô giáo trong thời kỳ này thuộc về các
nhà truyền giáo lưu động, các sứ đồ. Họ đều là đại biểu của quần chúng nghèo khổ.)

Trong quá trình phát triển, Ki tô giáo đã phát triển qua hai giai đoạn:
2.2. Các giai đoạn phát triển của Kitô giáo
a) Giai đoạn 1 (từ thế kỷ I đến thế kỷ IV SCN)
Đây là giai đoạn Kitô giáo bị đàn áp rất khốc liệt và cũng là giai đoạn mà số tín đồ không nhiều,
chỉ có một bộ phận ở Palestine tham gia.
- Sau cái chết của Chúa Jésus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo lý của ngài truyền bá ra ngoài

Trang 5
Palestine. Năm 62, thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở đây đã có nhiều tín đồ Kitô
giáo. Ban đầu giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng do Kitô
giáo lên án giới nhà giàu, tức là lên án tầng lớp thống trị trong xã hội và khẳng định đế quốc La
Mã sẽ bị diệt vong. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc rất căm ghét nên họ cho rằng tín đồ
Kitô là bọn phiến loạn trong xã hội và tiến hành đàn áp rất khốc liệt. Tuy nhiên càng đàn áp thì
Kitô giáo càng phát triển.
- Nguyên nhân.
+ Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hoá giai cấp trong xã hội càng sâu sắc, sự
bần cùng hoá, sự áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên. Do đó Kitô là tôn giáo duy nhất mà giới
lao động và những người nghèo khổ có thể tìm thấy được con đường giải phóng.
+ Các tín đồ Kitô giáo sinh hoạt trong các khu vực mà thực chất là các tổ chức tương tế đã giúp
người lao động, người nghèo tìm công ăn việc làm để duy trì cuộc sống thường ngày.
- Do vậy trong thời kỳ đầu, cuộc vận động tham gia Kitô mang một ý nghĩa xã hội rất tích
cực, mang tính chất vận động những người nghèo chống lại chính quyền La Mã áp bức bóc lột.
- Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô giáo đã tạo được một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ yếu tại
các thành phố lớn. Cùng với sự phát triển của Kitô giáo là giới cầm quyền La Mã cũng quyết
định thay đổi chính sách đối với tôn giáo này.
b) Giai đoạn 2 (trong thế kỷ IV sau Công nguyên)
Đây là giai đoạn Kitô giáo được thừa nhận về mặt pháp lý và được công nhận là quốc giáo của La
Mã.
- Năm 311, Hoàng đế Galerius hạ lệnh đình chỉ việc sát hại các tín đồ Kitô giáo. Kitô giáo
được thừa nhận về mặt pháp lý và có một địa vị bình đẳng với các tôn giáo khác.
- Năm 313, Hoàng đế Constantin ban bố sắc lệnh Milano xác định địa vị hợp pháp của giáo
hội Kitô, nâng Kitô giáo lên địa vị quốc giáo.
- Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh triệu tập Đại hội Kitô giáo lần thứ nhất tại Nicée
(vùng Tiểu Á). Đại hội đã giải quyết được 2 vấn đề lớn:
+ Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh, nghĩa là chọn ra 4 phần tương đối trùng
khớp, ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất và đưa vào Tân ước.
+ Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.
- Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy của giai cấp thống trị La Mã.

Trang 6
- Năm 337, Hoàng đế Constantin đã chịu phép rửa tội và trở thành vị hoàng đế La Mã đầu
tiên theo Kitô giáo.
- Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo quần chúng bị áp búc, lúc
đầu là nô lệ, dân nghèo sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội.
- Trải qua bao thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo, chống
lại chính quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền
Rôma và là một bộ phận của chính quyền thống trị La Mã.

Liên hệ Việt Nam:


Quá trình hình thành và phát triển đạo Ki tô ở nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm, biến
cố. Từ một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với Việt Nam, đến nay Ki tô giáo là một trong những tôn
giáo có số người tin theo lớn thứ hai (với hơn 7 triệu triệu tín đồ) trong các tôn giáo có mặt tại
Việt Nam. Đồng thời khi đạo Ki tô vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều yếu tố văn hóa
phương Tây du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, phát triển thêm
nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật mới, trong đó đặc biệt nhất phải kể đến sự ra đời của chữ
Quốc ngữ. Cho đến nay đạo Ki tô đã có được một nền móng tương đối vững chắc nhờ từng bước
hội nhập vào trong văn hoá Việt Nam theo đánh giá của các nhà khoa học về tôn giáo này./.

Kết luận:
Kitô giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa phương Tây. Trải qua hơn 20 thế kỷ, tuy
có những giai đoạn thăng trầm, những biến thiên theo thời gian và thời cuộc, có lúc tưởng chừng
như diệt vong, nhưng cuối cùng thì Kitô giáo đã chiếm một vị trí khá vững vàng trên thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù Kitô giáo có thể đang xuống dốc ở châu Âu và ổn định
ở Mỹ, tôn giáo ấy vẫn là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất ở mọi nơi trên thế giới.
Hầu hết sự phát triển này có vẻ không do sự truyền giáo từ những người Kitô giáo phương Tây
mà do một phong trào có tính cơ sở

Trang 7
Câu 3: Phương pháp tiếp cận văn minh?
Để tiếp cận Lịch sử văn minh thế giới, ta cần tìm hiểu những vấn đề sau đây:
1) Văn minh là gì?
Văn minh là trạng thái tiến bộ cả về hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là
trạng thái phát triển cao của nền văn hoá. Trái với văn minh là dã man, hoang dã, lạc hậu,…
Ví dụ: Văn minh phương Tây, văn minh phương Đông, văn minh Trung Hoa,…
2) So sánh văn hoá với văn minh
- Văn hoá dùng để chỉ những giá trị về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để góp
phần vào sự ổn định, tô điểm, làm đẹp cho cuộc sống của con người và xã hội.
- Đặc trưng của văn hoá:
+ Là cái để phân biệt con người với động vật, là đặc trưng riêng của xã hội loài người.
+ Không được kế thừa về mặt sinh học (di truyền) mà phải học tập, giao lưu.
+ Là cách ứng xử đã được mẫu thức hoá.

Văn hóa Văn minh


- Có bề dày quá khứ. - Là lát cắt đồng đại.
- Mang tính dân tộc. - Mang tính siêu dân tộc.

3) Thế nào là một nền văn minh?


- Nền văn minh có thể hiểu như là văn hoá của một xã hội phức tạp, thể hiện phẩm chất tiên
tiến từ một xã hội thống nhất. Các nền văn minh có nền tảng văn hoá đa dạng, bao gồm văn học,
hội hoạ, kiến trúc, tôn giáo, tín ngưỡng,… được kết hợp hài hoà. Nền văn minh có bản năng mở
rộng ra khu vực khai sinh ban đầu, vươn xa và ảnh hưởng đến những vùng đất xa xôi khác.
- Một nền văn minh hình thành trong một không gian địa lý nhất định, có một thời gian tồn
tại nhất định và có chủ nhân riêng.
- Một nền văn minh gồm 3 yếu tố:
+ Chức năng sản xuất ra của cải vật chất.
+ Chức năng điều chỉnh, tổ chức và phát triển xã hội.
+ Chức năng tạo ra các sản phẩm tinh thần.
4) Những cơ sở hình thành nền văn minh
- Điều kiện tự nhiên:
+ Thuận lợi: thời tiết ổn định, nguồn lao động dồi dào, giàu tài nguyên khoáng sản,…
+ Khó khăn: thời tiết bất thường (bão, lũ lụt, hạn hán,…), chiến tranh,…
- Điều kiện kinh tế: nền tảng vật chất của nền văn minh (nguồn lao động dồi dào, thị trường

Trang 8
tiêu thụ rộng lớn, sự giao lưu buôn bán,…)
- Điều kiện chính trị: trình độ tổ chức, quản lí xã hội.
- Điều kiện xã hội: sự phân hoá và kết cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
- Điều kiện cư dân: cư dân là chủ nhân của nền văn minh, cộng đồng cư dân tạo ra nền văn
minh.
5) Nội dung của lịch sử văn minh thế giới
- Trình độ sản xuất vật chất: Thể hiện trình độ kiểm soát, chiếm lĩnh của con người với thế
giới tự nhiên, thông qua các hoạt động sản xuất ra của của vật chất, các sinh hoạt kinh tế trong
mỗi nền văn minh.
- Trình độ kiểm soát, quản lí xã hội: Thể hiện trình độ tổ chức và quản lí xã hội thông qua bộ
máy nhà nước, hệ thống pháp luật, các thể chế xã hội (giai cấp, tư tưởng, tập quán xã hội, cộng
đồng,…)
- Trình độ chiếm lĩnh thế giới tư duy và sáng tạo văn hoá: Bao gồm tổng thể tri thức về thế
giới khách quan được sáng tạo, khám phá (nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, khoa học,…)
6) Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh
- Chữ viết: là hệ thống các kí tự đặc biệt ghi lại tiếng nói của con người, là phương tiện để
truyền tải thông tin qua không gian và thời gian.
Ví dụ: chữ tượng hình (Ai Cập), chữ Brami (Ấn Độ), chữ Lệ (Trung Hoa),…
- Văn học.
- Sử học.
- Nghệ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ.
- Tôn giáo, tư tưởng:
+ Hoàn cảnh, tích truyện.
+ Hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan.
+ Sự thờ phụng và cuộc sống đạo đức.
- Triết học.
- Pháp luật.
- Khoa học tự nhiên.
7) Phân loại văn minh
- Theo nền văn minh: Alvin Toffler đã phân kỳ lịch sử theo 3 đợt sóng văn minh: văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh tin học.
- Theo khu vực.
+ Phương Đông: các trung tâm văn minh nằm trên lưu vực các dòng sông lớn ở châu Á, Đông
Bắc châu Phi như sông Ấn, sông Hằng, sông Hoàng Hà, sông Trường Giang,… Thời cổ đại có

Trang 9
các trung tâm như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc. Thời trung đại có các trung tâm như
Trung Quốc, Ấn Độ, Arập.
+ Phương Tây: các trung tâm văn minh nằm ở các đảo, bán đảo. Thời cổ đại có các trung tâm
như Hy Lạp, Roma. Thời trung đại có trung tâm văn minh Tây Âu.
8) Vai trò của Lịch sử văn minh thế giới đối với sự phát triển của nhân loại
Động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, giúp nhân loại đạt đến những thành tựu phát triển
đỉnh cao, góp phần ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người,…
Phương pháp nghiên cứu môn LSVMTG
1.1. Đối tượng nghiên cứu:
Lịch sử văn minh là một phân ngành của khoa học lịch sử, có đối tượng nghiên cứu là những
thành tựu đỉnh cao thể hiện sự tiến bộ của con người và xã hội loài người kể từ khi nhà nước xuất
hiện đến nay. Những thành tựu đó được biểu hiện cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
1.2. Phương pháp nghiên cứu:
Là một phân ngành của khoa học lịch sử, phương pháp nghiên cứu của lịch sử văn minh dựa trên
phương pháp luận Mác-xít, mà nền tảng là quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngòai ra, còn phải tiếp cận với phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, như phương pháp
lịch sử, phương pháp logic, phương pháp lịch đại, phương pháp đồng đại, phương pháp so sánh,..
 Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện
tượng theo đúng trình tự thời gian và không gian như nó đã từng diễn ra (quá trình ra đời, phát
triển, tiêu vong).
Ví dụ như khi nghiên cứu về sự phát triển và truyền bá của Phật giáo ở Ấn Độ cổ đại, bằng
phương pháp lịch sử, nhà nghiên cứu sẽ tìm kiếm nguồn tư liệu một cách chính xác và đầy đủ
nhất có thể để mô tả quá trình ra đời, quá trình truyền bá ở Ấn Độ cho đến lúc phát triển rộng rãi
như ngày nay với đầy đủ các chi tiết cụ thể và phức tạp, gồm cả những sự kiện tất nhiên lẫn ngẫu
nhiên, theo đúng thứ tự thời gian như nó đã từng diễn ra.
 Phương pháp logic chỉ rõ sự kiện, hiện tượng lịch sử tiêu biểu; chỉ rõ vai trò của từng yếu tố
trong một hệ thống chỉnh thể – thực tế lịch sử đã diễn ra - để đến chân lý. Phương pháp này chủ
yếu để phát hiện quy luật (xu hướng, bản chất) của các sự kiện, hiện tượng được nghiên cứu. Như
vậy, phương pháp logic chủ yếu không phải để quan sát, mô tả mà là phân tích các hiện tượng, sự
kiện lịch sử.

Trang
10
 Những nghiên cứu bao gồm việc thu thập và phân tích thông tin theo thời gian được gọi là
nghiên cứu lịch đại và những nghiên cứu chỉ dựa trên những thông tin thu thập về một thời điểm,
hay trong một khoảng thời gian ngắn, được gọi là những nghiên cứu đồng đại.
CÂU 4. THÀNH TỰU KHOA HỌC TỰ NHIÊN CỦA AI CẬP CỔ ĐẠI
Nền văn minh Ai Cập cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi và được xem là một trong những cái nôi
của văn minh nhân loại. Địa lý là một trong những điều kiện thuận lợi góp phần hình thành nên
nền văn minh sớm nhất thế giới. Sông Nile dài hơn 6000 km, có 7 nhánh đổ ra Địa Trung Hải, là
một trong những con sông dài nhất thế giới. Hạ lưu sông có hình dáng tam giác, dài 700 km với
hai bên lưu vực sông đất đai phì nhiêu, màu mỡ nhờ lượng phù sa lớn bồi đắp, thuận lợi cho các
loại cây trồng phát triển. Nơi đây cũng sở hữu quần thể động vật đa dạng. Nhờ đó, cư dân sống ở
hai bờ sông Nile không chỉ an cư lạc nghiệp mà còn phát triển thông thương. Trải qua nhiều đời
pharaon với những biến động lịch sử, nền văn minh Ai Cập cổ đã tạo ra được vô số thành tựu rực
rỡ, trong đó không thể không kể đến những thành tựu về khoa học tự nhiên.
1. Toán học
Do yêu cầu phải đo đạc lại ruộng đất bị nước sông Nile làm ngập và do cần phải tính toán vật
liệu trong các công trình xây dựng nên từ sớm, người Ai Cập đã có khá nhiều hiểu biết đáng chú
ý về toán học.
 Về phép đếm: Người Ai Cập cổ đại ngay từ đầu đã biết dùng phép đếm lấy 10 làm cơ sở
(thập tiến vị). Dùng chữ tượng hình để biểu thị các chữ số nhưng vì không có cơ số 0 nên cách
viết chữ số của họ tương đối phức tạp.
Ví dụ: đơn vị: hình nhiều cái que,
chục: hình một đoạn dây thừng,
trăm: hình một vòng đoạn dây thừng,
ngàn: hình cây sậy,….
 Về các phép tính cơ bản, người Ai Cập chỉ mới biết phép cộng và phép trừ. Vì chưa biết
nhân và chia nên phải dùng phương pháp cộng và trừ liên tiếp.
 Đến thời Trung vương quốc, mầm mống của đại số học đã xuất hiện. Ẩn số x được gọi là
“aha” nghĩa là “một đống”, ví dụ một số ngũ cốc chưa biết được số lượng thì gọi là “một đống
ngũ cốc”. Người Ai Cập đã biết được cấp số cộng và giải được phương trình bậc nhất.
 Về hình học, họ đã biết cách tính diện tích hình tam giác, tứ giác, hình cầu; biết được số pi
là 3,16; biết tính thể tích hình tháp đáy vuông. Khi giải những bài tóan hình học không gian
phục vụ cho việc xây dựng Kim Tự Tháp, họ đã biết vận dụng mầm mống của lượng giác học.
2. Thiên văn học
Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh tác

Trang
11
nông nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp.
 Từ rất sớm, họ đã dùng những dụng cụ thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi
trên nóc đền miếu để quan sát bầu trời. Họ vẽ hình thiên thể lên trần các đền miếu, biết được 12
cung hoàng đạo, biết được các hành tinh như thủy, kim, hỏa, thổ và mộc.
 Để đo thời gian, từ thời cổ vương quốc người Ai Cập đã phát minh ra các nhật khuê (đồng
hồ mặt trời). Tuy nhiên, dụng cụ này chỉ xem được thời gian ban ngày và chỉ khi có nắng. Đến
thời Vương triều XVII, người Ai Cập phát minh ra đồng hồ nước. Loại đồng hồ này đã khắc
phục được nhược điểm của loại nhật khuê nói trên.
 Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của người Ai Cập cổ đại là việc làm ra
lịch. Lịch Ai Cập được đặt ra dựa trên kết quả quan sát tinh tú và quy luật dâng nước của sông
Nile. Họ nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang (Sirius) bắt đầu mọc cũng là lúc nước sông
Nile bắt đầu dâng. Khoảng cách giữa hai lần mọc sao Lang là 365 ngày. Họ lấy khoảng thời gian
ấy làm một năm. Một năm được chia làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, 5 ngày còn thừa để vào
cuối năm ăn tết. Năm mới của người Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông Nile bắt đầu dâng
(khoảng tháng 7 dương lịch). Một năm được chia làm ba mùa (mùa nước dâng, mùa ngũ cốc,
mùa Thu hoạch), mỗi mùa 4 tháng.
 Như vậy, lịch của người Ai Cập cổ đại là một loại lịch được phát minh rất sớm (vào khoảng
thiên kỷ thứ IV TCN), tương đối chính xác và thuận tiện. Tuy nhiên, lịch Ai Cập cổ đại so với
lịch mặt trời còn thiếu mất ¼ ngày, nhưng lúc bấy giờ, họ chưa biết đặt ra năm nhuận.
3. Y học
 Do tục ướp xác thịnh hành, từ rất sớm, người Ai Cập đã hiểu biết tương đối về cấu tạo của cơ
thể người, tạo điều kiện cho y học có thể phát triển sớm khá nổi tiếng với các nước láng giềng.
 Nhiều thành tựu của nền y học Ai Cập cổ đại được ghi trên giấy papyrus và truyền đạt lại đến
ngày nay. Các tài liệu ấy đề cập đến các vấn đề như nguyên nhân của bệnh tật, mô tả về óc, quan
hệ giữa tim và mạch máu, các loại bệnh, cách khám bệnh, khả năng chữa trị… Về nguyên nhân
chủ yếu của bệnh tật, người Ai Cập lúc bấy giờ đã nhận thức được rằng đó không phải do ma quỷ
hoặc do các mụ phù thủy gây nên mà là do sự không bình thường của mạch máu. Tuy người Ai
Cập chưa biết nhiều về sự tuần hoàn của máu nhưng họ cũng đã nhận biết sự liên quan giữa tim
và mạch máu. Nhận thức được óc và tim là 2 bộ phận quan trọng của cơ thể con người.
 Các tài liệu để lại còn mô tả nhiều loại bệnh như bệnh đường ruột và dạ dày, bệnh đường hô
hấp, bệnh ngoài da… Các tài liệu cũng ghi lại nhiều bài thuốc và phương pháp chữa trị. Ví dụ, để
chữa bệnh đường ruột, người ta dùng phương pháp rửa ruột hay cho nôn mửa. Các thầy thuốc Ai
Cập còn biết dùng phẫu thuật để chữa một số bệnh.

Trang
12
 Việc chữa bệnh đã được chuyên môn hóa khá tỉ mỉ. Hêrôđốt cho biết rằng khi ông đến Ai
Cập du lịch thì thấy rằng: “Ở chỗ họ, y học chia thành nhiều chuyên môn, mỗi thầy thuốc chữa trị
một loại bệnh chứ không phải chữa rất nhiều bệnh. Khắp nơi đều có rất nhiều thầy thuốc…”.
 Có thể nói người Ai Cập xứng đáng là những cư dân đầu tiên trên thế giới có ý thức chăm
sóc răng miệng. Do sống ở sa mạc nên thành phần thức ăn hằng ngày của họ chứa tương đối
nhiều cát. Loại cát này có tính mài mòn cao, khiến tuổi thọ men răng người Ai Cập rất thấp, họ
thường xuyên gặp những vấn đề răng miệng, thậm chí nguy hiểm đến mức tử vong. Vì vậy, để
bảo vệ răng miệng, người Ai Cập đã sáng chế ra hỗn hợp kem đánh răng đầu tiên trên thế giới
gồm bột móng bò, tro, vỏ trứng bị đốt cháy và đá bọt. Không chỉ phát minh ra kem đánh răng, họ
còn tạo ra kẹo làm thơm miệng mà ngày nay phần lớn chúng ta đều sử dụng.
 Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lý học, hóa học… cũng có những hiểu biết đáng kể.
Không thể tưởng tượng được rằng trong việc thiết kế và xây dựng các Kim Tự Tháp mà cho đến
nay vẫn rất vững bền lại thiếu những kiến thức về vật lý học nhất là về lực học.
Có thể nói rằng văn minh Ai Cập là một trong những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất của
thế giới cổ đại. Bên cạnh thành tựu về khoa học tự nhiên, người dân Ai Cập còn có những thành
tựu vô cùng to lớn trên các lĩnh vực khác của đời sống như: chữ viết, văn hoá, tôn giáo, kiến trúc,
điêu khắc… mà ngày nay nhân loại không thể phủ nhận được. Cho đến nay, những thành tựu ấy
vẫn làm cho chúng ta thán phục và ngạc nhiên trước sức sáng tạo kì diệu của Ai Cập thời cổ đại.

CÂU 5. THÀNH TỰU KHOA HỌC TỰ NHIÊN CỦA HY LẠP CỔ ĐẠI


Nền kinh tế phát triển cao, đời sống vật chất của giai cấp thống trị Hy Lạp được nâng cao, do đó
thúc đẩy nhu cầu nâng cao cả về đời sống tinh thần. Hy Lạp được coi là quê hương của nhiều lĩnh
vực khoa học khác nhau của khoa học tự nhiên (Thiên văn học, địa lí, toán học, vật lí, sinh vật, y
dược). Là nơi sản sinh ra những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác, với những thành tựu
đáng giá đóng góp cho kho tàng khoa học tự nhiên của lịch sử nhân loại.
1. Thiên văn và địa lý
- Thales.
+ Ông được mệnh danh là “nhà toán học, nhà thiên văn học đầu tiên”, là người đã khai sinh ra
nền thiên văn học Hy Lạp cổ đại và là người hình thành trường phái khoa học Mile.
+ Ông đã học tập và kế thừa những thành tựu thiên văn học của Lưỡng Hà.
+ Là người dự báo chính xác về hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực. Năm 585 TCN, ông tuyên
bố với mọi người rằng ngày 28-5-558 sẽ có nhật thực. Quả nhiên như vậy.
+ Tuy nhiên ông đã nhận thức sai về Trái Đất vì ông cho rằng Trái Đất nổi trên nước, vòm trời
hình bán cầu úp trên mặt đất.

Trang
13
- Pithagore.
+ Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Ông tiến bộ hơn
Thales vì ông đã nhận thức được Trái đất hình cầu và chuyển động theo 1 quỹ đạo nhất định.
+ Là người đầu tiên dùng danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ.
- Aristarque.
+ Ông là người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời. Ông đã tính toán khá chính xác khối
lượng của Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất và khoảng cách giữa các thiên thể.
+ Ông khẳng định “Không phải mặt trời xoay quanh Trái đất mà chính Trái đất xoay quanh Mặt
trời và mỗi ngày tự quay quanh nó một vòng”.
- Ératosthène.
+ Ông là người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái đất là 23’27.
+ Ông cũng là người đầu tiên tính toán khá chính xác chu vi của Trái đất bằng cách đo độ dài của
đường xích đạo là 39.700 km, gần bằng con số ngày nay tính được.
- Hecataus: Sống cùng thời với Thales, là người đầu tiên vẽ được bản đồ thế giới, đây là bản
đồ địa lý sớm nhất trong lịch sử địa lý học phương Tây.
2. Toán học
- Thales:
+ Là người đầu tiên phát biểu định lý tỷ lệ thức (định lý Thales). Ông chứng minh được 2 góc
đáy của tam giác cân bằng nhau, xác định tam giác bởi 1 cạnh và 2 góc kề bù hoặc tính khoảng
cách của 1 vật mà không đến gần được.
+ Ông là người đầu tiên tính được chiều cao của Kim tự tháp.
- Pithagore.
+ Ông nêu các định lý được chứng minh bằng suy luận logic chứ không phải bằng trực giác.
+ Ông có đóng góp về bảng tính nhân, thập phân và công thức nổi tiếng về tam giác vuông. Ông
còn phân biệt các loại số chẵn, số lẻ và số không chia hết.
- Euclide: Với tác phẩm nổi tiếng nhất là bộ “Cơ bản” gồm 13 cuốn được giữ lại đến ngày
nay. Hệ thống định đề của ông làm nền tảng xây dựng môn hình học phẳng hay còn gọi là hình
học Euclide.
- Archimede.
+ Toán học: tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và sớm nhất trong lịch sử phương Tây. Ông
đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón, hình cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện tích toàn
phần và thể tích hình cầu nội tiếp trong hình trụ.
+ Vật lý: ông là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng nó vào việc giải phóng sức
lao động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, chân vịt (dùng để hút nước); phát minh ra

Trang
14
nguyên lý đòn bẩy và nguyên lý về thủy lực, định luật về vật nổi; phát minh ra ròng rọc, đòn bẩy,
máy bơm nước, máy bắn đá, bánh xe răng cưa, đường xoáy trôn ốc, nguyên lý hội tụ ánh sáng
của gương cầu lồi,…
3. Y học
- Hippocrate.
+ Là người đầu tiên đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển của y học phương Tây và được tôn vinh
là ông tổ của ngành y học phương Tây.
+ Ông đã phát biểu những luận điểm quan trọng như: nguyên nhân của bệnh tật xuất phát từ giới
tự nhiên, khi đau thì người ta phải uống thuốc và hết sức lưu ý đến vấn đề vệ sinh ăn uống, khi
cần thiết thì phải dùng đến thuật mổ xẻ để trị bệnh.
+ Ông là người đầu tiên ở Châu Âu phát biểu về vấn đề y đức “Nghề thầy thuốc là một nghề hết
sức quan trọng, hết sức đặc biệt vì nó liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người. Do đó,
không được dùng nghề nghiệp chuyên môn của mình để trục lợi”.
- Heraclide.
+ Ông là người đầu tiên nêu lên vấn đề dùng thuốc mê trong phẫu thuật.
+ Ý tưởng này của ông mãi đến năm 1840 người ta mới dùng ete để gây mê và năm 1861 thì
dùng morphine để giảm đau.
- Hêrôphin
+ Là người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động của
con người.
+ Ông cũng là người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp khám
bệnh thông qua việc bắt mạch (nhanh, chậm) của bệnh nhân.
Có thể nói, nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra một đội ngũ các nhà bác học kiệt
xuất, cống hiến cho nhân loại những tài sản khoa học vô giá mà giá trị của nó vẫn trường tồn
trong xã hội hiện đại.

Trang
15

You might also like