Professional Documents
Culture Documents
*So sánh với nhà thơ Thanh Hải khi viết “Mùa xuân nho nhỏ”.
- Điểm chung: cả hai bài thơ đều được các nhà thơ viết khi đang nằm trên giường
bệnh, đều thể hiện tình yêu, niềm thiết tha hướng về cuộc sống.
- Điểm khác:
+ Nhà thơ Thanh Hải được sống giữa mọi người để cảm nhận trực tiếp, cụ thể về
những vẻ đẹp cuộc sống.
+ Nhà thơ HMT sống cách li với mọi người nên chỉ có thể ngóng vọng hướng về phía
cuộc đời bằng một tình yêu tuyệt vọng.
2. Khổ 2:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
a. Hai câu thơ đầu: mở ra với một bức tranh phong cảnh có đủ cả gió, mây, sông
nước.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
a1. Câu thơ đầu: “Gió theo lối gió, mây đường mây” đưa lại một cảm giác buồn bã
và hiu hắt trong cả hình ảnh và giọng điệu. Thông thường “gió” và “mây” có sự gắn
kết bởi gió thổi, mây bay – sự vận động cùng chiều, cùng hướng, sóng đôi. Nhưng
trong cách nhìn của HMT nó lại trở nên rất lạ lùng vì nó vận động ngược chiều, chia
lìa, xa cách: gió một đường, mây một nẻo. Nhịp ngắt 4/3 với những chữ “gió”, “mây”
riêng rẽ ở từng vế câu đã tạo ra cảm giác có một sự ngăn cách, chia lìa thật quyết liệt.
Từ sự phi lí về hiện tượng tự nhiên HMT thể hiện sự hợp lí của tâm trạng con người.
Cảnh thiên nhiên, vì thế, trở thành tâm cảnh, hình ảnh thiên nhiên là sự phản chiếu
cảu tâm trạng. Đặt trong mối quan hệ với nhà thơ, ta thấy, chính mặc cảm chia lìa, xa
cách khiến HMT nhìn thấy sự chia lìa trong những mối quan hệ vốn là gắn bó. Nói
cách khác, thiên nhiên là những hình ảnh được nhà thơ nhắc đến để gửi gắm tâm
trạng trong cảnh ngộ của bản thân.
a2. Câu thơ thứ hai gợi ra một không gian bờ bãi sông nước: “Dòng nước buồn thiu,
hoa bắp lay”
- Phép nhân hóa trong hình ảnh “dòng nước buồn thiu” và cách tác giả dùng từ “dòng
nước” chứ không phải “dòng sông” gợi lên một dòng chảy phẳng lặng như không trôi
chảy. Vì dòng sông gợi cảm nhận về một sinh thể có sự sống, có vận động. Còn dòng
nước chỉ là sự tồn tại hững hờ - cũng có thể là dấu hiệu của sụ sống mờ nhạt.
- Từ “buồn thiu” là nỗi buồn tiêu hao sự sống, nó khiến cá thể trở nên lặng lẽ. Chữ
“buồn thiu” khi đặt cạnh hình ảnh dòng nước gợi hình dung về một dòng chảy lững
lờ, chầm chậm, và gợi liên tưởng tới một dòng tâm trạng trĩu nặng trong tâm hồn con
người.
- Động từ “lay” cho thấy gió thật nhẹ, thật buồn trong cái lay động khẽ khàng của hoa
bắp. Lấy động tả tĩnh là thủ pháp quan thuộc trong thơ ca xưa. Ở đây HMT đã sử
dụng hiệu quả khi chỉ miêu tả chút lay động hoa bắp mà làm nổi bật cái buồn bã, tĩnh
lặng, hiu hắt của thiên nhiên xứ Huế.
-> Trong hai câu thơ có nhiều những vận động được gợi ra: vận động của gió, mây,
dòng nước, hoa bắp nhưng tất cả những vận động ấy không đem đến cảm nhận về
một thế giới sống động mà ngược lại, đem đến cảm nhận về một thế giới lặng lẽ với
những tồn tại mơ hồ. Bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm cảnh. Thiên
nhiên trở thành phương tiện để bộc lộ cõi lòng u ám, buồn bã.
b. Hai câu thơ sau gợi ra một thế giới đầy mờ ảo với dòng sông trăng, bến trăng và
con thuyền chở đầy ánh trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
- Hình ảnh thuyền xưa nay vẫn là hình ảnh tượng trưng cho mối liên hệ, có thể là mối
liên hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa vùng không gian này với vùng không
gian khác.
- “thuyền ai” vừa gợi ra con thuyền của ai đó, mơ hồ không xác định, không thuộc về
mình lại vừa biểu hiện một nỗi băn khoăn về mối liên hệ mà con thuyền ấy tạo ra.
- Hình ảnh con thuyền đậu bến sông trăng, nhìn bề ngoài là hình ảnh đầy thi vị.
Nhưng trong cấu trúc thời gian mà HMT xây dựng ở bài thơ này, hình ảnh con
thuyền chở trăng ấy cũng tương tự như hình ảnh thôn Vĩ, là hiện thân của một vẻ đẹp
thuộc về cuộc đời nhưng nằm ngoài tầm tay với của tác giả.
- Con thuyền chở trăng là chở ánh sáng, cũng là chở theo một niềm hi vọng để xoa
dịu nỗi buồn đau của một con người đang phải sống tách biệt với cuộc đời.
+ Câu thơ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” với cách diễn đạt phiếm chỉ gợi cảm
nhận về hoàn cảnh của nhà thơ: dường như đang bị vây bọc trong một thế giới cô đơn
và hỏi vọng ra bên ngoài. Câu hỏi da diết bởi khát khao và đau đớn đến vô vọng.
LH tâm trạng Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích: “Thuyền ai thấp thoáng
cánh buồm xa xa” (Truyền Kiều).
Giống: cô đơn, trông chờ một niềm hi vọng
Khác: hoàn cảnh cụ thể: bệnh tật, bị giam lỏng
+ Câu thơ sau “Có chở trăng về kịp tối nay?”là một câu hỏi không thuần nhất bởi
chất chứa nhiều cảm xúc phức tạp:
++ “có chở trăng” là biểu hiện của một niềm hi vọng phấp phỏng
++ “có chở trăng về” là một nỗi ngóng trông da diết
++ “có chở trăng về kịp” thể hiện một tâm trạng khắc khoải, âu lo vì sợ muộn
màng.
++ “có chở trăng về kịp tối nay?” – tối nay là một thời điểm, thời gian xác
định, cụ thể, cũng là giới hạn cuối cùng của thời gian, mà vượt qua giới hạn ấy, con
thuyền dù có mặt cũng không có ý nghĩa gì nữa.
++ Bên cạnh thời điểm “tối nay”, từ “kịp” còn chứa đựng cả một tâm trạng bi
kịch của nhà thơ. Trạng thái của con thuyền: “đậu” – dừng lại, nếu là con thuyền “từ
bến sông trăng” tức là con thuyền đang bắt đầu cuộc hành trình của nó thì hi vọng
đến kịp còn có khả năng trở thành hiện thực nhưng ở đây lại là con thuyền “đậu bến
sông trăng”, con thuyền chưa bắt đầu cuộc hành trình. Đặt chữ “đậu” cạnh chữ “kịp”
câu thơ mang một âm hưởng ngậm ngùi bởi khi hi vọng được khơi lên thì cùng theo
đó là nỗi ngậm ngùi, thất vọng.
-> Khổ thơ cho thấy thế giới thực trong hiện tại của nhà thơ với những chia lìa,
xa cách. Bên cạnh đó là niềm khao khát tuyệt vọng được trở về cuộc đời mà nhà thơ
nhớ và yêu da diết.
=> Bức tranh tâm cảnh trong thế giới thực tại của nhà thơ.
3. Khổ 3:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
- Khổ 1: ánh nắng ấm áp trong quá khứ, khổ 2: ánh trăng mộng ảo cùng những tiếc
nuối khát khao, khổ 3: là một cõi xa xăm, mờ nhòa sương khói.
- Câu thơ đầu: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”
+ “mơ” có thể hiểu theo hai cách: niềm ước mơ cháy bỏng của thi nhân muốn được
cảm nhận và gần gũi với hình bóng con người; giấc mộng, trong đó hình bóng con
người xa dần. Dù hiểu theo cách nào thì đối thể của nó cũng chỉ là một ảo ảnh.
+ Điệp ngữ “khách đường xa” nhấn mạnh đến hình ảnh “khách” đang mờ dần, xa
dần.
LH với câu thơ của Nguyễn Bính: “Anh đi đó, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh
buồm nâu, cánh buồm”. Cách điệp ngữ tạo ấn tượng về cánh buồm xa dần, khuất dần
theo tầm mắt.
+ Trong quan hệ với câu thơ sau, có thể hiểu “khách đường xa” là để chỉ “em” người
trong giấc mộng. Nếu dùng từ “em” câu thơ sẽ đem đến một cảm giác thân thiết, một
sự gần gũi thì cách dùng cụm từ “khách đường xa” mang tính trang trọng nhưng xa
cách. Chính vì vậy mà hình bóng con người ở ngoài tầm tay với.
-> Câu thơ gợi ra niềm ngóng đợi, nuối tiếc của nhà thơ.
- Nếu câu thơ thứ nhất gợi ra một ảo ảnh thì câu thơ thứ 2 lại gợi ra một ảo giác: “Áo
em trắng quá, nhìn không ra”.
+ Xét theo nghĩa sự việc, câu thơ chỉ gợi ra màu áo trắng của em – khách đường xa.
Xét trên nghĩa biểu cảm, câu thơ gọi ấn tượng lạ lùng khi sắc trắng trở thành một ám
ảnh.
+ cụm từ “trắng quá” gợi ra giới hạn tột cùng của sắc trắng. Nhưng “trắng quá nhìn
không ra” thì sắc trắng đã vượt ra tầm kiểm soát của thị giác để trở thành một ảo
giác.
+ cụm từ “nhìn không ra” còn thể hiện sự bất lực của nhà thơ khi thấy cuộc đời mỗi
lúc một xa dần, thậm chí là không còn cảm nhận được nữa.
- Câu thơ thứ 3 là một sự lí giải cho việc “nhìn không ra” ở câu thơ trên: “Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh” – màu trắng hòa lẫn trong màu sương khói.
+ Cụm từ “ở đây” vốn là từ chỉ không gian xác định, nhưng trong câu thơ này lại rất
khó xác định “ở đây” là ở đâu. Cỏ thể là xứ Huế đầy sương khói, có thể là cuộc đời
này.
+ Hình ảnh “sương khói” cũng là một hình ảnh đa nghĩa. Nghĩa thực là sương khói
trong cuộc sống tạo nên độ mờ về thị giác. Nghĩa ẩn dụ là sương khói thời gian của
cuộc đời tạo nên sự mờ đậm của tình người. Từ sự mờ đậm của thị giác mà liên
tưởng tới độ mờ đậm của tình người là cách liên tưởng vừa tự nhiên lại vừa tất nhiên.
Nó cho thấy mặc cảm chia li của một con người đang phải sống cách li với cuộc
sống, rất dễ bị lãng quên. Và càng khao khát một sự giao cảm gần gũi lại càng dễ rơi
vào sự thất vọng.
- Trong mạch cảm xúc ấy, câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” bật lên như một điều
tất yếu.
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” có mặt trong cả ba khổ thơ, khi thì chỉ chủ thể, khi thì chỉ
khách thể.
+ Trong câu thơ này, từ “ai” xuất hiện hai lần, nó vừa để chỉ chủ thể, nó vừa để chỉ
khách thể. Ai có thể là anh, có thể là em, là HMT, là Hoàng Cúc, và “ai” ở đây cũng
có thể hiểu là con người trong cuộc đời này.
+ Chính sự đa nghĩa của đại từ phiếm chỉ “ai” khiến câu thơ trở nên đa nghĩa:
++ có thể là niềm tha thiết bày tỏ tình cảm sâu đậm trong lòng ai đó
++ có thể là nỗi băn khoăn về tình cảm của ai đó dành cho mình
++ có thể là niềm day dứt rằng con người trong cuộc đời này sống vói nhau
tình cảm có đậm đà hay không, hay chỉ nhạt nhẽo và hờ hững.
-> Sự hợp nghĩa ở câu thơ này đã nâng tầm vóc ý nghĩa của bài thơ, khiến nó vượt ra
khỏi phạm vi lời tâm tình riêng tư để thể hiện một khao khát rất nhân văn đó là khao
khát về tình người, tình đời trong cuộc đời.
LH với Thanh Hải khi sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ”.
III. TỔNG KẾT
1. Về nội dung:
- tình yêu say đắm của nhà thơ với cuộc đời
- nỗi bất hạnh bởi bi kịch đau đớn tuyệt vọng của ông khi phải chia lìa, cách biệt với
cuộc đời.
2. Về nghệ thuật:
- mạch liên tưởng từ quá khứ tinh khôi, trong trẻo đến hiện tại hiu hắt, buồn bã
- các hình ảnh, từ ngữ giàu sức gợi và mang ý nghĩa biểu tượng
- các biện tu từ.