You are on page 1of 19

I.

TRIẾT HỌC, HỌC PHẦN AI, II


Câu 1. Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ với thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, là cơ sở hình thành quan điểm toàn diện, chi phối sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Việc nghiên cứu những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò cực kì quan trọng trong việc nâng cao
nhận thức của mỗi người nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên nói
riêng. Từ đó có định hướng và vận dụng nguyên lý này vào thực tiễn một cách hiệu quả
nhất.
A. Khái niệm liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại một cách độc
lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có liên hệ gì với nhau và nếu
có thì đó cũng chỉ là liên hệ bên ngoài, ngẫu nhiên. Phương pháp tư duy này – theo
Ph.Ăngghen là chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật
ấy.
Chủ nghĩa duy vật Mác xít cho rằng, giữa các sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ
tác động, ảnh hưởng, chi phối, vv… lẫn nhau. Các sự vật, hiện tượng cấu thành thế giới vừa
tồn tại một cách tách biệt, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Liên hệ: là khái niệm chỉ sự phụ thuộc, sự ảnh hưởng, sự tương tác và chuyển hóa,
v.v. lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt , các yếu tố, các
thuộc tính của một sự vật, hiện tượng, quá trình.
Phổ biến: là tồn tại ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực. Những lĩnh vực này được khái quát
thành 03 lĩnh vực lớn nhất là tự nhiên, xã hội và tư duy.
Liên hệ phổ biến: là khái niệm để chỉ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự
nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng, phong phú nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác. Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Một là, mối liên hệ là khách quan và phổ biến. Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại
trong mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác và tồn tại trong vô vàn mối liên hệ. Đây
là mối liên hệ của bản thân sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Mối liên hệ phổ biến, nghĩa là mối liên hệ này tồn tại mọi lúc, mọi nơi, mọi sự vật, hiện
tượng.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Hai là, bản chất của sự vật được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ.
Bản chất của sự vật hình thành, biến đổi không chỉ do bản thân sự vật quy định mà còn phụ
thuộc vào mối liên hệ phổ biến trong đó sự vật tồn tại. Cùng là một sự vật nhưng tồn tại
trong những mối liên hệ khác nhau có những biểu hiện về bản chất khác nhau.
Bản chất của sự vật là cái bên trong, là cái mà mà con người không thể cảm nhận
được một cách trực tiếp thông qua các giác quan. Trong quá trình tồn tại và phát triển của sự
vật, tùy theo điều kiện khách quan, những mối liên hệ (tác động với những sự vật khác, môi
trường, hoàn cảnh…) mà bản chất của sự vật mới bộc lộ ra hiện tượng này, hay hiện tượng

1
khác. Con người nhận thức được bản chất của sự vật thông qua những hiện tượng, thông
qua khái quát hóa, trừu tượng hóa từ những hiện tượng mà phát hiện bản chất.
Ba là, mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú: có mối liên hệ bên trong và bên ngoài;
mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên; mối liên hệ cơ bản và không cơ bản; mối liên hệ chủ
yếu và thứ yếu; mối liên hệ bản chất và không bản chất, vv….
Các mối liên hệ khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau có thể chuyển hóa
lẫn nhau. Các mối liên hệ khác nhau có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn, mối liên hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn mối liên hệ
bên ngoài không có ý nghĩa quyết định và nó phải thông qua mối liên hệ bên trong mới phát
huy tác dụng đối với sự vật, hiện tượng.
Như vậy, sự liên hệ, tác động qua lại của các sự vật hiện tượng là vô cùng, vô tận, rất
đa dạng, phong phú và phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của
mối liên hệ được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động
có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy, nhận thức và phân loại đúng đắn các
mối liên hệ trong xã hội khó khăn hơn nhiều so với trong giới tự nhiên.
Ví dụ: Con người sống trong xã hội luôn tồn tại rất nhiều mối liên hệ như liên hệ với
kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội …các mối liên hệ này luôn là khách quan, tất yếu.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật Mácxít rút ra quan điểm toàn
diện. Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng cần phải xem xét nó
trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác cũng như giữa các bộ
phận, yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó. Tức là phải đặt sự vật trong mối
liên hệ cụ thể mà xem xét và giải quyết, đồng thời, phải tính tới tổng hòa các mối quan hệ
của sự vật.
Hai là, từ tổng số mối liên hệ phải phân biệt, đánh giá được vị trí, vai trò của từng
mối liên hệ, rút ra mối liên hệ bản chất, cơ bản, tất yếu. Và từ mối liên hệ bản chất, tất yếu
phải xem xét với mối liên hệ khác.
Ba là, xem xét sự vật trong tính chỉnh thể của nó và giải quyết sự vật phải bảo đảm
tính đồng bộ, tính hệ thống. Có như vậy trong nhận thức cũng như trong tổ chức thực tiễn
chúng ta mới có thể tránh được những sai lầm.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta
không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những
mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ
các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
VD: Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh
thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
* Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Vì quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện: chỉ xem xét một
mặt, một khía cạnh của của sự vật hiện tượng rồi rút ra kết luận về bản chất của sự vật hiện
tượng đó; hoặc tuyệt đối hóa một mặt nào đó của sự vật, hiện tượng.Tránh chủ nghĩa chiết
trung, tuy cũng chú ý tới nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng lại kết hợp chúng một cách vô
2
nguyên tắc vào làm một. Tránh thuật ngụy biện tuy cũng thừa nhận sự tồn tại của các mối
liên hệ khác nhau của sự vật, nhưng lại đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò của các
mối liên hệ.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất
nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế- xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”. Hay, tinh thần “ hoàn thiện toàn diện, đồng
bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đó là sự vận
dụng hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam đặc biệt là
vận dụng nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.

II.NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN


Trong cuộc sống, mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, phát triển và tồn tại theo một
quy luật nhất định. Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về sự phát triển là một trong
hai nguyên lý quan trọng, là cơ sở hình thành quan điểm toàn diện. Phát triển là đặc trưng
phổ biến, phát triển là một tất yếu khách quan.
Có nhiều quan điểm về “phát triển”:
Quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật, hiện tượng khác nhau trong thế giới đứng
im, bất động; còn nếu giả sử có vận động, phát triển thì đó chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi
đơn thuần về lượng mà không có sự thay đổi về chất của sự vật….Đôí lập với quan điểm
siêu hình, quan điểm biện chứng duy vật xem xét sự phát triển là một quá trình tiens lên từ
thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa đén sự ra đời của cái mới
thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay tư duy, sự phát triển diễn ra không phải
lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co phức tạp, thậm chí có thể có những bước
lùi tạm thời.
Phát triển là sự vận động từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Phát
triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, vận động theo hướng tiến lên. Phát triển
không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi
chu kì sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm biện
chứng cũng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.
Ví dụ: Từ sau Đại hội lần thứ VI (1986) đến nay nước ta ngày càng phát triển. Tuy
nhiên trên bước đường phát triển đó nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy sự phát triển
không phải đi theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm
thời
Tính chất của sự phát triển:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển có ba tính chất cơ bản:
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú
Tính khách quan của sự phát triển: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
tính khách quan của sự phát triển đã phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan
điểm siêu hình về sự phát triển.
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên,
phi vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự
vật, hiện tượng.Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng

3
im”, không phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng,
kích thước…) mà không có sự biến đổi về chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng tất cả các sự vật, hiện tượng trong
hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay không, có mong
muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện
tượng.Đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện
tượng.Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Muốn đạt được bằng Trung cấp chính trị, chúng ta không phải trông chờ vào ai
hay trông chờ vào lực lượng siêu nhiên nào đó ban tặng mà ta phải đứng lên bằng chính nội
lực của mình và phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong nhận thức thì chúng ta mới đạt
được bằng cấp đó.
Tính phổ biến của sự phát triển: Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự
nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù
phản ánh hiện thực ấy.Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn
luôn duy trì một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển:Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu
hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.Sự phong phú của các dạng vật chất và
phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú của phát triển.Môi trường, không
gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng
cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Ngoài ra sự phát triên còn có tính kế thừa: Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở
chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý
của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của
cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như
vậy.Đó là quá trình phủ định biện chứng.Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất. Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
Nội dung của nguyên lý:
Một là, phát triển là khuynh hướng phổ biến. Phổ biến được hiểu là, phát triển là
khuynh hướng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong hiện thực khách
quan, tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất, sự phát triển được thể
hiện hết sức đa dạng. Phổ biến còn được hiểu như là khuynh hướng chủ đạo trong sự vận
động. Sự phát triển trong hiện thực, cũng như trong tư duy không phải theo đường thẳng mà
vận động theo đường quanh co, phức tạp, trong đó có thể có những bước lùi, những sự
chệch hướng nhất định, nhưng xu hướng tất yếu sẽ là khuynh hướng phát triển.
Hai là, phát triển là một quá trình tự thân. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày
trong bản thân của sự vật, đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong
của sự vật. Phương thức của sự phát triển là từ sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về
chất và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển là cái mới phủ định một cách biện chứng
cái cũ theo đường xoáy ốc đi lên. Như vậy, phát triển là quá trình “tự thân”, khách quan,
độc lập với ý thức con người.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút
ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
4
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển:
Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước
mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của
nó; Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt
đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem
đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó
sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn:
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước
thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta
gặp phải những sai lầm tai hại.
Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng: phải
tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó,
xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.Tuyệt đối tránh bảo
thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần khắc phục những quan niệm giản đơn,
siêu hình về sự phát triển. Khắc phục tình trạng né tránh mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn
một cách siêu hình, thiếu kiên quyết, thiếu triệt để, hoặc kế thừa nguyên xi cái cũ trong phát
triển.
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lenin. Việc nghiên cứu những nội dung của nguyên lý về sự phát triển cũng như ý nghĩa
phương pháp luận của nó có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của
mỗi người nói chung và đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, đảng viên trong bộ máy nhà
nước ta nói riêng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ để
tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì vấn đề hiểu rõ và vận dụng nguyên lý này
để lãnh đạo, quản lý nhà nước và xã hội càng trở nên quan trọng và cần thiết.

Câu 2: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
1.Phạm trù thực tiễn
a. Khái niệm thực tiễn
Heghen - Nhà triết học duy tâm khách quan người Đức cho rằng, “hoạt động có ý chí của ý
niệm”, hoạt động của tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên, xã hội, lịch sử, con
người là thực tiễn. Phoiơbắc – Nhà triết học duy vật người Đức, trước Mác khi “chỉ coi hoạt
động lí luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn chỉ được ông xem xét và
xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu mà thôi”.
Mác và Ăngghen đã đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đói
với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại phát triển của xã hội loài người. Như vậy, có thể
hiểu thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất – cảm tính, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội phục loại nhân loại tiến bộ.
b. Đặc trưng của thực tiễn
- Thực tiễn là hoạt động của con người, nó là một quan hệ chủ thể - khách thể. Bản chất của
hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể.
Trong đó, cả chủ thể và khách thể đều là những đối tượng vật chất. Ở đó, chủ thể tác động
chủ động, có mục đích vào khách thể và biến đổi khách thể cho phù hợp với yêu cầu của
5
mình, quá trình này không chỉ biến đổi khách thể mà biến đổi cả bản thân chủ thể.
- Thực tiễn là hoạt động khách quan, cảm tính, hoạt động vật chất phổ biến. Thực tiễn là
hoạt động biến đổi hiện thực.
- Thực tiễn là hoạt động căn bản, nền tảng của mọi hoạt động của con người và xã hội.
- Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử - xã hội: Tính lịch sử nghĩa là trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau thì hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên xã hội cũng khác nhau. Tính xã
hội nghĩa là hoạt động thực tiễn không phải hoạt động cá nhân đơn lẻ, tách rồi, mà phải gắn
với cộng đồng, gắn với xã hội.
c. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Theo lĩnh vực hoạt động có thể phân chia thực tiễn thành các hình thức:
+ Hoạt động Sản xuất vật chất: là hoạt động tạo ra các điều kiện cơ bản cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Đây là hình thức cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định, chi phối các
hoạt động còn lại.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hình thức cao nhất của hoạt động vật chất gồm đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho hoà bình... làm cho xã hội ngày
càng tiến bộ.
+ Thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động nhận thức. Đó là hoạt
động được diễn ra trong những điều kiện do con người đặt ra (điều kiện nhân tạo). Trong ba
hình thức này, sản xuất vật chất là hoạt động sớm nhất, quan trọng nhất, quyết định các hình
thức khác; các hình thức còn lại cũng có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
2.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Một là, Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Thực tiễn thể hiện vai trò là cơ sở,
động lực của nhận thức ở chỗ:
+ Thứ nhất, con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới,
điều này buộc con người phải tác động vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn
của mình. Sự tác động đó làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật,
mối quan hệ khác nhau giữa chúng. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Như
vậy, thực tiễn đã cung cấp “vật liệu, tài liệu” cho nhận thức, giúp cho nhận thức năm bắt
được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành
nên các học thuyết khoa học. Ví dụ, việc đo được ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lê ở
Hy Lạp cổ đại là cơ sở cho định lý toán học của Talét, Pitago hay các nhà toán học khác ra
đời.
+ Thứ hai, thực tiễn cũng là nơi rèn luyện giác quan của con người, từ đó giác quan
của con người ngày càng hoàn thiện hơn. Việc rèn luyện các giác quan là cơ sở cho chủ thể
nhận thức thế giới khách quan hiệu quả hơn, năng lực tư duy logic ngày càng được phát
triển. Ví dụ: Thông qua sản xuất, lao động cải tạo thế giới, những cơ quan cảm giác như
thính giác, thị giác hay các giác quan khác của cơ thể được rèn luyện trở nên nhạy bén hơn
với các kích thích đến từ thế giới khách quan.
+ Thứ ba, thực tiễn còn là cơ sở tạo ra công cụ, máy móc, dụng cụ, các thiết bị khác
nhằm hỗ trợ con người nhân thức hiệu quả hơn. Các phương tiện ngày càng hiện đại kéo
theo nhận thức ngày càng hiện quả và chính xác. Ví dụ: Kính hiển vi, kính thiên văn, máy
siêu âm, máy vi tính đều được sản xuất chế tạo trong hoạt động sản xuất vật chất – một hình
thức cơ bản của thực tiễn. Các thiết bị này đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà khoa học để
nghiên cứu về các hành tinh, vũ trụ, các ngành khoa học khác nhau. Nhờ những thiết bị hỗ
trợ này mà con người đã nhận thức sự vật, hiện tượng đúng đắn hơn, khái quát lý luận tốt
6
hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Thứ tư, thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Lịch
sử đã chỉ ra rằng, các phát minh khoa học cũng như nhận thức nói chung đều phát sinh từ
thực tiễn luôn phát triển của con người, được xác định bởi nhu cầu của thực tiễn sống còn
của con người. Ví dụ: Dịch bệnh Ebola xuất hiện đã đặt ra cho các nhà khoa học nhiệm vụ
nghiên cứu tìm kiếm phương thuốc chữa trị đồng thời tìm ra cách thức phòng chống dịch
bệnh lây lan hiệu quả. Nói cách khác, chính thực tiễn là người đưa ra vấn đề cho nhận thức
phải giải quyết và trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
Hai là, Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Các tri thức khoa học chỉ có giá trị khi nó
được vận dụng vào thực tiễn. Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa
hình thức, chủ nghĩa thành tích thì nhận thức sẽ mất phương hướng, thẩm chí phải trả giá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Lí luận mà không liên hệ với thực tiễn thì chỉ là lý luận
suông”. Thực tiễn đóng vai trò là mục đích của nhận thức thể hiện ở chỗ: Nhận thức bị chi
phối bởi nhu cầu vật chất, tinh thần của con người. Do vậy, mục đích cuối cùng của nhận
thức không phải là bản thân tri thức, mà là vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn để cải
tạo hiện thực khách quan, đáp ứng các nhu cầu đó. Những tri thức, kết quả của nhận thức
chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn (vào sản xuất vật chất, vào cải tạo
chính trị - xã hội, vào thực nghiệm khoa học) phục vụ con người. Nói cách khác, chính thực
tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức – kết quả của nhận thức.
Ba là, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tri thức, là tiêu chuẩn của chân lý.
Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan, đã được thực
tiển kiểm nghiệm. Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó
còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của qúa trình nhận thức.
Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức. Triết học Mác-Lênin khẳng định: Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn của
chân lý, vì “thực tiễn cao hơn nhận thức”, nó vừa có “tính hiện thực trực tiếp”, lại vừa có
“tính phổ biến”. Người ta không thể lấy nhận thức để kiểm tra nhận thức được, không thể
lấy nhận thức này làm chuẩn để kiểm tra nhận thức khác. Và cũng không thể lấy lợi ích là
tiêu chuẩn chân lý vì trong xã hội, nhất là xã hội có giai cấp đối kháng, thì lợi ích của giai
cấp là khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Cái lợi của giai cấp này, có thể là cái hại của
giai cấp khác. Vậy, chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn thực sự duy nhất của chân lý.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt
đối là ở chỗ: Thực tiễn là duy nhất làm tiêu chuẩn chân lý, ngoài nó ra không có cái nào
khác có thể làm tiêu chuẩn cho chân lý được. Còn tính tương đối là ở chỗ: Thực tiễn ngay
một lúc không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ được cái sai một cách tức thì. Bởi nhận
thức ra đời từ thực tiễn nhưng lại diễn ra ở từng người, từng thế hệ với những điều kiện chủ
quan, khách quan khác nhau nên có thể dẫn tới sai lầm. Hơn nữa bản thân thực tiễn không
đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục. Thực tiễn hôm qua khác thực tiễn hôm
nay. Nên nó không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ thành chân lý vĩnh viễn, bất biến.
Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải
7
luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó, Lê-nin
đã viết: “Quan điểm về đời sống, thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
về nhận thức”
3.Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Vì thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức, lý luận nên trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn
yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát từ thực
tiễn địa phương, ngành, đất nước; phải thấm nhuần quan điểm của Lênin: “Quan điểm về
đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận về nhận thức”
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ thực tiễn, học tập lí luận phải gắn với thực hành.
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bỏ sung hoàn thiện phát triển lí luận
cũng như chủ trương, đương lối, chính sách. Phải lấy thực tiến làm tiêu chuẩn kiểm tra sự
đúng sai của nhận thức lí luận. Qua các kỳ Đại hội Đảng, nhát là Đại hội lần thứ 13, Đảng ta
tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận, hoàn thiện
hệ thống lí luận về đương lói đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con dường đi lên CNXH ở
VN. Gắn tỏng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận và định hướng chính sách”

Câu 3: Nội dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Vận dụng quy luật này ở Việt Nam
1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này, đến ngày nay đã trải qua 5 phương thức sản
xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
xã hội. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển
hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ
sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu,
đến ngày nay trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội
chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, như Mác và
Ănghen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là phép
biện chứng cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thể hiện phương pháp nhận thức khoa học,
đối lập với phép nhận thức siêu hình. Phép biện chứng này nhìn thấy sự tác động qua lại của
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong từng gia đoạn lịch sử nhất định.
Vậy quan hệ sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất là gì? Nó có quan hệ phù hợp như thế nào?
- Phương thức sản xuất (PTSX) là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất ra của
cải vật chất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm hai
mặt cấu thành: LLSX và QHSX.
- Lực lượng sản xuất (LLSX) là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động nhằm tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
- Quan hệ sản xuất (QHSX) là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất.
QHSX là hình thức xã hội của sản xuất vật chất, nó là yếu tố ổn định tương đối. QHSX bao
gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với
nhau; quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
giữ vai trò quyết định.
2. Nội dung Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
8
lực lượng sản xuất
Qui luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một qui luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội loài người; Nội dung của quy
luật thể hiện trên 03 điểm chủ yếu sau:
Một là, biện chứng giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ khách quan, vốn có của quá trình
SXVC. Để tiến hành SXVC, con người phải thực hiện mối quan hệ “đôi”, quan hệ “kép”,
quan hệ song trùng này. Thiếu một trong hai mối quan hệ đó quá trình SXVC không thực
hiện được. Trong quá trình XD CNXH trước đây có nhiều nước, trong đó có nước ta, do
nóng vội, chủ quan duy ý chí đã sớm thiết lập một nề kinh tế thuần nhất dưới hai hình thức
sở hữu TLSX (Sở hừu nhà nước và sở hữu tập thể), nên đã để lãng phí rất nhiều năng lực
trong nước và trên thế giới.
Hai là, trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định. Điều này
thể hiện ở chỗ:
+ Khuynh hướng của SXXH là ko ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó bao giờ
cũng bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là công cụ LĐ. Trong một
PTSX, LLSX bao giờ cũng giữ vai trò QĐ. LLSX phát triển đến một mức độ nhất định sẽ
làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó.
+ LLSX là yếu tố động nhất, CM nhất, nó luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử.
LLSX là nội dung KT của QTSX, QHXH là hình thức XH của QTSX đó. Sự biến đổi trong
LLSX (nội dung) sớm hay muộn cũng kéo theo sự biến đổi trong QHSX (hình thức).
+ Sự phát triển của LLSX đến trình độ nào đó nhất định làm cho QHSX trở nên ko còn phù
hợp với trình độ của LLSX nữa. Khi đó sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX. Mâu
thuẫn này, trong XH có g/c tất yếu dẫn đến đấu tranh g/c mà đỉnh cao là CMXH, nhằm xóa
bỏ “xiềng xích trói buộc” LLSX để xác lập QHSX mới phù hợp với trình độ của LLSX.
+ Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó, QHSX là “hình thức phát triển” tất yếu của LLSX. Nghĩa là, trạng
thái mà ở đó QHSX, các yếu tố cấu thành của nó “ tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển.
Sự phù hợp ở đây “được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn”, tức là
sự phù hợp trong mâu thuẫn, bao hàm mâu thuẫn. Tiêu chí của sự phù hợp được biểu hiện
thông qua sự tác động biện chứng giưa LLSX và QHSX và được thể hiện cụ thể là năng
suất LĐ tăng, người LĐ hăng hái sx, đời sống người LĐ được nâng cao; môi trường làm
việc được cải thiện; LLSX phát triên; v.v.. Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của
QHSX đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của LLSX, tạo điều kiện tối ưu cho việc
sdụng và kết hợp giũa LĐ và tư liệu SX. Sự phù hợp biểu hiện rõ rệt ở KQ LLSX phất triển,
KT phát triển, phát huy được mọi năng lực SX và năng suất LĐ cao.
+ Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là Sự phù
hợp giũa một yếu tố động (lực lượng sản xuất luôn luôn vận động, biến đổi) với một yếu tố
mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, biến đổi chậm hơn). QHSX từ chỗ thích
ứng với sự phát triển của LLSX, nhưng do LLSX luôn biến đổi, ptriển, lại trở thãnh xiềng
xích, kìm hãm sự ptriển của LLSX (ko phù hợp). Con người phát hiện những yếu tố dẫn đến
ko phù hợp, tức là phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới
của QHSX vói LLSX. Sự vận động và ptriển của SX XH cứ tiếp diễn theo tiến trình đó.
Cho nên, Sụ phù hợp – ko phù hợp – phù hợp - … là biểu hiện khách quan của quá trình
tương tác giữa LLSX và QHSX trong mọi hình thức SX trong XH.
Giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là một quá trình, mà biện pháp thường xuyên là
9
đổ mới, cải cách, điều chỉnh QHSX. Khi mẫu thuẫn giữa LLXS và QHSXđã trở nên gawy
gắt , không thể giải quyets thông qua biện phấp cacir cách, điều chỉnh được nữa thì tất yếu
phải xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới cho phù hợp với sự Phát triển của LLSX.
Biện pháp mà ở các nước tư bản đang cố giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là cải
cách, điều chỉnh QHSX tạo ra sự thích nghi nhất định. Biện pháp đótrước mắt vẫn tạo ra
được tiềm năng để phát triển kinh tế.
Dưới CNXH, sự phù hợp và không phù hợp,…của QHSX với LLSX cũng tồn tại khách
quan bên trong của nền sản xuất vật chất như là yếu tố nội sinh của sự phát triển. Chính vì
thế, CNXH cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách
có hiệu quả, tạo ra sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, thúc đảy LLSX
phát triển, kinh tế phát triển.
Ba là, sự tác động trở lại của QHSX đối với sự ptriển của LLSX.
QHSX đc xây dựng trên cơ sở trình độ ptriển của LLSX, do LLSX QĐ. Nhưng sau khi đc
xác lập, nó có tính độc lập tương đối so với LLSX và tác động trở lại sự ptriển của LLSX.
QHSX quy định mục đích XH của nền SX, quy định hình thức tổ chức, quản lý SX, quy
định khuynh hướng phát triển của nhu cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, từ đó hình
thành hệ thống những yếu tố tác động trở lại đối với sự ptriển của LLSX.
Nếu QHSX phù hợp với trình độ ptriển của LLSX, nó sẽ tạo địa bàn thuận lợi cho sự ptriển
của LLSX, trở thành động lực thúc đẩy LLSX phát triển. Ngược lại, nếu QHSX ko phù hợp
với trình độ ptriển của LLSX thì sẽ kìm hãm, cản trở sự ptriển của LLSX.
Tác động theo chiều hướng tiêu cực của QHSX đối với sự ptriển của LLSX chỉ có ý nghĩa
tương đối. QHSX ko phù hợp với trình độ ptriển của LLSX, sớm muộn gí cuối cùng cũng
đc thay bằng một QHSX mới phù hợp với trình độ mới của LLSX. Đó là xu thế tất yếu của
sự ptriển KT mà ko một g/c nào, chủ thẻ nào có thể cưỡng lại được.
3. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam
Việc nghiên cứu nắm vững quy luật này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc vận dụng vào
điều kiện cụ thể thể ở nước ta hiện nay. Nước ta chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Do đó, xây dựng phát triển sản
xuất xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp. Chủ trương xây dựng
sớm một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất với hai hình thức sở hữu tập thể và nhà
nước trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều là
một chủ trương nóng vội, duy ý chí. Thực tế cho thấy lực lượng sản xuất bị kìm hãm không
chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không
đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trước đổi mới: Từ những lệch lạc trong nhận thức và vận dụng quy luật này ở nước ta đã
dẫn tới mắc những sai lầm trong thực tiễn, cụ thể:
+ Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi chế độ đó
đang tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi trình độ của
lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều.
- Trong đổi mới: Chủ trương chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước ta có
10
những bước phát triển vượt bậc, nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tạo đà cho
sự phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Như vậy, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản của mọi nền kinh tế. Việc nhận thức đúng và vận dụng một cách sáng tạo
quy luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.

Câu 4:Vấn đề đấu tranh giai cấp? Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
1.Định nghĩa giai cấp:
Giai cấp là gì? Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin đã nêu ra định nghĩa khoa học về
giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã họi nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoản này thì có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chõ các tâp đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh té
xã họi nhất định.”
2.Nội dung của đấu tranh giai cấp:
Trước hết chúng ta phải hiểu đấu tranh giai cấp là gì?Theo triết học Mác-Lênin, đấu tranh
giai cấp là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức và những kẻ áp bức. Cuộc đấu tranh
diễn ra lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc bằng một
cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh
với nhau. Thực chất của đấu tranh giai cấp là sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa các giai
cấp trong xã hội, do sự khác biệt về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định,
trong đó căn bản nhất là sự khác nhau về quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác về giai cấp, đấu tranh giai cấp, V.I.Lê-nin đã từng khẳng
định rằng: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ
phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống
bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công
nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Điều đó có nghĩa rằng đấu tranh giai cấp là một hiện tượng mang tính khách quan và quy
luật chung và phổ biến của xã hội có giai cấp. Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp thực chất là
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau không
thể điều hòa được.
Từ định nghĩa trên, vậy nội dung của đấu tranh giai cấp bao hàm những lĩnh vực nào? Trải
qua quá trình đầu tranh và phát triển của nhân loại, chúng ta có thể hiểu rằng, đấu tranh giai
cấp diễn ra trong tất cả các lĩnh vực sau:
Trong lĩnh vực kinh tế, đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, kìm hãm
giải phóng lực lượng sản xuất phát triên, qua đócủng cố chế độ kinh té cho giai cấp đại diện
cho lực lượng sản xuất mới.
Trong lĩnh vực chính trị, đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng
cũ, xây dựng bộ máy nhà nước mới, xác lập hệ tư tưởng chính trị mới, phù hợp lợi ích của
giai cấp mới.

11
Trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, xã họi, đấu tranh giai cấp nhằm cải tạo xã họi, văn hóa, tư
tưởng của xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần mới của xã hội theo hướng tiến bộ.
3. Vai trò đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội
Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của xã họi có đối khang giai cấp. Thông qua đấu
tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã họi, quan hệ sản xuất mới được xác lập phù hợp
với sự phát triển cuiar lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó giải phóng sức sản xuất của xã họi,
thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Cách mạng là tất yếu không những vì không thể lật đỏ
giai cấp thống trị bằng một phương thức nào khác mà còn chỉ có trong cách mạng giai cấp
đi lật đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi sự thói nát của chế độ cũ đang bám chặt
theo mình và trở thành giai cấp có năng lực xây dựng cơ sở xã họi mới.
Đấu tranh giai cấp đã góp phần cacr tạo xã họi, xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu, bảo thủ , tạo cơ sở
cho cái mới, cái tiến bộ nảy sinh và phát triển. Đấu tranh giai cấp cũng góp phần cải tạo giai
cấp cách mạng, để trở thành giai cấp có đủ năng lực lãnh đạo với toàn xã hội. Thông qua
đấu tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng , nghệ thuật, đạo đức…được phát triển
phù hợp với tiến bộ xã hội
4. Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở VN hiện nay
Trong thời kì quá độ lên CNXH, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu, nhằm duy trì nền
chuyên chính của giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta nằm trong quy luật chung của thời đại ngày nay là thời kì
quá độ từ CNTB lên CNXH. Đó là thời kì đấu tranh giữa CNXH và CNTB, giữa những lực
lượng vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội với những lực lượng phản tiến bộ, cản trở hòa
bình, độc lập dân tộc của các quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu
diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, làm chệch hướng XHCN, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân lao động.
Bối cảnh quốc tế có nhiều chuyển biến sâu sắc. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu
hiện dưới những hình thái và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc
hơn; đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức mới, mức
độ ngày càng gay gắt, các quốc gia độc lập sẽ ngày càng tăng cường đấu tranh để tự lựa
chọn và quyết định con đường phát triển của mình, chống lại sự áp đặt, can thiệp và xâm
lược của nước ngoài, bảo vệ độc lập, chủ quyền và nền văn hóa dân tộc; tình trạng bạo lực,
chiến tranh tôn giáo, sắc tộc có diễn biến phức tạp và đã có thay đổi lớn về tính chất, mức
độ. Những vấn đề trên đã tạo ra bối cảnh mới đối với cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta, đòi
hỏi chúng ta phải có những thay đổi nhất định về phương thức thực hiện đấu tranh giai cấp.
Ở VN hiện nay, đấu tranh giai cấp cũng là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta đang trong thời kì quá
độ lên CNXH mà thời kì quá độ lên CNXH là thời kì đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái
cách mạng, tiến bộ và cái bảo thủ, trì trệ… Hiện nay, vẫn còn những lực lượng đi ngược lại
lợi ích của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng.
Thực chất đấu tranh giai cấp ở VN hiện nay là cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao
động do Đảng CSVN lãnh đạo, chống lại các thế lực thù địch với CNXH, bảo vệ độc lập
dân tộc, bảo vệ chính quyền và lợi ích của nhân dân.
Văn kiện ĐH lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi CNH, HĐH theo định hướng
XHCN , khăc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển ; thực hiện công bằng XH chống
áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực,
12
sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân
hạnh phúc”.
Đấu tranh giai cấp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung vào
các lĩnh vực sau:
-Trong lĩnh vực kinh tế: Thực chất là để phát triển mạnh mẽ LLSX, phát triển mọi tiềm
năng để chuẩn bị CSVC- kinh tế để xây dựng CNXH. Hiện nay, đấu tranh giai cấp trong
lĩnh vực kinh tế nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN
khăc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển ; phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện
từng bước QHSX XHCN, chống khuynh hướng tự phát TBCN, chống việc xác lập địa vị
thống trị của QHSX TBCN ; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chống sự áp đặt, can
thiệp và chi phối của các tập đoàn kinh tế, tài chính. Thực hiện quản lí chặt chẽ sự sản xuất,
phân phối thu nhập, lưu thông tiền tệ, nộp thuế … thông qua kiểm kê, kiểm soát, kỷ luật lao
động; phát hiện kịp thời và đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong kinh tế; khắc phục
tình trạng bóc lột, bất công và những hiện tượng tiêu cực khác.
-Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động đấu tranh với
các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị,tư tưởng, tổ chức; thực hiện giành, giữ và sử dụng chính quyền như một
công cụ để cải tạo xã hội và chuyên chính với các thế lực đi phá hoại chính quyền, đi ngược
lại với lợi ích của nhân dân.
Trong lĩnh vực tư tưởng, giai cấp công nhân và đảng cộng sản vạch trần bản chất bóc lột,
tính chất phản động của tư tưởng tư sản; vạch trần những biến tướng của chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; tuyên truyền thế giới
quan khoa học, cách mạng của CNMLN; xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh; phát huy
tính tích cực cách mạng của quần chúng; nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; đấu tranh bảo vệ chủ nghia MLN, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. GCCN và toàn thể nhân dân lao động đấu tranh để thực hiện công bằng xã
hội chống áp bức bất công; thực hiện xóa bỏ sự bất bình đẳng và thực hiện công bằng xã
họi; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái; xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, phát
huy những giá trị văn hóa trong việc xây dựng nhân cách của con người VN; đấu tranh
chống lại mọi biểu hiện truyền bá lối sống phản văn hóa, phản phát triển, đi ngược lại với
thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cơ sở để thực hiện đấu tranh giai cấp ở VN là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế của toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng CSVN là nhan tố quyết định thành công cho
cuộc đấu tranh giai cấp, bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo của ĐCS VN là nhân tố quyết định thành công cho cuộc đấu tranh giai cấp, bảo
vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ CNXH. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng CSVN đã trở thành
nơi hội tụ mọi ước nguyện của nhân dân lao động nhằm giành độc lập dân tộc và XD
CNXH. Đảng nhận danh lợi ích của toàn dân tộc để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong
thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc, trở thành Đảng cầm quyền trong điều kiện đất nước
thống nhất. Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, khoa học trên nên tảng của CNMLN, tư
13
tưởng HCM, do vậy, chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới đmả bảo cho sự thắng lợi của cuocj
đấu tranh giai cấp và thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.

Câu 6: CÁCH MẠNG XÃ HỘI


1. Bản chất và nguyên nhân của cách mạng xã hội
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về
chất trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội; là phương thức chuyển từ một hình thái
kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị lỗi thời, thiết lập một
chế độ chính trị mới tiến bộ hơn.
Tiến hóa xã hội cũng là một hình thức phát triển của xã hội. Tiến hóa xã hội và cách mạng
xã hội là những hình thức khác nhau nhưng lại liên hệ mật thiết với nhau trong quá trình
phát triển xã hội. Sự phát triển xã hội là sự thống nhất giữa tiến hóa xã hội và cách mạng xã
hội.
Cách mạng xã hội cũng khác với cải cách xã hội: Cải cách xã hội chỉ tạo nên những biến đổi
riêng lẻ, bộ phận trong khuôn khổ chế độ xã hội đang tồn tại. Tuy nhiên, “sự đối lập không
phải là tuyệt đối, cái ranh giới đó không phải là cứng nhắc, đó là một ranh giới sinh động,
linh hoạt mà ta phải biết xác định theo từng trường hợp cụ thể”. Những cải cách xã hội thúc
đẩy quá trình tiến hóa, từ đó tạo tiền đề dẫn tới cải cách xã hội.
Cũng cần phân biệt cách mạng xã hội với những cuộc đảo chính. Đảo chính là thủ đoạn
giành quyền lực nhà nước của một cá nhân hoặc một nhóm người, nó không phải là phong
trào cách mạng quần chúng. Cuộc đảo chính chỉ mang ý nghĩa cách mạng khi nó hòa nhập
được với phong trào cách mạng trong xã hội.
Nguyên nhân kinh tế sâu xa của cách mạng xã hội là mẫu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất: lực lượng sản xuất phát triển tới một giai đoạn nhất định mẫu thuẫn với
quan hệ sản xuất lỗi thời, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một
cuộc cách mạng xã hội.
C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mẫu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, hay – đây chỉ là biểu hiện pháp lý của
những quan hệ sản xuất đó – mẫu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến
nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Trong xã hội có giai cấp, mẫu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biểu hiện
về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và người lao động. giai cấp thống trị
dùng nhà nước để đàn áp cuộc đấu tranh giai cấp bị bóc lột để duy trì quan hệ sản xuất đã
lỗi thời đó. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, và làm cho
nó trở thành quan hệ sản xuất thống trị, để giải phóng mình, giai cấp cách mạng phải giành
lấy chính quyền nhà nước. Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp; vấn
đề chính quyền nhà nước trở thành vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
2. Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển xã hội
Trong cách mạng xã hội, giai cấp cách mạng phải lật đổ sự thống trị chính trị của giai cấp
thống trị, giành lấy chính quyền nhà nước và sử dụng chính quyền nhà nước để xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ, lạc hậu, xây dựng quan hệ sản xuất mới thúc đẩy lực lượng sản xuất, kinh tế
phát triển, cải biến xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. không có cách mạng xã hội, không
14
thể chuyển được hình thái kinh tế - xã hội cũ lỗi thời thành một hình thái kinh tế - xã hội
mới, cao hơn, mở đường cho sự tiến bộ xã hội. Cách mạng xã hội do đó là quy luật của sự
tiến bộ xã hội.
Lịch sử loài người đã trải qua các quá trình cách mạng xã hội: từ cộng đồng người nguyên
thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ; từ chế độ chiếm hữu nô lên lên chế độ phong kiến; từ chế
độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa; từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã hội chủ
nghĩa. Lịch sử càng tiến lên thì đặc trưng và vai trò của quá trình cách mạng xã hội càng trở
nên đầy đủ và rõ rệt.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất trong lịch sử. Tất cả các
cuộc cách mạng trước chỉ thay thế chế độ tư hữu này bằng chế độ tư hữu khác, chế độ áp
bức bóc lột này bằng chế độ áp bức bóc lột khác. Cách mạng xã hội chủ nghĩa xóa bỏ mọi
hình thức áp bức, bóc lột, xóa bỏ sự phân chia giai cấp mà cơ sở của nó là chế độ tư hữu.
Theo nghĩa đó, cách mạng xã hội thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu
đó phải có những tiền đề và điều kiện cần thiết, tiến hành từng bước phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
3. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng
Điều kiện khách quan chín muồi cho cách mạng nổ ra được gọi là tính thế cách mạng. Tình
thế cách mạng là một cuộc khủng hoảng toàn quốc, lay chuyển cả giai cấp thống trị lẫn giai
cấp bị trị. Biều hiện của cuộc khủng hoảng đố là, một mặt những giai cấp bị trị không muốn
sống như cũ nữa, tính tính cực chính trị của họ được nâng cao, hoàn cảnh buộc họ phải có
một hành động chính trị độc lập; mặt khác, giai cấp thống trị không thể cai trị theo lối cũ
được nữa nên phải dùng những hình thức cực đoan gây ra sự rối loạn trong toàn xã hội.
Sự xuất hiện hay qua đi của tình thế cách mạng là khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
của giai cấp hay chính đảng nào.
Tình thế cách mạng là điều kiện phải có, nhưng chưa đủ để cách mạng nổ ra và giành được
thắng lợi. Muốn cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi còn phải có sự chín muồi của
nhân tố chủ quan. Đó là giai cấp cách mạng có khả năng phát động, lãnh đạo quần chúng
đứng lên lật đổ chế độ cũ, và tính tích cực cách mạng của quần chúng được nâng lên đến
một mức độ nhất định. Mặt khác, nhân tố chủ quan cũng có vai trò quan trọng trong sự hình
thành và phát triển chín muồi của tình thế cách mạng.
4.Tính tất yếu của cách mạng xã hội trong điều kiện thế giới ngày nay
Triết học Mác – Lê nin đã luận chứng một cách khoa học tính tất yếu của cahs mạng trong
sự phát triển của lịch sử xã hội. Những điều kiện khách quan và chủ quan của cách mạng,
đương nhiên không thể không thay đổi trong những thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng không
loại trừ tính quy luật chung đó của sự phát triển xã hội và tiến lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu
thế tất yếu khách quan của xã hội.
Chủ nghĩa xã hội từ lý tưởng đã trở thành hiện thực. Chủ nghĩa xã hội hiện thực mặc dù còn
đang trong quá trình xây dựng, lại có những “biến dạng” nhất định do những sai lầm chủ
quan, những vẫn thể hiện được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Những thành quả do cách
mạng xã hội chủ nghĩa đưa lại là rất vĩ đại và ảnh hưởng tích cực của nó đối với tiến trình
lịch sử của nhân loại là không thể phủ nhận được. Công cuộc đổi mới đã và đang đưa lại
cho chủ nghĩa xã hội sức sống mới để vượt qua thử thách, tiếp tục tồn tại và phát triển.
Những biến đổi của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn phát triển cao hiện nay không chứng tỏ
mâu thuẫn vốn có của nó đã bị thủ tiêu. Nó chỉ làm cho các mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa
tư bản phát triển “dưới hình thức mới”, như C.Mác đã chỉ rõ. Không những thế, mẫu thuẫn
15
giữa tư sản và vô sản trong phạm vi quốc gia trước đây đã mở rộng thành mâu thuẫn tư bản
và lao động trên phạm vi toàn thế giới.
Những vấn đề toàn cầu cũng không thể giải quyết được khi mà sự chênh lệch về mức sống
giữa số ít người giàu với số đông người nghèo khó, giữa nước giàu với nước nghèo vẫn
ngày càng tăng lên; không chỉ một bộ phận dân cư trên hành tinh mà cả những quốc gia –
dân tộc đông đảo kém phát triển về kinh tế đang đứng trước nguy cơ bị gạt ra ngoài lề quá
trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
Như vậy, con đường đi tới mục tiêu công bằng xã hội, phát triển con người không thể không
trải qua cách mạng xã hội. Vấn đề chỉ là quá trình cách mạng xã hội đã thực hiện với hình
thức và phướng pháp thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia – dân tộc mà
thôi.

CÂU 6: TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TỒN TẠI
XÃ HỘI. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
a) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội
* Khái niệm về ý thức xã hội và tồn tại xã hội
Ý thức xã hội: là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, truyền thống, …
về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, thẩm mỹ, tôn giáo và khoa học của một công
đồng người, phản ánh tồn tại xã hội của họ.
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Những điều kiện đó là hoàn cảnh địa lý, dân số và phương thức sản xuất vật chất của xã hội,
trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội qua những giai đoạn lịch sử nhất định nhưng ý thức xã
hội không phụ thuộc vào tồn tại xã hội 1 cách thụ động mà nó có tác động tích cực trở lại
tồn tại xã hội. Do đó ý thức xã hội mang tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội, thể
hiện qua một số nội dung sau :
* Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội là cái được phản ánh bởi ý
thức xã hội, do vậy, ý thức xã hội với tư cách là cái phản ảnh bao giờ cũng biến đổi chậm
hơn so với tồn tại xã hội – cái được phản ánh. Sự lạc hậu này có nhiều nguyên nhân khác
nhau :
- Do sức ì của tâm lý xã hội nhất là thói quen, phong tục, tập quán truyền thống, khi tâm lý
xã hội đã hình thành thói quen, tập quán… thì nó bám rễ tương đối bền vững ở mỗi người,
mỗi nhóm công đồng, tầng lớp xã hội.
- Trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ, chẳng hạn như ý thức tôn giáo phản ánh cái
không đúng và không kịp sự vận động, biến đổi của tồn tại xã hội.
- Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn gắn liền với lợi ích của những nhóm xã hội,
tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau.
Qua đó ta có thể thấy được những tư tưởng cũ kỹ, lạc hậu không thể tự mất đi mà phải
thông qua cuộc đấu tranh, cải tạo. Phải xây dựng cơ sở lý luận khoa học dựa trên cơ sở tổng
kết thực tiễn đảm bảo phản ánh kịp thời những thay đổi của cuộc sống đồng thời tạo dựng
cơ sở để hình thành ý thức xã hội mới, tiến độ hơn.
* Ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội

16
Ý thức xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của tồn tại xã hội thì nó có
thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội. Sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
được coi là sáng tạo khi nó phản ánh đúng được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang
tính quy luật của tồn tại xã hội.
Ngược lại nếu ý thức xã hội không phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động
phát triển tồn tại xã hội và bị chi phối bởi mong muốn chủ quan thì khi đó sự phản ánh vượt
trước của ý thức xã hội là không có cơ sở rơi vào ảo tưởng tác động xấu đến tồn tại xã hội.
Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng vượt trước tồn tại xã hội là do ý thức xã hội có tính tồn tại
độc lập tương đối so với tồn tại xã hội nó có khả năng phát huy tính sáng tạo trong phản ánh
tồn tại xã hội chính vì vậy ý thức xã hội không chỉ phản ánh cái đã có mà vạch ra cái sẽ có
trong tương lai. Dù phản ánh vượt trước nhưng ý thức xã hội vẫn bị quy định bởi tồn tại xã
hội.
Do đó, muốn có được những ý thức xã hội mới – ý thức xã hội XHCN chúng ta phải phát
huy cao tính năng động sáng tạo của nó và vai trò của con người trong nhận thức và cải tạo
thế giới đồng thời khắc phục tính bảo thủ, thụ động ỷ lại trong cuộc sống.
* Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy, ý thức xã hội của
mỗi thời đại không chỉ phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó mà còn kế thừa những tiền đề
ý thức xã hội thời đại trước. Ý thức xã hội luôn có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Trong xã hội có giai cấp, sự kế thừa của ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp. Bởi lẽ, sự kế
thừa của ý thức xã hội được thực hiện bởi chủ thể mang ý thức xã hội. Cũng vì vậy, những
giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những nội dung khác nhau của ý thức xã hội thời đại trước.
Các giai cấp tiến bộ thường tiếp thu những di sản tiến bộ của thời đại trước, các giai cấp bảo
thủ, phản tiến bộ thường tiếp thu, khôi phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, phản tiến bộ
của những thời đại trước.
Do đó, ý thức xã hội muốn phát triển, phải chủ động lựa chọn kế thừa những tinh hoa văn
hóa của dân tộc và nhân loại để xây dựng xã hội mới cần gìn giữ và nâng cao các giá trị
truyền thống quý báu như yêu nước, nhân ái đoàn kết… của dân tộc. Đồng thời phải đấu
tranh chống quan điểm phủ định sạch trơn đối với quá khứ cũng như thái độ bảo thủ bê
nguyên si những yếu tố tinh thần của các thời kỳ trước trong kế thừa di sản văn hóa.
* Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
- Các hình thái ý thức xã hội tác động lẫn nhau trong sự phát triển của chúng. Sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội vừa là biểu hiện của tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội vừa là quy luật phát triển của ý thức xã hội.
- Các hình thái ý thức xã hội bổ sung cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thâm nhập vào nhau
và cùng tác động đến tồn tại xã hội, chẳng hạn như triết học ảnh hưởng đến hệ tư tưởng
pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật… về mặt thế giới quan; khoa học ảnh hưởng đến triết học,
ý thức chính trị, pháp quyền..
- Do điều kiện lịch sử cụ thể mà trong mỗi giai đoạn lịch sử hình thái ý thức xã hội nào đó
nổi trội và đóng vai trò chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Trong xã hội có giai cấp
hình thái ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất nó giữ vị trí định hướng chi phối đối với
các hình thái ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
* Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội không chỉ chịu sự phân phối quy định của tồn tại xã hội mà nó còn tác động
trở lại đối với tồn tại xã hội đây là 1 biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý
17
thức xã hội, sự tác động này phải thông qua hoạt động của con người và diễn ra theo 2
khuynh hướng khác nhau.
- Tác động tích cực: Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của tồn
tại xã hội thì thông qua hoạt động thực tiễn của con người nó có thể tác động tích cực đến
sự tồn tại của xã hội thúc đẩy xã hội phát triển.
- Tác động tiêu cực: Nếu ý thức xã hội lạc hậu phản ánh không đúng quy luật khách quan
của sự vận động, tồn tại và phát triển của xã hội, hoặc ý thức xã hội phản tiến bộ nhất là ý
thức chính trị hoặc ý thức xã hội phản ánh vượt trước tồn tại xã hội nhưng vượt trước ảo
tưởng, duy ý chí… sẽ tác động tiêu cực đến sự phát triển của tồn tại xã hội.
- Mức độ tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: Tính tiến bộ cách mạng hay lạc hậu phản động của chủ thể mang ý
thức xã hội, tính khoa học hay không khoa học của ý thức xã hội, mức độ xâm nhập của ý
thức xã hội vào quần chúng nhân dân, mức độ truyền bá mở rộng của tư tưởng đó trong
quần chúng.
b) Ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
Nội dung về ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội là
cơ sở phương pháp luận để xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay.
Ý thức xã hội mới Việt Nam thuộc mặt tinh thần của đời sống xã hội, là toàn bộ những tư
tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp… của công đồng dân tộc Việt
Nam mà hạt nhân là tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân
dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ xã hội mới.
Ý thức xã hội mới Việt Nam là ý thức xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt nguồn
từ ý thức cách mạng của giai cấp vô sản, là sự kế tục tư tưởng xã hội cao đẹp về bình đẳng
xã hội trong lịch sử tư tưởng nhân loại, là sự vận dụng kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn tại Việt Nam.
Ý thức xã hội mới Việt Nam là ý thức cách mạng của giai cấp vô sản, hình thành và phát
triển trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng xã hội mới vì sự phát triển của dân
tộc. Nó kế thừa những giá trị tốt đẹp từ truyền thống của dân tộc Việt Nam; đồng thời cũng
là sự kế tục tư tưởng xã hội cao đẹp trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Vì vậy ý thức xã
hội mới Việt Nam hiện nay mang tích khoa học, tiên tiến, các mạng và dân tộc. Ý thức xã
hội mới góp phần định hướng tư tưởng, văn hóa xã hội, xây dựng lòng tự tôn dân tộc, ý chí
tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam, của cong người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng ý thức xã hội mới cần thực hiện đúng các nguyên tắc phương pháp luận của ý
thức xã hội, đồng thời phải coi trọng việc phát triển kinh tế, cải tạo các quan hệ xã hội cũng
như kế thừa giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.

18
19

You might also like