You are on page 1of 81

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

TS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG LOAN

SINH LÝ HỌC TRẺ EM


Mã số: BB1

Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm


cho người có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp
có nguyện vọng trở thành giáo viên tiểu học

Bình Định, 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

SINH LÝ HỌC TRẺ EM


Mã số: BB1

Người biên soạn: TS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG LOAN

Bình Định, 2021


MỤC LỤC

Chương 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CƠ THỂ NGƯỜI .............................................1


Chương 2. HỆ THẦN KINH VÀ CÁC CƠ QUAN PHÂN TÍCH Ở TRẺ ...................9
Chương 3. HỆ VẬN ĐỘNG ............................................................................................ 25
Chương 4. HỆ TUẦN HOÀN – MÁU ............................................................................31
Chương 5. HỆ HÔ HẤP ..................................................................................................39
Chương 6. HỆ TIÊU HÓA .............................................................................................. 46
Chương 7. HỆ BÀI TIẾT ................................................................................................ 53
Chương 8. SỰ TRAO ĐỔI CHẤT – NĂNG LƯỢNG ..................................................58
VÀ ĐIỀU HÒA THÂN NHIỆT ......................................................................................58
Chương 9. HỆ NỘI TIẾT ................................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 77
MỞ ĐẦU

Sinh lý học trẻ em là môn học bắt buộc của ngành đào tạo Giáo dục tiểu học, Giáo
dục mầm non, Sinh học ở các trường Đại học, Cao đẳng và Dạy nghề. Để phục vụ cho
công tác đào tạo các ngành học nói trên ở Trường Đại học Quy nhơn, chúng tôi biên soạn
tài liệu này nhằm cung cấp cho người học những thông tin mới nhất liên quan đến môn
học.
Nội dung của giáo trình trình bày các kiến thức về cấu tạo và chức năng của các hệ
cơ quan trong cơ thể người nói chung và trẻ em nói riêng, giúp người học hiểu biết hơn
về cơ thể trẻ từ đó có các biện pháp giáo dục, chăm sóc trẻ toàn diện.
Giáo trình Giải phẫu - Sinh lý trẻ em bao gồm lời mở đầu và 9 chương. Các chương
trình bày cấu tạo và chức năng cũng như với các nguyên tắc hoạt động cơ bản của các cơ
quan bộ phận trong cơ thể người nói chung và trẻ em nói riêng. Cuối mỗi chương có phần
câu hỏi và bài tập.
Chương 1 trình bày những khái niệm cơ bản và tầm quan trọng của môn học đối
với giáo viên tiểu học. Đồng thời cung cấp cho người học các kiến thức chung về các
quy luật và các giai đoạn sinh trưởng, phát triển ở trẻ em. Chương 2 trình bày cấu tạo và
chức năng của hệ thần kinh và hoạt động của hệ thần kinh cấp cao ở trẻ. Cấu tạo, chức
năng và cơ chế hoạt động của các cơ quan phân tích ở người. Chương 3 mô tả về hệ vận
động, giúp trẻ có những hiểu biết về vệ sinh và phòng các bệnh về vận động. Chương 4
trình bày về hệ tuần hoàn và máu. Chương 5 đề cập tới vấn đề hô hấp và các phương thức
trao đổi khí là điều kiện không thể thiếu được đối với sự tồn tại của cơ thể. Chương 6 cho
thấy thông qua hệ tiêu hóa, các chất dinh dưỡng được hấp thu và vận chuyển đến từng tế
bào và cũng như quá trình đào thải các chất cặn bả qua quá trình tiêu hóa, đặc biệt trình
bày các đặc điểm tiêu hóa ở trẻ em. Chương 7 là quá trình bài tiết các sản phẩm của sự
trao đổi chất. Chương 8 mô tả đặc trưng cơ bản của sự sống là quá trình trao đổi chất và
năng lượng. Chương 9 mô tả các tuyến nội tiết, vai trò của các hoocmon và cơ chế điều
hòa hoạt động nội tiết trong cơ thể.
Để đảm bảo thời lượng quy định nên tài liệu chỉ cập nhật một sô hình ảnh cơ bản
minh họa và khó tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của tất cả các bạn
đọc để lần tái bản sau hoàn thiện hơn.

Chủ biên

TS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG LOAN


Chương 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CƠ THỂ NGƯỜI
(2 tiết LT + 4 tiết TH)
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Giải phẫu người
- Là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu về cấu tạo, hình dạng và các quy luật phát
triển của cơ thể người cũng như các cơ quan trong cơ thể.
- Nghiên cứu mối tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể, thấy được sự thống nhất
giữa cơ thể và môi trường sống. Từ đó có những biện pháp tác động theo hướng có lợi
cho sự phát triển của cơ thể.
1.1.2. Sinh lý người
- Là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu hoạt động, chức năng của các cơ quan, hệ
cơ quan và toàn bộ cơ thể trong mối quan hệ khăn khít với môi trường.
- Nghiên cứu những quy luật điều khiển sự sống. Trên cơ sở đó loại trừ những cái ngược
quy luật, không phù hợp bằng cách thay đổi, sửa chữa cho phù hợp hoặc tác động theo
hướng có lợi cho nhu cầu con người
1.2. Tầm quan trọng của bộ môn
1.2.1. Mối quan hệ giữa Giải phẫu và sinh lý với các môn khoa học khác
Giải phẫu và sinh lý có mối quan hệ mật thiết với nhau và cần thiết cho nhiều
ngành khoa học khác.
- Y học: Giải phẫu và sinh lý là cơ sở của ngành y học, giúp người thầy thuốc chẩn đoán
bệnh và có biện pháp điều trị đúng
- Triết học: Sinh lý học giúp cho việc củng cố và hoàn thiện các quan điểm triết học.
- Tâm lý học: Sinh lý thần kinh là cơ sở của tâm lý. Sự phát triển tâm lý của trẻ diễn ra
trên cơ sở giải phẫu và sinh lý nhất là sự phát triển của não bộ.
- Giáo dục học: Giải phẫu và sinh lý học là cơ sở để các nhà giáo dục xây dựng thời
lượng, nội dung, phương pháp dạy học phù hợp lứa tuổi, là cơ sở cho các môn giáo dục
học, giáo dục thể chất, phương pháp tìm hiểu tự nhiên và xã hội…
- Giáo dục thể chất: Sự hiểu biết về giải phẫu và sinh lý giúp cho sự luyện tập có hiệu
quả, đảm bảo an toàn trong rèn luyện và thi đấu của mọi người và các vận động viên.
- Nhiều kiến thức về giải phẫu và sinh lý được xây dựng theo các nguyên tắc vật lý, hóa
học như sự trao đổi khí, sự vận chuyển máu trong mạch, sự tạo ảnh trong mắt.....
Nhìn chung, mọi ngành nghề trong xã hội đều mục đích phục vụ cho con người,
nên việc hiểu biết về giải phẫu và sinh lý người là cần thiết.
1.2.2. Tầm quan trọng của môn học đối với giáo viên tiểu học
- Giúp người học nắm được những đặc điểm khác biệt của cơ thể trẻ em so với người lớn
về cấu tạo, hoạt động của từng cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Các giai đoạn phát triển
khác nhau của cơ thể trẻ. Đây là cơ sở khoa học cho các biện pháp giáo dục, chăm sóc trẻ
một cách hợp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển hoàn thiện của cơ thể trẻ.
1
- Đây là môn học tiên quyết giúp người học tiếp thu những kiến thức cơ bản về Tâm lý
học, giáo dục học từ đó lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hiệu quả.
Đối với giáo viên tiểu học, môn học còn cung cấp những kiến thức cơ bản để giảng dạy
tốt các môn học Tự nhiên và Xã hội, Khoa học ở tiểu học.
1.3. Cơ thể trẻ em là một khối thống nhất
1.3.1. Sự thống nhất giữa đồng hóa và dị hóa
Đồng hóa là quá trình tổng hợp các hợp chất hữu cơ phức tạp đặc trưng của cơ thể
từ những chất đơn giản được máu đưa đến tế bào. Qua quá trình này, tế bào gia tăng kích
thước và số lượng, đây là quá trình tích lũy năng lượng.
Dị hóa là quá trình phân giải các hợp chất hữu cơ phức tạp thành những chất đơn
giản. Kết quả của sự phân giải này là tạo ra các sản phẩm trung gian và giải phóng ra
năng lượng cung cấp cho mọi hoạt động sống của tế bào. Một số hợp chất trung gian
trong quá trình dị hóa sẽ được cơ thể sử dụng, còn các sản phẩm không cần thiết sẽ được
đào thải ra khỏi cơ thể.
Đồng hóa và dị hóa là hai mặt của quá trình trao đổi chất và năng lượng, có liên
quan mật thiết và tác động qua lại với nhau. Quá trình đồng hóa cung cấp nguyên liệu
cho quá trình dị hóa, quá trình dị hóa cung cấp năng lượng cho quá trình đồng hóa. Một
trong hai mặt này dừng sự sống sẽ dừng. Như vậy, đồng hóa và dị hóa là hai mặt mâu
thuẫn nhưng thống nhất với nhau trong quá trình trao đổi chất và năng lượng.
1.3.2. Sự thống nhất giữa cấu tạo và chức năng
Sự thống nhất giữa cấu tạo và chức năng thể hiện qua hoạt động trao đổi chất và
năng lượng. Các hoạt động sống trong cơ thể đều gắn liền với quá trình trao đổi chất và
năng lượng. Giữa cấu tạo hình thái cơ thể và chức phận có mối quan hệ khăn khít và phụ
thuộc nhau, trong đó chức phận giữ vai trò quyết định vì chức phận trực tiếp liên hệ với
sự trao đổi chất.
1.3.3. Sự thống nhất giữa các cơ quan trong cơ thể
Tế bào là đơn vị cơ bản của sự sống và đều có thành phần cấu tạo gồm màng, tế bào
chất và nhân. Tập hợp các tế bào tạo thành các mô. Dù có nhiều loại mô khác nhau nhưng
chúng đều có những đặc điểm chung là gồm có hai phần: tế bào và chất gian bào.
Các mô tạo thành các cơ quan, có nhiều cơ quan trong cơ thể nhưng chúng đều có
đặc điểm chung là: tất cả các cơ quan đều được hình thành từ một số mô nhất định. Trong
mỗi cơ quan thường có một mô quan trọng nhất, đặc trưng cho nó. Mỗi cơ quan đều
chiếm một vị trí nhất định trong cơ thể. Các cơ quan có cùng chức năng sẽ hợp thành hệ
cơ quan. Cơ thể người gồm các hệ cơ quan như hệ thần kinh, hệ vận động, hệ hô hấp, hệ
tiêu hoá, hệ tuần hoàn, hệ bài tiết, hệ nội tiết, hệ sinh sản và các giác quan.
1.3.4. Sự thống nhất giữa cơ thể với môi trường
Khi môi trường thay đổi, cơ thể có những cơ chế thích nghi phù hợp, nếu không cơ
thể sẽ khó tồn tại. Chẳng hạn khi trời lạnh có cơ chế chống lạnh: co ro, nổi da gà, da tím

2
tái do các mạch máu dưới da co lại hay run là một hiện tượng co cơ nhanh để sinh nhiệt
chống lạnh. Khi trời nóng toát mồ hôi…
1.4. Sự sinh trưởng và phát triển ở người
1.4.1. Khái niệm
a) Sinh trưởng: Sinh trưởng là sự tăng kích thước và khối lượng của cơ thể
Nguyên nhân của sự sinh trưởng là do sự phân chia liên tiếp của các tế bào trong
cơ thể. Các giai đoạn khác nhau trong cơ thể sự sinh trưởng cũng khác nhau. Các giai
đoạn tăng kích thước nhanh xảy ra xen kẽ với các giai đoạn tăng trưởng chậm. Tốc độ
sinh trưởng lớn nhất thường là ở trẻ dưới 1 tuổi sau đó giảm dần. Đến tuổi dậy thì tốc độ
sinh trưởng lại tăng lên rõ rệt.
b) Phát triển: Phát triển là sự chuyển giai đoạn thể hiện bằng những biến đổi sâu sắc về
hình thái và chức năng của cơ thể hoặc của một số cơ quan quan trọng dưới ảnh hưởng
của hệ nội tiết.
Sự phát triển ở một con người phụ thuộc vào sự di truyền (di truyền gây hiện tượng
chuyển giai đoạn thông qua các hoocmon) và vai trò của điều kiện sống trong môi trường
tự nhiên và xã hội. Vậy, khái niệm sinh trưởng chỉ sự biến đổi về số lượng, còn khái niệm
phát triển chỉ sự biến đổi về chất và lượng, sự hoàn thiện chức năng sinh lý của các cơ quan
cũng như toàn bộ cơ thể, sự biến đổi từ cơ thể thai nhi thành cơ thể trưởng thành.
1.4.2. Các quy luật sinh trưởng và phát triển
a) Quy luật phát triển theo giai đoạn
Sự phát triển ở người là một quá trình liên tục, mỗi giai đoạn sau đều chứa vết tích
của giai đoạn trước. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển ở trẻ có những đặc điểm và tốc
độ riêng.
Ví dụ, có những bộ phận của cơ thể tăng nhanh trong những năm đầu, như não trẻ
sơ sinh khoảng 380 – 392 gam, đến 9 tuổi đã đạt khoảng 1000 gam nhưng 9 năm sau chỉ
đạt 1200 – 1400 gam. Trong quá trình phát triển cơ thể, tỷ lệ các phần trong cơ thể thay đổi
không giống nhau qua hình 1.
Về chiều cao của trẻ phát triển cũng không đồng đều ở các giai đoạn. Trẻ sơ sinh có
chiều cao trung bình khoảng 50 cm, đến 1 tuổi cao khoảng 78 – 80 cm, có trẻ đến 100 cm.
Ở tuổi tiền dậy thì trẻ gái thường cao hơn trẻ trai. Nhưng ở trẻ 14 – 15 tuổi thì trẻ trai lại
cao hơn trẻ gái. Cân nặng cũng có sự thay đổi theo các giai đoạn phát triển. Trẻ sơ sinh
nặng khoảng 3 – 3,2 kg; cuối 1 tuổi khoảng 9 – 10 kg; 2 tuổi khoảng 12 kg; 3 tuổi khoảng
14 kg…nhưng sau đó tốc độ tăng trưởng chậm lại, mỗi năm tăng khoảng 1,5 – 2 kg và
chiều cao tăng thêm khoảng 4 – 5 cm.
Vậy từ lúc sơ sinh đến trưởng thành, chiều cao cơ thể người tăng lên 3,5 lần, chiều
dài thân tăng lên 3 lần, chiều dài tay tăng 4 lần nhưng chiều dài chân tăng lên gấp 5 lần.

3
Hình 1.1. Tỷ lệ chiều dài đầu so với chiều dài cơ thể ở các độ tuổi
b) Quy luật phát triển không đồng thời và không đồng tốc
Đặc điểm nổi bật của quá trình phát triển là sự xuất hiện và hoàn chỉnh hóa không
đồng đều của các hệ thống chức năng trong cơ thể. Trong quá trình phát triển cá thể, bộ
phận cơ quan nào cần thiết trước thì phát triển và hoàn thiện trước, bộ phận cơ quan nào
cần thiết sau thì phát triển và hoàn thiện sau.
Ví dụ, trong số các cơ thì cơ vòng ở miệng và các cơ liên quan đến hoạt động bú,
mút là cần thiết cho trẻ nên hoạt động sớm; tiếp đến là các cơ ngón tay hoạt động giúp trẻ
nắm bắt các vật cần thiết.
Đối với hệ thần kinh, phần hướng tâm hoàn thiện lúc 6 – 7 tuổi, phần ly tâm hoàn
thiện khi trẻ 23 – 25 tuổi. Lúc trẻ 8 – 10 tuổi thì cấu tạo của não bộ và tủy sống giống như
người lớn nhưng chức năng tiếp tục hoàn thiện trong suốt thời gian tiếp theo; trong khi đó
hệ sinh dục phát triển mạnh ở tuổi dậy thì.
Một số cơ quan tăng theo tỷ lệ thuận với khối lượng cơ thể như tim từ lúc sơ sinh
đến tuổi trưởng thành tăng gấp 15 lần, khối lượng cơ tăng gấp 35 – 40 lần so với lúc sơ
sinh. Song cũng có cơ quan khối lượng hoàn toàn không thay đổi sau khi sinh như các ống
bán khuyên nằm ở tai trong.
c) Quy luật tăng tốc
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học thấy một hiện tượng là sự
phát triển của loài người tăng nhanh ở khắp các nơi trên thế giới được gọi là gia tốc phát
triển. Gia tốc phát triển gồm có gia tốc sinh học và gia tốc xã hội.
Gia tốc sinh học là những biến đổi có liên quan đến các chỉ số hình thái, chức năng
của các hệ cơ quan trong cơ thể người. Chẳng hạn chiều cao cân nặng của trẻ em ngày nay
cao hơn so với trẻ cùng độ tuổi ở những thập niên trước, trước đây trẻ 6 tháng tuổi có chiều
cao và cân nặng gấp đôi lúc sơ sinh nhưng ngày nay hiện tượng này xuất hiện vào lúc trẻ
khoảng 4 tháng tuổi. Trẻ 1 tuổi ngày nay cũng cao hơn so với trẻ cùng độ tuổi trước kia
khoảng 5 cm…
4
Gia tốc sinh học còn thể hiện qua tuổi dậy thì ngày càng sớm hơn và tuổi mãn dục
muộn hơn. Do đó, thời gian thực hiện chức năng sinh sản ở người dài hơn so với trước đây.
Gia tốc xã hội là sự tăng khối lượng tri thức của trẻ em so với trẻ cùng độ tuổi cách
đây 40 – 50 năm.
Nguyên nhân của gia tốc còn có nhiều quan điểm khác nhau, song chủ yếu là do sự
phát triển kinh tế, xã hội và tình hình dinh dưỡng ngày càng được cải thiện.
1.4.3. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của trẻ em
Hiện nay sự phân chia các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của trẻ chưa đồng
nhất. Cách phân chia được các nhà y học, sinh lý học đánh giá là hợp lý và được sử dụng
rộng rãi, đó là cách phân chia theo GS A.F.Tua (Liên Xô cũ). Theo ông sự sinh trưởng và
phát triển của trẻ trải qua 6 giai đoạn.
a) Thời kỳ bào thai: Tính từ khi trứng được thụ tinh cho đến khi đứa bé ra đời. Trung
bình là 38 đến 40 tuần. Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng đến tất cả các
giai đoạn phát triển sau này của trẻ. Thời kỳ này gồm 2 giai đoạn: Phôi thai và thai nhi.
- Giai đoạn phát triển phôi thai (3 tháng đầu). Đây là giai đoạn hợp tử phân chia liên
tiếp để hình thành phôi thai và biệt hóa tạo nên các cơ quan.
- Giai đoạn phát triển thai nhi (từ 3 tháng đến khi bé ra đời). Đây là giai đoạn tăng
trưởng và hoàn thiện các cơ quan.
Thai nhi phát triển nhanh về kích thước và trọng lượng. Lúc 3 - 6 tháng phát triển
chiều cao là chủ yếu, lúc 7 - 9 tháng phát triển về cân nặng. Lúc này dinh dưỡng của thai
nhi hoàn toàn phụ thuộc vào người mẹ. Các chế độ dinh dưỡng, điều kiện lao động, hoàn
cảnh sinh hoạt vật chất và tinh thần, yếu tố sức khỏe của người mẹ đều ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của thai nhi trong giai đoạn này. Chính vì vậy, việc chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ khi có thai là cần thiết để tạo điều kiện cho thai nhi phát triển
tốt nhất.
b) Thời kỳ sơ sinh: Từ lúc mới sinh đến 1 tháng tuổi
Lúc này mối liên hệ giữa mẹ và con không còn nữa. Đứa bé bắt đầu làm quen với
môi trường sống ngoài tử cung, vì vậy có sự thay đổi của một số các cơ quan để thích
nghi với môi trường sống mới. Sau vài tuần lễ hệ tuần hoàn trẻ hoạt động như người lớn.
Hệ tiêu hóa bắt đầu làm việc, trẻ bú mẹ ngay sau khi sinh. Hoạt động hệ thần kinh còn
hạn chế, các tế bào thần kinh luôn bị ức chế nên trẻ thường ngủ nhiều (thời gian ngủ 20 -
22 giờ/ngày). Đứa trẻ mới sinh có tỷ lệ đầu/thân là 1/4.
Ngoài ra do môi trường sống thay đổi nên xuất hiện một số hiện tượng sinh lý ở
trẻ như bong da, vàng da, sụt cân, rụng rốn.
c) Thời kỳ bú mẹ: Từ 1 tháng tuổi đến 2 năm tuổi.
Trẻ tăng nhanh về chiều cao và cân nặng. Lúc trẻ 12 tháng trọng lượng tăng gấp 3
lúc sơ sinh và chiều cao tăng gấp 1,5 lần. Bên cạnh sự phát triển thể chất, sự phát triển về
tinh thần và vận động cũng xảy ra rất nhanh. Ban đầu các phản xạ chủ yếu của trẻ là phản

5
xạ không điều kiện, nhưng đến cuối thời kỳ này trẻ đã có nhiều hoạt động vận động như
biết lẫy, bò, trườn, ngồi rồi đi.
Trẻ chuyển sang ăn tạp, cơ quan tiêu hóa hoạt động còn yếu mâu thuẫn với nhu
cầu chất dinh dưỡng cao nên trẻ thường rối loạn tiêu hóa, vì vậy trong giai đoạn này thức
ăn tốt nhất, phù hợp nhất đối với trẻ là sữa mẹ. Khi trên 6 tháng, yếu tố miễn dịch thụ
động có trong sữa mẹ giảm dần trẻ lại chưa có miễn dịch chủ động nên dễ mắc các bệnh
nhiễm khuẩn như sởi, lị, ho gà....
Hệ thần kinh của trẻ cũng phát triển rất nhanh, trẻ đã học được nhiều phản xạ có
điều kiện (biết quen, lạ, đòi đồ chơi...) hay đã bắt đầu tập nói. Tuy nhiên, khả năng điều
hòa nhiệt còn kém nên trẻ dễ bị nóng quá hay lạnh quá.
d) Thời kỳ răng sữa: Từ 1 tuổi đến 6 tuổi. Thời kỳ này chia làm 2 giai đoạn là:
- Tuổi nhà trẻ (1 - 3 tuổi hay còn gọi là tuổi thơ sớm)
- Tuổi mẫu giáo (3 - 6 tuổi hay còn gọi là tuổi thơ đầu tiên)
Cơ thể trẻ vẫn phát triển mạnh về chiều cao và cân nặng nhưng chậm hơn so với
thời kỳ trước, trung bình mỗi năm trẻ tăng khoảng 1,5 kg và cao thêm 5 cm. Các chức
năng trong cơ thể hoàn thiện dần.
Hệ vận động phát triển nhanh, trẻ hoạt động nhiều hơn và các động tác trở nên
khéo léo, gọn gàng và phức tạp hơn. Trẻ đã có thể làm một số việc cá nhân như rửa tay,
rửa mặt, tự xúc ăn...Hệ tiêu hóa hoàn thiện dần, lúc 2 tuổi trẻ mọc đầy đủ 20 răng sữa. Hệ
thần kinh ngày càng hoàn thiện dần, chức năng phân tích tổng hợp của vỏ não đã hoàn
thiện. Lúc 2 tuổi tỷ lệ đầu/thân là 1/5. Số phản xạ có điều kiện trẻ học được ngày càng
nhiều và tốc độ hình thành càng nhanh. Ngôn ngữ ngày càng phát triển. Trẻ hơn 1 tuổi
bắt đầu biết nói bi bô sau đó trẻ hiểu lời nói. Số lượng từ ngày càng phong phú. Lúc 2
tuổi trẻ tích lũy được khoảng 400 từ, 3 tuổi đã tăng lên 1000 từ và đến 6 tuổi trẻ đã có
vốn từ khoảng 4000 từ nên đã có thể biết đọc, biết viết chuẩn bị cho tuổi đi học, lúc này
tỷ lệ đầu/thân là 1/6. Sự phối hợp giữa các chức năng ngày càng hoàn thiện. Kết quả sự
phối hợp giữa hệ cơ, hệ thần kinh giúp hình thành những thói quen và tính hiếu động ở
trẻ. Trẻ thích tò mò tìm hiểu môi trường xung quanh, nhu cầu giao tiếp tăng và thích tập
thể, bạn bè.
e) Thời kỳ thiếu niên: Từ 7 đến 15 tuổi. Thời kỳ này có thể chia làm 2 giai đoạn:
- Từ 7 - 11 tuổi là tuổi học sinh tiểu học
- Từ 12 - 15 tuổi là tuổi tiền dậy thì - học sinh trung học cơ sở.
Thời kỳ này đặc trưng bởi sự phát triển hoàn thiện dần của các cơ quan trong cơ
thể. Hệ vận động phát triển cân đối và tương đối đồng đều. Chiều cao mỗi năm tăng
khoảng 4 - 5 cm và khối lượng cơ thể tăng 2 - 3 kg/ năm. Cơ tay, cơ chân và các cơ lớn
phát triển mạnh làm động tác trẻ trở nên mạnh mẽ hơn. Song khả năng thực hiện các
động tác tinh vi lại tương đối khó khăn. Đã có sự cốt hóa hoàn toàn của xương bàn tay.
Răng sữa bắt đầu được thay thế bằng răng vĩnh viễn và quá trình thay răng kéo dài đến
lúc trẻ 14 - 15 tuổi. Bộ xương vẫn tiếp tục phát triển vì chưa cốt hóa hoàn toàn. Các cơ

6
sâu ở phần lưng còn yếu, cột sống còn mềm vì vậy ở lứa tuổi này trẻ dễ bị cong vẹo cột
sống nếu có tư thế ngồi học không đúng. Hệ thần kinh hoàn thiện, tế bào vỏ não đã biệt
hóa hoàn toàn và vai trò của bán cầu đại não ngày càng tăng và phức tạp hơn, các đường
dẫn truyền đã hoàn thiện. Thùy trán (liên quan đến ngôn ngữ) phát triển mạnh lúc trẻ 6
tuổi. Khả năng phán đoán, trí thông minh phát triển giúp trẻ thích nghi với chức năng học
tập là chủ yếu trong giai đoạn này.
g) Thời kỳ dậy thì
Giới hạn của thời kỳ này không ổn định vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giới tính,
môi trường sống, hoàn cảnh kinh tế - xã hội...Thường trẻ em thành phố dậy thì sớm hơn
trẻ em nông thôn. Trẻ được nuôi dưỡng tốt dậy thì sớm hơn trẻ có hoàn cảnh khó khăn.
Nữ dậy thì sớm hơn nam.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự hoạt động mạnh của các nội tiết tố sinh dục,
xuất hiện những dấu hiệu sinh dục phụ như: Vỡ giọng ở nam, mọc râu, ngực nở, mông to
ở nữ...Tốc độ sinh trưởng tăng nhanh đạt 5 - 8 cm/ năm và khối lượng tăng 4- 8 kg/ năm.
Xương chi phát triển mạnh nên cơ thể gầy, cao lều khều. Trong khi đó thì lồng ngực lại
lép do các xương sườn không phát triển nên nhịp thở khó khăn. Sự phát triển nhanh
chóng của hệ vận động làm cho các động tác không phối hợp được tốt chính vì vậy trẻ trở
nên vụng về, nóng tính.
Bảng 1.1. Tuổi dậy thì của trẻ em nam và nữ
Tuổi Nam Nữ
Tuổi bắt đầu dậy thì 13 năm 2 tháng ± 1 năm 11 năm 11 tháng ±1 năm 2
tháng.
Tuổi dậy thì hoàn toàn 15 năm 2 tháng ±1 năm 3 tháng 13 năm 6 tháng ±1 năm

Phổi phát triển khá hoàn chỉnh làm dung tích sống tăng lên rõ rệt. Xuất hiện 2 kiểu
hô hấp đặc trưng ở 2 giới là: Hô hấp bụng ở nam và hô hấp ngực ở nữ.
Hoạt động tim được tăng cường làm kích thước tim được tăng lên rõ rệt, song các
mạch máu lại phát triển chậm nên đã xuất hiện sự trục trặc trong hệ tuần hoàn. Kết quả là
huyết áp tăng, nhịp tim rối lọan. Do không đáp ứng đầy đủ nhu cầu về máu đối với các cơ
quan đang phát triển nên trẻ em ở lứa tuổi này thường hay mệt mỏi. Sự phát triển không
đồng đều của tim mạch đã ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn não, thiểu năng tuần hoàn não
gây hiện tượng đói oxy, chính vì vậy làm trẻ kém tập trung, trí nhớ giảm. Hoạt động của
hệ tim mạch cũng ảnh hưởng khá nhiều đến mặt tình cảm, nếu trẻ không được sự quan
tâm của cha mẹ và xã hội sẽ gây những tổn thương tình cảm nặng nề có thể dẫn đến rối
loạn thần kinh chức năng (điên). Một số chỉ số hình thái của học sinh tiểu học được thể
hiện qua bảng 1.2.

7
Bảng 1.2. Một số chỉ số hình thái của học sinh lứa tuổi tiểu học
(Theo GTSH người Việt Nam - 2003)
Độ tuổi Nam Nữ
Cao đứng (cm) Cân nặng (kg) Cao đứng (cm) Cân nặng (kg)
6 107,16 ± 3,99 16,56 ± 1,56 106,36 ± 3,91 15,99 ± 1,90
7 111,43 ± 5,18 17,59 ± 2,10 110,64 ± 5,17 16,91 ± 1,96
8 117,33 ± 5,05 19,53 ± 2,32 116,51 ± 5,02 18,80 ± 2,23
9 121,16 ± 5,04 21,05 ± 2,30 121,14 ± 5,08 20,55 ± 2,55
10 126,02 ± 5,17 23,22 ± 2,70 126,07 ± 5,35 22,62 ± 2,72

Nhìn chung sự phân chia các thời kỳ phát triển của trẻ chỉ mang tính chất tương
đối, ranh giới của các thời kỳ không thực sự rõ ràng và còn phụ thuộc vào đặc điểm riêng
biệt của mỗi trẻ.

Câu hỏi và bài tập


1. Phân tích các khái niệm giải phẫu và sinh lý người, phân tích tầm quan trọng của môn
học?
2. Chứng minh cơ thể người là một khối thống nhất.
3. Phân tích các quy luật sinh trưởng và phát triển ở trẻ em
4. Thảo luận đặc điểm của các giai đoạn sinh trưởng và phát triển ở trẻ em.
5. Dựa vào tiêu chí của WHO, thực hành đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em lứa
tuổi tiểu học theo các chỉ số cân nặng/tuổi; chiều cao/tuổi và cân nặng/chiều cao. Cách
nhận biết và phòng các bệnh béo phì, suy dinh dưỡng ở trẻ em.

8
Chương 2. HỆ THẦN KINH VÀ CÁC CƠ QUAN PHÂN TÍCH Ở TRẺ
(4 tiết LT + 4 tiết TH)
2.1. Hệ thần kinh
2.1.1. Vai trò của hệ thần kinh: Hệ thần kinh có vai trò quan trọng nhất thông qua 4
chức năng cơ bản:
- Chức năng thực vật: Hệ thần kinh điều khiển hoạt động của tất cả các cơ quan bên trong
trong cơ thể đảm bảo cơ thể người là một khối thống nhất.
- Chức năng vận động: Hệ thần kinh động vật điều khiển mọi hoạt động vận động của cơ
thể.
- Chức năng cảm giác: Hệ thần kinh giúp thu nhận các thông tin từ môi trường ngoài đảm
bảo sự thống nhất giữa cơ thể với môi trường.
- Hoạt động thần kinh cấp cao: giúp con người có những hoạt động tư duy như trí nhớ,
học tập, sáng tạo và các hoạt động tâm lý đa dạng.
2.1.2. Cấu tạo của hệ thần kinh
a) Đơn vị cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh (Tế bào thần kinh - nơron)
Hệ thần kinh được cấu tạo bởi khoảng một trăm tỷ tế bào thần kinh hay còn gọi là
nơron. Nơron vừa là đơn vị cấu trúc vừa là đơn vị chức năng của hệ thần kinh
Cấu tạo: Nơron là những tế bào đã được biệt hóa cao. Mỗi nơron có 3 phần là: Thân, sợi
nhánh (đendrite) và sợi trục (axon)
- Thân: có nhiều hình dạng khác nhau như hình cầu, hình que, hình tháp, hình sao hay
hình quả lê.... Đường kính thân thay đổi từ 4 m đến 130 m. Thân nơron có màng, tế
bào chất và nhân. Màng nơron có nhiệm vụ tiếp nhận kích thích. Nhân điều khiển mọi
hoạt động của nơron và mang thông tin di truyền. Tế bào chất dẫn truyền và giữ lại dấu
vết các xung động thần kinh. Trong tế bào chất có các hạt Niss màu xám (nên thân nơron
có màu xám) có nhiệm vụ dự trữ năng lượng cho nơron. Ở não và tủy sống tập trung
nhiều thân nơron tạo thành vùng chất xám.
- Các rễ: Bao gồm sợi trục và sợi nhánh. Sợi trục là những tua bào tương, đầu tận cùng
phân thành nhiều nhánh và có các cúc tận cùng. Trong cúc tận cùng có chứa các chất môi
giới thần kinh. Sợi trục có nhiệm vụ dẫn truyền xung động thần kinh. Mỗi nơron thường có
một sợi trục và nhiều sợi nhánh Sợi nhánh làm nhiệm vụ nhận tác nhân kích thích hoặc
xung động thần kinh nên còn gọi là “lối vào”. Sợi trục dẫn truyền xung động thần kinh từ
nơron này sang nơron khác còn gọi là “lối ra” của xung thần kinh.
Có 2 loại sợi trục thần kinh là sợi có màng myelin và sợi không có màng myelin.
Màng myelin màu trắng, có khả năng cách điện, đảm bảo sự dẫn truyền riêng lẻ giữa các
sợi thần kinh. Giữa các nơron là xinap. Một xinap gồm có màng trước, khe xinap rộng
khoảng 50 A0 và màng sau xinap.
Chức năng: Nơron có 2 chức năng chính là hưng phấn và dẫn truyền xung động thần
kinh

9
- Hưng phấn: Là sự thay đổi từ trạng thái nghỉ ngơi sang trạng thái hoạt động, biểu hiện
trước hết ở sự xuất hiện dòng điện thế hoạt động của nơron.
- Sự dẫn truyền của nơron: Trong nơron hưng phấn được dẫn truyền theo một chiều, từ
sợi nhánh sang thân nơron rồi qua sợi trục dài. Tốc độ dẫn truyền phụ thuộc vào cấu tạo
của sợi thần kinh. Những sợi có đường kính lớn dẫn truyền nhanh hơn các sợi có đường
kính nhỏ. Sợi có màng miêlin dẫn truyền nhanh hơn sợi không có màng miêlin.

Hình 2.1. Cấu tạo của tế bào thần kinh (nơron)


b) Các phần của hệ thần kinh người

Hình 2.2. Cấu tạo của hệ thần kinh người


Từ hàng trăm tỉ nơron cấu tạo nên hệ thần kinh ở người, gồm có thần kinh trung
ương và thần kinh ngoại biên. Thần kinh trung ương gồm não và tủy sống, thần kinh
ngoại biên gồm các dây thần kinh (gồm dây thần kinh tự chủ và dây thần kinh tự động.
Trong dây thần kinh tự động có dây giáo cảm và dây phó giao cảm) và hạch thần kinh.
Mỗi phần có cấu tạo và chức năng khác nhau.
Dây thần kinh có 3 loại là dây thần kinh hướng tâm, dây thần kinh ly tâm và dây
thần kinh pha. Ở người có 31 đôi dây thần kinh tủy (đều là dây pha) và 12 đôi dây thần
10
Cấu trúc nơron và myelin hóa: Nơron ở trẻ chưa hoàn chỉnh, kích thước nhỏ và chưa myelin hóa đầy đủ khi mới sinh.
Quá trình phát triển mạnh mẽ trong 3 năm đầu và hoàn thiện tương đối ở 12 - 13 tuổi.
Myelin hóa ảnh hưởng đến khối lượng mô thần kinh.
kinh sọ não. Hạch thần kinh là những khối noron nằm ngoài phần trung ương thần kinh,
trong đó có 2 chuỗi nằm hai bên cột sống (chuỗi hạch thần kinh dinh dưỡng) và một hạch
lớn nằm ở khoang bụng gọi là hạch mặt trời.
2.1.3. Sự phát triển hệ thần kinh ở trẻ em lứa tuổi tiểu học
Ở trẻ em, nơron có cấu tạo chưa hoàn chỉnh. Khi trẻ mới sinh ra, các sợi trục thần
kinh chưa được myelin hóa hoàn toàn và kích thước nhỏ. Sau đó, các nơron lớn dần lên
và các sợi trục được myelin hóa làm cho khối lượng mô thần kinh tăng lên. Quá trình này
xảy ra mạnh nhất trong 3 năm đầu và đến lúc trẻ 12 - 13 tuổi thì tương đối hoàn
thiện. Khi trẻ 1 tuổi, não lớn gấp đôi, đến 3 tuổi tăng gấp 3 lần so với lúc sơ sinh. Sự
hoàn thiện của cấu trúc nơron và sự myelin hóa các sợi thần kinh diễn ra không đồng đều.
Các sợi cảm giác được myelin hóa sớm hơn các sợi vận động. Tốc độ myelin hóa các sợi
thần kinh cũng như sự phát triển của các nơron liên quan tới sự hoạt động của nó. Nhưng
chính hoạt động của các nơron lại thúc đẩy sự hoàn thiện về cấu trúc của chúng.
a) Sự phát triển của tủy sống Tăng khối lượng theo chiều cao, đạt đỉnh vào 14 - 15 tuổi.
Tham gia vào các phản xạ dinh dưỡng và bảo vệ.
Khối lượng và kích thước của tủy sống có những biến đổi rõ rệt theo chiều cao của
trẻ. Sau năm đầu, khối lượng của tủy sống tăng gấp đôi, 5 tuổi tăng gấp 3, lúc 14 - 15 tuổi
tăng gấp 4 - 5 lần. Khi mới lọt lòng mẹ, tủy sống của trẻ kéo dài đến đốt thắt lưng thứ 3
và dài khoảng 14 - 16 cm (bằng 1/3 tủy sống người trưởng thành), ở người trưởng thành
tủy sống kết thúc ở đốt thắt lưng thứ 2. Tủy sống ở trẻ sơ sinh đã tham gia tích cực vào
các phản xạ dinh dưỡng, như các phản xạ tiêu hóa, bài tiết.
b) Sự phát triển của não
Não trẻ sơ sinh có kích thước nhỏ, khối lượng chỉ khoảng 380 - 400 gam, chiếm 1/8
khối lượng cơ thể (người trưởng thành chiếm 1/40 - 1/50). Khối lượng của não tăng lên
mạnh trong năm đầu. Trẻ 1 tuổi, khối lượng não tăng gấp đôi lúc sơ sinh, sau đó tiếp tục
tăng trung bình mỗi tháng khoảng 30 gam và tốc độ tăng khối lượng não giảm dần, 3 tuổi
tăng gấp 3 và nặng khoảng 1.050 gam, 6 tuổi não nặng khoảng 1.070 gam đến 9 tuổi
khoảng 1.300 gam (chỉ kém não người trưởng thành 100 gam). Đến tuổi dậy thì, khối
lượng của não hầu như không thay đổi nhưng có sự biến đổi mạnh mẽ về chức năng.
Sự tăng khối lượng não ở trẻ chủ yếu là do sự tăng kích thước nơron và sự phân hóa
các trục thần kinh. Số lượng nơron không tăng mà chỉ thay đổi về kích thước. Đến 3 tuổi
kích thước nơron đã gần giống như người trưởng thành, các nhánh mọc thêm và chiếm
nhiều chỗ hơn. Các tế bào lớn lên và phân nhánh tạo nên các lớp khác nhau ở vỏ bán cầu
đại não và diện tích cũng tăng lên. Lúc 2 tuổi, diện tích bề mặt vỏ não tăng gấp 2,5 lần,
lúc này đã xuất hiện thêm nhiều rãnh, hồi mới. Quá trình này diễn ra liên tục và và cao
nhất là lúc 5 tuổi. Khi trẻ 7 - 14 tuổi, các rãnh và hồi não đã có hình dạng giống như
người trưởng thành. Đồng thời cũng xuất hiện một số vùng mới trên vỏ não như vùng
hiểu tiếng nói, vùng hiểu chữ viết.
Tiểu não trẻ em phát triển muộn hơn vỏ não nhưng tốc độ phát triển lại nhanh hơn.
Ở trẻ sơ sinh, tiểu não kém phát triển. Tiểu não lớn nhanh nhất trong năm đầu và sau đó
Kích thước và khối lượng: Não trẻ sơ sinh nhỏ, chiếm 1/8 khối lượng cơ thể, tăng gấp đôi vào tuổi 1 và tiếp tục tăng
trung bình 30g/tháng. Đến 3 tuổi, nặng 1.050g, 6 tuổi 1.070g, và 9 tuổi 1.300g. Tốc độ tăng giảm dần sau 3 tuổi.
11
Sự tăng khối lượng: Chủ yếu từ tăng kích thước nơron và phân hóa trục thần kinh. Kích thước nơron gần giống người
trưởng thành vào 3 tuổi, với nhánh mọc thêm và chiếm nhiều chỗ hơn. Vỏ bán cầu đại não phát triển liên tục, với diện
tích bề mặt tăng gấp 2,5 lần lúc 2 tuổi và cao điểm vào 5 tuổi.
Tiểu não: Phát triển muộn hơn vỏ não, tăng nhanh nhất trong năm đầu và sau đó tốc độ phát triển giảm dần. Trẻ 1-2 tuổi, tiểu
não gần bằng người trưởng thành, không biến đổi nhiều từ 6-15 tuổi.
Hành tủy và não giữa: 5-6 tuổi giữ vị trí và chức năng như người trưởng thành. Phát triển rõ từ thai nhi đến sau khi trẻ ra đời.
Vùng trán của bán cầu đại não: Phát triển mạnh vào 6 tuổi, ảnh hưởng đến tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ em.
tốc độ phát triển giảm dần. Trẻ 1 - 2 tuổi, tiểu não đã có khối lượng và kích thước gần với
người trưởng thành, trẻ 6 - 15 tuổi tiểu não không biến đổi nhiều.
Hành tủy và não giữa trẻ 5 - 6 tuổi đã giữ vị trí và chức năng như người trưởng
thành. Thời kỳ thai nhi, não giữa phát triển khá rõ. Sau khi đứa trẻ ra đời, não giữa tiếp
tục phát triển hoàn thiện cả về cấu tạo và chức năng, các đường dẫn từ vỏ não xuống não
giữa đã được hoàn thiện hơn.
Vùng trán của bán cầu đại não phát triển mạnh lúc trẻ 6 tuổi, điều này ảnh hưởng
đến sự tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ em.
c) Quá trình myelin hóa sợi thần kinh ở trẻ
Quá trình myelin các sợi thần kinh bắt đầu vào tháng thứ 4 - 5 của bào thai, sau khi
sinh quá trình này diễn ra mạnh và kết thúc lúc trẻ 5 - 6 tuổi. Sự myelin hóa các sợi thần
kinh có ý nghĩa lớn, nó giúp cho các xung động thần kinh được truyền đi một cách riêng
biệt theo từng sợi, cũng như lan truyền đến các phần khác nhau của não một cách chính
xác, từ đó các hoạt động của trẻ được hoàn thiện hơn.
Quá trình myelin hóa các dây thần kinh tủy sống xảy ra từ tháng thứ 3, khi trẻ được
3 tuổi quá trình myelin hóa gần như hoàn chỉnh, tuy nhiên các màng myelin vẫn tiếp tục
phát triển sau nhiều năm nữa. Bản chất các bao myelin là lipid, vậy nên trong khẩu phần
ăn của trẻ em cần đảm bảo đủ lượng thức ăn giàu lipid giúp quá trình hoàn thiện cấu trúc
cửa nơron thuận lợi.
2.2. Hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ em lứa tuổi tiểu học
2.2.1. Học thuyết hoạt động thần kinh cấp cao của I.P.Pavlov
Hoạt động thần kinh cấp cao là hoạt động phản xạ của não bộ, nó thể hiện cơ chế
điều tiết các chức năng trong cơ thể bằng con đường thần kinh – thể dịch thông qua các
hoạt động phản xạ và ức chế các phản xạ. Nhờ có hoạt động thần kinh cấp cao mà con
người thực hiện hoạt động học tập, tư duy, có các cảm xúc và hành vi thích hợp với môi
trường sống luôn thay đổi. Mọi hoạt động sống của con người đều là phản xạ. Theo
I.P.Pavlov phản xạ có điều kiện là đơn vị hoạt động của thần kinh cấp cao, được hình
thành trên cơ sở đường liên hệ thần kinh tạm thời trên vỏ não, toàn bộ học thuyết đươc
xây dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản.
a) Nguyên tắc quyết định luận
Mọi phản xạ đều là những phản ứng của cơ thể trước những tác động của môi
trường bên ngoài hay bên trong cơ thể. Phản xạ là kết quả phản ứng của não bộ và mỗi
phản xạ đều do một nguyên nhân nhất định tạo ra. Vậy có thể thấy, mọi hoạt động hành
vi đều có nguyên nhân và được xác định về mặt không gian và thời gian.
b) Nguyên tắc cấu trúc
Theo nguyên tắc này mọi hoạt động hành vi đều có cơ sở vật chất của nó. Cơ sở vật
chất của hành vi là các phản xạ có điều kiện. Cơ sở sinh lý của phản xạ có điều kiện là
các đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa các nhóm tế bào trên vỏ não. Điều này có

12
nghĩa bất kỳ một hành vi nào cũng do một hay một nhóm cấu trúc nhất định trên vỏ bán
cầu đại não tham gia và thực hiện.
c) Nguyên tắc phân tích và tổng hợp
Muốn nhận biết thế giới khách quan, não bộ luôn dựa vào hoạt động của hệ thần
kinh và cơ quan phân tích. Trong hệ thần kinh luôn xảy ra hai quá trình cơ bản là phân
tích và tổng hợp. Quá trình phân tích xảy ra ngay tại các cơ quan nhận cảm. Vỏ bán cầu
đại não đảm nhận chức năng phân tích và tổng hợp cao cấp nên điều khiển mọi hoạt động
hành vi.
2.2.2. Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Mọi phản xạ ở người chia làm 2 nhóm là không điều kiện và có điều kiện
Phản xạ không điều kiện là những phản ứng bẩm sinh của cơ thể.
Phản xạ có điều kiện là những phản ứng hình thành trong quá trình sống của cá thể.
Hai loại này có những đặc điểm khác nhau.
Bảng 2.1. Các đặc điểm của phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Đặc Phản xạ không điều kiện Phản xạ có điều kiện
điểm
1 Bẩm sinh, di truyền Hình thành trong quá trình sống
2 Đặc trưng cho loài Mang tính đặc trưng cho cá thể
3 Tính ổn định cao Thay đổi tùy theo điều kiện sống
4 Liên quan đến cơ quan thụ cảm Không liên quan đến trường thụ cảm
nhất định
5 Hạn chế về số lượng Không hạn chế về số lượng
6 Không cần luyện tập, không cần Phải luyện tập thường xuyên, vỏ não
sự tham gia của bán cầu đại não. hoạt động bình thường

a) Phân loại phản xạ không điều kiện


Tất cả các phản xạ không điều kiện, tuỳ thuộc vào chức năng được phân ra thành
một số nhóm như sau:
1/ Các phản xạ dinh dưỡng, liên quan đến việc tiếp nhận và tiêu hoá thức ăn.
2/ Các phản xạ bảo vệ liên quan đến việc bảo vệ cơ thể một cách chủ động hay thụ động
chống lại các tác động khác nhau.
3/ Các phản xạ sinh dục.
4/ Các phản xạ định hướng và thực thể, đảm bảo nội cân bằng trong cơ thể khi điều kiện
môi trường thay đổi.
b) Phân loại phản xạ có điều kiện: Có 2 loại chính là phản xạ có điều kiện tự nhiên và
phản xạ có điều kiện nhân tạo
1/ Phản xạ có điều kiện tự nhiên
13
Ví dụ về phản xạ có điều kiện tự nhiên là phản ứng với mùi thịt. Việc trẻ nhận biết
được mùi thịt, thực tế là một phản xạ có điều kiện. Đây cũng chính là phản xạ có điều kiện
tự nhiên được hình thành với sự tham gia của phân tích quan khứu giác. Đặc điểm của các
phản xạ có điều kiện tự nhiên là rất bền vững. Chúng rất khó bị ức chế và nếu có bị ức chế
do một nguyên nhân nào đó, thì cũng rất dễ phục hồi. Đây là cơ sở cho việc tạo ra khẩu vị
ăn uống mỗi trẻ mỗi khác.
2/ Phản xạ có điều kiện nhân tạo: Có nhiều loại tùy
- Phản xạ có điều kiện với kích thích từ thụ quan bên trong hay bên ngoài cơ thể
- Phản xạ có điều kiện nhiều cấp
- Phản xạ có điều kiện với kích thích thời gian
2.2.3. Cơ chế hình thành phản xạ có điều kiện
Hiện nay có 3 quan điểm về cơ chế hình thành phản xạ có điều kiện
Theo quan điểm của Pavlôv, phản xạ có điều kiện được hình thành trên cơ sở xuất
hiện các đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa hai nhóm tế bào thần kinh thuộc các trung
khu khác nhau trên vỏ não.
Kết quả nghiên cứu bằng vi điện cực (Rabinovich,1975) cho thấy, có khoảng 30 -
94% trong số các nơron thuộc vỏ não và các trung khu dưới vỏ có khả năng tham gia vào
việc tạo ra đường liên hệ thần kinh tạm thời. Cũng nhờ sự lan toả hưng phấn như vậy mà
phản xạ có điều kiện mới hình thành sẽ ngày được củng cố bền vững hơn.
Dựa vào sự thay đổi hình ảnh trên điện não đồ cho thấy, quá trình hình thành phản xạ
có điều kiện gồm 3 giai đoạn, những thay đổi trên điện não đồ thường xuất hiện sớm hơn
so với những thay đổi về mặt hành vi.
2.2.4. Điều kiện để hình thành phản xạ có điều kiện
Điều kiện đầu tiên là sự trùng lặp về mặt thời gian giữa tác động của kích thích có
điều kiện (tín hiệu) với tác nhân củng cố không điều kiện.
Điều kiện thứ hai là tín hiệu phải xuất hiện trước tác nhân củng cố không điều kiện.
Trong trường hợp tín hiệu và tác nhân củng cố xuất hiện cùng một lúc, thì phản xạ có điều
kiện rất khó thành lập. Ngoài ra còn có các điều kiện khác (theo hình 2.3)
Trùng lặp thời gian giữa tín hiêu – tác nhân
củng cố

Tín hiệu phải xuất hiện trước và vô quan


Điều kiện
Tác nhân củng cố đủ mạnh về mặt sinh học

Tín hiệu phải có cường độ vừa phải

Não bộ tỉnh táo, hoạt động bình thường

Hình 2.3. Sơ đồ các điều kiện cần thiết để hình thành phản xạ có điều kiện.
14
2.2.5. Ức chế của phản xạ có điều kiện
Trong các tình huống khác nhau, phản xạ có điều kiện có thể bị chèn ép hay không
xuất hiện, đó là hiện tượng ức chế phản xạ có điều kiện. Có 2 loại ức chế là ức chế ngoài
và ức chế trong.
a) Ức chế ngoài (ức chế không điều kiện)
Là ức chế mà nguyên nhân gây ra nó nằm ngoài vòng phản xạ. Có hai loại ức chế
không điều kiện là: ức chế ngoại lai và ức chế vượt hạn.
- Ức chế ngoại lai xuất hiện khi có kích thích bên ngoài mới, lạ tác động lên cơ thể vào
đúng lúc xảy ra phản xạ có điều kiện. Ức chế này cũng xuất hiện khi ta rơi vào một môi
trường không quen biết, khi các yếu tố bên ngoài tác động lên cơ thể hoàn toàn mới lạ.
Ví dụ: Trẻ đang tập trung học nhưng có người lạ vào lớp trẻ sẽ mất tập trung.
- Ức chế vượt hạn xuất hiện khi kích thích tác động lên cơ thể quá mạnh. Ngoài ra, ức chế
vượt hạn còn xuất hiện trong trường hợp kích thích có cường độ bình thường, nhưng tác
động quá kéo dài, do khả năng làm việc của các nơron trên vỏ não về mặt tiếp nhận cường
độ và thời gian tác động của kích thích chỉ có giới hạn. Ví dụ tiết học kéo dài sẽ làm trẻ bị
ức chế nên việc tập trung vào bài học những phút cuối sẽ hạn chế (vượt giới hạn về cường
độ và thời gian)
Cả hai loại ức chế trên đều không cần luyện tập. Chúng đều có ý nghĩa quan trọng
nhằm bảo vệ các tế bào thần kinh tránh sự suy kiệt, bị tổn thương do các kích thích quá
mạnh hoặc kéo dài tác động.
b) Ức chế trong (ức chế có điều kiện):
Là ức chế xảy ra do nguyên nhân nằm ngay trong vòng phản xạ bị ức chế. Ức chế có
điều kiện có bốn loại là: ức chế tắt, ức chế chậm, ức chế phân biệt và ức chế có điều kiện.
- Ức chế tắt xuất hiện khi các kích thích có điều kiện không được củng cố thường xuyên.
Chẳng hạn trẻ học thuộc bài rồi nhưng không ôn luyện sẽ quên dần.
Ức chế tắt có ý nghĩa sinh học rất quan trọng đối với cuộc sống của con người. Nhờ
có ức chế tắt mà các thói hư tật xấu, những thói quen lỗi thời sẽ bị biến mất khi chúng
không được củng cố. Đối với trẻ em, ức chế tắt rất khó thành lập. Chính vì vậy, những thói
hư tật xấu bị nhiễm từ thời thơ ấu rất khó sửa chữa. Cơ sở sinh lý của ức chế tắt là loại bỏ
những đường liên hệ thần kinh tạm thời không cần thiết cho cuộc sống, quên đi tất cả
những gì không quan trọng đã xảy ra trước đây.
- Ức chế chậm (ức chế trì hoãn) xuất hiện khi khoảng cách về mặt thời gian giữa các kích
thích có điều kiện và tác nhân củng cố không điều kiện bị kéo dài ra. Do khoảng cách về
mặt thời gian giữa hai kích thích bị kéo dài ra nên trong lúc chưa được củng cố, kích thích
có điều kiện đã gây ra hiện tượng ức chế trên vỏ não.
Về mặt ý nghĩa sinh học, ức chế chậm là sự kiềm chế trong hoạt động hàng ngày để
có thể thực hiện các công việc một cách tốt nhất, để các phản ứng trở nên chính xác, thận
trọng. Đối với trẻ em, ức chế chậm hình thành rất khó khăn. Chính vì vậy, các học sinh
nhỏ thường không kiềm chế được hoạt động hành vi của mình.
15
- Ức chế phân biệt cho thấy khả năng phản ứng một cách chọn lọc của vỏ bán cầu đại não
đối với các tín hiệu khác nhau. Nhờ ức chế này mà phản xạ không xảy ra với kích thích
không được củng cố (nghĩa là giúp cơ thể phân biệt được kích thích được củng cố và kích
thích không được củng cố). Ví dụ trong lúc nghe giảng bài trẻ còn nghe nhiều âm thanh
như tiếng nhạc, tiếng xe…nhưng nhờ ức chế phân biệt nên các tiếng động khác không
được chú ý để trẻ tập trung nghe giảng.
Ức chế phân biệt giúp mọi hành vi trở nên chính xác, tương ứng với các đòi hỏi thực
tế của môi trường sống.
Tóm lại, Ức chế là bộ phận quan trọng của hoạt động thần kinh cấp cao. Toàn bộ
quá trình ức chế hoạt động phản xạ có điều kiện được chia thành hai nhóm: ức chế không
điều kiện và ức chế có điều kiện. Ức chế không điều kiện còn gọi là ức chế ngoài vì tác
nhân tạo ra ức chế nằm bên ngoài cung phản xạ có điều kiện. Có hai loại ức chế không
điều kiện là: ức chế ngoại lai và ức chế vượt hạn. Đây là các loại ức chế xuất hiện dưới tác
động của các kích thích mới lạ hay các kích thích quá mạnh, quá kéo dài.
Đặc điểm của ức chế có điều kiện hay ức chế trong là phải luyện tập mới có, tác nhân
tạo ra ức chế nằm ngay trong cung phản xạ có điều kiện. Ức chế trong gồm 4 loại: ức chế
tắt, ức chế chậm, ức chế phân biệt và ức chế có điều kiện. Muốn có ức chế trong, hệ thần
kinh phải hoạt động bình thường và phải luyện tập thường xuyên. Nhờ có ức chế trong mà
cá thể mới thích nghi được với môi trường một cách tốt nhất. Ức chế trong tạo cho con
người khả năng kiềm chế trong hành động, biết suy xét, lựa chon các tình huống khác nhau
để có được các phản ứng thích hợp nhất trong các tình huống cụ thể.
2.2.6. Các quy luật hoạt động của thần kinh cấp cao
Hoạt động thần kinh cấp cao được xây dựng trên cơ sở của hai quá trình cơ bản
của noron là hưng phấn và ức chế. Hai quá trình này hoạt động và chuyển hóa theo các
quy luật nhất định.
a) Quy luật chuyển từ hưng phấn sang ức chế
Theo Pavlov “Bất cứ một kích thích nào kéo dài ít hay nhiều, khi đã chạm đến một
điểm nhất định của bán cầu đại não, dù cho ý nghĩa sinh tồn của nó to lớn đến đâu đi nữa,
và tất nhiên nếu nó chẳng có hậu quả gì đối với đời sống, nếu kích thích ấy không đi đôi
với những kích thích đồng thời của những điểm khác, thì nhất định sớm hay muộn nó sẽ
dẫn đến trạng thái buồn ngủ và đến giấc ngủ”. Trong cuộc sống hàng ngày quy luật này
thể hiện rất rõ. Trẻ sẽ buồn ngủ khi thầy giảng bài đều đều kéo dài, hay trẻ sẽ ngủ ngon
khi nghe tiếng ru của mẹ hoặc khi hoạt động mệt. Quy luật này có ý nghĩa bảo vệ não bộ
và toàn bộ cơ thể.
b) Quy luật lan toả và tập trung
Các quá trình hưng phấn và ức chế xuất hiện trên vỏ não không dừng lại ở một điểm
chúng sinh ra mà lan rộng ra mọi hướng trên vỏ não. Sự lan toả này không phải vô hạn mà
phụ thuộc vào hưng tính và cường độ kích thích tác động. Sau khi lan tỏa ra xung quanh
chúng lại thu hẹp dần và cuối cùng về vị trí xuất phát và đó là hiện tượng tập trung.

16
Quy luật lan tỏa và tập trung thể hiện rõ nét qua hoạt động từ thức (hưng phấn)
chuyển sang ngủ (ức chế) và ngược lại.
c) Quy luật cảm ứng qua lại
Cảm ứng là khả năng gây ra quá trình đối lập xung quanh mình (không gian) hoặc
tiếp sau mình (thời gian) của các quá trình hưng phấn và ức chế. Ví dụ: chú ý học bài
không nghe tiếng gọi (cảm ứng không gian), nhắm mắt lại nghỉ ngơi vài phút sẽ thấy sự
vật rõ hơn (cảm ứng thời gian). Có hai loại: cảm ứng dương tính và cảm ứng âm tính.
Cảm ứng dương tính là loại cảm ứng xuất hiện do quá trình ức chế gây nên. Ví dụ trẻ
lâu ngày khi được cho đi chơi thì rất phấn khởi chạy nhảy vui vẻ. Cảm ứng âm tính là cảm
ứng xuất hiện do hưng phấn gây nên. Ví dụ khi trẻ bị nhốt sẽ rất khó chịu trong thời gian
đầu. Khác với các phản xạ và ức chế có điều kiện, hiện tượng cảm ứng không đòi hỏi bất
kỳ một sự luyện tập nào.
d) Quy luật tính hệ thống
Trong cuộc sống các kích thích không tồn tại riêng lẻ mà thường tạo thành một tổ
hợp đồng thời hoặc nối tiếp. Mỗi một sự vật là một tổ hợp đồng thời của các kích thích
do thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác hay cả xúc giác tham gia. Nên để thích nghi với
môi trường, não bộ phải có khả năng phản ứng, phân biệt một cách chính xác hệ thống
này với hệ thống khác hoặc tổ hợp các kích thích riêng lẻ thành thể thống nhất. Để hiểu
quy luật tính hệ thống trong hoạt động thần kinh cấp cao, trước tiên chúng ta phải xét
chức năng phân tích và tổng hợp của não bộ.
Quy luật này thể hiện rõ trong việc hình thành các chuỗi hoạt động. Đó là một hệ
thống các phản xạ có điều kiện được lặp đi lặp lại theo một trình tự nhất định và theo một
khoảng thời gian xác định trong một thời gian dài, sau đó chỉ cần một phản xạ đầu xảy ra
thì chuỗi phản xạ tiếp theo được thực hiện. Ví dụ trẻ học thuộc các bài tập thể dục buổi
sáng, thể dục giữa giờ hay hoạt động trong ngày. Đây là cơ sở xây dựng nếp sống khoa
học cho trẻ.
e) Quy luật về mối tương quan giữa cường độ kích thích và cường độ phản xạ có điều
kiện
Theo quy luật này, giữa cường độ kích thích và cường độ phản xạ tỷ lệ thuận. Quy
luật này chỉ mang tính chất tương đối. Vì đối với bất kỳ kích thích nào cũng tồn tại “giới
hạn cường độ” nhất định. Kích thích quá yếu, chưa tới ngưỡng sẽ không tạo ra phản ứng.
Khi vượt quá giới hạn nhất định, thì việc tăng cường độ của kích thích sẽ làm giảm độ lớn
của phản ứng vì kích thích quá mạnh sẽ làm xuất hiện ức chế vượt hạn. Nói tóm lại, trong
giới hạn nhất định, cường độ của phản xạ có điều kiện phụ thuộc vào cường độ của kích
thích có điều kiện.
2.2.7. Hệ thống tín hiệu hai
a) Các hệ thống tín hiệu
Mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường được thực hiện qua sự tác động của các kích
thích vào các thụ quan rồi từ đó truyền tới bán cầu đại não. Kích thích tác động lên cơ thể

17
nhằm báo trước sự xuất hiện của một hiện tượng hay sự việc nào đó được gọi là tín hiệu.
I.P. Pavlôv gọi cách tác động của tín hiệu để tạo ra phản ứng như vậy là hệ thống tín hiệu
thứ nhất. Ngoài ra, tiếng nói và chữ viết đều tham gia vào việc hình thành hệ thống tín hiệu
mới đó là hệ thống tín hiệu thứ hai.
b) Hệ thống tính hiệu thứ nhất
Tín hiệu thứ nhất hay còn gọi tín hiệu cụ thể là những sự vật hiện tượng cụ thể trực
tiếp như ánh sáng, nhiệt độ, màu sắc…
Bất kỳ kích thích nào tác động lên các thụ quan cũng sẽ trở thành tín hiệu nhờ có
hoạt động của vỏ não. Vì vậy, hệ thống tín hiệu thứ nhất có đầy đủ các tính chất của phản
xạ có điều kiện. Nó được phát triển và hoàn chỉnh hoá dần dần trong cuộc sống nhằm tạo
ra khả năng thích nghi tốt nhất giữa cơ thể với môi trường luôn thay đổi. Hệ thống tín hiệu
thứ nhất là hoạt động đặc trưng cho hệ thần kinh của con người, nó biểu hiện rõ ở trẻ em
trong 6 tháng đầu tiên của thời kỳ phát triển sau phôi thai. Hệ thống tín hiệu thứ nhất cũng
gọi là tín hiệu của sự vật và là cơ sở để hình thành hệ thống tín hiệu thứ hai.
c) Hệ thống tín hiệu thứ hai
Hệ thống tín hiệu thứ hai hay còn gọi tín hiệu của tín hiệu là toàn bộ hoạt động của
vỏ não đặc trưng cho con người do ngôn ngữ đảm nhiệm. Tiếng nói đã thay thế các kích
thích thuộc hệ thống tín hiệu thứ nhất nhằm tạo ra khả năng phản ứng, không chỉ đối với
các vật cụ thể mà cả với tên gọi của chúng. Mối liên hệ giữa tiếng nói và các kích thích cụ
thể được thực hiện theo nguyên tắc hình thành các phản xạ có điều kiện - tạo ra các đường
liên hệ thần kinh tạm thời.
Hệ thống tín hiệu thứ hai là ngôn ngữ, là lời nói, có thể nhìn thấy, nghe thấy và tư
duy được. Nó được hình thành và phát triển dần dần trong quá trình phát triển cá thể trong
môi trường sống nhất định. Đối với con người, ngôn ngữ là một kích thích giống như các
sự vật và hiện tượng của môi trường xung quanh. Ở người, bất kỳ một tác nhân kích thích
nào cũng liên quan với ngôn ngữ. Các tín hiệu ngôn ngữ đã khái quát hoá các tín hiệu
thuộc hệ thống tín hiệu thứ nhất. Trong quá trình sống, ngôn ngữ đã liên hệ mật thiết với
tất cả các kích thích bên trong, lẫn kích thích bên ngoài tác động lên bán cầu đại não. Nó
đã trở thành tín hiệu và thay thế các kích thích đó. Cũng chính nhờ vậy mà ngôn ngữ cũng
tạo ra các phản ứng giống như kích thích cụ thể bình thường.
Ví dụ, ở một em bé từ 1 - 8 tuổi đã hình thành được phản xạ vận động nào đó đối với
tiếng chuông. Khi phản xạ đã hình thành, ta chỉ cần nói hay viết chữ “chuông” rồi đưa cho
em bé xem là phản ứng đã xuất hiện. Ngược lại, khi phản xạ đã hình thành với chữ
“chuông” thì sau khi nghe tiếng chuông rung phản ứng cũng xuất hiện. Điều này thực hiện
được vì ngôn ngữ đã hoàn toàn thay thế được kích thích âm thanh cụ thể.
So với hệ thống tín hiệu thứ nhất, hệ thống tín hiệu thứ hai có đặc điểm nổi bật là có
khả năng trừu tượng hoá và khái quát hoá các sự vật hiện tượng. Từ ngữ không chỉ làm vật
đại diện, làm tín hiệu cho một sự vật hiện tượng mà còn có thể thay thế cho hàng loạt sự
vật hiện tượng tương tự hoặc liên quan mật thiết với nhau. Vậy nên hệ thống tín hiệu hai là
cơ sở sinh lý của tư duy con người.
18
Hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai liên quan mật thiết với nhau
về mặt chức năng, chúng phụ thuộc vào nhau. Sự nhận thức đầy đủ các sự vật, hiện tượng
chỉ có được khi có sự tác động qua lại giữa hai hệ thống. Do đó, trong giáo dục học sinh
tiểu học rất cần thiết kết hợp lời giảng với các biểu tượng trực quan để tăng hiệu quả dạy
học.
2.2.8. Đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao ở học sinh tiểu học
Trẻ 6 tuổi bắt đầu học đọc và viết nên bắt đầu sử dụng các khái niệm thoát khỏi
các hành động.
Trẻ 7 tuổi, thuỳ trán đã hoàn thiện hơn nên xuất hiện khả năng duy trì chương
trình hành động gồm một vài động tác và khả năng dự kiến trước được kết quả của hành
động.
Trẻ 7 – 9 tuổi các phản xạ có điều kiện được hình thành nhanh hơn. Nhiều phản xạ
phức tạp được hình thành dần. Nhiều phản xạ có độ ổn định cao đối với những tác động
bên ngoài, các quá trình thần kinh được tập trung nhanh hơn.
Trẻ 10 – 12 tuổi, các phản xạ có điều kiện hình thành nhanh và bền vững. Những
cử động thừa và không phù hợp nào đó của phản ứng đều bị mất. Các phản xạ có điều
kiện có độ bền vững cao đối với các kích thích bên ngoài, trẻ có khả năng tập trung
nhanh và tốt hơn, điều này giúp trẻ ngày càng thực hiện các nhiệm vụ học tập.
2.3. Các kiểu hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ
Có nhiều quan điểm khác nhau về các loại hình thần kinh ở trẻ.
- Theo Hypocrat (460 - 356 TCN), một danh y người Hy Lạp. Ông đã dựa vào những
biểu hiện bên ngoài như đặc tính, thái độ của mỗi người đối với các sự vật hiện tượng để
chia ra 4 loại hình thần kinh ở trẻ là: Hăng hái, bình thản, nóng nảy và âu sầu.
- I.P.Paplop đã dựa vào ba thuộc tính cơ bản của quá trình thần kinh (cường độ, tính cân
bằng, tính linh hoạt) chia ra các kiểu thần kinh cấp cao cơ bản sau:
+ Mạnh, thăng bằng, linh hoạt (Hăng hái): Hưng phấn, ức chế đều mạnh, thăng bằng,
chuyển đổi qua nhau một cách dễ dàng.
Những người thuộc loại này nhanh nhẹn, tháo vát có nhiều nghị lực. Có khả năng
tự chủ, thông minh, phản ứng nhanh nhạy, dễ thích nghi với cuộc sống. Khi thích thú với
công việc thì rất hăng hái, nhiều sáng tạo. Khi không hứng thú thì có nhiều chán nản,
năng suất lao động thấp. Trẻ loại này cũng thể hiện tính kiên định, thông minh dễ tiếp thu
sự giáo dục, khi không hứng thú khó bảo.
+ Mạnh, thăng bằng, không linh hoạt (ỳ hay Bình thản): Hưng phấn, ức chế đều
mạnh, thăng bằng, nhưng chuyển đổi qua nhau một cách chậm chạp. Những người này
điềm đạm, bình tĩnh, chín chắn có nghị lực, ít bị kích động nhưng bảo thủ, lề mề khó
chuyển biến. Những trẻ loại hình thần kinh này có biểu hiện hăng hái dễ tiếp thu sự giáo
dục, huấn luyện song phản ứng kém nhanh nhạy.
+ Mạnh, không thăng bằng (nóng nảy): Hưng phấn, ức chế đều mạnh nhưng không
thăng bằng, hưng phấn mạnh hơn ức chế. Dễ thành lập phản xạ có điều kiện mới, nhưng
19
xóa bỏ những phản xạ cũ khó khăn. Những trẻ thuộc loại này thường biểu hiện hăng hái,
nghịch ngợm, dễ phát khùng, thiếu kỷ luật, khó bảo.
+ Yếu (Âu sầu): Hưng phấn, ức chế đều yếu, hưng phấn yếu hơn ức chế.
Không chịu được những kích thích mạnh kéo dài. Hình thành phản xạ có điều kiện
và động hình khó. Xóa bỏ những phản xạ có điều kiện và động hình cũ cũng khó khăn.
Trong đời sống, những người này thường nhút nhát, non gan, đa sầu, dễ nhụt ý trước khó
khăn, luôn có tâm lý tự ty, an phận thủ thường. Trẻ em thuộc loại này thường có biểu
hiện nhút nhát, ít vận động. Khó hòa nhập với tập thể khi mới đến trường, thường ngồi
yên một chỗ, khi có người hỏi có thể òa lên khóc.
- Theo nhà khoa học Nga Ivanôp Smolenxki cũng có 4 loại hình thần kinh ở trẻ:
+ Loại nhạy cảm: Dễ dàng hình thành phản xạ có điều kiện. Phân hóa chậm và khó
khăn. Không điềm tĩnh, không tập trung, hay nói chuyện, rất hiếu động, dễ gần nhưng
cũng dễ xa các bạn.
+ Loại kiềm chế: Khó hình thành phản xạ có điều kiện. Quá trình phân hóa tiến hành tốt.
Điềm tĩnh, tập trung ít chan hòa nhưng lại chơi lâu với các bạn.
+ Loại sinh động: Dễ dàng hình thành phản xạ có điều kiện. Dễ phân hóa. Cân bằng
giữa quá trình hưng phấn và ức chế. Điềm tĩnh, chan hòa, tháo vát, dễ dàng thích ứng với
hoàn cảnh sống.
+ Loại thụ động: Khó hình thành phản xạ có điều kiện. Phân hóa gặp nhiều khó khăn, ít
quan tâm đến xung quanh, sống nội tâm, khó kết bạn…
2.4. Giấc ngủ của trẻ
2.4.1. Bản chất sinh lý của giấc ngủ: Ngủ là một nhu cầu sinh lý bình thường của cơ thể,
có tác dụng bảo vệ hệ thần kinh.
Theo Paplop, tế bào thần kinh làm việc kéo dài và căng thẳng sẽ mệt mỏi và suy
nhược. Nếu làm việc thái quá thì các tế bào sẽ tổn thương và sẽ bị rối loạn hoạt động. Lúc
này vỏ não sẽ có phản ứng tự vệ chống lại sự mệt mỏi và suy nhược của tế bào thần kinh:
Trong vỏ não sẽ phát sinh một quá trình ức chế, ức chế này lan rộng khắp vỏ não, xuống cả
phần dưới vỏ làm xuất hiện giấc ngủ. Vậy cơ sở sinh lý của giấc ngủ là hiện tượng khuyếch
tán của một quá trình ức chế lan truyền trong toàn bộ vỏ não và các phần dưới vỏ. Sau giấc
ngủ khả năng làm việc của các tế bào thần kinh được phục hồi và nâng lên rõ rệt.
2.4.2. Những thay đổi trong cơ thể lúc ngủ
- Cơ thể tạm thời không liên lạc với bên ngoài như khi thức.
- Phần lớn các giác quan ngừng hoạt động hoặc hoạt động yếu ớt.
- Các cơ quan khác tạm thời giảm hoạt động chức năng hay hoạt động với cường độ thấp.
- Quá trình trao đổi chất và năng lượng giảm.
2.4.3. Thời gian ngủ của trẻ: Thời gian ngủ chiếm khoảng 1/3 đời người, nhưng phân bố
không đều ở các lứa tuổi. Trẻ càng nhỏ thời gian ngủ càng nhiều, giấc ngủ ngắn, số lần
ngủ nhiều. Thời gian ngủ cho các lứa tuổi như sau: Trẻ sơ sinh: 20 - 21 giờ/ ngày, trẻ 6
tháng: 14 giờ/ ngày, trẻ 12 tháng: 13 giờ/ ngày, trẻ 3 - 4 tuổi: 12 giờ/ ngày, trẻ 5 - 7 tuổi:
20
11 giờ/ ngày. trẻ 10 tuổi: 10 giờ/ ngày. Người lớn: 7 - 8 giờ/ ngày. Cần đảm bảo cho trẻ
ngủ đủ giấc để trẻ phát triển tốt cả về thể lực và trí lực.
2.5. Các cơ quan phân tích ở trẻ em
2.5.1. Khái niệm: Cơ quan phân tích là cơ quan tiếp nhận và phân tích các tác nhân kích
thích tác động vào cơ thể gây ra cảm giác.
2.5.2. Cấu tạo của cơ quan phân tích: Một cơ quan phân tích gồm có 3 phần:
- Phần ngoại biên (cơ quan nhận cảm): có nhiệm vụ tiếp nhận các tác nhân kích thích và
biến năng lượng của tác nhân kích thích thành xung động thần kinh.
- Phần dẫn truyền: Là các dây thần kinh hướng tâm, làm nhiệm vụ dẫn truyền các xung
động thần kinh từ các cơ quan nhận cảm về trung ương thần kinh.
- Phần trung ương: Nằm trên vỏ não. Mỗi cơ quan phân tích có một vùng tương ứng trên
vỏ não và các phần dưới vỏ. Có nhiệm vụ phân tích xung động thần kinh gây ra cảm giác.
2.5.3. Các cơ quan phân tích ở người
a) Cơ quan phân tích thị giác
- Chức năng: Cơ quan phân tích thị giác có nhiệm vụ thu nhận các kích thích về hình
dáng, kích thước, màu sắc, vị trí, sự chuyển động hay đứng yên của vật.
- Cấu tạo: Cơ quan phân tích thị giác gồm cầu mắt, dây thần kinh thị giác (dây thần kinh
số II) và trung khu thị giác (gồm não giữa và vùng thị giác của bán cầu đại não).
+ Cầu mắt: Nằm trong hốc mắt, đường kính khoảng 25 mm, ở trẻ em khoảng 16 mm. Từ
ngoài vào trong được cấu tạo bởi 3 lớp màng:

Hình 2.4. Cấu tạo của cầu mắt


- Màng cứng (màng sợi): Nằm ngoài cùng có tác dụng bảo vệ mắt, phía trước gọi là màng
giác trong suốt
- Màng mạch (màng nhện): Có nhiều mạch máu đến nuôi mắt, phía trước dày lên tạo thể
mi và mống mắt (lòng đen), giữa lòng đen có đồng tử (con ngươi) có thể co giãn để điều
chỉnh lượng ánh sáng vào mắt.
- Màng lưới (Màng thần kinh, võng mạc): Có các tế bào thị giác gồm tế bào hình nón và
tế bào hình que. Có khoảng 6,5 - 7 triệu tế bào hình nón có khả năng thu nhận cảm giác
21
màu sắc (có các tế bào thu nhận 3 màu chính là đỏ, lục và tím, các màu còn lại là sự pha
trộn của 3 màu này) và 125 - 130 triệu tế bào hình que thu nhận cảm giác cường độ ánh
sáng. Ngoài ra còn có nhân mắt (thể thuỷ tinh) đặc rắn, trong suốt và thể pha lê.
+ Sinh lý mắt
- Hệ quang học của mắt: Gồm giác mạc, nhân mắt và thủy dịch là các môi trường chiết
quang. Khi nhìn một vật, các tia sáng từ vật đến mắt qua các môi trường chiết quang sẽ
khúc xạ và hội tụ trên võng mạc, ảnh của vật trên võng mạc là ảnh thật, ngược chiều và
có kích thước nhỏ hơn vật, có thể tính ảnh của vật theo công thức sau:
Kích thước ảnh Khoảng cách từ ảnh đến quang tâm
=
Kích thước vật Khoảng cách từ vật đến quang tâm
- Cơ chế thu nhận ánh sáng: Quá trình cảm thụ ánh sáng diễn ra ở màng lưới. Dưới tác
dụng ánh sáng, Rôđôpxin phân giải thành ôpxin và rêtinen. Rêtinen được tổng hợp từ
vitamin A. Nên vitamin A cần cho mắt.
- Sự điều tiết của mắt: Khi khoảng cách từ vật đến mắt thích hợp, ảnh của vật rơi đúng
vào võng mạc, lúc đó vật được nhìn rõ. Muốn nhìn rõ thì thủy tinh thể phải phồng (nếu
vật ở gần) hay xẹp (nếu vật ở xa). Sự thay đổi độ phồng của thể thủy tinh gọi là sự điều
tiết của mắt.
Khi vật ở xa, mắt nhìn không cần điều tiết. Nếu vật từ xa đưa vào gần dần thì khi
cách 65 cm mắt đã phải điều tiết. Vật càng đưa đến gần, mắt càng cần điều tiết hơn và khi
vật cách mắt 10 cm thì mắt không thể điều tiết được nữa và điểm này gọi là cận điểm.
Cận điểm ở trẻ 10 tuổi là 7 cm, người 20 tuổi là 10 cm, 30 tuổi là 14 cm, 35 tuổi là 17
cm, 40 tuổi là 23 cm, 50 tuổi là 40 cm, 60 tuổi là 100 cm, 70 tuổi là 400 cm. Người trên
70 tuổi mắt mất khả năng điều tiết.
- Các tật của mắt: Mắt thường có các tật cận thị, viễn thị và loạn thị
Nguyên nhân cận thị do cầu mắt quá dài hay thuỷ tinh thể quá phồng nên chỉ thấy
được vật ở gần. Nếu trẻ hay nhìn gần, mắt điều tiết thường xuyên nên thuỷ tinh thể luôn
phồng, lâu dần thành tật gây ra cận thị. Muốn khắc phục phải đeo kính lõm 2 mặt.
Người viễn thị có khả năng nhìn khá xa, nguyên nhân do cầu mắt quá ngắn cần
đeo kính lồi hai mặt. Ở người già viễn thị do giảm tính đàn hồi của thuỷ tinh thể.
Cần giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh mắt để tránh tật cận thị như không nên nhìn
gần, không đọc ở nơi thiếu ánh sáng, xem tivi, vi tính, điện thoại quá nhiều, ăn uống đủ
chất nhất là vitamin A.
b) Cơ quan phân tích thính giác
- Chức năng : Cơ quan phân tích thính giác là cơ quan thụ cảm âm thanh và thăng bằng
của cơ thể.
- Cấu tạo: Gồm tai, dây thần kinh thính giác (dây thần kinh số VIII) và trung khu thính
giác nằm ở thùy thái dương của bán cầu não. Từ ngoài vào trong tai có 3 phần là tai
ngoài, tai giữa và tai trong. Tai ngoài gồm vành tai, ống tai ngoài và màng nhĩ. Có nhiệm
22
vụ thu nhận và dẫn âm thanh vào tai giữa. Tai giữa gồm khoang tai giữa (hòm nhĩ) chứa
chuỗi xương tai có tác dụng khuếch đại sóng âm và vòi nhĩ (vòi Eustachi) cân bằng áp
lực hai bên màng nhĩ. Tai trong (mê lộ) gồm mê lộ xương bên ngoài và mê lộ màng bên
trong. Giữa mê lộ xương và mê lộ màng có chứa ngoại dịch, bên trong mê lộ màng có
chứa nội dịch.
Mê lộ xương gồm tiền đình xương, ba đôi ống bán khuyên xương và ốc tai xương.
Mê lộ màng gồm tiền đình màng, ba đôi ống bán khuyên màng và ốc tai màng. Trong
tiền đình màng và ba đôi ống bán khuyên màng có các thụ quan thăng bằng. Ốc tai màng
là phần chính của cơ quan thính giác. Các tế bào thính giác xếp thành 4 - 5 dãy theo chiều
dài của ốc tai màng gọi là cơ quan coocti.
- Cơ chế thu nhận sóng âm

Hình 2.5. Cơ chế truyền sóng âm


Cơ quan phân tích thính giác là cơ quan ít biến đổi nhất trong quá trình phát triển ở
trẻ em. Vành tai của trẻ phát triển mạnh trong 2 - 3 năm đầu. Ống tai ngoài của trẻ nhỏ có
hình khe, phần giữa hẹp. Ống tai phát triển mạnh trong năm đầu, đến 6 tuổi đạt kích
thước như người trưởng thành. Khi trẻ 6 tuổi, ống Eustachi có đường kính giống như
người trưởng thành. Trẻ có phản ứng với âm thanh ngay từ khi lọt lòng mẹ. Trẻ càng lớn
khả năng thu nhận và phân biệt âm thanh càng tăng. Tính cảm thụ âm thanh ở trẻ tăng
dần và đến 12 - 14 tuổi thì đạt mức cao nhất.
Ống Eustachi thông giữa hầu và tai giữa nên cũng có tác hại nếu trẻ bị viêm họng
thường xuyên vi sinh vật có thể theo ống này chui qua tai giữa gây viêm tai giữa. Vậy
nên cần điều trị khi trẻ viêm họng tránh gây viêm tai giữa làm giảm thính lực ở trẻ.
c) Cơ quan phân tích vị giác, khứu giác và xúc giác
- Cơ quan phân tích vị giác giúp nhận biết vị thức ăn, làm tăng cảm giác ngon miệng và
giúp cho việc lựa chọn thức ăn phù hợp với khẩu vị. Cấu tạo gồm bộ phận thụ cảm là các
vi thể vị giác nằm trên bề mặt của lưỡi tạo thành chồi vị giác. Mỗi chồi vị giác nối với 2-
3 sợi thần kinh hướng tâm, dẫn truyền xung động thần kinh về vùng vị giác nằm ở thùy
đỉnh. Có 4 loại chồi nhận cảm 4 vị chính là ngọt, mặn, chua và đắng. Ở trẻ em tiểu học
khả năng vị giác giống như người lớn

23
- Cơ quan phân tích khứu giác có nhiệm vụ thu nhận những kích thích bằng hơi. Cùng với
cơ quan vị giác giúp cơ thể cảm giác đầy đủ hơn về chất lượng thức ăn và bản chất của không
khí xung quanh. Cấu tạo gồm các tế bào ngửi nằm trong màng nhầy hốc mũi. Đó là những
tế bào hai cực có đường kính khoảng 5 - 10 m. Có khoảng 65 triệu tế bào khứu giác ở
người. Các tế bào này có nhiều tơ có tác dụng làm tăng diện tích tiếp xúc với mùi (ở
người diện khứu giác là 5 cm2 nhưng nhờ có các tơ đã làm tăng diện tiếp xúc lên 100 -
150 lần). Theo Hering có 6 mùi cơ bản là: Mùi nước hoa, mùi quả chín, mùi nhựa thông,
mùi khét, mùi hắc (hành, tỏi) và mùi thối. Trẻ nhỏ cảm giác khứu giác còn kém, chỉ có
khả năng phản ứng với những mùi mạnh. Trẻ càng lớn độ nhạy bén với những kích thích
tăng dần, sau đó đến 6 tuổi dần dần bị giảm sút. Khả năng phân biệt các mùi tăng dần theo
lứa tuổi và phụ thuộc vào sự luyện tập.
- Cơ quan phân tích xúc giác có vai trò quan trọng trong sự nhận thức thế giới xung
quanh, là nguồn gốc của những phản xạ, đặc biệt là những phản xạ tự vệ. Có 2 loại thụ
quan chính là thụ quan cơ học (đụng chạm và áp lực) và thụ quan nhiệt (nóng và lạnh).
Đối với trẻ em, xúc giác có vai trò rất quan trọng vì kích thích sự hoạt động của hệ thần
kinh, tạo cho trẻ cảm giác an toàn. Cảm giác xúc giác của trẻ tăng dần theo lứa tuổi và
còn phụ thuộc vào sự luyện tập tự nhiên hay nhân tạo.
Ngoài các cơ quan phân tích trên, trong cơ thể còn có các thụ quan thu nhận cảm
giác ở các cơ quan bên trong như: Tim, phổi, gan, dạ dày, thận, khớp xương...Các cơ
quan thu nhận cảm giác này còn gọi là thụ quan bên trong hay thụ quan bản thể. Các thụ
quan này là các đầu tận cùng tự do của dây thần kinh cảm giác. Các kích thích ở các cơ
quan bên trong cũng được truyền lên vỏ não và ảnh hưởng đến các phản ứng của cơ thể.
Câu hỏi và bài tập
1. Vì sao nói hệ thần kinh có vai trò quan trọng nhất trong cơ thể con người? Vì sao nói
nơron là đơn vị cấu tạo, chức năng của hệ thần kinh?
3. Thảo luận về hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ. Vận dụng những đặc điểm của thần
kinh cấp cao trong giáo dục học sinh tiểu học?
4. Các quan điểm về các loại hình thần kinh ở trẻ? Vì sao người giáo viên cần hiểu biết
các loại hình thần kinh ở trẻ?
5. Phân tích vai trò của giấc ngủ, bản chất của giấc ngủ và thời gian ngủ ở các độ tuổi. Vì
sao trẻ em cần được ngủ đủ giấc. Dựa trên bản chất của giấc ngủ hãy phân tích các điều
kiện cần thiết để giúp trẻ có giấc ngủ ngon.
6. Cấu tạo và chức năng của cơ quan phân tích thị giác ở trẻ. Phân tích vai trò của
Vitamin A đối với cơ quan thị giác. Thế nào là cận thị học đường, Cách phòng chống?
7. Phân tích cấu tạo và chức năng của cơ quan phân tích thính giác, vị giác, khứu giác và
xúc giác. Đặc điểm các cơ quan phân tích này ở trẻ em.

24
Chương 3. HỆ VẬN ĐỘNG
(2 tiết LT + 3 tiết TH)
3.1. Vai trò của hệ vận động
- Là điểm tựa hay là cột trụ cho toàn bộ cơ thể, tham gia chức năng bảo vệ: Hộp sọ bảo
vệ não bộ, lồng ngực bảo vệ tim phổi...tham gia chức năng dự trữ khoáng (canxi)
- Tham gia chức năng tạo máu vì tuỷ xương có khả năng tạo ra hồng cầu và bạch cầu.
- Tham gia chức năng phát âm, biểu lộ tình cảm, thực hiện các chức năng dinh dưỡng và
sinh sản.
- Là cơ quan vận động chính của cơ thể, giúp cơ thể di chuyển trong không gian, chinh
phục, cải tạo thiên nhiên, duy trì nòi giống.
- Tạo hình dáng điển hình cho cơ thể, giúp phân biệt giữa nam và nữ.
3.2. Cấu tạo hệ vận động: Hệ vận động bao gồm hệ xương và hệ cơ.
3.2.1. Hệ xương: Ở người trưởng thành có khoảng 206 xương, trong đó có 85 xương
chẵn và 36 xương lẻ
Xương có cấu tạo 3 phần từ ngoài vào trong là: Màng xương, nhu mô xương và ống
tủy. Lớp màng xương có các tế bào sinh xương làm cho xương lớn lên và khi xương bị
gãy chúng sẽ sinh sản giúp cho xương liền lại. Nhu mô xương tạo nên lớp xương chắc và
xương xốp gồm nhiều tấm xương. Trụ giữa xương chứa tủy xương, ở trẻ em tất cả các
khoang xương đều chứa tủy đỏ có khả năng sinh hồng cầu, ở người lớn một số tủy đỏ
chuyển thành tủy vàng không có khả năng tạo máu.

Hình 3.1. Sự tạo máu từ tuỷ xương


Thành phần hoá học của xương: Xương tươi có gần 50% nước, 15,2% mỡ,
12,45% chất hữu cơ (osêin) và 21,8% các muối vô cơ (CaCO3, Ca3(PO4)2). Tỷ lệ Ca/ P
tương đối ổn định trong xương. Hữu cơ thường chiếm độ 1/3 và vô cơ 2/3 là khá điển
25
hình bảo đảm xương vừa thực hiện chức năng chống đỡ vững chắc, vừa đảm bảo bền
dẻo, đàn hồi.
Các xương gắn với nhau nhờ các khớp xương có 3 loại khớp cơ bản: khớp bất
động, khớp bán động và khớp động. Khớp bất động có chủ yếu ở xương sọ và xương
mặt. Khớp bán động có chủ yếu ở xương cột sống và khớp động có nhiều ở các xương
chi. Bộ xương người chia làm ba phần: Xương sọ, xương thân và xương chi.
a) Xương sọ: Gồm sọ mặt và sọ não.
- Sọ não: Gồm 8 xương là xương trán, chẩm, bướm, sàng (lẻ), xương thái dương, xương
đỉnh (chẵn). Các xương khớp với nhau bởi khớp bất động để tạo hộp sọ bảo vệ não bộ.
- Sọ mặt: Gồm 15 xương là xương lá mía, hàm dưới, xương móng (lẻ), xương hàm trên,
xương gò má, xương lệ, xương mũi, xương xoăn dưới, xương khẩu cái (xương chẵn). Các
xương chủ yếu khớp kiểu bất động tạo nên các đặc điểm nét mặt, riêng xương hàm dưới
khớp bán động giúp hoạt động nhai và nói.
b) Xương thân: Gồm xương cột sống và xương lồng ngực.
- Xương cột sống: Gồm 33 - 34 đốt xếp chồng lên nhau. Dài độ 60 -70 cm. Chiếm 4/10
chiều dài cơ thể. Cột sống người có tính phân đốt (7 đốt cổ, 12 đốt ngực, 5 đốt thắt lưng,
5 đốt cùng và 4 - 5 đốt cụt dính liền nhau) giữa các đốt sống có đĩa sụn gian đốt.
- Xương lồng ngực: Gồm 12 đôi xương sườn, xương ức và 12 đốt sống ngực. Trong 12
đôi xương sườn có 7 đôi xương sườn thật, 3 đôi xương sườn giả và 2 đôi xương sườn
lửng. Các xương sườn một đầu dính với đốt sống, một đầu có sụn nối với xương ức tạo
khoang ngực chứa tim và phổi.

Hình 3.2. Bộ xương người


c) Xương chi: Gồm xương chi trên và xương chi dưới.
- Xương chi trên: Có hai phần là đai vai (xương đòn và xương bả vai), phần tự do
(xương cánh tay, xương cẳng tay, xương bàn tay: xương cổ tay, xương đốt bàn và xương
đốt ngón tay).
26
- Xương chi dưới: Gồm phần đai hông (gồm có xương chậu nối với xương cùng và
xương cụt) và phần tự do (xương đùi, xương cẳng chân và xương bàn chân: xương cổ
chân, xương đốt bàn và xương đốt ngón chân)
3.2.2. Hệ cơ: Ở người có khoảng 600 cơ. Có 3 loại là cơ vân (cơ xương), cơ trơn và cơ
tim. Ngoài ra còn có cơ bì nằm ở các tuyến nước bọt hay tuyến mồ hôi.
a) Thành phần hóa học của cơ: Trong cơ có nước chiếm 75%, prôtêin chiếm 20%, còn
lại là các chất vô cơ như ion K, ion Na, ion Mg...và chất hữu cơ như glycozen, lipit...
- Cơ vân: chiếm 42% trọng lượng cơ thể, phân bố ở tay, chân, bề mặt ngoài của thân (trừ
cơ hoành). Cơ vân hoạt động theo ý muốn con người.

Hình 3.3. Cấu tạo sợi cơ vân

+ Cấu tạo: Tập hợp thành từng bó có màng mỏng bao bọc gọi là bắp cơ. Hai đầu bắp cơ
có gân rất chắc và dai bám vào xương. Dưới kính hiển vi điện tử người ta còn thấy cấu
tạo nên các sợi cơ là các tơ cơ. Có hai loại tơ là miozin và actin. Khi các sợi này trượt lên
nhau sẽ gây nên hiện tượng cơ co. Khi cơ co các sợi actin chui sâu vào khoảng giữa các
sợi miozin làm cho bắp cơ ngắn lại. Cơ co giãn cần năng lượng chủ yếu lấy từ ATP.
ATP
Actin + miozin Actomiozin (Sợi cơ co lại)
ATP
Actomiozin Actin + miozin (Sợi cơ giãn ra khi hết kích thích)
- Cơ trơn: Phân bố trong các nội quan, thành mạch máu....Các sợi cơ trơn có nhiều tơ cơ
mảnh đồng nhất. Cơ trơn hoạt động không theo ý muốn con người.
- Cơ tim: Nó chỉ phân bố ở tim. Trên cơ tim còn có yếu tố thần kinh. Cơ tim hoạt động
không theo ý muốn.
c) Sự mỏi cơ: Khi cơ hoạt động lâu và nặng nhọc, sự co cơ giảm dần hay ngừng hẳn gọi
là sự mỏi cơ. Khi nhiều nhóm cơ trong cơ thể mỏi gọi là sự mệt mỏi.

27
Nguyên nhân chính gây mỏi cơ là do sự tích tụ axít lactic gây nhiễm độc. Cơ mỏi còn
do thiếu dinh dưỡng, do yếu tố thần kinh và tâm lý. Vì vậy để chống mỏi cơ cần có chế độ
làm việc, nghỉ ngơi hợp lý; bồi dưỡng cơ thể đồng thời xoa bóp cơ khi hoạt động nhiều.
Trong dạy học cần thay đổi động hình nhằm chống mệt mỏi cho trẻ bằng cách sử dụng đa
dạng các phương pháp dạy học và tăng cường hoạt động trải nghiệm, tính tích cực của học
sinh trong học tập.
3.3. Sự phát triển hệ vận động ở trẻ em
3.3.1. Sự phát triển hệ xương
Ở lứa tuổi mầm non và tiểu học bộ xương đang thời kỳ phát triển và có nhiều biến
đổi. Về thành phần hóa học, tỉ lệ chất hữu cơ chiếm nhiều hơn 1/3 và vô cơ ít hơn 2/3,
nên xương trẻ em mềm dẻo và đàn hồi hơn, dễ uốn cong theo các tư thế.
Sự cốt hoá của xương tăng dần theo tuổi. Các trung tâm cốt hoá ở đầu các xương
cánh tay xuất hiện khi trẻ 1 - 2 tuổi, ở các xương trụ lúc trẻ 5 - 8 tuổi, đến 18 - 20 tuổi
đầu xương đòn mới cốt hoá. Sự cốt hoá của xương ngón tay kết thúc lúc 9 tuổi, xương cổ
tay lúc 12 uổi. Phần lớn ở xương dài và xương đốt sống, giữa thân xương và đầu xương
vẫn còn sụn nên xương trẻ em liên tục dài ra cho đến khi thân xương gắn vào đầu xương
thì xương không dài được nữa (ở nữ là lúc 18 - 22 tuổi và ở nam là lúc 22 - 25 tuổi). Sọ
não tiếp tục phát triển nhưng chậm dần. Khi trẻ 3 tuổi, dung tích sọ não bằng 80% người
trưởng thành, 7 - 8 tuổi gần bằng 90%. Sọ mặt tiếp tục phát triển trong nhiều năm, khi trẻ
13 - 14 tuổi những đặc điểm cơ bản của nét mặt được hình thành.
Xương cột sống trẻ em cũng như người trưởng thành gồm nhiều đốt sống khớp với
nhau bởi khớp bán động. Cột sống trẻ em chưa ổn định. Ở trẻ sơ sinh, cột sống gần như
thẳng. Khi trẻ 1 - 2 tháng biết ngẫng đầu các đốt sống cổ cong về phía trước hình thành
đoạn cong cổ. Trẻ tập ngồi (6 tháng) các đốt sống ngực cong về phía sau hình thành đoạn
cong ngực. Trẻ tập đi (12 tháng) các đốt sống vùng thắt lưng cong về phía trước. Do đó 4
đoạn cong của đốt sống được hình thành, song các đoạn cong này chưa ổn định, đến 7
tuổi đoạn cong cổ và đoạn cong ngực ổn định, đoạn cong thắt lưng ổn định ở tuổi dậy
thì (12 - 13 tuổi). Nhìn chung, cột sống trẻ em chưa ổn định, còn nhiều phần sụn nên nếu
trẻ ngồi sớm, bế nách, ngồi học không đúng tư thế dễ bị gù, vẹo cột sống.
Xương chi ở trẻ sơ sinh hơi cong đến 1 - 2 tháng thì hết. Xương cổ tay và xương
ngón tay nhỏ, cốt hóa muộn từ sơ sinh đến 2 tuổi. Sự phát triển của xương cổ chân mạnh
hơn xương cổ tay nên ở trẻ em các động tác còn vụng về.
Xương chậu gồm hai xương cánh chậu, xương cùng và xương cụt. Các xương này
bắt đầu dính liền nhau lúc trẻ 7 tuổi và kết thúc quá trình đó vào lúc 20 - 21 tuổi. Trẻ dưới
6 tuổi, xương chậu của nam và nữ gần giống nhau. Đến tuổi dậy thì chậu hông của nữ
thường rộng và nông hơn, điều này liên quan đến chức năng sinh sản ở nữ.
3.3.2. Sự phát triển của hệ cơ
Hình dáng và cấu trúc bắp cơ có sẵn từ thời kỳ thai, sau đó phát triển dần về chiều dài
và độ dày. Sự lớn lên của cơ phụ thuộc vào mức độ vận động và tập luyện. Dưới 6 tuổi, trẻ
hoạt động nhiều nhưng chỉ trong thời gian ngắn nên cơ phát triển chậm và yếu. Ở trẻ 6 tuổi
28
khối lượng cơ chỉ chiếm 20 - 22%, 8 tuổi khối lượng cơ đã chiếm 28% khối lượng toàn
thân, 14 tuổi chiếm 30% và 18 - 20 tuổi cơ chiếm 40 - 42%. Tốc độ phát triển của cơ tăng
dần theo sự vận động và luyện tập.
Sức dẻo dai của cơ ở giai đoạn 6 - 8 tuổi bắt đầu chậm lại và kéo dài trong nhiều
năm nên trẻ dễ mệt mỏi nếu duy trì lâu một tư thế. Khả năng duy trì tư thế ngồi học tăng
dần, trẻ mẫu giáo ngồi được khoảng 15 - 20 phút, trẻ 6 - 7 tuổi không quá 30 phút. Do đó,
cần bố trí thời gian ngồi học của trẻ phù hợp.
Sự phối hợp cử động của các cơ bàn tay, ngón tay khéo léo và đa dạng từ lúc trẻ 3 -
5 tuổi, sự khéo léo hoàn thiện dần khi trẻ lớn lên. Sự phối hợp vận động của nhiều loại cơ
như ở người trưởng thành hình thành từ 6 tuổi. Tuy nhiên, sự tiếp thu thói quen vận động
còn phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi cá thể và nhất là sự tập luyện thích hợp.
Cơ trẻ em có màu nhạt và có nhiều nước, ít chất đạm và mỡ nên khi trẻ bị tiêu chảy
hay bị mất nước thì sụt cân rất nhanh. Các cơ phát triển không đồng đều. Các cơ lớn (cơ
đùi, cơ lưng, cơ vai....) phát triển trước, các cơ nhỏ (cơ ngón tay, cơ bàn tay....) phát triển
sau nên trẻ chưa làm được các động tác khéo léo, tỉ mỉ.
Sự phát triển của cơ phụ thuộc vào mức độ hoạt động của chúng. Cơ nào hoạt động
càng nhiều thì càng phát triển. Các bắp cơ được phát triển cả về chiều dài và độ dày. Sự
tăng chiều dài là do sự kéo dài của từng sợi cơ, sự tăng bề dày nhờ sự lớn lên, ngoài ra
cũng có sự hình thành một số sợi cơ mới nhưng không đáng kể.
3.4. Vệ sinh hệ vận động ở trẻ em
3.4.1. Cung cấp đủ chất dinh dưỡng
Hệ xương và hệ cơ của trẻ phát triển mạnh, sự tạo thêm mô xương, sự cốt hoá của
xương, sự lớn lên của các sợi cơ về bề dài và bề dày, sự tạo tế bào xương, tế bào cơ mới
đều cần nhiều chất dinh dưỡng đặc biệt là chất đạm và các chất khoáng như Ca, P. vậy
nên trẻ em cần được cung cấp thức ăn đủ chất, đủ lượng thì hệ cơ xương mới phát triển
bình thường.
3.4.2. Luyện tập cơ xương
Ở trẻ em, sự cốt hoá của xương đang diễn ra, chất sụn hoá dần thành chất xương làm
sức chịu đựng của xương tăng lên và xương vẫn dài ra, giúp trẻ cao lớn lên. Lao động và
luyện tập thể dục thể thao vừa sức có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ, đồng thời
xương cốt hoá dần, các mấu xương hình thành làm chỗ bám cho cơ và làm xương thêm
vững chắc. Không cho trẻ lao động và luyện tập thể dục thể thao quá sức (như mang vác,
gánh gồng nặng) vì sẽ làm cho xương cốt hoá sớm, trẻ sẽ còi cọc không lớn lên được.
Quan tâm đến tư thế của trẻ ở mọi lúc mọi nơi khi trẻ ngồi học, ngồi ăn, đứng đi...
để phòng bệnh cong vẹo cột sống. Muốn vậy bàn ghế phải có kích thước vừa tầm với trẻ,
Không cho trẻ nằm nệm quá cứng hay quá mềm, không mang vác cặp nặng hay bắt trẻ
lao động quá sớm hoặc quá sức.

29
Hình 3.4. Tư thế ngồi học đúng
3.4.3. Chống mệt mỏi cho trẻ
Sức dẻo dai của cơ tăng chậm nên trẻ dễ mệt mỏi. Vì vậy không được phép kéo dài
thời gian của mỗi tiết học. Ngay trong tiết học cũng cần có nhiều hoạt động khác nhau để
trẻ có thể thay đổi tư thế, đỡ mệt mỏi.
Sự cốt hoá của đốt ngón tay kết thúc lúc 9 tuổi, còn ở cổ tay lúc 10 - 12 tuổi, nên
bàn tay trẻ chóng mỏi, không thể viết nhanh và quá lâu. Không nên giao cho trẻ đặc biệt
là học sinh lớp 1, 2 quá nhiều bài tập viết.
3.4.4. Rèn luyện đôi bàn tay khéo léo
Việc cho học sinh nhỏ luyện tập các kỹ năng, kỹ xảo, các công việc đòi hỏi sự khéo
léo của hai bàn tay là rất cần thiết. Những kỹ năng đan lát, thêu thùa, cắt may thủ công,
vẽ nặn, chơi đàn... đều có tác dụng tốt cho việc rèn đôi bàn tay khéo léo ở học sinh nhỏ.
Câu hỏi và bài tập
1. Phân tích các vai trò hệ vận động ở người.
2. Phân tích đặc điểm các phần của bộ xương người phù hợp với chức năng mà chúng
đảm nhận. Vì sao xương ở trẻ em có tính đàn hồi, mềm dẻo hơn xương người lớn.
4. Đặc điểm của các loại cơ ở người. Phân tích cơ chế co cơ và các nguyên nhân gây mỏi
cơ ở người. Đặc điểm hệ cơ ở trẻ em.
5. Thảo luận các biện pháp giáo dục vệ sinh hệ vận động cho trẻ, tổ chức cho trẻ thực
hành ngồi học đúng.
6. Thảo luận về nguyên nhân, tác hại, các dạng cong vẹo cột sống ở học sinh lứa tuổi tiểu
học và cách phòng tránh.

30
Chương 4. HỆ TUẦN HOÀN – MÁU
(2 tiết LT + 1 tiết TH)
4.1. Máu
4.1.1. Chức năng của máu
Máu là nguồn gốc tạo ra các dịch lỏng khác trong cơ thể như: Dịch bạch huyết, dịch
não tủy, dịch gian bào, dịch màng bụng, màng phổi, màng khớp.... tất cả các dịch đó tạo
ra môi trường bên trong cơ thể gọi là nội môi. Trong đó máu là quan trọng nhất và nó
tham gia nhiều chức năng sinh lý khác nhau trong cơ thể.
- Chức năng hô hấp: Vận chuyển khí O2 từ phổi đến tê bào và khí CO2 từ tê bào đến phổi
để thải ra ngoài.
- Chức năng dinh dưỡng: Vận chuyển các chất dinh dưỡng, các ion và nước của quá trình
tiêu hóa và hấp thu ở nhung mao ruột đến các tế bào.
- Chức năng bài tiết: Vận chuyển các sản phẩm thừa của quá trình trao đổi chất đến thận,
da thải ra ngoài.
- Máu có chức năng vận chuyển các chất như hoocmon, enzym, vitamin đi khắp cơ thể
cung cấp cho các tế bào, tham gia điều hòa hoạt động các cơ quan trong cơ thể.
- Máu có chức năng bảo vệ cơ thể: Chức năng này do tế bào bạch cầu đảm nhiệm. Một
nhóm bạch cầu thực hiện quá trình thực bào các vi khuẩn, các vật lạ, các độc tố xâm nhập
vào cơ thể. Một nhóm bạch cầu sinh ra kháng thể thực hiện các phản ứng miễn dịch bảo
vệ cơ thể. Protein hoà tan trong huyết tương loại globulin cũng tham gia chức năng này.
Ngoài ra máu có chức năng bảo vệ khi mạch máu và mô bị tổn thương. Sự hình thành
cục máu đông chống lại sự mất máu khi mạch máu bị tổn thương
- Máu còn có chức năng điều hòa nước, độ pH trong cơ thể và tham gia điều hoà thân
nhiệt, đặc biệt là ở những động vật đẳng nhiệt. Duy trì sự ổn định nhiệt độ bên trong cơ
thể và thích ứng với nhiệt độ môi trường ngoài.
Vậy trong cơ thể máu có nhiều vai trò quan trọng đối với các hoạt động sống nên
nếu mất máu nhiều có thể dẫn đến tử vong.
4.1.2. Thành phần của máu
a) Huyết tương: Có 90% là nước, 7,5% là prôtêin, gluxit 0,08 - 0,12%, lipit 0,5 - 1%,
muối khoáng 1% (chủ yếu là NaCl) và một số chất khác. Trong thành phần prôtêin
thường có các chất: Albumin, globumin, fibrinogen.
b) Các yếu tố hữu hình: Gồm có hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
- Hồng cầu: Hồng cầu có hình đĩa lõm 2 mặt không nhân. Đường kính khoảng 7,5 – 8
m ; dày 2-3 m. Màng hồng cầu là màng lipôprôtêin nên có tính thấm chọn lọc, chỉ cho
nước, glucô, urê và một số ion qua. Màng có tính đàn hồi nên có thể biến đổi hình dạng.
Trên màng có các kháng nguyên A và B tạo nên các nhóm máu ở người.
+ Số lượng hồng cầu thay đổi theo tuổi. Trẻ trên 1 tuổi số lượng hồng cầu dần dần ổn
định và gần tương đương người lớn và khoảng 4.000.000 HC/ mm3 máu. Ở người lớn

31
nam trung bình có 4.200.000  210.000 tr/mm3 máu; ở nữ là 3.800.000  160.000 tr/mm3
máu. Nếu xếp các hồng cầu cạnh nhau sẽ tạo chuỗi dài gấp 3 - 5 lần vòng xích đạo của
trái đất.
+ Tuổi thọ của hồng cầu ngắn, trung bình 100 - 120 ngày, tối đa 150 ngày. Hồng cầu già
được tiêu hủy chủ yếu ở gan, tì, lách. Hồng cầu non được sinh ra ở tủy đỏ của xương.
Trung bình cứ 1 giây có 150 triệu hồng cầu già chết đi và được thay thế bằng hồng cầu
mới. Trong cơ thể hồng cầu chiếm 1/4 số tế bào của cơ thể.

Hình 4.1. các loại tế bào máu


+ Thành phần hồng cầu: 63,3% nước; 36,7% là các chất khô gồm hemoglobin (Hb)
chiếm 85 - 95% còn lại là muối vô cơ, hữu cơ và ít men phân giải. Khi thủy phân Hb
người ta thấy:
Hb thủy phân Globin (96%) + Hem (4%)
Khi hồng cầu bị phá hủy thì phần globin và sắt được thu hồi lại để đưa về tủy xương
dùng tái tạo hemoglobin, phần Hem biến thành sắc tố mật.
+ Chức năng của hồng cầu: Hồng cầu có nhiệm vụ vận chuyển khí nhờ Hb.
Hb + O2  HbO2 (Oxyhemoglobin)
Hb + CO2  HbCO2 (Carbaminohemoglobin)
Hb + CO HbCO (Carboxyhemoglobin)
Phản ứng Hb kết hợp với CO là phản ứng bền vững, khí này sinh ra khi sự cháy
thiếu oxy, trong các đám cháy thường sinh ra khí này làm cho con người bị ngạt. Do đó,
khi thoát khỏi đám cháy nên cúi thấp người để tránh hít phải khí CO gây đầu độc cơ thể.
- Bạch cầu: Là những tế bào có nhân, hình dạng không ổn định và di động được.
+ Số lượng: Ở trẻ em số lượng bạch cầu thay đổi nhiều, nhìn chung trẻ càng nhỏ số lượng
bạch cầu càng cao. Trẻ trên 1 tuổi số lượng bạch cầu giảm dần và gần giống như người
lớn, trung bình từ 6000 - 8000 BC/mm3 máu. Người lớn số lượng bạch cầu ở nam là:
7000  700BC/mm3 và nữ là 6000  550BC/mm3. Số lượng bạch cầu có thể thay đổi tùy
theo một số trạng thái sinh lý. Chẳng hạn khi trẻ khóc nhiều, sau bữa ăn, khi lao động

32
nặng, khi cơ thể bị nhiễm trùng hay khi phụ nữ có thai số lượng bạch cầu tăng. Còn khi
cơ thể bị nhiễm độc, nhiễm phóng xạ, suy tủy, số lượng bạch cầu giảm.
+ Đời sống bạch cầu rất ngắn. Bạch cầu ở trong máu độ 6 - 8 giờ. Sau đó xuyên qua
mạch máu vào các mô ở trong đó 2- 3 ngày. Bạch cầu limphocid sống 100 - 300 ngày.
Bạch cầu thường chết nhiều khi bị viêm mủ, viêm đường hô hấp
+ Chức năng: Bạch cầu bảo vệ cơ thể nhờ khả năng thực bào và tiết ra kháng thể. Bạch
cầu limphocid có hai loại là B và T sản xuất kháng thể chống vi trùng. Đây là đối tượng
tấn công của virut HIV. Có 2 loại bạch cầu:
Bạch cầu không hạt: Bào chất không có hạt bắt màu, nhân không chia múi. Loại
này gồm hai loại là: BC đơn nhân (monocid) và BC đa nhân (limphocid).
Bạch cầu có hạt: Bào chất có hạt bắt màu và nhân thắt lại chia làm nhiều múi. Loại
này gồm 3 loại là: BC trung tính bắt cả hai màu xanh và đỏ; BC ưa axit bắt màu đỏ và BC
ưa bazơ bắt màu xanh. Mỗi loại bạch cầu chiếm một tỉ lệ nhất định gọi là công thức bạch
cầu.
Bảng 4.1. Công thức bạch cầu ở các độ tuổi
Tuổi Bạch cầu không hạt Bạch cầu có hạt
monocid limphocid trung tính ưu axit ưu bazơ
Sơ sinh 5 29 63 2 1,2
4 - 6 ngày 5 38 48 3,2 1,1
> 7 ngày 6 47 43 3 1,1
7 - 15 tuổi 2 42,5 46,4 9,1 -
Người lớn 6,5 25 62,9 3 0,3
Tuy nhiên, tỷ lệ này có thể thay đổi tùy theo từng loại bệnh. Chẳng hạn, khi bị sởi,
cúm, quai bị, thương hàn, sốt xuất huyết...bạch cầu trung tính giảm. Còn khi bị nhiễm
khuẩn cấp tính bạch cầu trung tính tăng. Khi bị dị ứng, hen xuyển, ký sinh trùng đường
ruột bạch cầu ưu axit tăng. Khi bị viêm mãn tính bạch cầu ưu bazơ tăng....
- Tiểu cầu: Tiểu cầu là những thể nhỏ không nhân, hình dáng không ổn định (tròn, thoi,
sao....) và dễ bị phá hủy.
+ Số lượng tiểu cầu nói chung ít thay đổi. Trẻ sơ sinh có từ 100.000 - 400.000 TC/mm3
máu. Ngoài ra ở các lứa tuổi khác tiểu cầu có từ 200.000 - 400.000 TC/ mm3 máu. Tuy
nhiên, số lượng này có thể dao động. Chẳng hạn, sau bữa ăn nhiều thịt, khi bị dị ứng,
chảy máu số lượng tiểu cầu tăng. Khi bị nhiễm trùng hay thiếu máu ác tính, bị ban, xuất
huyết tiểu cầu giảm. Đời sống của tiểu cầu rất ngắn từ 4 - 6 ngày
+ Chức năng chính của tiểu cầu là giải phóng enzim tromboplastin để giúp quá trình đông
máu, góp phần bảo vệ cơ thể.
4.1.3. Tính chất chung của máu
a) Nhóm máu và sự truyền máu

33
Căn cứ vào ngưng kết nguyên trên màng hồng cầu và ngưng kết tố trong huyết
tương để chia thành các nhóm máu. Khi truyền máu cần tránh các ngưng kết nguyên và
ngưng kết tố đối lập gặp nhau, vì khi chúng gặp nhau sẽ gây dính bết hồng cầu tạo cục
máu đông làm tắt mạch dẫn đến tử vong.
Ngoài ra, người ta còn phát hiện ra loại ngưng kết nguyên mới là yếu tố Rhezut
(Rh) có ở khỉ Macacus Rhezut. Người có Rhezut gọi là Rh+ (ở người Việt Nam chiếm tỷ
lệ là 99,93%), người không có yếu tố Rhezut gọi là Rh-. Hai nhóm này cũng không thể
truyền cho nhau và còn ảnh hưởng đến việc sinh con.

Hình 4.2. Các nhóm máu ở người và cơ chế truyền máu


b) Miễn dịch: Là khả năng cơ thể chống lại sự nhiễm bệnh một cách có hiệu quả các yếu
tố gây bệnh hoặc các chất độc khi chúng xâm nhập vào cơ thể. Có hai loại miễn dịch
- Miễn dịch tự nhiên: Là miễn dịch được tạo ra sau khi mắc bệnh. Đa số các bệnh truyền
nhiễm có thể gây miễn dịch nhưng có bệnh tạo được miễn dịch bền vững như bệnh sởi,
quai bị, thủy đậu. Có bệnh tạo miễn dịch không bền vững nên thời gian miễn dịch kém
như bệnh cúm.
- Miễn dịch nhân tạo: Miễn dịch do con người tạo ra bằng cách tiêm chủng phòng bệnh
nhờ đưa vào cơ thể những vi khuẩn gây bệnh, hay những độc tố của chúng đã làm yếu đi

34
(kháng nguyên) để cơ thể tiết ra kháng thể chống bệnh hoặc tiêm vào cơ thể những chất
kháng bệnh đã chế sẵn.
Khả năng miễn dịch phụ thuộc vào trạng thái cơ thể, vì vậy việc giáo dục trẻ rèn
luyện thể lực, chế độ dinh dưỡng phù hợp, môi trường sống là những yếu tố rất quan
trọng đối với việc phòng chống bệnh.
c) Cơ chế đông máu: Đông máu là khả năng máu chuyển từ thể lỏng sang thể đặc khi ra
khỏi thành mạch tạo thành cục máu đông chống mất máu, quá trình này gồm 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Giải phóng tromboplastin. Khi mạch máu bị tổn thương, tiểu cầu va vào
vết thương, vỡ ra giải phóng tromboplastin và dưới tác động của Ca++ tromboplastin
chuyển thành dạng tromboplastin hoạt động
* Giai đoạn 2: Sự hoạt hóa protrombin. Dưới tác động của tromboplastin hoạt động, chất
protrombin có trong huyết tương ở dạng không hoạt động biến thành dạng trombin hoạt
động.
* Giai đoạn 3: Sự tạo thành sợi fibrin. Dưới tác dụng của trombin và Ca++, hợp chất
fibrinogen có trong huyết tương ở dạng hòa tan chuyển thành dạng sợi huyết và tạo thành
mạng lưới bao lấy các yếu tố hữu hình tạo thanh cục máu đông.
Để có thể tiếp máu cho người bệnh, khi lấy máu ra khỏi cơ thể máu phải được
chống đông bằng cách:
- Dụng cụ chứa máu và truyền máu phải thật nhẵn, được tráng silicon và sử dụng các chất
chống đông máu như xitrat natri hay xitrat acmoni.
- Trong phẫu thuật có dùng máy tim – phổi nhân tạo hay thận nhân tạo, người ta thường
dùng chất chống đông là heparin.
4.2. Sự tuần hoàn máu
4.2.1. Tim
a) Cấu tạo: Tim nằm trong lồng ngực, hơi chếch sang trái và ra phía trước. Có hình nón,
đáy hướng lên trên và đỉnh quay xuống dưới. Có khối lượng là 240g ở nữ và 267g ở nam.
Độ lớn của tim bằng nắm tay trái của mỗi người. Ngoài có màng tim bao bọc. Tim là một
khối cơ rỗng gồm hai nửa. Nửa trái chứa máu đỏ, nửa phải chứa máu đỏ thẩm ở giữa có
vách dọc. Mỗi nửa có tâm nhĩ ở trên, tâm thất ở dưới. Tâm nhĩ và tâm thất thông nhau
qua van nhĩ thất. Bên trái tim là van 2 lá, bên phải là van 3 lá, các van này làm cho máu
chảy theo một chiều từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Giữa tâm nhĩ và tĩnh mạch, động mạch
cũng có van bán nguyệt và van tổ chim có tác dụng không cho máu chảy ngược.
Tim hoạt động liên tục nhờ hệ thống động mạch vành và tĩnh mạch vành, đó là
những mạch máu nuôi tim. Khi tim bị cắt rời nó vẫn có khả năng co bóp một thời gian,
đó gọi là tính tự động của tim. Tim có khả năng hoạt động tự động nhờ các yếu tố thần
kinh có trên tim (hạch xoang, hạch nhĩ thất, bó Hiss và mạng lưới các sợi Purkinje).

35
Hình 4.3. Cấu tạo tim bổ dọc

b) Hoạt động sinh lý của tim: Tim hoạt động từ lúc thai 3 tuần tuổi. Sự hoạt động của
tim theo chu kỳ tim. Một chu kỳ tim gồm có 3 pha:
- Pha co tâm nhĩ: Kéo dài 0,1 giây. Lúc này van nhĩ thất mở. Máu chảy từ tâm nhĩ vào
tâm thất, tâm thất vào thời gian này ở trạng thái giãn.
- Pha co tâm thất: Kéo dài 0,3 giây. Lúc này van nhĩ thất đóng, máu từ tâm thất chảy vào
động mạch chủ và động mạch phổi, tâm nhĩ ở trạng thái giãn.
- Pha nghĩ chung: Kéo dài độ 0,4 giây. Trong thời gian này toàn bộ quả tim đều ở trạng
thái giãn. Trong pha này van bán nguyệt đóng, van nhĩ thất mở máu từ các tĩnh mạch chủ
chảy về tim.
Sự đóng mở các van tạo nên tiếng đập của tim nên, việc nghe tiếng tim có ý nghĩa
lớn trong kiểm tra sức khỏe và chẩn đoán lâm sàng về tim.
4.2.2. Mạch máu: Có 3 loại mạch là:
- Động mạch vận chuyển máu từ tim đến các mô.
- Tĩnh mạch là những mạch dẫn máu từ các mô, cơ quan về tim. Tĩnh mạch thường đi
kèm với động mạch.
- Mao mạch dẫn máu từ động mạch sang tĩnh mạch, ở đây diễn ra quá trình trao đổi chất.
Thành mao mạch thường rất mỏng gồm một lớp tế bào dẹt có những lỗ nhỏ đường kính
khoảng 30 A0. Máu vận chuyển trong mao mạch rất chậm độ 0,5 mm/s nên giúp cho quá
trình trao đổi chất được thuận lợi.
4.2.3. Sự tuần hoàn máu: có 2 vòng tuần hoàn
Bên cạnh vòng tuần hoàn máu còn có vòng tuần hoàn bạch huyết hỗ trợ cho việc vận
chuyển mỡ. Khi máu vận chuyển trong hệ mạch sẽ tác động vào thành mạch một lực gọi là
huyết áp. Có 2 loại huyết áp là huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu. Huyết áp tối đa hay còn
gọi là huyết áp tâm thu là huyết áp đo được khi tim co, huyết áp tối thiểu là huyết áp tâm
trương đo được khi tim giãn. Chỉ số huyết áp trung bình ở các độ tuổi như bảng 4.3.

36
Hình 4.4. Sơ đồ các vòng tuần hoàn ở người
Bảng 4.2. Huyết áp của người Việt Nam theo độ tuổi
Tuổi Nam Nữ
Huyết áp tâm thu Huyết áp tâm Huyết áp tâm Huyết áp tâm
(mmHg) trương (mmHg) thu (mmHg) trương (mmHg)
6 88,72 48,68 90,35 50,92
7 90,65 49,47 92,13 52,12
8 91,88 50,37 93,78 53,45
9 92,57 51,92 95,27 55,47
10 93.03 54,85 96,17 57,62
19 - 45 105  2 60  5 110  5 55  1
45 - 60 115  3 70  6 120  8 70  5
60 - 80 145  6 75  8 145  5 72  6

4.3. Đặc điểm hệ tim mạch trẻ em


Ở trẻ sơ sinh, tim hình tròn và nằm ngang do cơ hoành cao, tâm nhĩ lớn. Sau đó,
tâm nhĩ và tâm thất đều phát triển, các sợi cơ tim dày, van tim vững chắc. Khi trẻ 1 tuổi,
tim vẫn còn nằm hơi nghiêng và đến 4 tuổi tim trở về vị trí thẳng đứng như người trưởng
thành. Khối lượng tim tăng dần theo tuổi nhưng không đồng đều. Tim trẻ sơ sinh nặng
khoảng 20g chiếm 0,6% khối lượng cơ thể, từ 1 - 2 tuổi tim lớn lên gấp 3 lần nhưng chỉ
chiếm 0,5%. Ở trẻ 5 tuổi, tim lớn gấp 4 lần, trẻ 7 – 12 tuổi tim tăng lên từ 92 – 143 gam.
Chiều dày sợi cơ tim tăng dần nhưng cũng chỉ trong những năm đầu. Thành cơ tim phát
triển khác nhau, thành tâm thất trái phát triển nhanh và dày hơn thành tâm thất phải.
Trong quá trình phát triển, hệ mạch cũng biến đổi. Ở trẻ sơ sinh, tĩnh mạch và động
mạch có kích thước như nhau. Trẻ càng lớn, đường kính của tĩnh mạch ngày càng lớn
37
hơn đường kính động mạch. Ở người trưởng thành, tĩnh mạch có đường kính lớn gấp đôi
so với động mạch. Động mạch phổi của trẻ dưới 10 tuổi to hơn động mạch chủ. Từ 10 -
12 tuổi, thì hai mạch bằng nhau và sau tuổi dậy thì động mạch chủ to hơn động mạch
phổi. Mao mạch phát triển mạnh, đặc biệt mạnh nhất trong năm đầu và tiếp tục phát triển
cho đến tuổi dậy thì. Nhịp tim giảm dần theo tuổi và không ổn định do cơ tim của trẻ
khỏe dần lên.
Mỗi lần tâm thất co đẩy một lượng máu vào hệ mạch gọi là thể tích tâm thu, thể tích
tâm thu tăng dần theo tuổi. Ở trẻ 7 tuổi thể tích tâm thu là 24 ml, trẻ 12 tuổi là 41 ml và ở
người trưởng thành là 70 ml. Thể tích tâm thu tăng khi hoạt động mạnh.
Ở trẻ em, lực co bóp của tim còn yếu, không đảm bảo nhu cầu cao của cơ thể khi bị
bệnh và do đó tim dễ bị suy yếu hay rối loạn hoạt động. Nguyên nhân rối loạn của tim có
thể do viêm mũi mãn tính, viêm tai....kể cả nhiễm giun sán. Sự suy yếu hoặc rối loạn hoạt
động của tim làm cho trẻ xanh xao, uể oải, mệt mỏi, mạch đập nhanh, khó thở....
Bảng 4.3. Tần số tim ở trẻ tiểu học
Tuổi Tần số tim (lần/phút)
Nam Nữ
6 92,3 ± 8,0 94,9 ± 7,1
7 90,4 ± 7,0 90,1 ± 7,0
8 88,7 ± 6,8 88,6 ± 6,6
9 86,9 ± 7,2 86,9 ± 7,5
10 84,9 ± 7,0 85,5 ± 7,7

Cần giáo dục trẻ tăng cường luyện tập để tăng sức chịu đựng của tim, cần tránh để
tim làm việc quá sức, giáo dục trẻ ăn uống đủ chất, không thức khuya, không dùng các
chất gây hại như bia, rượu, thuốc lá. Nên giữ ấm cơ thể tránh trẻ bị nhiễm lạnh dẫn đến,
viêm họng, thấp khớp từ đó dẫn đến bệnh thấp tim.
Câu hỏi và bài tập
1. Phân tích các chức năng của máu.
2. Thảo luận về cấu tạo, chức năng của các tế bào máu. Đặc điểm của máu trẻ em ?
3. Dựa vào đâu để xác định nhóm máu của mỗi cơ. Giải thích cơ chế truyền máu.
4. Thảo luận về các dạng miễn dịch và cách đề phòng sự lây lan của dịch bệnh.
5. phân tích cơ chế đông máu và ứng dụng trong thực tiễn.
6. Cấu tạo và hoạt động của tim ở các độ tuổi.
7. Thảo luận các biện pháp rèn luyện tim mạch và phòng bệnh tim mạch cho trẻ.
8. Nêu chức năng và viết/vẽ sơ đồ các vòng tuần hoàn.
9. Huyết áp là gì? Vì sao càng lớn huyết áp càng tăng? Nêu biện pháp phòng chống bệnh
tăng huyết áp.

38
Chương 5. HỆ HÔ HẤP
(2 tiết LT + 1 tiết TH)
5.1. Khái niệm
5.1.1. Định nghĩa: Hô hấp là sự trao đổi khí giữa cơ thể sống và môi trường xung quanh.
5.1.2. Vai trò của hệ hô hấp
- Cung cấp oxy cho cơ thể sống. Tế bào thần kinh nếu thiếu oxy từ 3 - 5 phút sẽ chết vì
khi có oxy sẽ xảy ra quá trình oxy hiếu khí giúp tạo ra năng lượng cung cấp cho các hoạt
động sống của cơ thể.
- Hô hấp giúp quá trình thải khí cacbonic ra ngoài, vì nếu khí cacbonic tồn tại trong cơ
thể một lượng lớn sẽ gây độc.
5.2. Cấu tạo cơ quan hô hấp
- Đường dẫn khí: Mũi, hầu, thanh quản, khí quản, phế quản.
- Bộ phận trao đổi khí: phổi.
5.2.1. Xoang mũi: Được cấu tạo bởi các xương và sụn, lót bên trong lớp niêm mạc có
nhiều mao mạch, chúng được phủ bởi một lớp tế bào biểu bì có lông có tác dụng cản bụi,
xen kẽ có các tuyến tiết chất nhầy. Ngoài ra trong xoang mũi còn có các tế bào cảm giác
mùi có chức năng khứu giác.
5.2.2. Thanh quản: Là cơ quan phát âm chính, gồm có bốn loại sụn: Sụn giáp, sụn nhẫn,
sụn phễu và sụn thanh thiệt liên kết với nhau bởi dây chằng và cơ. Nhờ có sụn thanh thiệt
nên thức ăn không rơi được vào thanh quản.
5.2.3. Khí quản: Là ống hình trụ dài độ 12cm, tiếp tục về phía trước dưới của thanh quản.
Khí quản gồm 10 - 20 vòng sụn chữ C nối với nhau bằng dây chằng nên giúp khí quản
linh động. Mặt trong khí quản có tiêm mao và màng tiết dịch nhầy giúp cho quá trình lọc
sạch không khí. Đầu dưới khí quản chia làm hai phế quản.
5.2.4. Phế quản: Có cấu tạo như khí quản nhưng là những vòng sụn hình tròn và không
đối xứng. Phế quản phải ngắn hơn và đi ngang, phế quản trái dài hơn và đi chếch xuống.
Mỗi phế quản cùng với động, tĩnh mạch và tổ chức thần kinh trên nó tạo thành cuống
phổi nối với hai lá phổi.
5.2.5. Phổi: Gồm hai lá phổi chiếm 4/5 thể tích lồng ngực và tách biệt với các tạng bởi cơ
hoành. Giữa hai lá phổi là khoang trung thất có tim.
Khối lượng và màu sắc của phổi thay đổi theo độ tuổi. Ở trẻ sơ sinh phổi nặng
khoảng 50 gam và có màu hồng nhạt. Trẻ 1 tuổi khối lượng của phổi là 300 gam, trẻ 2
tuổi là 500 gam và ở người lớn hai lá phổi có khối lượng khoảng 1 - 1,5 kg. Phổi người
lớn có màu trắng xám, người già trong phổi có nhiều lấm tấm đen do bụi và các chất vô
cơ bám. Phổi phải chia ba thùy, phổi trái có hai thùy. Mỗi thùy lại chia làm nhiều tiểu
thùy. Mỗi tiểu thùy có tiểu phế quản nối với phế nang. Tổng số phế nang ở người khoảng
300 - 500 triệu. Thành phế nang rất mỏng (0,7 micrômet) và có mạng lưới mao mạch dày
đặc tạo điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi khí.

39
Bên ngoài phổi có màng phổi bao bọc. Màng phổi gồm hai lá: Lá thành và lá tạng.
Giữa hai lá này có một khoang ảo hay khoang màng phổi. Ngoài ra trong phổi còn có cơ
Retsetsen có tác dụng giúp phổi đàn hồi.

Hình 5.1. Cấu tạo hệ hô hấp ở người


5.3. Hoạt động của hệ hô hấp
5.3.1. Hô hấp ngoài: Là một quá trình cơ học để lấy khí vào phổi gọi là sự hít vào và sự
đẩy khí ra khỏi phổi gọi là sự thở ra. Cơ chế hít vào và thở ra phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Chủ động: Do sự co rút của các cơ hô hấp
- Thụ động: Do sự co giãn của phổi.
a) Sự hít vào
Động tác hít vào thông thường được thực hiện là nhờ sự co rút của các cơ như: cơ
liên sườn ngoài co nâng xương sườn lên, cơ hoành co và hạ xuống, cơ ức nhô về phía
trước làm mở rộng lồng ngực về cả mọi phía (hướng trước sau, hướng trên dưới và hai
bên). Kết quả là thể tích lồng ngực tăng, gây áp suất âm trong khoang ngực giảm, do đó
phổi cũng bị kéo căng, làm tăng thể tích phổi vì vậy áp lực không khí trong phổi bị giảm
thấp hơn so với áp lực của khí trời độ 2 mmHg. Nên khí trời lùa vào phổi qua đường dẫn
khí gọi là sự hít vào.
Động tác hít vào gắng sức là động tác hít vào rất sâu, trong đó cơ hoành và cơ liên
sườn ngoài phải co tối đa. Bình thường hai cơ này co giãn một cách tự đông, muốn chúng
co giãn tối đa phải có sự chỉ huy của võ não, nên động tác hít vào gắng sức là một hoạt
động có ý thức. Khi hít vào gắng sức cơ hoành co mạnh hơn và hạ xuống thấp hơn, cơ
liên sườn ngoài co mạnh hơn, nâng xương sườn lên cao hơn, ngoài ra còn có sự tham gia
của cơ ức đòn chũm, cơ ngực lớn và cơ bụng nên thể tích lồng ngực tăng lên nhiều, do
đó, không khí vào phổi nhiều hơn. Nếu trẻ được rèn luyện hít vào gắng sức đều đặc ngay
từ khi còn nhỏ sẽ làm lồng ngực trẻ thêm nở nang, đổi mới không khí tù đọng trong phổi
nhất là sau khi ngủ dậy hoặc sau một thời gian làm việc bất động.

40
b) Sự thở ra
Động tác thở ra thông thường là một động tác thụ động thực hiện được nhờ tính đàn
hồi của phổi và sức ép của thành lồng ngực, cơ liên sườn trong co, xương sườn và xương
ức hạ xuống làm cho thể tích lồng ngực giảm theo hướng trước sau và 2 bên. Đồng thời
cơ hoành giãn trồi lên nên thể tích lồng ngực giảm theo hướng trên dưới. Kết quả là thể
tích lồng ngực giảm, nên thể tích phổi cũng giảm theo, do đó áp suất trong phổi tăng lên
cao hơn so với áp suất khí trời khoảng 3 - 4 mmHg nên không khí trong phổi bị dồn ra
ngoài qua đường dẫn khí gọi là sự thở ra.
Động tác thở ra gắng sức thực hiện được nhờ các cơ liên sườn trong co cùng với sự
tham gia của các cơ hạ sườn, làm cho các xương sườn hạ xuống thấp hơn, nên thể tích
lồng ngực giảm nhiều theo hướng trước sau, các cơ ở thành bụng co đẩy cơ hoành lên cao
hơn làm thể tích lồng ngực giảm theo chiều trên dưới. Do đó, thể tích lồng ngực giảm
nhiều nên lượng khí trong phổi bị đẩy ra nhiều hơn. Thở ra gắng sức là một động tác tích
cực nên cần tiêu hao năng lượng.
Động tác hít thở gắng sức giúp cho một lượng lớn không khí vào phổi, làm cho các
phế nang nở rộng hơn, tạo điều kiện sự trao đổi khí giữa máu thẩm và phế nang thuận lợi
và góp phần tăng lượng oxy lên não, đồng thời thở ra gắng sức sẽ tăng quá trình đào thải
khí cacbonic. Do đó, hít thở gắng sức không những cải thiện thể lực mà còn giúp phát
triển trí lực.
Tuy nhiên, động tác thở của trẻ em không hoàn toàn giống nhau, cùng một trẻ có
thể thở cũng không giống nhau hoàn toàn ở các thời điểm. Có hai kiểu thở là thở ngực và
thở bụng. Ở trẻ em, các cơ ở lồng ngực còn yếu nên động tác thở được thực hiện chủ yếu
nhờ cơ hoành làm cho bụng phồng lên khi hít vào và xẹp xuống khi thở ra. Ở tuổi dậy thì
trẻ gái chuyển sang kiểu thở ngực để khoang bụng thích nghi với chức năng sinh sản sau
này.
Nhịp hô hấp (Nhịp thở) là số lần hô hấp thực hiện được trong một đơn vị thời gian.
Nhịp hô hấp phụ thuộc vào lứa tuổi, giới tính, trạng thái tâm sinh lý và khí hậu. Trẻ em
nhịp hô hấp là 21 - 35 lần/ phút, người lớn trung bình là 16 - 20 lần/phút, phụ nữ cao hơn
nam 3 - 4 lần/ phút.
5.3.2. Hô hấp trong: Gồm sự trao đổi khí giữa phế nang và máu thẩm đến phổi; giữa tế
bào và máu đỏ đến nuôi mô.
a) Sự trao đổi khí ở phổi: Là sự trao đổi khí giữa không khí trong phế nang và máu thẩm
đến phổi thực hiện qua bề mặt của phổi.
Thành phần không khí hít vào tương đối ổn định gồm 20,93% O2; 0,03 - 0,04% CO2;
79% N2 và một lượng nhỏ hơi nước. Thành phần không khí thở ra gồm 16,4% O 2; 4,1%
CO2; 79% N2 và bão hòa hơi nước ở 370C.
Sự trao đổi khí này diễn ra theo nguyên tắc khuếch tán, tức không khí đi từ nơi có áp
suất cao đến nơi có áp suất thấp tùy theo phân áp của từng chất khí. Công thức tính phân
áp của các chất khí như sau:

41
P VA
PA = ⎯
100
Trong đó: PA: Phân áp riêng của khí A, P: áp suất chung của hỗn hợp khí, VA: Tỷ
lệ phần trăm khí A trong hỗn hợp khí. Theo công thức trên có thể tính phân áp của các
khí trong phế nang và máu đỏ thẫm đến phổi như bảng 5.1. Kết quả bảng 5.1. cho thấy,
khí O2 sẽ từ phế nang vào máu đỏ thẫm và khí CO2 đi từ máu đỏ thẫm ra phế nang, do đó
máu đỏ thẫm khi lên phổi sẽ trở thành máu đỏ tươi.
Bảng 5.1. Phân áp các khí ở các môi trường
Môi trường Phân áp khí O2( mmHg) Phân áp khí CO2( mmHg)
Phế nang 107 - 110 40
Máu thẩm 37 - 40 46
b. Sự trao đổi khí ở tế bào (mô): Ở đây cũng diễn ra sự khuếch tán các chất khí tùy theo
phân áp của từng chất khí.
Bảng 5.2. Phân áp các khí ở các môi trường
Môi trường Phân áp khí O2( mmHg) Phân áp khí CO2( mmHg)
Máu đỏ 100 40
Tế bào 0 60 - 70
Kết quả bảng trên cho thấy, khí O2 sẽ từ máu đỏ vào tế bào và khí CO2 đi từ tế bào
ra máu đỏ, do đó máu đỏ tươi sau khi cung cấp O2 và nhận CO2 từ tế bào sẽ trở thành
máu đỏ thẫm.
5.3.3. Hô hấp tế bào
Tế bào là nơi trực tiếp lấy khí O2 để oxy hóa các chất tạo ra năng lượng cung cấp
cho các hoạt động sống của tế bào và thải ra CO2 qua phương trình hô hấp như sau:
C6 H12 O6 + 6O2 = 6CO2 + 6H2O + 674 KCal
Máu có vai trò quan trọng trong sự vận chuyển khí. Các chất khí O2 và CO2 được
vận chuyển trong máu ở hai dạng: Dạng hòa tan và dạng hóa hợp. Trong đó yếu tố chính
giúp vận chuyển khí ở dạng hóa hợp là Hemoglobin.
5.4. Điều hòa hoạt động hô hấp: Có hai con đường điều hòa là điều hòa bằng thần kinh
và điều hòa bằng thể dịch.
5.4.1. Điều hòa bằng thể dịch
Chủ yếu phụ thuộc vào nồng độ O2 và CO2. Khi nồng độ CO2 tăng nó sẽ kích thích
trung khu điều hòa hoạt động hô hấp làm cho nhịp hô hấp tăng và ngược lại. Khi nồng độ
O2 trong máu giảm thì trung khu điều hòa hoạt động hô hấp cũng bị kích thích nên nhịp
hô hấp tăng. Vậy sự thay đổi nồng độ các khí đã ảnh hưởng đến sự hoạt động của trung
khu hô hấp, đây là cơ sở khoa học của tiếng khóc chào đời ở trẻ sơ sinh. Sau đó cơ chế
điều hòa bằng thần kinh sẽ thực hiện.

42
5.4.2.Điều hòa bằng thần kinh: Nhờ hệ thần kinh điều khiển

Trung khu điều hòa hoạt động hô hấp

Hướng tâm Ly tâm

Hướng
Trung khu tâm
hít vào Hướng tâm Trung khu thở ra

Ly tâm Ly tâm

Cơ hoành, cơ liên sườn ngoài co Cơ hạ sườn, cơ liên sườn trong co


 
V lồng ngực → V phổi  V lồng ngực  → V phổi 
→P phổi  → Hít vào →P phổi  → Thở ra
Hình 5.2. Sơ đồ cơ chế điều hòa hoạt động hô hấp
5.5. Đặc điểm hệ hô hấp trẻ em
Hệ hô hấp ở trẻ em có kích thước nhỏ hơn ở người trưởng thành. Cấu tạo và hoạt
động sinh lý thay đổi theo quá trình phát triển của cơ thể.
5.5.1. Xoang mũi: Xoang mũi của trẻ em nhỏ và ngắn hơn nên không khí hít vào không
được sưởi ấm và lọc sạch một cách đầy đủ. Niêm mạc mũi trẻ mềm, mỏng và có nhiều mạch
máu dễ bị viêm nhiễm. Khi viêm nhiễm nhẹ niêm mạc đã sưng tấy gây sổ mũi, khó thở.
5.5.2. Họng: Trẻ dưới 1 tuổi vòng bạch huyết thanh quản ít phát triển, hai hạch nhân
(amidal) còn nhỏ, nên trẻ ít bị viêm amidal. Nhưng vòng bạch huyết quanh mũi, hầu
(V.A; amidal khẩu cái) phát triển mạnh nên dễ bị viêm V.A. Trẻ trên 1 tuổi, amidal phát
triển, vòng bạch huyết mũi hầu nhỏ dần.
5.5.3. Thanh quản: Trẻ dưới 6 tuổi, khe thanh âm hẹp và ngắn, niêm mạc mềm, mỏng,
nhiều mạch máu và mạch bạch huyết, sụn thanh quản mềm dẻo; do các đặc điểm trên nên
khi trẻ bị viêm nhiễm khe thanh âm dễ co thắt gây khó thở. Trẻ có dây thanh âm ngắn nên
giọng cao. Từ 12 tuổi dây thanh âm ở trẻ trai dài hơn nên giọng trở nên trầm hơn trẻ gái.
5.5.4. Khí quản – phế quản: Trẻ 4 - 5 tháng tuổi khí quản có hình phễu. Phế quản phải
tiếp tục thẳng theo hướng đi của khí quản. Còn phế quản trái thì rẽ ngang, phế quản phải
rộng hơn nên dị vật dễ rơi vào. Khí quản, phế quản trẻ thường có đường kính nhỏ, tổ chức
đàn hồi ít phát triển, vòng sụn mềm, dễ biến dạng. Do đó, khi bị viêm nhiễm, trẻ hay bị
khó thở, giãn phế quản.
5.5.5. Phổi: Phổi trẻ em lớn dần theo tuổi. Ở trẻ sơ sinh, phổi chưa hoàn toàn biệt hóa,
kém phát triển, phổi nặng khoảng 50 - 60 gam và có màu hồng nhạt. Ở trẻ 6 tháng tuổi,
phổi nặng gấp 2 lần, 1 tuổi gấp 3 lần và lúc 12 tuổi gấp 10 lần so với sơ sinh.
Kích thước phế nang cũng tăng dần theo tuổi. Đường kính phế nang của trẻ sơ
sinh là 0,05 - 0,1 mm; người trưởng thành 0,2 mm, thành phế nang có mạng lưới mao
43
mạch dày đặc nên khi bị viêm nhiễm dễ bị xung huyết. Tổ chức phổi của trẻ ít đàn hồi
nên phổi dễ bị xẹp, giãn phế quản khi bị viêm, ho gà. Phổi lớn lên chủ yếu do sự phân
nhánh các phế quản nhỏ và sự hình thành những phế nang mới. Màng phổi của trẻ em
mỏng, dễ bị giãn. Bên cạnh sự khác nhau về cấu tạo, hoạt động hô hấp ở trẻ em cũng có
một số điểm khác người trưởng thành.
5.5.6. Hoạt động hô hấp của trẻ em: Lồng ngực của trẻ phát triển theo chiều ngang
nhanh hơn chiều trước sau nên lồng ngực ít nhô về phía trước. Từ 1 tuổi đến 7 tuổi, hình
dạng lồng ngực thay đổi hẳn, độ xiên của xương sườn tăng, xương ức dài ra và hạ xuống,
lồng ngực chuyển từ dạng tròn sang dạng dẹt theo hướng trước sau.
Nhịp hô hấp của trẻ thay đổi theo các lứa tuổi như sau: Trẻ sơ sinh từ 40 - 60
nhịp/phút; Trẻ 6 tháng từ 35 - 40 nhip/ phút; Trẻ 7 - 12 tháng từ 30 - 35 nhịp/phút; Trẻ 2 -
3 tuổi từ 25 - 30 nhịp/phút; Trẻ 4 - 6 tuổi từ 20 - 25 nhịp /phút và người trưởng thành 16 -
20 nhịp /phút. Theo độ tuổi, do sự phát triển của phổi, lồng ngực và sự tăng cường các cơ
hô hấp, nhịp thở của trẻ trở nên sâu và thưa hơn. Quá trình trao đổi khí ở trẻ em cũng diễn
ra như người trưởng thành, tuy nhiên sự trao đổi khí ở trẻ em diễn ra mạnh hơn, phù hợp
với cường độ trao đổi chất của cơ thể trẻ đang trên đà phát triển. Dung tích sống cũng
thay đổi theo tuổi và giới tính. Dung tích sống (ml) của trẻ theo độ tuổi như sau:
Bảng 5.3. Dung tích (ml) sống của trẻ theo các độ tuổi
Tuổi 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Nam 600 650 825 875 925 1100 1275 1450 1850 2050 2070
Nữ 475 525 600 650 750 900 1200 1300 1425 1450 1900

Trung khu hô hấp ở trẻ rất dễ hưng phấn nên khi trẻ hơi bị xúc động, lao động chân
tay hoặc bị cảm nóng nhịp thở đã tăng. Do đặc điểm lồng ngực ở trẻ có xương sườn nằm
ngang, khó di động khi hô hấp nên khi trẻ thở sự thay đổi thể tích lồng ngực phụ thuộc
vào cơ hoành là chủ yếu nên hô hấp ở trẻ là kiểu thở bụng. Khi lồng ngực phát triển làm
xuất hiện kiểu thở ngực. Trẻ 2 tuổi thở kiểu hỗn hợp ngực, bụng. Ở 10 tuổi, trẻ chủ yếu
thở bụng, còn trẻ gái thở ngực là chính.
5.6. Vệ sinh và rèn luyện cơ quan hô hấp ở trẻ
5.6.1. Thở đúng cách
Đây là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết nhàm nâng cao sức khỏe và thích
nghi với các hoạt động, nhất là những hoạt động tiêu tốn nhiều năng lượng như rèn luyện
thể dục thể thao…Khi thở không đúng có thể gây nên một số bệnh về hô hấp ở trẻ.
Thở đúng cách là giai đoạn hít vào ngắn hơn giai đoạn thở ra. Cần hướng dẫn trẻ
thở qua mũi để không khí được lọc sạch, sưởi ấm và loại trừ bụi, vi khuẩn. Thở qua
miệng sẽ ảnh hưởng đến toàn cơ thể như rối loạn tiêu hóa, ngủ không ngon, mau thấm
mệt, đau đầu, đôi khi ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, ngoài ra khi gặp không khí lạnh
có thể làm viêm họng. Tập thể dục thường xuyên và rèn luyện thể lực đúng cách nhằm

44
nâng cao thể tích lồng ngực, tạo nhịp thở đều và đúng giúp cơ thể tăng tính dẻo dai khi
hoạt động.
5.6.2. Vệ sinh hô hấp
Cần cho trẻ thở không khí thoáng và trong sạch. Muốn vậy phải trồng nhiều cây
xanh, cây cảnh vừa làm cho không khí mát, cản bụi, cây còn hút CO2 thải O2 làm cho
không khí thoáng. Khi tổng vệ sinh trường, lớp phải rắc nước trước khi quét để hạn chế
bụi làm bẩn không khí; phải lau bảng, bàn ghế bằng khăn ướt.
Cấm trẻ hút thuốc lá. Khói thuốc lá có nhiều nicotin làm hại cơ quan hô hấp, cơ thể
dễ bị nhiễm bệnh, đặc biệt dễ gây ung thư phổi. Khói thuốc lá không những hại cho người
hút mà còn hại cho cả những người xung quanh.
5.6.3. Rèn luyện cơ quan hô hấp
Rèn luyện cách thở nhịp nhàng, tập thở sâu có tác dụng làm tăng sự phát triển thể
lực của trẻ, cải thiện sự trao đổi khí trong não bộ làm trí tuệ của trẻ phát triển. Cho trẻ
tham gia các hoạt động thể dục thể thao và lao động vừa sức có tác dụng rèn luyện cơ
quan hô hấp. Cho trẻ tập hát, ngâm thơ làm phát triển thanh đới, thanh quản và phổi. Hát
và ngâm thơ ở tư thế đứng có tác dụng tốt hơn các tư thế khác.
Giáo dục trẻ không nên la hét, nói to trong điều kiện độ ẩm không khí cao, lạnh và
nhiều bụi. Tránh cho trẻ tiếp xúc những thay đổi đột ngột về nhiệt độ như ăn kem, đá
lạnh, tiếp xúc không khí quá lạnh khi vừa tắm nóng, hay không nên để trẻ sốc nhiệt như
do chênh lệch nhiệt độ giữa trong phòng có máy lạnh và bên ngoài…

Câu hỏi và bài tập


1. Phân tích những đặc điểm cấu tạo của cơ quan hô hấp phù hợp với chức năng mà nó
đảm nhận.
2. Các mức độ hô hấp? Bằng công thức tính phân áp của các chất khí chứng minh rằng có
sự hô hấp trong.
3. Đặc điểm hệ hô hấp ở trẻ em có gì khác biệt so với người lớn. Nêu biện pháp giáo dục
trẻ giữ vệ sinh và rèn luyện cơ quan hô hấp.
4. Các cơ chế điều hòa hoạt động hô hấp ở người? Phân tích cơ sở khoa học của tiếng
khóc chào đời ở trẻ sơ sinh.

45
Chương 6. HỆ TIÊU HÓA
(2 tiết LT + 1 tiết TH)
6.1. Khái niệm: Tiêu hóa là quá trình biến đổi thức ăn từ những chất phức tạp thành
những chất đơn giản mà cơ thể có khả năng hấp thu được.
6.2. Cấu tạo của cơ quan tiêu hóa: Gồm 2 phần là ống tiêu hóa và tuyến tiêu hóa.
- Ống tiêu hóa: Miệng, hầu, thực quản, dạ dày, ruột non và ruột già.
- Tuyến tiêu hóa: Tuyến nước bọt, dịch vị, dịch tụy, dịch ruột và mật do gan tiết ra.
6.2.1. Khoang miệng: Là bộ phận lấy thức ăn và nghiền nhỏ thức ăn. Giới hạn của
khoang miệng là: Trên: Vòm khẩu cái, dưới: Cơ móng – hàm, hai bên: Gò má, trước:
Môi, sau: Thông với hầu. Trong khoang miệng có răng, lưỡi và tuyến nước bọt.
a) Răng: Có chức năng cắn, xé, nghiền nát và đập dập thức ăn, răng còn tham gia phát
âm. Lúc 6 tháng tuổi trẻ bắt đầu mọc răng sữa đến 24 tháng thì mọc đủ 20 răng sữa với
công thức răng sữa như sau: 2/2 C 1/1 N 0/0 TH 2/2 H. Trẻ 6 - 7 tuổi răng sữa bắt đầu
thay bằng răng vĩnh viễn. Công thức răng vĩnh viễn như sau: 2/2C 1/1 N 2/2 TH 3/3 H.
b) Lưỡi: Là khối cơ hình xoan rất linh động trên bề mặt lưỡi có các gai cảm giác thu nhận
cảm giác (nóng, lạnh) và gai vị giác. Lưỡi có nhiệm vụ chuyển thức ăn trong khi nhai và
nuốt. Lưỡi là cơ quan vị giác và còn tham gia phát âm.
c) Tuyến nước bọt: Có 3 đôi tuyến nước bọt. Mỗi ngày cả 3 tuyến này tiết ra từ 600 –
1500 ml nước bọt đổ vào xoang miệng. Đôi mang tai là tuyến lớn nhất nặng 20 - 30g, đôi
dưới hàm nặng độ 15g, đôi dưới lưỡi nặng 5g.
6.2.2. Hầu: Là một ống dài độ 12 cm, nằm ở miền sau cổ là ngã ba của đường hô hấp và
đường tiêu hóa.
6.2.3. Thực quản: Dài độ 25 cm có nhiệm vụ dồn thức ăn xưống dạ dày. Thực quản
thông với dạ dày qua lỗ tâm vị.
6.2.4. Dạ dày: Thành dạ dày có 4 lớp gồm lớp thanh mạc, lớp cơ, lớp dưới niêm mạc và
lớp niêm mạc. Cơ ở dạ dày là cơ trơn gồm 3 lớp là cơ dọc, cơ vòng và cơ xiên, cơ xiên
còn gọi là cơ chéo, cơ này chỉ có ở dạ dày. Dạ dày là phần rộng nhất của ống tiêu hóa có
tác dụng chứa đựng và tiêu hóa thức ăn. Dạ dày dài 25 - 30 cm, rộng 12 - 14 cm, dày 7 -
8 cm. Dạ dày chia thành hai phần: Phần đứng chiếm 2/3 thông với thực quản, phần ngang
chiếm 1/3 nối với tá tràng. Dạ dày có dung tích thay đổi theo lứa tuổi.
Thành phần dịch vị ở dạ dày bao gồm: HCl, chất nhầy, enzim pepxin, prezua, lipaza
và một số ion K+, Ca++, PO4- -....Trẻ nhỏ lượng enzim prezua cao, enzim pepxin thấp. Độ
pH trong dịch vị trẻ thay đổi theo tuổi. Lúc bú mẹ độ pH = 3,8 - 5,8. Trẻ càng lớn độ pH
giảm dần và hoạt tính của enzim pepxin tăng; trẻ 8 - 12 tuổi có độ pH của dịch vị giống
người lớn là khoảng 2 - 4.
6.2.5. Ruột non: Là đoạn dài nhất của ống tiêu hóa, có tác dụng tiêu hóa và hấp thu các
chất. Người lớn ruột non dài độ 6 - 7 m và chia làm ba phần là tá tràng, hổng tràng và hồi
tràng. Phần tá tràng dài độ 25 - 30 cm. Niêm mạc ruột non có nhiều nếp gấp chạy vòng
gọi là van tràng, trên van tràng có các lông ruột (có khoảng 4 triệu lông ruột) làm tăng
46
diện tích bề mặt ruột non lên nhiều lần (5m2) Lông ruột: Dài khoảng 0,5 - 1mm, dày
0,1mm. Giữa lông ruột có mạch máu và mạch bạch huyết.
Ruột trẻ phát triển nhanh trong 3 năm đầu. Trẻ dưới 6 tháng tuổi có chiều dài ruột gấp
6 lần chiều cao cơ thể (ở trẻ lớn gấp 4 lần). Niêm mạc ruột mỏng dễ bị hấp thu những sản
phẩm trung gian của quá trình tiêu hóa và vi khuẩn dễ xâm nhập gây rối loạn tiêu hóa hoặc
viêm nhiễm. Nơi thông giữa ruột non và ruột già, giáp với manh tràng có van hồi manh
tràng (van Bôhin) có tác dụng giữ cho các chất bã ở ruột già không lộn lên ruột non.
6.2.6. Ruột già: Dài độ 1,3 - 1,5 m và chia làm ba phần:
- Manh tràng (Ruột tịt): Nằm trong hố chậu phải, ở thành sau có mấu hình giun gọi
là ruột thừa (Ruột thừa rộng khoảng 0,5 - 1cm, dài 7 – 8 cm).
- Đại tràng (Ruột già chính thức): Gồm 4 đoạn lên, ngang, xuống và đại tràng sigma
- Trực tràng (Ruột thẳng): Dài độ 15 - 20 cm. Thông ra ngoài qua hậu môn

Hình 6.1. Cấu tạo của hệ tiêu hóa ở người.


6.3. Sinh lý tiêu hóa ở người: Ở từng phần của ống tiêu hóa luôn diễn ra hai quá trình
tiêu hóa là tiêu hóa cơ học (lý học) và tiêu hóa hóa học.
6.3.1. Tiêu hóa ở khoang miệng
Thức ăn được tiêu hóa cơ học là chủ yếu. Thức ăn được răng cắn, xé, nghiền nhỏ và
nhào trộn với nước bọt tạo thành viên. Nước bọt được tiết ra do viên thức ăn kích thích
các thụ quan ở niêm mạc miệng, lưỡi gây nên phản xạ tiết nước bọt. Trong nước bọt có
men Amilaza có khả năng biến đổi một phần tinh bột chín thành đường maltôz. Sau đó
lưỡi thụt vào trong đưa viên thức ăn chạm vào hầu gây nên phản xạ nuốt.
6.3.2. Tiêu hóa ở dạ dày
Thức ăn từ thực quản qua lỗ tâm vị xuống dạ dày. Nhờ tâm vị đóng mở theo một cơ
chế nhất định mà thức ăn không trào ngược lại thực quản.
- Cơ chế đóng mở tâm vị: Khi viên thức ăn chạm vào niêm mạc tâm vị với một áp lực
nhất định thì tâm vị sẽ mở ra theo qui luật ruột (do Belix và Xtaclic tìm ra)"Khi có một
47
kích thích cơ học hay hóa học ở một ngưỡng nhất định tại một điểm nào đó của ống tiêu
hóa sẽ gây co thắt ngay bên trên và giãn ra ngay bên dưới điểm bị kích thích". Khi thức
ăn xuống dạ dày sẽ gây phản xạ đóng tâm vị cũng theo qui luật này. Nếu sức co thắt của
tâm vị giảm sẽ gây hiện tượng ợ chua do các chất khí hay chất dịch ở dạ dày trào ngược
lên hoặc khi dạ dày hoạt động không bình thường, các cơ co bóp quá mạnh hay quá yếu.
Nếu dạ dày co bóp quá mạnh cũng làm cho tâm vị mở ra, thức ăn bị tống ngược lên thực
quản ra ngoài gọi là nôn. Ngoài ra, việc đóng mở tâm vị còn phụ thuộc vào độ axit của
dịch vị. Nếu độ axit của dịch vị càng cao tâm vị đóng càng chặt.
Khi thức ăn xuống dạ dày làm cho dạ dày căng ra vừa đủ chứa thức ăn. Nhờ sự co
rút chạy vòng và nhu động của các cơ làm cho thức ăn được đảo trộn nhiều lần ngấm đều
dịch vị. Độ pH của dạ dày càng thấp thì sự co rút càng mạnh. HCl làm mềm thức ăn và
tạo điều kiện cho các enzym trong dịch vị hoạt động, đồng thời tiêu diệt vi khuẩn. Dịch vị
được tiết ra từ các tuyến ở lớp màng nhầy của dạ dày. Các tuyến này có hình ống và do
ba loại tế bào cấu tạo nên. Tế bào chính tiết ra pepsinogen, prezua và lipaza; tế bào vách
tiết ra HCl; tế bào phụ tiết chất nhầy.
Enzym tiêu hóa protein:
Có 2 loại là pepsinogen và prezua. Pepsinogen được các tế bào chính tiết ra, sau đó
HCl sẽ hoạt hóa thành pepsin hoạt động. Enzym pepsin hoạt động trong môi trường axit,
có tác dụng biến đổi protein thành các polypeptit. Prezua có vai trò làm kết tủa
cazeinogen của sữa với ion Ca++ thành cazenat-Ca ở lại dạ dày để tiêu hóa tiếp. Trong
dịch vị trẻ em có nhiều enzym prezua có tác dụng tiêu hóa protein của sữa.
Enzym tiêu hóa lipit:
Trong dịch vị có enzym lipaza, hoạt động ở độ pH = 6. Enzym này hoạt động yếu,
chỉ biến đổi lipit của sữa và lòng đỏ trứng thành glyxeryl và axít béo.
Enzym tiêu hóa gluxit:
Trong dạ dày không có enzym tiêu hóa gluxit mà ở đây enzym amylaza của tuyến
nước bọt tiếp tục hoạt động ở phần đầu dạ dày khi dịch vị chưa tiết ra nhiều.
HCl trong dạ dày có tác dụng hoạt hóa enzym pepsinogen thành pepsin hoạt động.
HCl còn có tác dụng diệt khuẩn và làm trương nở protein làm tăng diện tích tiếp xúc giữa
protein với các enzym. Ngoài ra, nó còn giúp cho việc đóng mở tâm vị, môn vị. Độ axit
của dạ dày càng cao, tâm vị đóng càng chặt. Thức ăn có tính axít kích thích môn vị mở
ra. Tâm trạng lo âu, bồn chồn, lao động trí óc căng thẳng cũng làm tăng tiết HCl gây
viêm loét dạ dày.
Thức ăn sau khi được co bóp, nghiền nhuyễn và ngấm đều dịch vị sẽ trở thành vị
trấp. Dưới sức co bóp ngày càng mạnh làm cho môn vị mở ra đưa vị trấp xuống ruột non.
Thời gian thức ăn lưu lại dạ dày phụ thuộc vào đặc điểm của thức ăn và cách chế
biến. Thức ăn là gluxit lưu lại 3 - 4 giờ, protein 5 - 6 giờ, lipit 6 - 8 giờ, sữa bò 3 - 4 giờ
và sữa mẹ 2 - 2,5 giờ. Do đó, khoảng cách mỗi bữa ăn của trẻ phải từ 2,5 - 3 giờ.

48
Cơ chế đóng mở môn vị:
Khi dạ dày chưa có thức ăn, môn vị luôn mở và khi có thức ăn thì nó khép kín lại
nên bình thường trong dạ dày không tích nước và cặn tiêu hóa. Sự đóng mở môn vị cũng
theo quy luật Ruột. Vị trấp xuống tá tràng sẽ kích thích niêm mạc tá tràng gây phản xạ
đóng môn vị và kích thích tá tràng tiết dịch tụy mang tính kiềm, vị trấp được trung hòa và
môn vị lại mở ra để đón đợt thức ăn khác. Nhờ sự đóng mở môn vị có chu kỳ này nên ta
chỉ ăn ngày ba bữa (do thức ăn xuống ruột non từng khối nhỏ) mà quá trình tiêu hóa ở
ruột non vẫn diễn ra liên tục. Ngoài ra thức ăn lưu lại dạ dày lâu hay mau còn phụ thuộc
vào đặc điểm của thức ăn và tâm lý bữa ăn.
6.3.3. Tiêu hóa ở ruột non
Ở ruột non cũng diễn ra hai quá trình tiêu hóa là tiêu hóa cơ học và hóa học.
Tiêu hóa cơ học: Đây là kết quả co rút của các cơ. Có ba dạng co rút là cử động con
lắc do cơ dọc đảm nhận có tác dụng chống thức ăn ứ đọng tại chỗ; cử động co vòng từng
đoạn do cơ vòng đảm nhận, có tác dụng nhào trộn thức ăn, làm thức ăn ngấm đều dịch tiêu
hóa trong ruột và giúp quá trình hấp thu tốt; cử động nhu động là cử động phối hợp cả cơ
vòng và cơ dọc làm thức ăn trộn đều và di chuyển xuống với vận tốc khoảng 3 cm/phút.
Tiêu hóa hóa học: Ruột non có hệ thống enzym phong phú của dịch tụy và dịch
ruột. Trong dịch tụy và dịch ruột có đủ các loại enzym tiêu hóa protein, gluxit và lipit.
Các enzym này hoạt động trong môi trưởng kiềm.
Enzym tiêu hóa protein: Các enzym tripsin và chymotripsin của dịch tụy biến đổi
protein thành các chuỗi polypeptit. Sau đó enzym cacboxypeptitdaza biến đổi polypeptit
thành các axit amin. Ngoài ra, trong dịch ruột còn có enzym aminopeptidaza, dipeptidaza,
tripeptidaza biến đổi các polypeptit thành các axit amin. Các enzym này hoạt động mạnh
trong môi trường cực thuận là pH = 8.
Enzym tiêu hóa lipit: Enzym trong dịch tụy và dịch ruột là lipaza có tác dụng biến
đổi lipit thành glyxeryl và axit béo. Enzym photpholipaza biến đổi photpholipit thành
photphat và diglyxeryl. Sau đó enzym lipaza sẽ phân cắt các chất này thành sản phẩm
cuối cùng là glyxeryl và axit béo, ngoài ra còn có enzym cholesterolesteraza có tác dụng
phân giải cholesteron. Các enzym này hoạt động tốt trong môi trường pH = 7,8.
Enzym tiêu hóa gluxit: Enzym amylaza có trong dịch tụy và dịch ruột phân giải
tinh bột thành đường maltoza, sau đó enzym maltaza biến maltoza thành glucoza. Enzym
lactaza biến lactoza thành galactoza và glucoza. Enzym saccaraza biến saccaroza thành
fructoza và glucoza. Enzym amylaza trong ruột non hoạt tính cao hơn amylaza trong
nước bọt, nó có khả năng phân hủy cả tinh bột sống và chín thành đường maltoza. Độ pH
cực thuận của các enzym này là 7,1.
Vai trò của gan trong tiêu hóa
Gan tiết ra mật dự trữ trong túi mật và được chuyển dần vào tá tràng sau mỗi bữa
ăn. Đây là tuyến lớn nhất trong cơ thể, gan nặng khoảng 1,5 kg. Thành phần mật do gan
tiết ra gồm muối mật, các sắc tố mật, một số muối vô cơ và một số chất khác. Muối mật
có các tác dụng hòa tan các hợp chất tan trong lipit. Nhũ tương hóa mỡ của thức ăn, làm
49
tăng diện tích tiếp xúc giữa lipit và enzym, giúp quá trình tiêu hóa lipit dễ dàng hơn.
Ngoài ra, muối mật còn hoạt hóa enzym lipaza trong ruột. Khi được hấp thụ vào máu,
muối mật lại trở về gan và túi mật. Muối mật cần thiết cho việc hấp thu các chất hòa tan
trong lipit như các vitamin A, D, E, K.
Kết quả quá trình tiêu hóa ở ruột non là các chất protein, gluxit và lipit được biến đổi
thành những chất đơn giản tương ứng là axit amin, glucoza và axit béo mà cơ thể có khả
năng hấp thu được, lúc này vị trấp biến thành dưỡng trấp. Còn các chất khoang, vitamin và
nước không bị biến đổi trong quá trình tiêu hóa.
6.3.4. Tiêu hóa ở ruột già
Ruột già không tiết ra enzym tiêu hóa mà chỉ tiết ra chất nhầy để bảo vệ niêm mạc
ruột và hoàn tất quá trình tạo phân nhờ hệ vi sinh vật phong phú. Quá trình phân hủy các
chất cặn bả trong ruột già tạo ra một số axit (axetic, lactic, butyric), một số chất khí (CO2 ,
CH4 , SO2....) và một số chất độc (caraverin, indol, scatol). Các chất này được thải ra
ngoài qua hậu môn. Ngoài ra trong ruột già còn có hệ vi sinh vật có lợi giúp cơ thể tự tổng
hợp một số vitamin như vitamin B1, vitamin K.

Hình 6.2. Cấu tạo của thành ruột non và lông ruột
6.4. Sự hấp thu và sự thải bả
6.4.1. Sự hấp thu các chất dinh dưỡng
Sự hấp thu thức ăn diễn ra suốt chiều dài của ống tiêu hóa nhưng chủ yếu là ở ruột
non. Khoang miệng có thể hấp thu một số chất như rượu, morphin, steroit và một vài loại
chất độc. Dạ dày có thể hấp thu nước, một lượng nhỏ gluccoza nhưng lại hấp thu rượu rất
tốt. Ruột già có thể tái hấp thu nước rất mạnh và một số muối khoáng. Ruột non là nơi hấp
thu chủ yếu các chất dinh dưỡng nhờ hệ thống lông ruột.
Sự hấp thu thức ăn có thể diễn ra theo hai cơ chế là khuyếch tán và vận chuyển tích
cực. Chẳng hạn vitamin B1 cần cho sự vận chuyển glucoza; vitamin B6 cần cho sự vận
chuyển axit amin. Thức ăn được vận chuyển qua thành lông ruột rồi vào mạch máu hoặc
mạch bạch huyết. Các chất hòa tan trong nước như các axit amin, glucoza, nước, muối
khoáng được hấp thu vào mạch máu. Các chất hòa tan trong lipit như glyxeryl, axit béo có
thể được hấp thu theo hai con đường phụ thuộc vào nồng độ của axít béo. Nếu nồng độ của

50
axít béo thấp thì nó sẽ được vận chuyển vào mạch máu, nếu nồng độ của axít béo cao thì
chúng sẽ được vận chuyển vào mạch huyết rồi vào hệ tuần hoàn. Các chất được hấp thu
qua mao mạch ruột theo tĩnh mạch cửa vào gan. Khi qua gan, gan sẽ có vai trò điều hòa
một số chất như biến đổi glucoza thành glycogen để dự trữ ở gan nếu lượng glucoza trong
máu cao hoặc khi thiếu glucoza trong máu, gan sẽ biến đổi ngược lại. Ngoài ra, gan còn có
khả năng khử một số chất độc và dự trữ vitamin cùng các chất khoáng Fe, Zn, Cu, ....Sau
khi dòng dinh dưỡng được trung hòa độc tố, được điều hòa tối ưu nhất ở gan sẽ theo tĩnh
mạch gan đổ vào tĩnh mạch chủ dưới để về tim, từ đây các chất dinh dưỡng sẽ được đưa
đi nuôi cơ thể nhờ các vòng tuần hoàn máu.
6.4.2. Sự thải bả
Sự thải bả được thực hiện ở ruột già. Ruột già chỉ tái hấp thu nước (chủ yếu ở đoạn
sigma), do đó, nếu sản phẩm thừa lưu lại đây lâu sẽ bị mất nước nhiều và gây táo bón. Trẻ
càng nhỏ, số lần đại tiện càng nhiều do sự chuyển động của ruột ở trẻ nhỏ mạnh và nhanh.
Phân su được hình thành lúc trẻ sơ sinh là do biểu mô ruột bong ra và các dịch tiêu hóa.
Phân su có màu đen, không mùi và được thải ra ngay vài ngày đầu sau khi sinh.
6.5. Đặc điểm hệ tiêu hóa ở trẻ em
6.5.1. Đặc điểm cấu tạo: Đối với trẻ em, hệ tiêu hóa có vai trò đặc biệt quan trọng với sự
sinh trưởng và phát triển. Hệ tiêu hóa ở trẻ em có một số đặc điểm về giải phẫu và sinh lý
khác với người trưởng thành, nhất là trong những năm đầu. Đến 10 - 15 tuổi thì hệ tiêu
hóa mới hoàn thiện.
a) Khoang miệng:
Sự mọc răng sớm hay muộn còn phụ thuộc vào đặc điểm di truyền và chế độ dinh
dưỡng của từng cá thể. Men răng của trẻ mỏng, dễ vỡ, dễ bị sâu, sún. Khi răng sữa bị sâu
không rụng được sẽ làm cho răng vĩnh viễn mọc lẫy, sai lệch ảnh hưởng đến hàm răng
của trẻ sau này. Thời gian mọc răng sữa và thay răng ở trẻ như bảng sau:
Bảng 6.1. Thời gian mọc răng sữa và răng vĩnh viễn
Các loại răng Các thời gian mọc
Răng sữa Răng vĩnh viễn
Các răng cửa giữa 6 - 8 tháng 7 - 7,5 tuổi
Các răng cửa bên 7 - 10 tháng 8 - 9 tuổi
Các răng nanh 14 - 18 tháng 10 - 12 tuổi
Các răng hàm nhỏ 1 12 - 14 tháng 10 - 11 tuổi
Các răng hàm nhỏ 2 20 - 30 tháng 11 tuổi
Các răng hàm lớn 1 6 - 7 tuổi
Các răng hàm lớn 2 12 - 13 tuổi
Các răng hàm lớn 3 (răng khôn) 17 - 25 tuổi
b) Thực quản: Thực quản của trẻ em có hình chóp, thành thực quản có lớp niêm mạc
mỏng, mịn và có nhiều mạch máu, các tuyến tiết chất nhầy ít nên trẻ dễ bị hóc, nghẹn.
51
c) Dạ dày: Dung tích dạ dày thay đổi theo tuổi. Trẻ sơ sinh có dung tích dạ dày là 30 - 35
ml. Trẻ 3 tháng là 100 ml, trẻ 1 năm là 250 - 350 ml, trẻ 2 tuổi khoảng 700ml, trẻ 7 tuổi là
1000 - 1100ml và người trưởng thành là 2500 - 3000ml. Hình dạng dạ dày thay đổi phụ
thuộc vào lớp cơ và tính chất của thức ăn. Trẻ sơ sinh dạ dày có hình tròn, trẻ 1 tuổi có
hình thuôn dài còn trẻ 7 tuổi có hình dạng giống như người trưởng thành.
d) Ruột: Niêm mạc ruột mỏng dễ hấp thu những sản phẩm trung gian của quá trình tiêu
hóa và dễ bị vi khuẩn xâm nhập gây rối loạn tiêu hóa hoặc viêm nhiễm. Màng treo ruột
dài, manh tràng ngắn và di động nên trẻ dễ bị lồng ruột, xoắn ruột. Trực tràng tương đối
dài, niêm mạc lỏng lẻo, tổ chức mỡ bao quanh trực tràng ít nên khi trẻ bị kiết lị hay ho gà
kéo dài dễ dẫn đến sa trực tràng.
6.5.2. Hoạt động tiêu hóa ở trẻ em
Trong dạ dày trẻ có nhiều enzym prezua. Enzym này chủ yếu tiêu hóa các loại
protein có trong sữa. Enzym prezua hoạt động ở độ pH = 6 - 6,5. Trẻ càng lớn độ pH
giảm dần nên hoạt tính của enzym prezua giảm đi và thay vào đó là hoạt tính của enzym
pepsin tăng. Sự tiêu hóa các chất khác trong ruột ở trẻ diễn ra như ở người trưởng thành.
6.6. Vệ sinh tiêu hóa ở trẻ em
Ống tiêu hóa là nơi tiếp xúc trực tiếp với môi trường nên thường chịu tác động của
các tác nhân gây bệnh như các vi sinh vật, các con vật trung gian truyền bệnh, thức ăn
không chế biến phù hợp hay chế độ ăn uống không khoa học…Vì vậy trẻ em dễ nhiễm
các bệnh về đường tiêu hóa như sâu răng, đầy hơi, khó tiêu, rối loạn tiêu hóa, viêm ruột,
viêm các tuyến tiêu hóa hay nhiễm các bệnh về đường tiêu hóa như giun sán, tiêu chảy,
kiệt lỵ…Nên cần thực hiện các biện pháp vệ sinh hệ tiêu hóa như sau:
- Vệ sinh răng miệng tốt tránh sâu răng, giáo dục trẻ đánh răng đúng cách.
- Giáo dục trẻ rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện, dụng cụ ăn uống phải đảm bảo
vệ sinh. Nguồn thức ăn, khâu bảo quản và chế biến thức ăn cần đảm bảo vệ sinh và an
toàn thực phẩm.
- Giáo dục trẻ ăn đúng giờ, nhai kỹ trong khi ăn, không ăn quá no, tạo tâm lý thoải mái,
vui vẻ khi ăn để tăng hiệu quả hấp thu.
- Khẩu phần ăn cho trẻ phải đảm bảo đủ chất, đủ lượng. Sau khi ăn cần có thời gian nghỉ
ngơi để giúp quá trình tiêu hóa tốt.
- Giáo dục trẻ giữ văn minh trong ăn uống như không cười đùa, dùng các dụng cụ ăn
hợp vệ sinh chung…
Câu hỏi và bài tập
1. Phân tích vai trò của hệ tiêu hóa đối với cơ thể người và trẻ em.
2. Phân tích cấu tạo các phần của ống tiêu hóa phù hợp với chức năng của chúng.
3. Những điểm khác biệt của hệ tiêu hóa ở trẻ em so với người lớn?
4. Sự hấp thu các chất dinh dưỡng và đường đi của dòng dinh dưỡng trong cơ thể người.
5. Thảo luận về các biện pháp giữ gìn vệ sinh hệ tiêu hóa cho trẻ, các bệnh về hệ tiêu hóa
thường gặp ở trẻ tiểu học và cách phòng tránh.
52
Chương 7. HỆ BÀI TIẾT
(2 tiết LT + 1 tiết TH)
7.1. Chức năng của hệ bài tiết
Bài tiết là quá trình đào thải những sản phẩm thừa của sự trao đổi chất như urê, axit
uric, amôniac, nước, muối khoáng...từ trong ra ngoài cơ thể nhằm duy trì hằng tính của
môi trường nội môi.
Có nhiều cơ quan làm nhiệm vụ bài tiết là thận, da và cơ quan hô hấp. Trong đó thận
đóng vai trò chính.
7.2. Các cơ quan bài tiết ở người
7.2.1. Cơ quan bài tiết qua đường thận:
Cấu tạo: Gồm thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo.

Hình 7.1. Cấu tạo của cơ quan bài tiết quan thận và đơn vị thận
a) Thận: Được ví như máy lọc nằm trên đường đi của máu để lọc tạo thành nước tiểu.
- Cấu tạo ngoài: Gồm hai quả thận hình hạt đậu nằm trong khoang bụng, sát cột sống. Thận
phải nằm thấp hơn thận trái 2 - 3 cm. Mỗi quả thận có hình đỏ nâu, dài 10 - 12 cm, rộng 6
cm, dày 3 - 4 cm và nặng khoảng 120 - 160g ở người lớn. Trên đỉnh mỗi quả thận có tuyến
thượng thận.
- Cấu tạo trong : Bổ dọc quả thận từ ngoài vào trong có hai phần là miền vỏ (màu đỏ
đậm) và miền tủy (màu sáng hơn).
Miền vỏ có khoảng 2 triệu - 2,4 triệu đơn vị thận (vi thể thận) là nơi diễn ra quá
trình lọc nước tiểu. Một đơn vị thận gồm quản cầu Manpighi nằm gọn trong nang
Bowmann và các ống thận. Quản cầu Manpighi là một búi mao mạch hình cầu gồm
khoảng 50 mao mạch phân nhánh song song từ động mạch nhỏ đến. Động mạch đến lớn
gấp 5 lần động mạch đi tạo cho quản cầu một lực thấm lọc rất lớn.
Nang Bowman gồm có hai lớp. Lớp trong có cấu tạo gồm ba lớp. Trong đó ở lớp
giữa có các lỗ có đường kính độ 30 - 40A0 chỉ cho những chất có đường kính nhỏ hơn và
nước đi qua để vào ống thận, tạo điều kiện cho quá trình lọc giữ lại các chất cho cơ thể.
53
Nang Bowman nối với ống lượn gần (ống lượn sơ cấp), quai Henle, ống lượn xa (ống
lượn thứ cấp) rồi thông với ống góp chung và đổ vào đài thận, bể thận. Ở người trưởng
thành có chiều dài tổng số các ống thu nước tiểu khoảng 20 km.
Miền tủy có các tháp thận hình nón. Đỉnh của các tháp thận là các gai thận, đây là
vị trí đổ vào bể thận.
b) Niệu quản: Là ống xuất phát từ bể thận nối với bàng quang. Dài độ 25 - 30 cm, tiết
diện 4 - 5 mm.
c) Bàng quang (bóng đái): Là một túi bên trong được lót một lớp tế bào màng láng có tác
dụng không cho nước thấm ra ngoài. Cơ cổ bàng quang là cơ thắt, cơ trơn ở trong, cơ vân
ở ngoài, thực hiện việc giữ nước tiểu lại và chỉ cho ra ngoài theo yêu cầu.
d) Niệu đạo: Là ống nối tiếp với bàng quang và thông ra ngoài, ở nữ ngắn hơn nam. Lớp
niêm mạc của niệu đạo ở trẻ mịn và dễ bị tổn thương nên cần giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh
để tránh viêm nhiễm
Cơ chế hình thành và bài xuất nước tiểu ở thận
a) Cơ chế lọc nước tiểu ở nang baoman
Do áp suất máu trong quản cầu manpighi lớn hơn áp suất trong nang baoman nên
nước và các chất hòa tan trong nước thấm qua thành mạch sang nang baoman tạo thành
nước tiểu đầu. Lưu lượng máu qua thận mỗi ngày khoảng 800 - 900 lít và thận lọc được
khoảng 180 - 190 lít nước tiểu đầu. Thành phần nước tiểu đầu gần giống như huyết tương
và có urê, axit uric, crêatin, clo, phênon, phôtpho...và các phân tử prôtêin đơn giản.
b) Cơ chế tái hấp thu nước tiểu ở ống thận
Có hai cơ chế tái hấp thu là hấp thu chủ động nhờ chất vận chuyển và hấp thu thụ
động phụ thuộc vào nồng độ các chất.
Có 180 - 190 lít nước tiểu đầu nhưng chỉ thải ra 1 - 1,5 lít nước tiểu chính thức
trong mỗi ngày. Như vậy, đã có sự tái hấp thu phần lớn các chất như: nước, axit amin,
đường glucô, muối natri..... để tạo thành nước tiểu chính thức. Một số chất như axit amin,
đường glucô... được tái hấp thu hoàn toàn nên chúng không có trong nước tiểu chính
thức. Nhưng nếu nồng độ của chúng trong máu vượt qua giới hạn cho phép thì cũng được
thải ra ngoài.
Ví dụ: Đường glucoza chỉ được tái hấp thu hoàn toàn khi nồng độ của nó thấp hơn
180 mg/100g nước tiểu, nếu cao hơn tỷ lệ này thì chúng sẽ bị thải ra nên trong nước tiểu
có đường.
Từng phần của ống thận có sự tái hấp thụ như sau: ống lượn gần tái hấp thu 80%
nước, 100% các chất dinh dưỡng nên khi đi hết ống lượn gần lượng nước tiểu còn 35
lít/ngày. Quai Henle tái hấp thu Na+ và nước nên còn 26 lít/ngày, đến ống lượn xa còn 8-
9 lít/ngày. Đến ống góp và đến khi đổ vào bể thận và đài thận còn 1-1,5 lít/ ngày với
thành phần chỉ gồm các chất thải urê, axit uric, crêatin, ion Ca, axit phôtphoric,
NaCl....và một số sắc tố tạo màu như urêchrôm, urêbilin... tạo màu vàng, nước tiểu có
tính axit

54
c) Sự bài xuất nước tiểu ra khỏi cơ thể: Nước tiểu được hình thành từ thận. Nhu động
của niệu quản đưa nước tiểu xuống bàng quang một cách liên tục. Khi thể tích nước tiểu
trong bàng quang đạt đến một mức nhất định sẽ gây nên phản xạ tiểu tiện. Phản xạ tiểu
tiện là phản xạ phức tạp.
Bên cạnh thận, da cũng là cơ quan quan trọng tham gia vào chức năng bài tiết.
7.2.2. Bài tiết qua đường da
Từ ngoài vào trong da có ba lớp tế bào. Ở người trưởng thành tổng diện tích da
khoảng 1,5m2; độ dày thay đổi từ 0,5 mm- 3 mm tuỳ vị trí khác nhau trên cơ thể
a) Lớp biểu bì: Gồm 6 lớp tế bào. Những tầng trên thường bị hóa sừng, bong ra và được
thay thế bởi các tầng phía dưới. Ở những chỗ cơ thể bị ma sát nhiều, tầng trên dầy lên
như lớp sừng gọi là chai da. Tầng sâu nhất của biểu bì có khả năng sinh sản tế bào mới
gọi là tầng sinh trưởng (hay tầng Malpighi). Các tế bào ở tầng này có chứa sắc tố
melanin. Lớp biểu bì dày mỏng khác nhau tuỳ từng vùng. Dày nhất là lòng bàn tay, lòng
bàn chân. Mỏng nhất là vùng da mi, da môi.
b) Lớp bì: Trong lớp này có nhiều mạch máu, mạch bạch huyết, dây thần kinh, các cơ
quan thụ cảm xúc giác, các tuyến mồ hôi, tuyến nhờn và lông. Mỗi bộ phận có cấu tạo và
chức năng khác nhau.
c) Lớp tế bào dưới da: Có các tế bào mỡ tạo lớp mỡ dưới da. Lớp mỡ dưới da có độ dày
mỏng thay đổi theo từng vùng của cơ thể, giới tính, lứa tuổi, thể trạng và chế độ dinh
dưỡng. Ngoài ra trên bề mặt da còn có các phần phụ của da là lông và móng.
* Lông: Là một phần phụ của da. Lông dài như tóc, râu và lông ngắn như lông mày,
lông mi, lông mũi, lông tai, lông trên tay, mặt... tóc chỉ sống 2 - 4 năm sau đó chết và
rụng đi. Lông mi sau 4 - 5 tháng sẽ được thay thế. Chân lông có chứa nhiều đầu mút dây
thần kinh cảm giác và mạch máu.
* Móng: Nằm ở mặt lưng của các đầu ngón tay, mỗi tháng trung bình dài khoảng 4 -
5mm.

Hình 7.2. Cấu tạo của da người

55
Chức năng của da
- Bảo vệ: Khả năng thích nghi nhất của da là khả năng sinh sản của tế bào Manpighi, sự
hóa sừng của tế bào biểu bì và tính đàn hồi của da giúp cho việc chống các tác dụng cơ
học và sự xâm nhập của vi khuẩn.
- Bài tiết và điều hòa thân nhiệt: Được thực hiện nhờ tuyến mồ hôi. Trên khắp cơ thể
người có khoảng 2 - 5 triệu tuyến mồ hôi tiết khoảng 500 – 700 ml mồ hôi mỗi ngày.
Thành phần mồ hôi gồm nước (chiếm 98%), 1 - 1,6% urê, uríc, 0,4 - 1% muối NaCl, KCl
và một ít phốt phát, sunphat cùng một số sản phẩm khác của quá trình trao đổi chất. Mặt
khác, cứ 1 lít mồ hôi được tiết ra sẽ kèm theo 580 KCal nên tuyến mồ hôi còn có tác
dụng điều hòa thân nhiệt.
- Tuyến nhờn tiết chất nhờn giúp cho da mềm mại, ngăn cản sự thấm các chất lỏng vào
bên trong da. Mỗi ngày một người tiết khoảng 20 gam tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường.
- Da còn là cơ quan xúc giác của cơ thể người.
7.3. Đặc điểm cơ quan bài tiết ở trẻ em
7.3.1. Đặc điểm cơ quan bài tiết qua đường thận
- Thận trẻ em nằm thấp hơn so với người lớn. Sự trưởng thành về cấu trúc cơ bản của thận
được hoàn tất lúc trẻ 5 - 7 tuổi. Thận được phát triển và lớn lên theo lứa tuổi nhưng mạnh
nhất là vào tuổi dậy thì và lúc 20 tuổi.
- Bàng quang của trẻ nằm cao hơn so với người trưởng thành, về sau chuyển xuống
khoang chậu nhỏ. Thể tích bàng quang tăng dần theo tuổi. Trẻ sơ sinh là 30 – 80 ml; trẻ
bú mẹ: 60 – 100 ml; trẻ 6 tuổi: 100 -150 ml; người trưởng thành: 500 – 900 ml. Lớp
màng nhầy của bàng quang trẻ em mỏng và mịn hơn so với người trưởng thành. Lớp
niêm mạc của niệu đạo ở trẻ mịn và dễ bị tổn thương nên cần giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh
để tránh viêm nhiễm.
- Lượng muối trong nước tiểu tăng lên theo tuổi. Ở trẻ em, lượng nước tiểu bài tiết trên
khối lượng cơ thể cao hơn người trưởng thành. Tuổi mẫu giáo thải 1 lít/24h, trẻ 10 tuổi
thải 1,5 lít/24h và tuổi dậy thì thải khoảng 2 lít/24h. Lượng nước tiểu của trẻ trên 1 tuổi có
thể tính theo công thức sau:
Lượng nước tiểu (ml/ 24 h) = 600 + 100 (n - 1)
Trong đó n là số tuổi của trẻ tính theo năm
- Trẻ em đi tiểu nhiều lần trong ngày do thể tích bóng đái nhỏ mà lượng nước tiểu thải ra
tương đối lớn. Trẻ dưới 3 tháng tuổi mỗi ngày đi tiểu đến 25 lần; trẻ 1 tuổi 16 lần; 3 tuổi
8 lần; 11 tuổi 6 lần. Khi trẻ lớn lên, hoạt động tiểu tiện mang tính chất chủ động hơn do
có sự tham gia điều khiển của thần kinh vỏ não qua các phản xạ có điều kiện.
- Ở trẻ em thường có hiện tượng đái dầm ban đêm, nguyên nhân do chế độ sinh hoạt
không hợp lý (uống nhiều nước trước khi ngủ....) hay do sự rối loạn thần kinh, tâm lý trẻ.
Trong những trường hợp này phải điều chỉnh chế độ ăn uống hay điều trị theo sự chỉ dẫn
của thầy thuốc. Hiện tượng đái dầm ở trẻ em trai nhiều hơn ở trẻ em gái và thường chấm
dứt vào lúc 10 tuổi, tuy nhiên đôi khi khi kéo dài đến tuổi dậy thì. Khi trẻ đái dầm không
56
nên làm cho trẻ xấu hổ hoặc hoảng sợ, điều đó càng làm cho trẻ đái dầm thường xuyên
hơn và dễ chấn thương tâm lý.
7.3.2. Đặc điểm cơ quan bài tiết qua da
- Da trẻ em thường mỏng, mịn vì lớp tế bào hóa sừng mỏng, sợi cơ và sợi đàn hồi yếu
nên da dễ bị tổn thương. Số lượng mao mạch nhiều, đường kính mao mạch lớn nên da trẻ
thường hồng hào. Diện tích da so với trọng lượng cơ thể ở trẻ em rộng hơn người lớn,
nên sự mất nước qua da trẻ cao hơn so với người lớn
- Da trẻ có vai trò tham gia vào quá trình chuyển hóa nước, cấu tạo nên các enzim, các
chất miễn dịch, nhất là tạo nên vitamin D. Tiền vitamin D ở lớp mỡ dưới da có thể
chuyển thành vitamin D dưới tác dụng của tia tử ngoại nên cần cho trẻ tắm nắng hợp lý
để tránh còi xương.
7.4. Vệ sinh hệ bài tiết
- Hoạt động bài tiết ở trẻ em sẽ bị hạn chế do sỏi hay viêm đường tiết niệu. Các muối vô
cơ có trong nước tiểu có thể kết tinh thành những viên sỏi gây nghẽn đường dẫn nước
tiểu làm trẻ đau khi bài tiết. Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể có thể gây viêm nhiễm
các bộ phận của đường tiết niệu như bể thận, niệu quản, bàng quan hay niệu đạo.
- Cần giáo dục trẻ vệ sinh thân thể hàng ngày. Thực hiện chế độ ăn uống hợp lý, không
nên ăn quá nhiều đường, quá nhiều protein, quá mặn hay quá chua. Để tránh trẻ bị nhiễm
khuẩn đường tiết niệu, không nên cho trẻ ăn thức ăn ôi thiu, tắm giặt ở những vùng nước
ô nhiễm. Khi bị viêm cầu thận cấp khả năng lọc sẽ suy giảm và có thể dẫn đến suy thận.
Để tạo điều kiện hệ tiết niệu lọc và thải tốt cần giáo dục trẻ uống đủ nước và không nên
nhịn tiểu.
Câu hỏi và bài tập
1. Phân tích vai trò của hệ bài tiết. Các cơ quan làm nhiệm vụ bài tiết ở người.
2. Cấu tạo và chức năng của cơ quan bài tiết qua đường thận.
3. Phân tích cấu tạo và chức năng của da. Vì sao nói da có chức năng bài tiết?
4. Phân tích đặc điểm hệ bài tiết ở trẻ em và đề xuất biện pháp giáo dục trẻ giữ gìn vệ
sinh hệ bài tiết.
5. Thảo luận các bệnh về hệ tiết niệu và cách phòng tránh.

57
Chương 8. SỰ TRAO ĐỔI CHẤT – NĂNG LƯỢNG
VÀ ĐIỀU HÒA THÂN NHIỆT
(2 tiết LT + 4 tiết TH)
8.1. Khái niệm về sự trao đổi chất
Các chất và năng lượng cần thiết cho cơ thể sống đều lấy từ thức ăn. Nhờ hệ tiêu
hóa, các chất dinh dưỡng khi vào cơ thể được tham gia vào các quá trình sinh hóa khác
nhau nhằm đảm bảo cho cơ thể sinh trưởng, phát triển và phục hồi, quá trình đó gọi là
quá trình trao đổi chất và năng lượng.
Sự trao đổi chất và năng lượng gồm hai quá trình đồng hóa và dị hóa. Quá trình
đồng hoá cung cấp nguyên liệu cho dị hoá, quá trình dị hoá cung cấp năng lượng cho
đồng hoá. Một trong hai mặt này dừng lại sẽ không còn sự sống. Như vậy, đồng hoá và dị
hoá là hai mặt mâu thuẫn, nhưng thống nhất với nhau trong hoạt động trao đổi chất.

Hình 8.1. Hoạt động trao đổi chất


8.2. Vai trò sự trao đổi chất: Sự trao đổi chất ở sinh vật nhằm thực hiện hai chức năng

Hình 8.2. Vai trò của sự trao đổi chất


58
- Kiến tạo cơ thể: Nghĩa là xây dựng và đổi mới chất sống. Trong cơ thể đang lớn lên
hoặc đang phục hồi sau một thời gian giảm sút thì đồng hoá vượt dị hóa: trao đổi có lãi,
cơ thể lên cân. Trong các cơ thể đã trưởng thành, đồng hoá cân bằng với dị hoá: chỉ có sự
đổi mới chất sống. Trong các cơ thể đang về già, hoặc đang giảm sút, dị hoá vượt đồng
hoá: trao đổi bị lỗ, cơ thể xuống cân.
- Cung cấp năng lượng: Chất sống bị phân hủy sẽ giải phóng năng lượng để tiêu dùng
trong mọi hoạt động sống của cơ thể (Duy trì sự sống, sinh công cơ học, tạo ra nhiệt
chống lạnh và duy trì nòi giống)
8.3. Sự trao đổi các chất
8.3.1. Sự trao đổi gluxit
- Gluxit (hydratcacbon) là hợp chất hữu cơ cao phân tử được cấu tạo từ các nguyên tố
C, H, O với công thức chung là Cn(H2O)n. Gluxit chiếm 4 - 6% khối lượng khô của tế bào
chất. Đơn vị cấu tạo là đường đơn. Trong cơ thể người chủ yếu ở dạng đường Glucoza.
- Vai trò:
+ Tham gia cấu tạo tế bào, kiến tạo nên cơ thể sống.
+ Là nguồn cung cấp năng lượng cơ bản của cơ thể: 2/3 số năng lượng dùng cho cơ thể là
do gluxit cung cấp nên gluxit được coi là nguồn cung cấp năng lượng cơ bản của cơ thể.
Khi oxy hóa 1g gluxit thu được 4,1 KCal, CO2 và H2O.
+ Trong cơ thể gluxit được hấp thụ dưới dạng glucoza vào máu. Hàm lượng glucoza
trong máu chiếm tỷ lệ tương đối ổn định khoảng 0,08 - 0,12%. Nếu lượng glucoza trong
máu lên cao tới 0,15 -0,18% thì sẽ theo nước tiểu ra ngoài, vì vậy, nếu ta ăn quá nhiều
đường (150 - 200/ ngày) thì gan không chuyển hóa kịp, lượng đường sẽ nhất thời thải
theo nước tiểu. Còn nếu lượng glucoza trong máu xuống thấp dưới 0,04% sẽ gây hạ
đường huyết (chóng mặt, buồn nôn, mồ hôi vả ra, mê sảng và ngất xỉu).
+ Trong cơ thể glucoza được dùng ở các bộ phận khác nhau thì không giống nhau. Lượng
glucoza cần ở não là 12%, ở ruột 9%, cơ 7%, thận 5% và riêng phổi, tỳ không lấy
glucoza chỉ lấy glycogen. Tế bào thần kinh rất nhạy cảm với sự thiếu gluxit, nên khi đói
gluxit thì dễ bị rối loạn thần kinh.
- Sự chuyển hóa gluxit: Gồm ba quá trình chính:
+ Gan tích lũy glycogen: 2/3 lượng glucoz được gan hấp thụ và tích lũy dưới dạng
glycogen. Khi nồng độ glucoz trong máu giảm thì glycogen sẽ được biến đổi thành
glucoza theo con đường chuyển hóa sau:
Glycogen dưới tác dụng của enzim photphorylaza sẽ tạo thành glucoza-6- phốtphat,
từ đó nhờ enzim phốtphat sẽ tạo thành glucoza và phốtphát. Lượng glucoza này sẽ bổ
sung vào vòng tuần hoàn máu.
Ngược lại khi cơ thể nhiều glucoz thì chúng sẽ được biến đổi thành glycogen theo
con đường như sau để dự trữ ở gan:
Glucoza nhờ enzim fructokinaza hoặc hexakinaza sẽ được biến đổi thành glucoza-6-
phốtphat, từ đó nhờ enzim synthetaza sẽ biến đổi tiếp thành glycogen dự trữ ở gan.
59
+ Gan sinh đường mới: Các chất prôtêin, lipit thừa đều được gan biến đổi thành glucoza
dưới tác dụng của nhiều enzim
+ Gan biến glucoza thành mỡ dự trữ: Khi lượng glycogen ở gan đã tích lũy ở mức tối đa
(245g) nhưng lượng glucoza trong máu vẫn cao thì sẽ được gan biến đổi thành dạng mỡ để
dự trữ.
Người lớn mỗi ngày cần khoảng 450g gluxit. Trẻ em khoảng 300g. Trong tế bào
lipit và prôtêin có thể chuyển hóa thành gluxit.
8.3.2. Sự trao đổi lipit
- Lipit: Là hợp chất hữu cơ cao phân tử được cấu tạo từ các nguyên tố C, H, O… Đơn vị
cấu tạo là glyxerin và axit béo. Lipit chiếm 20% khối lượng khô của tế bào. Tùy vào đặc
điểm của axit béo trong dinh dưỡng lipit ở dạng dầu thực vật hay mỡ động vật.
- Vai trò: Có nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể:
+ Tham gia cấu tạo tế bào, kiến tạo nên cơ thể sống.
+ Là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho cơ thể, khi oxy hóa 1g lipit thu được 9,3
KCal, CO2 và H2O.
+ Là dung môi hòa tan của một số vitamin như A, D, E, K.
+ Là thành phần của các hoocmon giúp điều hòa sự sống.
+ Tạo lớp mỡ dưới da là lớp đệm và lớp cách nhiệt cho cơ thể.
- Sự chuyển hóa lipit: Lipit được hấp thụ dưới dạng glyxêrin và axit béo. Mỡ động vật
có axit béo no nên khó hấp thu, còn dầu thực vật có axit béo chưa no nên dễ hấp thu.
Lượng mỡ dự trữ trong cơ thể có thể được hình thành từ ba nguồn đó là: Thức ăn lipit,
gluxit thừa và prôtêin thừa. Lượng mỡ này sẽ được dự trữ ở các kho dự trữ như dưới da,
dưới bụng...và chúng thay đổi tùy theo lứa tuổi, giới tính, chế độ dinh dưỡng. Khi cần mỡ
sẽ được đưa tới gan để biến đổi thành glucoza. Mỗi ngày người lớn cần khoảng 70 - 90g
lipit. Gluxit và prôtêin có thể chuyển hóa thành lipit.
8.3.3. Sự trao đổi prôtêin
- Protein: Là hợp chất hữu cơ cao phân tử được cấu tạo từ các nguyên tố C, H, O, N, S,
P…. Đơn vị cấu tạo là các axit amin có công thức chung như sau: H 2N - CHR- COOH.
Đây là hợp chất hữu cơ duy nhất có chứa N, vì vậy, trong cơ thể prôtêin có thể chuyển
hóa thành lipit và gluxit, nhưng lipit và gluxit không thể chuyển hóa thành prôtêin. Do đó
prôtêin cần được cung cấp thường xuyên cho cơ thể. Chúng chiếm 65 - 75% khối lượng
khô của tế bào chất.
Prôtêin được hấp thu dưới dạng axit amin. Có khoảng 20 - 22 loại axit amin và chia
thành 2 nhóm:
+ Nhóm các axit amin có thể thay thế lẫn nhau được hoặc do cơ thể tự tổng hợp được.
+ Nhóm các axit amin không thể thay thế, nhất thiết phải đựơc cung cấp từ thức ăn.
Do đó, cũng có hai loại prôtêin là prôtêin hoàn toàn và prôtêin không hoàn toàn.

60
+ Prôtêin hoàn toàn: Có chứa đầy đủ các axit amin không thể thay thế được gồm:
Histidin, lizin, lơxin, acginin, treonin, valin, triptophan, izolơxin, metionin,
pheninlalanin. Mỗi axit amin không thể thay thế này đều có một vai trò nhất định, chẳng
hạn lơxin cần cho sự tổng hợp prôtêin của huyết tương, metionin giúp gan tăng cường
khả năng bảo vệ, lizin cần cho sự phát triển của não bộ.
+ Prôtêin không hoàn toàn: chứa không đủ các axit amin không thể thay thế được. Chẳng
hạn như trong ngô thiếu triptophan và lizin. Trong bột mì nghèo lizin...
- Vai trò
+ Tham gia kiến tạo tế bào, xây dựng cơ thể sống.
+ Giải phóng năng lượng cung cấp cho các hoạt động sống, khi oxy hóa 1g prôtêin sẽ giải
phóng 4,1 KCal và axit uric, urê, amôniac…
+ Là thành phần cấu tạo của một số enzim, kháng thể và hoocmon.
+ Tham gia vào quá trình vận chuyển khí (Hb).
+ Cấu tạo của các axit amin luôn có các gốc NH2 và COOH nên có khả năng đệm, giúp
cân bằng độ pH trong tế bào và cơ thể sinh vật.
- Sự chuyển hóa prôtêin: Trong cơ thể sinh vật luôn diễn ra nhu cầu thay đổi prôtêin nên
bắt buộc trong máu luôn có hàm lượng prôtêin ổn định để thực hiện chức năng luân
chuyển, đảm bảo việc tổng hợp prôtêin. Trong máu và trong các tổ chức khác, hàm lượng
prôtêin chiếm một tỷ lệ nhất định, nếu tỷ lệ này bị phá vỡ sẽ gây rối loạn cơ thể…Các tổ
chức đều có thể phân hủy prôtêin để đem ra trao đổi. Chẳng hạn, nếu prôtêin trong huyết
tương thiếu thì prôtêin ở những phần khác sẽ được phân hủy để cung cấp cho huyết tương
và ngược lại.
8.3.4. Sự trao đổi nước
- Nước chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tế bào (3/4) và cơ thể người. Ở trẻ sơ sinh có
khoảng 80% nước, ở người lớn nước chiếm khoảng 60% - 65% trọng lượng cơ thể ở nam
và 50 - 55% trọng lượng cơ thể ở nữ.

Bảng 8.1. Tỷ lệ nước trong các cơ quan, bộ phận của cơ thể


Cơ quan Tỷ lệ nước (%) Cơ quan Tỷ lệ nước (%)
Men răng 3 Tì 76
Xương 22 Tụy 78
Mỡ 30 Tim 79
Sụn Phổi
55 79
Não (chất trắng) Mô liên kết
70 80
Gan Thận
70 83
Da Não (chất xám)
72 86
Cơ Huyết tương
76 92

61
- Vai trò
+ Nước là thành phần cấu trúc tế bào (tế bào chất có 90% là nước)
+ Là dung môi hòa tan các chất trong cơ thể giúp quá trình trao đổi chất (trong máu có
90% là nước).
+ Là điều kiện cần thiết cho mọi quá trình sinh hóa diễn ra trong tế bào.
+ Là yếu tố đảm bảo quá trình điều hòa nhiệt độ cơ thể.
- Sự trao đổi nước trong cơ thể: Đối với người lớn nhu cầu nước trung bình khoảng 2 -
2,5 lít/ngày, được cung cấp qua con đường thức ăn và nước uống là chủ yếu. Ngoài ra, cơ
thể còn nhận được nước từ các phản ứng oxy hóa chất sống trong cơ thể. Chẳng hạn:
100g mỡ bị đốt cháy cho 107g nước
100g tinh bột bị đốt cháy cho 55g nước
100g đạm bị đốt cháy cho 43g nước.
+ Chỉ có lượng nước trong máu là ổn định, còn trong các mô và các cơ quan thì lên
xuống tùy mức độ trao đổi nước giữa cơ thể và môi trường.
+ Nhu cầu nước thay đổi tùy theo trạng thái cơ thể và theo lứa tuổi. Nước được thải qua
hệ bài tiết (1 - 1,5 lít/ ngày), hệ hô hấp (250 - 350 ml/ ngày) và bốc hơi qua da (toát mồ
hôi: 450 - 1050 ml/ ngày) và qua chất bã của đường tiêu hóa (50 - 220 ml/ ngày). Ngoài
ra còn có thể đào thải nước qua tuyến sữa, nước mắt.
8.3.5. Sự trao đổi khoáng
- Muối khoáng chiếm 4 - 4,5% khối lượng cơ thể, là thành phần không thể thiếu được
trong các mô, enzim, hoocmon...chúng ảnh hưởng đến mọi quá trình sống của cơ thể.
- Vai trò
+ Duy trì cân bằng ion và áp suất thẩm thấu đảm bảo sự hoạt động bình thường của các tổ
chức trong cơ thể.
+ Giúp quá trình hấp thu và trao đổi các chất (như Ca, P liên quan đến sự hấp thu
vitamin D....).
+ Giúp giảm streess, trung hòa độc tố và chống quá trình lão hóa…
Các loại muối tồn tại trong cơ thể với một tỷ lệ nhất định, một số có hàm lượng lớn
như Ca, P, Na, K, Mg....và một số có hàm lượng rất nhỏ như: I, Cu, Mn, Fe....Chúng
phân bố không đều trong cơ thể như Ca, P có nhiều ở xương, Fe có nhiều ở gan, cơ chứa
nhiều K...
Trong cơ thể khoáng ít được dự trữ trừ một số chất như Ca, P dự trữ ở xương, gan
dự trữ Fe. Nhu cầu các loại khoáng không giống nhau (lượng I < 2/ 10000g sẽ gây bệnh
bướu cổ, Cu < 0,8 mg sẽ làm suy yếu hoạt động mạch...). Mỗi ngày người lớn cần
khoảng 10 - 12g NaCl. Thường sự đào thải khoáng đi kèm với sự đào thải nước. Nước và
muối khoáng không bị biến đổi qua quá trình tiêu hóa, được hấp thụ ngay qua màng ruột
vào máu để cung cấp cho tế bào.

62
8.3.6. Sự trao đổi vitamin
- Vitamin được lấy vào dưới dạng thức ăn hoặc dạng tổng hợp. Vitamin cũng không bị
biến đổi trong ống tiêu hóa. Lượng vitamin trong thức ăn thường rất thấp và dễ bị phân
hủy ở nhiệt độ cao. Nhu cầu vitamin ở trẻ em cao hơn người lớn. Có 2 nhóm vitamin là
vitamin hòa tan trong nước và vitamin hòa tan trong dầu.
- Vai trò
+ Cơ thể cần một lượng rất ít nhưng không thể thiếu, chúng có nhiều chức năng quan
trọng đối với quá trình trao đổi chất.
+ Vitamin tham gia vào thành phần của các enzim
+ Tham gia vào cấu tạo của các hoocmon. Nếu thiếu vitamin sẽ gây suy yếu toàn thân
hoặc mắc các bệnh tương ứng.
- Một số vitamin chủ yếu
a) Vitamin A: Là loại vitamin hòa tan trong dầu. Có trong dầu cá, mỡ cá, gan cá, lòng đỏ
trứng, các loại thức ăn màu đỏ (cà rốt, cà chua, gấc,..) rau muống, me, ớt....
Khi thiếu vitamin A sẽ bị các bệnh:
- Thị giác bị rối loạn có thể gây mù
- Biểu mô da, niêm mạc bị biến đổi nên cơ thể dễ cảm thụ với các bệnh truyền nhiễm.
- Vitamin A cần cho sự phát triển bình thường của hệ cơ và hệ xương.
- Trẻ em thiếu vitamin A sẽ ngừng lớn, khô kết mạc và ảnh hưởng đến cấu tạo của
xương, răng.
b) Các vitamin nhóm B: Là loại vitamin hòa tan trong nước. Có ba loại vitamin B quan
trọng là: B1, B2 và B12. Khi trẻ thiếu vitamin B sẽ mệt mỏi, kém ăn, táo bón, yếu cơ,
chậm hay ngừng lớn, phù nề, rối loạn hoạt động hệ thần kinh.
- Thiếu vitamin B1(thiamine) sau 30 - 90 ngày sẽ gây mệt, ăn không ngon, tim đập nhanh,
chân đau, mất khả năng nhận cảm và vận động, người gầy rạc và có thể ảnh hưởng đến
tính mạng.
- Thiếu vitamin B12 rối loạn quá trình sinh hồng cầu dẫn đến thiếu máu, vitamin B12 còn
kích thích quá trình tổng hợp axit nuclêic.
- Vitamin B6 kích thích quá trình phát triển ở trẻ, chống viêm dây thần kinh, thiếu máu,
chống xơ cứng động mạch vành.
Các vitamin nhóm B có nhiều trong các thức ăn giàu gluxit, các hạt ngũ cốc, đậu,
dừa, cải bắp, men rượu, cám gạo, men bia, gan, cá, thận tim, sữa....
c) Vitamin C (axít ascorbic): Là loại vitamin hòa tan trong nước
- Tham gia vào quá trình tạo máu (vì cần cho quá trình hấp thu Fe).
- Giúp vết thương mau lành.
- Giữ cho mao mạch, thành mạch mềm dẻo, đàn hồi
- Trẻ thiếu vitamin C sẽ kém ăn, hoại huyết, chảy máu cam, lỏng chân răng, thiếu máu,
mạch máu dễ đứt...Vitamin C có nhiều trong rau quả tươi nhất là trong cam, chanh, bưởi,
63
cà chua, cà rốt, củ cải, hành...Chúng dễ bị phân hủy nếu phơi nắng lâu hay nấu kỹ. Rau
quả để lâu sẽ làm lượng vitamin C mất 30 - 50%.
d) Vitamin D: Là loại vitamin hòa tan trong dầu.
Có hai dạng là: vitamin D hoạt động và dạng tiền vitamin D. Dạng tiền vitamin D
nằm ở da dưới tác dụng của tia cực tím sẽ trở thành dạng hoạt động. Vitamin D giúp quá
trình hấp thu Ca, P đảm bảo sự lắng đọng Ca, P ở trong xương giúp quá trình cốt hóa
xương. Trẻ thiếu vitamin D sẽ bị còi xương, xương mềm dẻo, dễ uốn...
e) Vitamin K: Là loại hòa tan trong dầu. Có tác dụng chống chảy máu (giúp đông máu)
có nhiều trong xà lách, bắp cải, gan lợn, rau dền...
g) Vitamin E (vitamin sinh đẻ): Là loại hòa tan trong dầu. Nếu thiếu sẽ gây phân hủy tơ
cơ, thoái hóa cơ. Khi có thai nếu thiếu ở giai đoạn sau có thể gây sẩy thai. Vitamin E có
nhiều trong nhau thai, xà lách, thóc đang nảy mầm, giá ngô, dầu thực vật...Thiếu vitamin
E khoảng 1 tháng sau bệnh mới phát.
8.4. Sự trao đổi năng lượng
8.4.1. Vai trò của năng lượng
Sự trao đổi năng lượng gắn liền với sự trao đổi chất. Năng lượng được lấy từ các
loại thức ăn có chứa prôtêin, gluxit và lipit. Vậy prôtêin, gluxit và lipit vừa tham gia quá
trình trao đổi chất vừa tham gia quá trình trao đổi năng lượng. Năng lượng sinh ra trong
cơ thể được sử dụng cho mọi hoạt động sống, cụ thể:
- Duy trì sự sống (năng lượng chuyển hóa cơ sở)
- Dùng sản sinh ra công cơ học.
- Sinh nhiệt để chống lạnh giúp cơ thể thích nghi với môi trường sống.
- Duy trì nòi giống.
8.4.2. Năng lượng chuyển hóa cơ sở
Là mức năng lượng tối thiểu để duy trì sự sống (tim đập, phổi thở, thận bài tiết, thân
nhiệt 37 0C)
Khi đo năng lượng chuyển hóa cơ sở, người được đo phải ở trạng thái nghỉ ngơi,
không vận động, không cảm xúc, không suy nghĩ, nằm ở tư thế thoải mái, thức ăn đã được
tiêu hóa xong nghĩa là 12 giờ sau khi ăn và ở phòng có nhiệt độ cực thuận (18 - 200C)
8.4.3. Nguyên tắc lập khẩu phần ăn
a) Tiêu chuẩn ăn là nhu cầu về năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết cho từng
loại hình cơ thể trong một ngày đêm.
b) Khẩu phần ăn là tiêu chuẩn ăn trong một ngày đêm đã được cụ thể hóa bằng các loại
thức ăn xác định với khối lượng (hoặc tỷ lệ) nhất định. Một khẩu phần ăn cần khoa học,
đảm bảo yêu cầu phù hợp với sức khỏe và tập quán ăn.
Thức ăn là nguồn dinh dưỡng duy nhất đối với con người. Thức ăn đảm bảo các
hoạt động sống cơ bản như: sinh trưởng, phát triển, thay đổi tổ chức cũ, xây dựng tổ chức
mới....Khi lập khẩu phần cần đảm bảo đủ chất, đủ lượng, cân đối giữa đạm động vật và

64
đạm thực vật, giữa dầu thưc vật và mỡ động vật, giữa các loại vitamin có trong rau, củ
quả…Ngoài ra cần chú ý nguồn thức ăn địa phương, thời tiết…để đảm bảo tính kinh tế và
giúp trẻ ăn ngon.
c) Nguyên tắc lập khẩu phần
- Đủ chất: Cần đảm bảo đầy đủ các chất cần thiết cho cơ thể như: Gluxit, protein, lipit,
vitamin, khoáng và nước.
- Đủ lượng: Đảm bảo đủ nhu cầu năng lượng cho cơ thể người, nhu cầu này thay đổi
theo độ tuổi, công việc....Nhu cầu năng lượng được thể hiện qua bảng sau.

Bảng 8.1. Nhu cầu năng lượng ở các độ tuổi


Tuổi Kcal/ kg thể trọng Số Kcal / ngày
1- 3 101 -110 1050 - 1300
4-5 91 - 100 1100 - 1500
6 70 - 75 1300 - 1700
7 65- 75 1500 - 1900
8 60 -70 1700 - 2000
Người lớn: Nam 46 2500 - 3000
Nữ 40 2000 - 2200

Dựa vào bảng thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn để xây dựng khẩu phần
ăn khoa học cho trẻ. Khẩu phần ăn cần cân đối tỷ lệ về nhu cầu năng lượng giữa P: L: G
= 1:1:4.
- Ví dụ: Áp dụng công thức tỉ lệ giữa các chất sinh năng lượng là P: L: G = 1:1:4 xác
định tỷ lệ % các chất dinh dưỡng trong thực phẩm như sau:
Phần năng lượng mà cơ thể tiêu hóa và hấp thu được từ 1 gam protein là 4 Kcal.
Phần năng lượng mà cơ thể tiêu hóa và hấp thu được từ 1 gam lipit là 9 Kcal.
Phần năng lượng mà cơ thể tiêu hóa và hấp thu được từ 1 gam gluxit là 4 Kcal.
Vậy lượng thức ăn là protein quy ra năng lượng là:
Protein = Lipid = 1/6 x 1800 = 300 Kcal (nhu cầu năng lượng cho trẻ 8 tuổi)
Gluxit = 4/6 x 1800 = 1200 Kcal
Vậy lượng các chất dinh dưỡng tương ứng là
Protein = 300/4 = 75 gam
Lipid = 300/9 = 33,33 gam
Gluxit = 1200/4 = 300 gam

65
Dựa vào bảng giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn người Việt Nam để chọn thức
ăn và tính ra khối lượng thức ăn cần mua cho mỗi trẻ, sau đó tùy số lượng trẻ của trường
nhân lên để tính tổng số lượng thức ăn cần mua trong một ngày.
Bảng 8.2. Thành phần dinh dưỡng một số loại thức ăn
Các loại thức Thành phần hoá học Năng lượng Vitamin( tính bằng miligam)
ăn tính bằng
( 100 g) gluxit protit lipit Kcal A B1 B2 C
A. Gạo nếp 74,9 8,2 1,5 355 0,14
Gạo tẻ máy 76,2 7,8 1,3 353 0,12 0,07
Ngô hạt tươi 39,6 4,1 2,3 201 0,34 0,21 0,06
Ngô hạt khô 69,4 8,7 4,7 364 0,4 0,28 0,11
Khoai lang 28,5 0,8 0,2 122 0,3 0,05 0,05 23
Sắn tươi 36,4 1,1 1,1 156 0,03 0,03
Đậu tương 24,6 34,0 18,4 411 0,06 0,54 0,29 4
Đậu xanh 53,1 23,4 2,4 336 0,06 0,72 0,15 4
Đậu đen 53,3 24,2 1,7 334 0,06 0,5 0,21 3
B .Lạc 15,5 27,5 44,5 590
Vừng 17,6 20,1 46,4 586
Dừa quả 6,2 4,8 36 380
C.Thịt lợn nạc 0 19 7 143 0,01 0,93 0,16 2
Thịt ba chỉ 0 16,5 21,5 268 0,01 0,53 0,16 2
Bầu dục lợn 0,3 13 3,1 83 0,15 0,38 1,12 5
Gan lợn 0,2 18,8 3,6 119 6,0 0,4 2,1 18
Tim lợn 0 15,1 3,2 92 0,34 0,52 1
Thịt gà - 20,3 13,1 205 0,12 0,15 0,16 4
Thịt vịt - 11,4 53 540 0,27 0,27 0,2
Trứng gà 0,3 14,8 11,6 171 0,7 0,16 0,31
Sữa tươi 4,8 3,9 4,4 77 0,05 0,05 0,19 1
D.Bầu 2,9 0,6 0 14 0,02 0,02 0,03 12
Bí đỏ 6,2 0,3 0 27 0,2 0,06 0,03 8
Cà chua 4,2 6,6 0 20 2 0,06 0,04 40
Rau muống 2,5 3,2 23 2,9 0,1 0,09 30
Chanh 9,6 0,3 100 0,12 0,04 0,05 6
Đu đủ chín 7,8 1,0 36 1,5 0,02 0,02 54

66
Ví dụ: Gluxit chủ yếu là gạo tẻ máy nên lượng G cần là: (300 x 100)/76,2 =
393,70 gam gạo tẻ máy. Tương tự chọn thức ăn cung cấp protein và lipd để tính ra lượng
thức ăn cần mua cho 1 trẻ. Sau đó trường bao nhiêu trẻ nhân lên để tính số lượng mỗi loại
thức ăn cần mua.
Trên cơ sở khẩu phần ăn, xây dựng thực đơn cho trẻ. Có nhiều loại thực đơn,
nhưng trong Trường tiểu học thường dùng thực đơn theo tuần.
d) Các nguyên tắc xây dựng thực đơn
- Thực đơn cần đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng.
- Sử dụng cùng loại thực phẩm cho tất cả các chế độ ăn.
- Thực đơn phải phù hợp theo mùa.
- Thời gian lên thực đơn nên để 1 tuần.
- Cần thay đổi món ăn trong thực đơn.
- Khi xây dựng thực đơn, nên ưu tiên sử dụng các thực phẩm sẵn có ở địa phương.

8.5. Sự điều hòa thân nhiệt của cơ thể


8.5.1. Khái niệm: Là khả năng duy trì nhiệt độ cơ thể ổn định, không phụ thuộc vào nhiệt
độ môi trường. Để đảm bảo thân nhiệt ổn định, cơ thể người có một số cơ chế điều nhiệt.
8.5.2. Cơ chế điều nhiệt
a) Cơ chế điều tiết hóa học (cơ chế sinh nhiệt)
Nguồn sinh nhiệt chủ yếu của cơ thể là các phản ứng oxy hóa các chất sống: ATP,
ADP, AMP, CP (creatin phôtphat).
- Chống rét: Khi nhiệt độ môi trường giảm cơ thể chủ động tăng các quá trình sinh nhiệt
để sưởi ấm cơ thể.
- Chống nóng: Khi nhiệt độ môi trường tăng sẽ giảm quá trình trao đổi chất để làm nguội
cơ thể.
Cơ quan sinh nhiệt nhiều nhất trong cơ thể là cơ, sau đó đến gan, thận và sau cùng
là xương, sụn và mô liên kết. Có các dạng co cơ như: Co cơ giãn nhanh (hiện tượng run),
co cơ kéo dài (co ro), co cơ dựng lông (nổi da gà) đều là những dạng hoạt động nhằm
mục đích sinh nhiệt.
b) Cơ chế điều tiết lý học
- Chống rét: Bằng cách hạn chế sự mất nhiệt qua da bằng các biện pháp như tạo lớp mỡ
dày dưới da, thu hẹp diện tích tiếp xúc với không khí lạnh, giảm bớt lượng máu dưới da
bằng cách co các mạch nhỏ và mao mạch trong da (da tái), hạn chế dòng máu chảy ra da
bằng cách co các động mạch nhỏ đến da (da đỏ bầm).
- Chống nóng: Nếu nhiệt sinh ra không phát tán bớt ra ngoài mà tích lại trong cơ thể thì cơ
thể sẽ bị đốt nóng và có thể dẫn đến tử vong. Cơ thể có các cách chống nóng như tỏa nhiệt
trực tiếp bằng cách máu chảy qua các cơ quan sinh nhiệt sẽ mang phần nhiệt thừa ra da để

67
phát tán, hoặc tỏa nhiệt nhờ bốc hơi nước bằng hai cách là toát mồ hôi và tăng cử động hô
hấp.
8.6. Sự trao đổi chất và năng lượng ở trẻ em
Ở trẻ em quá trình trao đổi chất xảy ra mạnh, trong đó đồng hóa chiếm ưu thế. Trao
đổi chất mạnh nhất lúc trẻ bú mẹ, lứa tuổi nhỏ và giai đoạn dậy thì.
- Nhu cầu gluxit phụ thuộc vào sự tiêu hao năng lượng và lứa tuổi. Lượng gluxit cung cấp
khoảng 50% tổng số nhu cầu năng lượng hàng ngày cho trẻ, trung bình là 5 - 7 gam/kg
khối lượng trong một ngày.
- Nhu cầu lipit được xác định theo lượng protein ăn vào. Ở trẻ em tỷ lệ này là 1:1, nghĩa
là lượng protein và lipit ngang nhau. Nhu cầu chất béo có thể giảm ở người trưởng thành
(1: 0,7), thấp nhất là ở người già và người béo phì (1: 0,5). Trẻ em cần khoảng 2- 3 gam
lipit/ kg thể trọng trong một ngày.
- Trẻ em có nhu cầu protein rất lớn để kiến tạo cơ thể, đặc biệt là các tế bào não. Trẻ càng
nhỏ thì nhu cầu protein càng cao. Cần chú ý đạm động vật trong khẩu phần của trẻ.
- Nhu cầu về nước ở trẻ em rất cao, khả năng hấp thu nước của trẻ em cũng cao hơn so
với người trưởng thành.
- Nhu cầu hàng ngày về vitamin của trẻ thay đổi theo tuổi. Một số vitamin như B 1, B2, PP
có liên quan mật thiết với nhu cầu năng lượng nên được WHO quy định như sau: Vitamin
B1 cần 0,4 mg cho 1000 Kcal, Vitamin B2: 0,55 mg cho 1000 Kcal, Vitamin PP: 6,6 mg
cho 1000 Kcal.
Bảng 8.3. Nhu cầu protein trẻ em
Tuổi gam protein/ kg thể trọng/ ngày
1- 3 0,97
4-6 1,06
Người trưởng thành 0,71

Câu hỏi và bài tập


1. Thế nào là trao đổi chất? Vì sao nói trao đổi chất là đặc trưng cơ bản của sự sống?
2. Vai trò của các chất? Sự trao đổi và chuyển hóa các chất trong cơ thể trẻ em?
3. Thế nào là năng lượng chuyển hóa cơ bản? Nhu cầu năng lượng cho trẻ ở các độ tuổi?
4. Nguyên tắc lập khẩu phần cho trẻ. Thực hành lập khẩu phần cho trẻ các độ tuổi 6, 7, 8,
9 và 10.
5. Thảo luận về xây dựng thực đơn cho trẻ bán trú của trường tiểu học trong 1 tuần.

68
Chương 9. HỆ NỘI TIẾT
(2 tiết LT + 1 tiết TH)
9.1. Đại cương về tuyến nội tiết
Có hai hệ thống điều hòa hoạt động trong cơ thể là thần kinh và thể dịch (thông qua
hệ nội tiết). Hệ nội tiết điều hòa chức năng bằng những chất gọi là chất nội tiết hay
hoocmon. Trong cơ thể có 3 loại tuyến là: tuyến nội tiết và tuyến ngoại tiết và tuyến pha
(là tuyến có cả chức năng của tuyến nội tiết và tuyến ngoại tiết)
Bảng 9.1. Phân biệt tuyến ngoại tiết và tuyến nội tiết
Tuyến ngoại tiết Tuyến nội tiết
- Cấu tạo gồm hai phần là: chế tiết và ống - Không có ống bài xuất nên chất tiết ngấm
bài xuất. thẳng vào máu.
- Thường nằm tập trung có kích thước lớn. - Nằm rải rác và có kích thước nhỏ.
- Chất tiết là các enzim (men) có tác dụng - Chất tiết là những hoocmon thực hiện
xúc tác phản ứng. nhiệm vụ thông tin.
- Xuất hiện trước - Xuất hiện sau thể hiện tính chất tiến hóa
trong hoạt động.

Hoocmon là những chất có tác dụng sinh học lớn, giúp cho các cơ quan, tổ chức
của cơ thể hoạt động bình thường. Hay hoocmon là thành phần chủ yếu của thể dịch thực
hiện nhiệm vụ điều hòa hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong cơ thể. Hoocmon do
các tuyến nội tiết tiết ra. Ngoài ra có một số chất không do tuyến nội tiết tiết ra mà được
sản xuất bởi các tổ chức khác như axetincolin, histamin, sympatin…cũng đựơc gọi là
hoomon.
9.2. Các tuyến nội tiết trong cơ thể
9.2.1. Tuyến yên (tuyến mấu não dưới):
Là một tuyến nhỏ ở nền sọ, nằm trong hố yên của xương bướm, nặng khoảng 0,5
gam, ở trẻ em thì nhỏ hơn nhiều. Tuyến yên chia làm 3 thùy: Thùy trước lớn, thùy sau
nhỏ và thùy giữa phát triển yếu. Thùy trước và thùy sau liên hệ với vùng Hypothatamus.
a) Thùy trước: Là thùy lớn nhất được cấu tạo bởi nhiều loại tế bào: Tế bào không biệt
hóa, tế bào ưa axít () tế bào ưa bazơ () và tế bào kỵ màu (). Thùy trước tiết ra một số
hoocmon.
- Hoomon sinh trưởng (Growth hoocmone - GH hay Somatotrophin hoocmone - SH):
Do tế bào ưa axít () sản xuất và đây là hoocmon đặc trưng cho loài. Bản chất là một
prôtêin có 19 axít amin, cấu trúc phân tử có hai cầu nối đisunfua. Có tác dụng:
+ Làm tăng tổng hợp prôtêin, tăng cường quá trình chuyển hóa ion Na, P, K.
+ Làm tăng số lượng và kích thước tế bào, do đó làm tăng kích thước và khối lượng cơ thể.

69
+ Kích thích sự phát triển của các mô sụn, tăng quá trình tạo xương, đặc biệt là sự phát
triển của các xương dài làm cho cơ thể trẻ cao lên.
- Kích giáp trạng tố (Thyroid stimilating hoocmone - TSH): Do tế bào ưa bazơ () tiết ra.
Bản chất là một glycoprôtein, cấu trúc hóa học gồm hai chuỗi polypeptit là chuỗi  và
chuỗi . Có tác dụng tăng cường sự phát triển về số lượng và kích thước tế bào của tuyến
giáp, làm tuyến giáp tăng quá trình hấp thu iốt và tổng hợp thyroxin.
- Kích vỏ tuyến thượng thận (Adrenocorticotropin hoocmone - ACTH): Do tế bào ưa
bazơ () sản xuất. Bản chất là một polypeptit, cấu trúc phân tử gồm 39 axit amin.
+ Có tác dụng dinh dưỡng tế bào lớp bó và lớp lưới của vỏ thượng thận. Kích thích tuyến
phát triển và chế tiết hoocmon vỏ thượng thận. Hoocmon vỏ thượng thận tham gia
chuyển hóa đường, có tác dụng làm tăng đường huyết.
+ ACTH có tác dụng chuyển hóa lipit. Gần đây người ta còn thấy nó có tác dụng trực tiếp
lên não, ảnh hưởng đến học tập, trí nhớ, hành vi và thúc đẩy động cơ.
- Kích tố tuyến sinh dục (Gonadotropin): Có tác dụng đặc hiệu lên các tuyến sinh dục gồm
có FSH (Follicle Stimulating Hoocmone), LH (Luterning Hoocmone) và Prolactin. Bản
chất hóa học của FSH và LH là glycoprôtein có cấu trúc hóa học giống TSH. Prolactin bản
chất là protein gồm 198 axít amin, có ba cầu nối đisunfua và cấu trúc giống GH.
* Ở nam giới:
+ FSH có tác dụng dinh dưỡng tinh hoàn, kích thích ống sinh tinh phát triển và sản sinh
tinh trùng vào giai đoạn đầu.
+ LH có tác dụng dinh dưỡng tế bào kẻ và kích thích bài tiết hoocmon nam Testosterone.
* Ở nữ giới:
+ FSH kích thích nang trứng (nang Graff) phát triển.
+ LH phối hợp với FSH làm nang Graff chín và tiết estrogen. LH có tác dụng làm rụng
trứng và tạo hoàng thể. Những tế bào hoàng thể chế tiết progesteron và estrogen.
+ Prolactin: Có tác dụng kích thích bài tiết progesteron, bài tiết sữa. Ở người chỉ có tác
dụng khi có sự phối hợp chuẩn bị trước của estrogen và progesteron trong thời kỳ có thai
b) Thùy sau: Còn gọi là thùy thần kinh có tác dụng bài tiết và chứa đựng một số
hoocmon được sản xuất ở vùng dưới đồi - vùng Hypothatamus. Các hoocmon này được
vận chuyển dọc theo sợi trục đến thùy sau tuyến yên lưu trữ lại và được giải phóng vào
máu theo nhu cầu. Có 2 loại hoocmon:
- Oxytoxin: Bản chất là peptit có 9 axit amin và một cầu nối đisunfua. Axit amin ở vị trí
thứ 3 là isoleuxin và thứ 8 là leuxin.
+ Có tác dụng kích thích bài xuất sữa.
+ Tác dụng co cơ trơn tử cung (lúc chuyển dạ đẻ nên còn gọi hoocmon thúc đẻ)
- Vasopressin: Bản chất là peptit có 9 axit amin và một cầu nối đisunfua. Axit amin ở vị
trí thứ 3 là pheninlalanin và thứ 8 là arginin.
+ Nếu ở liều thấp nó các tác dụng làm ống lượn, ống góp hấp thu nước.
70
+ Nếu ở liều cao gây tăng huyết áp do gây cơ trơn thành mạch.
Gần đây người ta còn thấy oxytoxin và vasopressin còn có tác dụng đến quá trình
học tập, trí nhớ và hành vi.
c) Thùy giữa: Kích thước nhỏ chỉ sản xuất intecmedin có tác dụng kích thích sự phân bố ở
các tế bào sắc tố trong da làm vật thích nghi với môi trường sống nhất là đối với động vật
máu lạnh. Ở người thùy này bị thoái hóa chỉ còn một khoang nhỏ ăn sâu vào thùy trước.

Hình 9.1. Cấu tạo của tuyến yên


d) Những rối loạn chức năng tuyến yên
- Ưu năng tuyến yên:
+ Nếu ở trẻ em ưu năng tuyến yên gây ra bệnh khổng lồ - to đầu ngón do khối u tế bào
bài tiết quá nhiều GH. Cơ thể phát triển quá mức và thường kèm theo đái đường.
+ Ở người trưởng thành đã hết lớn, ưu năng tuyến yên làm tăng thể tích các mô mềm (da,
lưỡi, các tạng...), các xương ngắn phát triển (xương hàm dưới, xương các đốt ngón tay,
chân) gây ra bệnh to đầu ngón. Nhưng thường gặp là thể bệnh khổng lồ to đầu ngón.
- Nhược năng tuyến yên:
+ Gây lùn cân đối vì giảm bài tiết GH.
+ Thiếu tuyến yên bẩm sinh thì đứa trẻ phát triển gần bình thường lúc dưới 1 tuổi, sau đó
sự phát triển chậm hẳn lại. Sự phát triển thể lực, trí tuệ đều giảm hẳn.
9.2.2. Tuyến giáp
Nằm trước sụn giáp, có hai thùy ở hai bên và một eo ở giữa. Khối lượng thay đổi
theo tuổi, ở trẻ sơ sinh tuyến giáp nặng 1 gam, trẻ 2 tuổi tuyến giáp nặng 3 gam, trẻ 5 - 7
tuổi tuyến giáp nặng 6 - 10 gam và ở tuổi dậy thì tuyến giáp nặng 25 gam ở nữ và 30 gam
ở nam. Tuyến giáp hoạt động mạnh lúc trẻ 5 - 7 tuổi và 13 - 15 tuổi. Sự phát triển của
tuyến giáp phụ thuộc vào lượng iốt trong cơ thể. Tuyến giáp tiết ra 2 loại hoocmon:
- Thyroxin: Bản chất là sự kết hợp của tyrosin với iốt. Có tác dụng lên hầu hết các tế bào
trong cơ thể làm tăng cường chuyển hóa trong các tế bào, đặc biệt là tế bào cơ giúp quá
trình tạo nhiệt. Ở trẻ em nó có tác dụng làm tăng quá trình biệt hóa tế bào, điều hòa và
làm tăng quá trình phát triển của cơ thể về thể chất và cả trí tuệ.
71
- Canxitonin: Ảnh hưởng đến sự chuyển hóa canxi và phôtpho trong máu, làm tăng canxi
và phôtpho trong nước tiểu. Do đó, làm tăng quá trình tạo xương nên rất quan trọng đối
với sự phát triển của trẻ em.

Hình 9.2. Cấu tạo của tuyến giáp


- Những rối loạn trong chức năng tuyến giáp
+ Ưu năng tuyến giáp gây bệnh badơđo, làm tăng chuyển hóa cơ sở, người gầy, mắt lồi,
mạch nhanh, đường huyết tăng, tim đập nhanh, phản xạ gân tăng, các cơ run rẩy, thần kinh
dễ xúc cảm, tính tình thay đổi. Trẻ lớn nhanh hơn nhưng không gây bệnh "khổng lồ".
+ Nhược năng tuyến giáp làm giảm sự chuyển hóa, tim đập chậm thân nhiệt hạ thấp, cơ
thể tích nước gây bệnh phù niêm dịch. Khi trẻ em bị nhược năng tuyến giáp, cơ thể sẽ lớn
chậm, lùn bé, trí tuệ kém phát triển, thậm chí đần độn, sinh dục kém phát triển, nếu phát
hiện và điều trị sớm sẽ phát triển bình thường.
9.2.3. Tuyến cận giáp: Nằm ở cạnh tuyến giáp, rất nhỏ, chỉ nặng khoảng 0,15 gam.
Hoocmon chủ yếu của tuyến cận giáp là parathoocmon có tác dụng điều hòa sự
chuyển hóa canxi và phôtpho. Nó làm tăng hấp thu canxi và giảm hấp thu phôtpho ở ống
thận. Nhìn chung, chúng có tác dụng tăng canxi huyết và giảm phôtphat huyết.

Hình 9.3. Cấu tạo của tuyến cận giáp

72
- Ưu năng tuyến cận giáp làm cho xương mất canxi, có hốc nên dễ gẫy, răng rụng. Do
canxi trong máu tăng nên hoạt động của tim bị biến loạn, hưng tính thần kinh giảm,
người đờ đẫn, kém linh hoạt.
- Nhược năng tuyến cận giáp làm giảm canxi huyết nên hưng tính thần kinh tăng, gây co
giật kéo dài, khi lan tới các cơ quan hô hấp gây ngạt thở có thể chết.
9.2.4. Tuyến ức: Hoạt động mạnh ở trẻ em và kéo dài đến tuổi dậy thì, sau đó giảm dần.
Tuyến ức có vai trò với sự biệt hóa và phát triển giới tính ở trẻ, đảm bảo cho tuyến sinh
dục phát triển bình thường, tuyến ức cũng có tác dụng đến sự trao đổi các chất khoáng.
9.2.5. Tuyến tụy: Là tuyến pha. Tụy ngoại tiết tiết dịch tụy và các men tiêu hóa đổ vào tá
tràng qua ống dẫn. Tụy nội tiết gồm các tế bào tụ thành đám gọi là đảo Langerhan (Do
Langerhan tìm ra vào năm 1869). Tiểu đảo Langerhan nặng khoảng 1 gam (nhỏ hơn rất
nhiều so với tụy ngoại tiết - nặng 79 gam). Đảo Langerhan chứa ba loại tế bào là:
+ Tế bào  chiếm 20% có khả năng sản xuất ra hoocmon glucagon.
+ Tế bào  chiếm 75% và sản xuất ra insulin
+ Tế bào  chiếm 5% là dạng thoái hóa của tế bào  và .

Hình 9.4. Cấu tạo của tuyến tuỵ nội tiết


- Insulin: Là hoocmon duy nhất làm hạ đường huyết, bằng cách tăng tính thấm glucoza
của màng tế bào, tăng dự trữ glycogen ở gan, cơ, tăng sự phân hủy glucoza ở mô, tăng sự
chuyển hóa glucoza thành axit béo ở gan.
Insulin được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1927 ở dạng tinh khiết dùng để chữa
bệnh đái tháo đường. Cấu tạo gồm hai chuỗi peptit (một chuỗi gồm 21 axit amin, một
chuỗi gồm 30 axit amin) nối với nhau nhờ cầu nối đisunfit. Insulin là một protêin nên
đưa vào theo đường tiêu hóa sẽ bị phân hủy, do đó cần tiêm nhiều lần trong một ngày để
duy trì nồng độ trong máu.
- Glucagon: Làm tăng đường huyết do nó có tác dụng làm tăng quá trình chuyển hóa
glycogen thành glucoza. Glucagon còn có tác dụng kích thích tuyến yên tiết GH, tuyến
tụy tiết somatostatin. Somatostatin có tác dụng ức chế giải phóng GH và TSH, ức chế tiết
insulin, glucagon và các enzim của tụy...

73
- Những rối loạn trong chức năng tuyến tụy:
+ Ưu năng tuyến tụy làm giảm đường huyết, giảm huyết áp và mồ hôi, thân nhiệt giảm và
dẫn đến hôn mê.
+ Nhược năng tuyến tụy gây bệnh đái tháo đường. Nếu cắt bỏ tuyến tụy sẽ có hiện tượng
đái tháo đường ngay cả lúc đói, gầy rất nhanh, cơ teo, mỡ trong máu tăng và khoảng sau
10 - 30 ngày sẽ chết.
9.2.6. Tuyến thượng thận: Nằm trên đỉnh hai quả thận, mỗi tuyến nặng khoảng 6 - 10g.
Nó ngăn cách với thận bởi một bao liên kết dày ăn sâu vào trong tuyến chia tuyến làm
nhiều thùy. Tuyến có hai phần vỏ và tủy riêng biệt, khác nhau về cấu tạo và chức năng.

Hình 9.5. Cấu tạo của tuyến thượng thận


Phần vỏ: Có màu vàng, chắc mịn, gồm ba lớp: lớp bó, lớp cầu và lớp lưới. Tiết ra
nhiều loại hoocmon.
- Lớp cầu: Mỏng, gồm các tế bào đa diện tiết andosteron giúp quá trình hấp thu Na ở
quai henlê, đảm bảo nồng độ Na trong máu và thận.
- Lớp bó là lớp dày nhất gồm những tế bào xốp; Lớp lưới chứa dãy tế bào tuyến. Hai lớp
này tiết ra ba loại hoocmon: cooctizôn, coocticosteron và cootizol. Ba hoocmon này có
tác dụng như nhau nhưng trong đó cootizol là có hoạt tính cao nhất. Chúng đều có tác
dụng:
+ Ngăn cản không cho glucoza ngấm vào tế bào để làm glucoza trong máu tăng lên.
+ Phá hủy protêin thành axit amin đưa tới gan để tiến hành quá trình amin hóa, kích thích
gan đưa glucoza vào máu giúp quá trình nuôi não.
Ngoài ra ở lớp vỏ còn tiết ađrêcosteron là hoocmon sinh dục phụ thường tiết chậm,
nếu tiết sớm sẽ gây dậy thì sớm.
Phần tủy: Gồm những tế bào ưa crôm còn gọi là crômaphin. Tiết ra hai loại
hoocmon là ađrênalin và norađrênalin.

74
- Ađrênalin: Có tác dụng trực tiếp lên tim, làm tăng hoạt động của tim và làm co những
động mạch nhỏ, những mao mạch ở da nhưng làm giảm mạch nuôi tim. Do đó làm tăng
huyết áp tối đa, ađrênalin còn có tác dụng chuyển hóa glycogen thành glucoza nên làm
tăng đường huyết và làm giãn đồng tử mắt.
- Norađrênalin: Có tác dụng giống như ađrênalin nhưng mạnh hơn trong việc tăng huyết
áp và làm co mạch toàn thân, làm tăng cả huyết áp tối đa và tối thiểu.
9.2.7. Tuyến sinh dục: Là tuyến pha vì vừa có chức năng tạo ra giao tử và vừa tiết
hocmon giới tính.
- Tuyến sinh dục ở nam là tinh hoàn có tác dụng tạo ra tinh trùng và hoocmon giới tính
đặc trưng cho nam là testtosterol
- Tuyến sinh dục ở nữ là buồng trứng, vừa tạo ra trứng vừa sản xuất oestrogen là hocmon
giới tính đặc trưng cho nữ.
9.3. Cơ chế điều hòa hoạt động hệ nội tiết
1
Ngoại cảnh
Hypothatamus

Yếu tố giải phóng

Tuyến yên

hoocmon
Tuyến đích (tuyến 3
hoocmon
tụy, tuyến giáp.....)

hoocmon
1: Điều chỉnh cực ngắn.
2: Điều chỉnh ngắn. Tổ chức cơ thể

3: Điều chỉnh dài.


Hình 9.6. Sơ đồ cơ chế điều hoà hoạt động của các tuyến nội tiết.
)
Hoạt động nội tiết của cơ thể được điều hòa bởi hệ thống thần kinh và thể dịch.
Dưới tác dụng của ngoại cảnh như ánh sáng, nhiệt độ...làm cho vùng hypothatamus sản
xuất các yếu tố giải phóng. Các yếu tố giải phóng sẽ kích thích tuyến yên tiết hocmon
điều hòa hoạt động của các tuyến đích (tuyến tụy, tuyến thượng thận, tuyến thượng
thận....) và các tuyến đích tiết ra hocmon để điều hòa hoạt động các cơ quan, tổ chức.
Các tổ chức khác của não cũng tác dụng đến vùng dưới đồi, tuyến yên cũng tác
dụng ngược lại để điều chỉnh vùng dưới đồi tiết yếu tố giải phóng. Ngoài ra, nồng độ các
hoocmon trong máu cũng có tác dụng lên vùng dưới đồi làm vùng dưới đồi tăng cường

75
hoặc ức chế bài tiết các yếu tố giải phóng nhằm đảm bảo lượng hoocmon trong máu phù
hợp nhất.

Hình 9.7. Vai trò của tuyến yên và sự điều hoà hoạt động nội tiết
Tóm lại, tuyến yên là tuyến quan trọng nhất trong các tuyến nội tiết, tuyến yên tiết
ra hoocmon điều hoà các tuyến còn lại (tuyến đích) hoạt động nên nó được ví như nhạc
trưởng trong dàn nhạc giao hưởng của các tuyến nội tiết. song tuyến yên hoạt động dưới
sự điều khiển của vùng hypothatamus ở vùng dưới đồi của não trung gian. Vậy nên sự sự
điều hoà bằng thể dịch cũng được điều khiển bởi sự điều hoà bằng thần kinh.

Câu hỏi và bài tập


1. Vai trò của hệ nội tiết? Cơ sở phân loại các loại tuyến trong cơ thể người? Phân tích
đặc điểm của chất nội tiết.
2. Nêu đặc điểm cấu tạo và chức năng của các tuyến nội tiết trong cơ thể người? Tuyến
nội tiết nào có vai trò quan trọng nhất? Vì sao?
3. Phân tích hệ thống điều hòa hoạt động của các tuyến nội tiết để đảm bảo sự thống nhất
trong cơ thể.
4. Thảo luận về một số bệnh nội tiết thông thường.

76
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trịnh Hữu Hằng, Đỗ Công Quỳnh (2006), Sinh lý học người và động vật, tập
1,2, NXB ĐHQG Hà Nội.
2. Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (2010), Giáo trình sinh lý học trẻ em, NXB Đại
học Sư phạm.
3. Tạ Thúy Lan, Võ Văn Toàn (2012), Giải phẫu sinh lý người qua hình ảnh,
NXB Đại học Sư phạm.
4. Trần Trọng Thủy (2006), Sinh lý học trẻ em, Dự án phát triển GVTH, NXB Đại
học Sư phạm Hà Nội.
5. Võ Văn Toàn, Nguyễn Thị Tường Loan (2016), Giáo trình Giải phẫu – sinh lý
trẻ em, Trường Đại học Quy Nhơn.
6. Võ Văn Toàn, Lê Thị Phượng (2014), Giải phẫu, sinh lý người và động vật,
NXB Giáo dục Việt Nam.
7. Lê Thanh Vân (2008), Giáo trình Sinh lý học trẻ em, NXB Giáo dục.

77

You might also like