You are on page 1of 18

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 12- HỌC KỲ 1

Năm học 2022- 2023

A. NỘI DUNG ÔN TẬP

I . ĐỌC HIỂU (3,0 ĐIỂM)

Ôn tập lý thuyết đọc hiểu:

- Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm, miêu tả, thuyết minh, nghị luận, hành chính

- Phong cách ngôn ngữ: PCNN Sinh hoạt, PCNN nghệ thuật, PCNN báo chí, PCNN
chính luận, PCNN khoa học, PCNN hành chính.

- Các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.

- Thể loại văn bản, đặc biệt là văn bản thơ: Thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn, thơ tự do,
thơ lục bát, thơ song thất lục bát, ….

- Các biện pháp tu từ (về ngữ âm, từ, câu) trong văn bản: Chỉ ra và nêu tác dụng.

- Nghĩa của từ, nghĩa và ngữ pháp của câu.

- Theo tác giả, một câu nói, một nội dung …trong văn bản được hiểu như thế nào?

- Anh (chị) hiểu câu nói trong văn bản như thế nào? hoặc tại sao tác giả lại cho rằng
….

- Anh (chị ) có đồng ý với ý kiến cho rằng, câu nói cho rằng …? Lí giải vì sao đồng ý
hoặc không đồng ý .

- Thông điệp ý nghĩa nhất rút ra từ văn bản ?(Chỉ ra thông điệp và lí giải vì sao lại
chọn thông điệp đó )…

II. LÀM VĂN (7,0 ĐIỂM) HS tập trung vào ôn tập một số kiến thức sau:

1. Nắm chắc cách làm bài :

- Nghị luận về một đoạn thơ.

- Nghị luận về một đoạn trích văn xuôi.


2. Hệ thống nội dung kiến thức các bài học đọc hiểu văn bản ngữ văn 12, kỳ 1 . Nắm vững cả
về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm , đoạn trích …

ĐẤT NƯỚC (NGUYỄN KHOA ĐIỀM)

I. Tác giả
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ,
cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt
Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự thành công với những sáng tác về đề tài đất
nước, tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích “Đất
Nước”.
II.Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở
chiến khu Trị - Thiên vào năm 1971. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ
đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình
phải xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm
lược.
2. Vị trí đoạn trích
Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm 9 chương, đoạn trích “Đất Nước” là
phần đầu chương V của bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả
về đất nước được nhìn trên nhiều góc độ, với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của
Nhân dân”.
3. Nội dung

- Phần 1: Nêu lên cách cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành, phát triển của đất
nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước.

+ Đất nước được hình thành từ những gì nhỏ bé, gần gũi, riêng tư trong cuộc sống
của mỗi con người.

+ Đất nước là sự hòa quyện không thể tách rời giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc.

+ Mỗi người phải có trách nhiệm với đất nước.

- Phần 2: Tư tưởng “ Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện qua ba chiều cảm nhận về đất
nước. Từ không gian địa lý; Từ thời gian lịch sử; Từ bản sắc văn hóa.

- Giọng thơ trữ tình chính luận sâu lắng, tha thiết, sự vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố
văn hóa và văn học dân gian, thể thơ tự do phù hợp với cảm xúc …
SÓNG (XUÂN QUỲNH)

I. Tác giả: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ
nữ giàu yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc bình dị đời thường; đồng thời cũng là
tiếng lòng của một người nhiều âu lo, luôn day dứt, trăn trở trong tình yêu. Chị viết
nhiều và viết rất hay về tình yêu, trong đó “Sóng” là một bài thơ tiêu biểu. Đến với
Xuân Quỳnh và “Sóng”, thơ ca Việt Nam hiện đại mới có được một tiếng nói bày tỏ
trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm
của một trái tim phụ nữ đang yêu.

II. Tác phẩm:


1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác ở bãi biển Diêm Điền vào năm 1967, in
trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển, ẩn
vào đó là những con sóng lòng đang khao khát tình yêu mãnh liệt. Bài thơ có hai hình
tượng song song và tương trợ lẫn nhau, đó là “Sóng” và “Em”, cả hai đã cùng nhau
tạo nên nét riêng biệt cho bài thơ.
2. Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ

- Âm điệu của bài thơ Sóng là âm điệu, của những con sóng ngoài biển khơi,
lúc ào ạt, dữ dội lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể
ngũ ngôn với những câu thơ được ngắt nhịp linh hoạt.

- Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” - lúc phân tách, soi chiếu vào
nhau, lúc nhập hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.

3. Nội dung
- Cảm nhận theo khổ:Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu.

- Cảm nhận theo hình tượng: Hình tượng sóng và em…

- Những đặc sắc về nghệ thuật: kết cấu, xây dựng hình ảnh, nhịp điệu và ngôn từ

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)

I. Tác giả: Nguyễn Tuân là một trong những cây bút có sức sáng tạo dồi dào nhất của
nền văn học Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông là một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, có cá tính độc
đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới
ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác
phẩm tiêu biểu nhất của Nguyên Tuân ở thể loại này là tùy bút “Người lái đò sông
Đà”.

II. Tác phẩm:


1. Hoàn cảnh sáng tác
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” ra đời sau chuyến đi thực tế gian khổ đầy hào hứng
tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Nguyễn Tuân. Bài tùy bút được in trong tập
“Sông Đà” xuất bản năm 1960
2. Nội dung
a. Hình tượng con sông Đà

* Sông Đà hùng vĩ, dữ dội:

+ Thành vách dựng đứng

+ Sức mạnh của gió, sóng, đá

+ Những hút nước ghê rợn

+ Những thác nước

+ Bày thạch trận như một bầy thuỷ quái hung bạo

* Sông Đà thơ mộng, trữ tình

+ Hình dáng: như một thiếu nữ kiều diễm với mái tóc tuôn dài.

+ Màu nước thay đổi theo mùa

+ Vẻ đẹp nên thơ, gợi cảm

+ Cảnh hai bên bờ sông

b. Hình tượng ông lái đò trong cuộc chiến đấu với con Sông Đà hung bạo:

- Người anh hùng lao động trên sông nước đưa đò vượt qua ba trùng vi thạch trận

+ Cuộc đấu tranh không cân sức ( SĐ hung bạo- con người nhỏ bé)

+ Con người đã chiến thắng sức mạnh của tự nhiên. Dòng sông càng hung bạo thì
hình tượng ông lái đò càng đẹp đẽ, uy nghi.
+ Nguyên nhân làm nên chiến thắng: do người lái đò mang những phẩm chất tốt đẹp:
kinh nghiệm lái đò sông nước, nắm được quy luật của dòng sông, sự ngoan
cường,dũng cảm, ý chí quyết tâm, tài hoa nghệ sĩ trên lĩnh vực chèo đò vượt thác,
tâm hồn đẹp: vô danh, thầm lặng, bình dị.

- Chất vàng của thiên nhiên và thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn những con
người lao động.

- Công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ
sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và
những kì tích lao động của con người .

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


(Hoàng Phủ Ngọc Tường)

I. Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông chuyên viết về bút ký và tản văn. Nét đặc sắc trong sáng tác của
ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận
sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết
học, văn hóa, lịch sử, địa lý,... Ông sinh ra ở Quảng Trị, nhưng lại gắn bó sâu sắc với
cố đô Huế nên những sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước,
con người, đặc biệt là văn hóa Huế .Trong đó, tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” thực sự là một trong những trang viết hay nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường
về dòng sông mang một huyền thoại đẹp – sông Hương.
II.Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác: Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được Hoàng Phủ Ngọc
Tường viết ở Huế vào năm 1981, in trong tập sách cùng tên mang đậm chất sử thi về
thiên nhiên, qua đó bộc lộ sự gắn bó với quê hương đất nước.
2. Vị trí đoạn trích: Bài ký có 3 phần, đoạn trích trong chương trình Ngữ văn 12 được
trích ở phần đầu của tác phẩm. Với bút ký này, tác giả đã mang đến cho người đọc
những cảm nhận đầy chất thơ về sông Hương theo dòng chảy của nó từ dãy Trường
Sơn chảy qua thành phố Huế rồi xuôi về biển cả.
3. Nội dung
a. Thuỷ trình của sông Hương
Sông Hương ở thượng nguồn.

Sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố


Sông Hương chảy trong (qua) lòng thành phố.
Sông Hương rời khỏi kinh thành Huế.
b. Dòng sông của lịch sử, văn hoá và thi ca
MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ I MÔN NGỮ VĂN 12
I. MỤC ĐÍCH
- Kiểm tra mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng được qui định trong chương
trình môn Ngữ văn lớp 12
- Hình thức kiểm tra tự luận.
- Thời gian: 90 phút
- Yêu cầu ra đề đảm bảo:
1. Kiến thức
- Ôn tập, củng cố kiến thức về đọc hiểu văn bản.
- Tích hợp với tiếng Việt và Làm văn.
2. Kĩ năng
- Kĩ năng đọc hiểu văn bản.
- Kĩ năng viết văn nghị luận.
3. Phát triển năng lực
- Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo,
năng lực thẩm mỹ, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tính toán, năng lực
công nghệ thông tin và truyền thông.
- Năng lực riêng:
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày
+ Năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn học
+ Năng lực vận dụng kiến thức văn học vào cuộc sống…
II. THIẾT LẬP MA TRẬN:
Mức độ Thông Vận
Nhận biết Vận dụng cao Cộng
NLĐG hiểu dụng
I. Đọc hiểu
Số câu 1 1 1 1 4
Số điểm 0,75 0,75 1.0 0.5 3.0
Tỉ lệ 7.5% 7.5% 10% 5% 30%
II. Tạo lập văn bản Viết bài văn nghị luận
Số câu 1 1
Số điểm 7.0 7.0
Tỉ lệ 70% 70%
Tổng cộng
Số câu 1 1 1 2 5
Số điểm 0,75 0,75 1.0 7.5 10
Tỉ lệ 7.5% 7.5% 10% 75% 100%

ĐỀ MINH HỌA

ĐỀ 1

TRƯỜNG THPT THẠCH THẤT ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KỲ I


Nhóm: Văn Môn: Ngữ văn 12
Năm học: 2022 - 2023
(Thời gian : 90 phút)
PHẦN I. ĐỌC- HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản dưới đây và thực hiện các yêu cầu
Bạn nói những gì, bạn làm điều gì, cảm thấy như thế nào – tất cả đều có nguồn gốc từ
trong tâm trí bạn và bắt đầu chỉ bằng một ý nghĩ.
Suy nghĩ của chúng ta cũng giống như những hạt giống, mỗi suy nghĩ sẽ đơm hoa kết
trái để tạo ra một hương vị riêng biệt. Suy nghĩ có thể là sự sáng tạo hay phá hủy, yêu
thương hay thù hận, nâng đỡ hay vùi dập. Khi chúng ta hiểu và học cách kiểm soát những
suy nghĩ của bản thân thì chúng ta sẽ trải nghiệm được sự bình an, niềm hạnh phúc và sự
vững vàng trong tâm hồn. Suy nghĩ tích cực dạy chúng ta cách hành động thay vì phản ứng;
“hướng dẫn” cuộc đời ta thay vì để cho hành vi của người khác, những trải nghiệm quá
khứ, hay hoàn cảnh hiện tại điều khiển tinh thần ta.
Theo tính toán, mỗi người trung bình có khoảng 30.000 đến 50.000 ý nghĩ mỗi ngày.
Một tâm trí đang trong tình trạng stress sẽ tạo ra nhiều ý nghĩ hơn, có thể lên đến 80.000 ý
nghĩ. Hẳn bạn đã từng rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh vì gặp phải một sự kiện đột
ngột xảy ra trong đời, lúc đó có đến cả hàng ngàn ý nghĩ chạy dồn dập trong đầu bạn.
Tâm trí chúng ta có một khả năng rất lớn, làm việc không ngừng nghỉ ngay cả khi
ngủ. Như đã nói, suy nghĩ chính là hạt giống cho những hành động và cảm xúc. Vì vậy, bằng
cách tạo nên những suy nghĩ tích cực và lành mạnh, chúng ta đã kích hoạt tiềm năng tích
cực của chính mình.
(Frederic Labarthe, Anthony Strano – Tư duy tích cực, NXB tổng hợp TPHCM, 2014, trang
20-21)

Câu 1: Theo tác giả, suy nghĩ tích cực có tác dụng gì?
Câu 2: Chỉ ra phép tu từ được sử dụng trong câu văn sau: “Suy nghĩ của chúng ta
cũng giống như những hạt giống, mỗi suy nghĩ sẽ đơm hoa kết trái để tạo ra một hương vị
riêng biệt”.
Câu 3. Theo anh (chị), vì sao tác giả cho rằng: “Khi chúng ta hiểu và học cách kiểm
soát những suy nghĩ của bản thân thì chúng ta sẽ trải nghiệm được sự bình an, niềm hạnh
phúc và sự vững vàng trong tâm hồn.”
Câu 4. Giải thích vì sao Anh (chị) đồng ý hay không đồng ý với quan điểm “suy
nghĩ chính là hạt giống cho những hành động và cảm xúc”.
PHẦN II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …..”mẹ
thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo, phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó …
(Trích Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, tập 1, trang 118, NXB Giáo dục,
2010 )
Cảm nhận của Anh(chị) về đoạn thơ trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về việc vận dụng
chất liệu văn học dân gian trong đoạn thơ.

................Hết...............

ĐỀ 2

I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)


Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu
Tiếng Việt mình sâu sắc. Nhân là con người. Nhân cũng là hạt. Nhân cũng là lòng
yêu thương người khác. Nhìn những anh chị bại liệt cũng trở thành hiệp sĩ công nghệ thông
tin giúp đời. Biết những người khiếm thị cũng làm được nghề sửa chữa điện tử, để có ích và
giúp người. Lòng tự hứa không thể là hạt lép. Chẳng có lý do gì để không là hạt giống tốt
cho mùa sau.
Từ đó ta có bài học về nết tốt của hạt: Kiên trì, nhẫn nại, và lòng dũng cảm. Cũng
như ta học về việc sống hết mình của hạt thóc: sớm cho mùa vàng, dám chịu xay giã giần
sàng. Gạo nuôi người, cám bã nuôi heo, rơm tặng người bạn trâu. Và đến cọng rơm thừa
cũng bện thành con cúi giữ lửa suốt đêm trường. Và sưởi ấm cánh đồng mùa đông gió bấc.
Mỗi khi ta cằn cỗi, hãy nhớ ta là hạt. Ta lại nghĩ về khoảng xanh ngoài ban công,
cũng như bạn thấy những mầm cây đội lên từ khối bê tông đường nhựa. Để không cho
những khiếm khuyết tự bào mòn hay những nỗi buồn tự hủy.
(Đoàn Công Lê Huy, Gửi em mây trắng, NXB Kim Đồng, 016)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản.
Câu : Dựa vào bài viết, hãy cho biết hạt thóc đã sống hết mình như thế nào?
Câu 3: Nêu nội dung của văn bản.
Câu 4: Nêu thông điệp rút ra từ văn bản.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Cho đoạn thơ:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
(Trích Đất nước (Mặt đường khát vọng), Nguyễn Khoa Điềm, SGK Ngữ văn 12, tập một,
013, trang 121, 122)
Anh/ Chị hãy phân tích hình tượng Đất Nước qua đoạn thơ trên. Từ đó, làm rõ tư
tưởng mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước.
-----------------Hết-----------------

ĐỀ 3

I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)


Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

“Giận dữ là cảm xúc rất tự nhiên khi ta thấy điều gì đó trái ý mình. Nhưng sự tức giận
cũng là “con dao hai lưỡi”. Không nên để “nóng giận mất khôn”, cũng như không nên cố
tình chôn vùi hay che giấu sự giận dữ đang sôi sục trong lòng.Tuy nhiên, nếu giận dữ vào
đúng lúc và đúng chỗ, ta sẽ tìm cách giải quyết vấn đề và tháo gỡ những cảm xúc tiêu cực
của bản thân.

Khi một sự việc nào đó diễn ra ngoài ý muốn, ta có thể lựa chọn: hoặc bước thêm một
bước, cố gắng kiểm soát sự việc, và khiến chúng diễn tiến như cách ta muốn, hoặc lùi lại
một bước, lặng lẽ quan sát sự việc, suy ngẫm và tìm ra cách phản ứng khiến cho tâm hồn
mình thanh thản. Đừng bao giờ đánh mất sự bình yên trong tâm hồn chỉ vì những nóng giận
nhất thời.

Trước đây, tôi thường cố che giấu sự giận dữ của mình, cũng vì thế mà trong tôi lúc nào
cũng như chất chứa một dòng nham thạch chỉ trực chờ cơ hội là tuôn trào phá hủy tất
cả.Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng, mình cần thiết nhìn nhận và làm chủ cảm xúc nguy hiểm
ấy, đồng thời lựa chọn thời điểm thích hợp để giải thoát chúng.Có như thế, chúng mới
không khiến tôi mắc phải sai lầm, hoặc làm tổn thương người khác”.

(Theo Quên hôm qua sống cho ngày mai, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.11-12)

Đang tải...
Câu 1.Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản. (0,75 điểm)

Câu 2.Vì sao người viết lại cho rằng sự tức giận là “con dao hai lưỡi”?(0.75điểm)

Câu 3.Theo anh/chị, vì“sao đừng bao giờ”đánh mất sự bình yên trong tâm hồn chỉ vì
những nóng giận nhất thời? (1.0 điểm)

Câu 4.Anh/Chị thường làm gì khi giận dữ hoặc chứng kiến cơn giận dữ của người
khác? (0,5 điểm)

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)


“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.
(Trích Sóng – Xuân Quỳnh, theo Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dụ– Việt Nam, tr.156)

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về cách bày tỏ khát vọng tình yêu
của nhà thơ Xuân Quỳnh.

ĐỀ 4
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Tôi nghĩ rằng “vận may” khác với “thành quả”. Ta không thể đạt được sự may mắn.
Ta không thể tạo ra vận may. Điều đó cũng giống như ta không thể sắp đặt trước một cuộc
hẹn mà ở đó ta sẽ gặp tiếng sét ái tình. Nhưng mặt khác, chúng ta có thể nỗ lực để tạo ra
những thành quả. Đừng gọi thành quả của mình là may mắn, vì như vậy là vứt bỏ ý chí và
nỗ lực của bản thân. Cũng đừng xem may mắn là thành quả, vì như thế là từ chối vẻ đẹp bí
ẩn và đầy bất ngờ của cuộc sống.

(…) Hãy cứ tin vào sự may mắn, rằng đôi lúc nó rơi xuống cuộc đời ai đó như
một món quà (…) Tuy nhiên, như một câu ngạn ngữ xưa đã nói “sự may mắn chẳng tặng
không ai cái gì bao giờ, nó chỉ cho vay mà thôi”. Vì vậy, đừng tìm kiếm nó, đừng trông chờ
hay thậm chí đổ lỗi cho nó… Và hãy nhớ rằng mọi vận may chỉ là khởi đầu.
(Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội Nhà văn 2018, trang 166 -
167)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.

Câu 2. Theo tác giả, chúng ta có thể tạo ra thành quả bằng cách nào?

Câu 3 . Vì sao tác giả cho rằng: đừng tìm kiếm, đừng trông chờ hay thậm chí đổ
lỗi cho vận may?

Câu 4. Lời khuyên: “ Đừng gọi thành quả của mình là may mắn, vì như vậy là vứt bỏ
ý chí và nỗ lực của bản thân” trong đoạn trích có ý nghĩa gì với anh chị?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Con sóng dưới lòng sâu


Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.

Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.
(Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam)
Cảm nhận của anh/chị về 2 đoạn thơ trên trong bài Sóng của Xuân Quỳnh. Từ đó, nhận
xét về quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ.

.........HẾT………
ĐỀ 5

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3.0 điểm)


Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Bất kỳ một quan điểm nào cũng có thể thay đổi, điều quan trọng là bạn có “muốn”
thay đổi hay không mà thôi. Mọi thứ không bỗng dưng mà có, thái độ cũng vậy. Để có một
thái độ sống đúng đắn, trước tiên ta cần hình thành nó, rồi dần dần phát triển lên, biến nó
thành tài sản quý giá cho bản thân.
Một số người từ chối việc thay đổi, họ cho rằng “Tôi đã quen sống như thế này từ
nhỏ, thay đổi chỉ làm cho cuộc sống thêm rắc rối mà thôi!” hoặc “Cha mẹ sinh mình ra
thế nào thì cứ để thế ấy, thay đổi làm gì cho mệt!”. Bạn cần biết rằng, không bao giờ là
quá trễ cho một sự thay đổi. Nhờ thay đổi, con người mới có những bước tiến vượt bậc.
Không chấp nhận thay đổi, cuộc sống của bạn sẽ trở nên nghèo nàn, thậm chí bạn sẽ gặp
những rắc rối lớn. Bạn gọi một cái cây không đâm chồi nẩy lộc, không ra hoa kết trái là
gì? Đó chẳng phải là “cây chết” hay sao? Con người chúng ta cũng vậy. Cuộc sống sẽ
luôn được vận hành tốt nếu ta không ngừng hoàn thiện bản thân.
Những ai không chịu thay đổi cho phù hợp với biến cố cuộc đời sẽ chẳng thể nào
thích nghi được với hoàn cảnh. Có thể họ vẫn hiện hữu nhưng trong cuộc sống của họ sẽ
bị tách biệt, không bắt nhịp được với đồng loại của mình.
(Trích Thái độ quyết định thành công, Wayne Cordeiro, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2016,
tr.34)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2: Theo tác giả, vì sao một số người từ chối việc thay đổi?
Câu 3: Theo anh/chị, vì sao tác giả lại viết: Nhờ thay đổi, con người mới có những bước
tiến vượt bậc?
Câu 4: Anh/Chị có đồng ý với ý kiến: Sống là phải thay đổi không? Vì sao?
PHẦN 2: LÀM VĂN (7.0 điểm)
[…] Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình
một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay
mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới
chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy
với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng
không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi
cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen
đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ
quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng
mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa
thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ
giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông
Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một
cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi
nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ
thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái
dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ
chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông
Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm
ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.[…].
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2019, trang 190,191).
Trình bày cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó
nhận xét ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả Sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc
nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân
-------------HẾT-------------

ĐỀ 6

I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích:
ngày chúng tôi đi
các toa tàu mở toang cửa
không có gì phải che giấu nữa
những thằng lính trẻ măng
tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
và dài muốn đứt hơi
hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ
thế hệ chúng tôi
hiệu còi ấy là một lời tuyên bố
một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận
mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối 82
vẫn thường vác trên vai
một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý nghĩ
đi con đường người trước đã đi
bằng rất nhiều lối mới
(Một người lính nói về thế hệ mình – Thanh Thảo,
NXB Hội Nhà văn, 2007, tr. 63 – 64)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Hãy chỉ ra 01 biện pháp tu từ trong các dòng thơ sau:
những thằng lính trẻ măng
tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
Câu 3. Anh/ Chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào?
một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý nghĩ
đi con đường người trước đã đi
bằng rất nhiều lối mới
Câu 4. Chân dung của những người lính trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặ trời. Có vách đá thành
chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đời nợ xuýt bất cứ người
lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ
lật ngửa bụng thuyền ra”
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
qua cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút
qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực [...].
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.186)
Anh/ chị hãy phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét
về cái tôi Nguyễn Tuân trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.
-------------------- HẾT --------------------

ĐỀ 7
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Điều cô chưa nói
Trời đã không mưa cho tới buổi chiều nay
Các em đẹp bất ngờ buổi sáng ngày bế giảng
Cái khoảnh khắc em cầm sen tạo dáng
Thướt tha áo dài điệu múa ở đằng xa

Sau sân trường này sẽ là những ngã ba


Các em phải đi và tự mình chọn lựa
Lắm chông gai và cũng nhiều lời hứa
Cám dỗ em, em phải biết giữ mình

Đời người tránh sao được những phút “chùng chình”


Ai cũng có một “bến quê” để lãng quên rồi mơ ước
Mong em bình tâm trước những điều mất được
Và bền gan đi đến cuối hành trình

Trái tim em thao thức một mối tình


Mối tình nói hay mối tình chưa ngỏ
Những hạnh phúc ngọt ngào hay phút giây lầm lỡ
Những nỗi nhớ không lời, những cảm xúc không tên

Và giấc mơ theo điệu múa cháy lên


Cô ở lại, cánh chim bay đi nhé
Lau nước mắt đi những tâm hồn rất trẻ
Ngoài cửa sổ này, chân trời mới đợi em
( “Điều cô chưa nói”- Hà Thị Hạnh, Trích Văn học và Tuổi trẻ, số 5+ 6 năm 2014, tr 64 )
Thực hiện các yêu cầu sau đây:
Câu 1: Bài thơ là lời của ai, nói với ai?
Câu 2: Vẻ đẹp của “em” trong ngày bế giảng hiện lên qua những hình ảnh nào?
Câu 3: Tác giả muốn gửi gắm tâm sự gì qua hai câu thơ:
Lau nước mắt đi những tâm hồn rất trẻ
Ngoài cửa sổ này, chân trời mới đợi em
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với quan điểm của tác giả trong câu thơ “Sau sân trường này
sẽ là những ngã ba/ Các em phải đi và tự mình chọn lựa” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
[…] Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển
bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây
nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in
ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã
Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho
dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống
như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Hương nằm ngay giữa lòng
thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải
dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông
Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống
xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền
chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy
được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ
chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grat, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn
trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng mặt trời mùa xuân, mỗi
phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc
thuyền xinh đẹp của chúng và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon
của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. […] Hai nghìn
năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi
đi qua nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy
lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế,
có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những
đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi
muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb
Giáo dục Việt Nam, tr.199-200, 2014).
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn về
cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
---Hết---

ĐỀ 8

I. ĐỌC HIẾU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích:
Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.

Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người.

Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong...
(Trích Miền Trung, Hoàng Trần Cương, Thơ hay Việt Nam thế kỉ XX,
NXB Văn hóa Thông tin, 2006, tr. 81-82)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Chỉ ra hai hình ảnh trong đoạn trích diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Trung.
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về mảnh đất và con người miền Trung?
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Câu 4. Anh/Chị hãy nhận xét về tình cảm của tác giả đối với miền Trung được thể hiện trong đoạn
trích.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểnm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ của anh/chị về sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn thử thách.
Câu 2. (5,0 điểm).
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông
Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những
đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của
nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó
chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một
hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây,
sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc
Trản để sắc nước trở nên xanh thắm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành
quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn
luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng
con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây
nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần
sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng
thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng
lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm
mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó
gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà...
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 198-199)
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của
bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
--------- HẾT --------

You might also like