Professional Documents
Culture Documents
Lý luận văn học
Lý luận văn học
Ở cấp độ 1, kiến thức lí luận văn học sử dụng chủ yếu ở phần tổng kết để so sánh,
đối chiếu, nâng cao vấn đề. Ví dụ: Khi phân tích nhân vật ông Hai (trong truyện
ngắn Làng), ta có thể so sánh đối chiếu với hình tượng nhân vật người nông dân
trước CMT8 để thấy sự kế thừa và phát triển của nhà văn Kim Lân trong truyền
thống về đề tài người nông dân. Bằng các kiến thức lí luận văn học về trào lưu văn
học, về quá trình phản ánh hiện thực và sự sáng tạo của người nghệ sĩ, ta có thể lí
giải phần so sánh, đối chiếu, qua đó làm cho bài viết sâu sắc hơn.
Ở cấp độ 2, kiến thức lí luận văn học thể hiện ở ngay trong những thuật ngữ đề
yêu cầu ta làm rõ. “Giá trị nhân đạo” , “chất thơ”, “phong cách sáng tác” đều là
những thuật ngữ lí luận văn học. Để giải quyết được các đề ở trên, ta phải nắm
được khái niệm của các thuật ngữ, các biểu hiện của chúng và biết cách phân tích
các biểu hiện ấy trong tác phẩm văn học.
Ở cấp độ 3, kiến thức lí luận văn học sẽ được vận dụng trong toàn bài viết. Đây là
dạng đề quen thuộc nhất ở các kì thi học sinh giỏi. Từ phần này trở về sau, bài viết
sẽ chỉ đề cập đến việc vận dụng kiến thức lí luận văn học trong các đề ở cấp độ 3
này. Bởi vì nếu ta thành thục các kĩ năng cần có để giải quyết các dạng đề ở cấp độ
này, ta sẽ dễ dàng vận dụng vào hai cấp độ trước.
Từ những kiến thức vừa nêu, dàn ý chung để giải quyết các bài giải quyết một vấn
đề LLVH như sau:
“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản
thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.” (M.Gorki)
“Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường vào cái đẹp,
của người biết đi tới tương lai.” (Pautôpxki)
“Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên,
hiểu được con người nhiều hơn.” (M.L.Kalinine)
“Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ
cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà
văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của
mình cho nhân loại.” (Leptonxtoi)
Thông hiểu Tập diễn đạt lại nội dung thuật ngữ, nội dung các luận điểm lí
luận văn học bằng lời văn của chính mình.
Vận dụng Tập lí giải một số hiện tượng văn học thường gặp. Tập lí giải
một số luận điểm lí luận văn học. Thường xuyên đặt câu hỏi “Vì
sao?” và các câu hỏi giả định. Chẳng hạn như các câu hỏi:
- Vì sao văn học phải phản ánh hiện thực cuộc sống?
- Văn học có thể tồn tại không nếu không viết về con người?
- Ở văn học trung đại có hiện tượng văn-sử-triết bất phân,
nhưng đến văn học hiện đại thì người ta chia ba lĩnh vực ấy ra.
Vì sao có thể tách văn ra khỏi sử và triết ?
- Tại sao trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du
lại để Kiều nhớ Kim Trọng trước, cha mẹ sau? Quy luật văn học
nào dẫn đến điều đó?
Phân tích Phân tích các biểu hiện của các vấn đề văn học trong những hiện
tượng văn học cụ thể như tác phẩm, phong cách tác giả, trào lưu
văn học, thời kì văn học…
Ví dụ như:
- Phân tích (chỉ ra biểu hiện) phong cách Nam Cao qua một số
tác phẩm truyện ngắn trước CMT8.
- Phân tích (chỉ ra biểu hiện) giá trị nhân đạo trong “Truyện
Kiều”.
Phân tích (chỉ ra biểu hiện) nét riêng của nhà thơ Chính Hữu
khi viết về đề tài người lính …
Tổng hợp Giải quyết các vấn đề có tính chất tổng hợp. Ví dụ như:
- Nói về thơ ca, nhà thơ Tố Hữu nói: “Thơ ca là tiếng nói hồn
nhiên nhất của tâm hồn”, nhưng Nguyễn Công Trứ lại cho rằng:
“Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời ”. Phải chăng hai câu nói trên
là mâu thuẫn, hãy thử lí giải.
- Có người cho rằng: Văn chương phải giúp chúng ta hiểu thêm
về đời sống và hiểu chính mình . Từ các phương diện đặc trưng
văn học, chức năng văn học, quá trình sáng tác, quá trình tiếp
nhận, hãy lý giải ý kiến trên.
Đánh giá Liên tục đặt các câu hỏi tra vấn, phản biện:
- Có phải lúc nào cũng như vậy hay không?
- Nói như vậy đã thực sự chính xác hay chưa?
- Có ngoại lệ hay không?
- Vấn đề đã toàn vẹn hay chưa, có bổ sung gì không?
Trong định hướng giải quyết các đề thi, các bước luyện tập như sau:
- Bước 1: Tìm hiểu lý thuyết, đọc sách, đọc giáo trình, nghe giáo viên giảng và hỏi.
- Bước 2: Giải quyết đề thi, nhận định đề và lập dàn ý.
- Bước 3: Tiến hành viết bài.
- Bước 4: Sửa lỗi và rút kinh nghiệm.
Bốn bước nêu trên sẽ được lặp đi lặp lại và mỗi lần làm lại thì ở mức độ cao hơn.
Đó là cách tốt nhất để củng cố và tiếp tục phát triển năng lực cho đến khi thuần
thục ở mức cao nhất.
3. Kiến thức lý luận văn học nằm ở đâu trong bài làm nghị luận văn học?
Có thể tạm chia các đề NLVH thường gặp hiện nay thành ba cấp độ:
Cấp độ Yêu cầu đề Đề minh họa
Cấp độ 1 Phân tích các yếu - Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm
tố cơ bản trong “Làng” của nhà văn Kim Lân.
một tác phẩm văn - Cảm nhận về nhân vật Phương Định trong
học. “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh
Khuê.
Cấp độ 2 Phân tích các yếu - Phân tích giá trị nhân đạo trong “Chuyện người
tố trong tác phẩm con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
văn học để làm rõ - Phân tích chất thơ trong truyện ngắn “Lặng lẽ
một yêu cầu nào Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long.
đó. - Phân tích tác phẩm “Bến quê” để cho thấy những
chuyển biến trong sáng tác của nhà văn Nguyễn
Minh Châu ở giai đoạn sau năm 1975.
Cấp độ 3 Giải quyết một - Bình luận về ý kiến của nhà thơ Tố Hữu: “Thơ
nhận định lí luận chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy
văn học. ”.
- Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự tôn vinh
con người bằng cách hình thức nghệ thuật độc
đáo. Bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên.
Ở cả ba cấp độ đề trên, ta đều có thể vận dụng kiến thức lí luận văn học.
Ở cấp độ 1, kiến thức lí luận văn học sử dụng chủ yếu ở phần tổng kết để so sánh,
đối chiếu, nâng cao vấn đề.
Ở cấp độ 2, kiến thức lí luận văn học thể hiện ở ngay trong những thuật ngữ đề yêu
cầu ta làm rõ. “Giá trị nhân đạo”, “chất thơ”, “phong cách sáng tác” đều là
những thuật ngữ lí luận văn học. Để giải quyết được các đề ở trên, ta phải nắm
được khái niệm của các thuật ngữ, các biểu hiện của chúng và biết cách phân tích
các biểu hiện ấy trong tác phẩm văn học.
Ở cấp độ 3, kiến thức lí luận văn học sẽ được vận dụng trong toàn bài viết. Đây là
dạng đề quen thuộc nhất ở các kì thi học sinh giỏi.
Từ phần này trở về sau, bài viết sẽ chỉ đề cập đến việc vận dụng kiến thức lí luận
văn học trong các đề ở cấp độ 3 này. Bởi vì nếu ta thành thục các kĩ năng cần có để
giải quyết các dạng đề ở cấp độ này, ta sẽ dễ dàng vận dụng vào hai cấp độ trước.
4. Dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học
Dàn ý chung phần thân bài như sau:
Thao tác Nội dung Mức độ tư duy
1.Giải thích - Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình Biết
ảnh khó hiểu trong nhận định. Hiểu
- Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần
bàn ở đây là gì?
2.Bàn luận Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải Vận dụng
vấn đề nghị luận. Trả lời cho câu hỏi “vì sao?” Tổng hợp
3.Chứng minh Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các Phân tích
biểu hiện của vấn đề nghị luận.
4.Đánh giá - Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị Đánh giá
luận.
- Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có)
5.Liên hệ Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình Vận dụng
sáng tác và bạn đọc trong quá trình tiếp nhận
Khi làm bài, cần vận dụng linh hoạt các bước trên nhưng nhất thiết phải có đầy đủ
các thao tác này để bài viết không bị mất điểm.
Gv lưu ý một số cách đưa lý luận vào bài làm.
- Đưa vào phần mở bài:
+ MB 1: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ. Như đám mây ngũ sắc ngủ trên
đầu”. Có những tác phẩm ra đời để rồi lãng quên ngay sau đó, nhưng có những
tác phẩm lại như những dòng sông đỏ nặng phù sa in dấu ấn chạm khắc trong tâm
khảm. Những tác phẩm ấy đã trờ thành “những bài ca đi cùng năm tháng” và để
lại trong tâm hồn bạn đọc những ấn tượng không bao giờ quên. Một trong số đó
phải kể tới “ Quê Hương” của Tế Hanh. Trong bài thơ có những vần thơ thật hay
và ý nghĩa.
+ MB 2: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”.
(Voltaire) Thơ ca chỉ bật ra khi trong tim người nghệ sĩ đang rung lên những nhịp
đập thổn thức, đang ngân lên những điệu ngân của tâm hồn. Chính bởi vậy, mỗi
vần thơ dù ngắn gọn nhưng lại có sức truyền tải lớn tới người đọc. Và có những
bài thơ đã ra đời cách chúng ta hàng chục năm nhưng tới nay vẫn còn nguyên giá
trị. “ Nhớ rừng” của T.Lữ là một thi phẩm như vậy. Trong bài thơ có những vần
thơ ngân lên khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi.
+ MB 3: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng
thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con
người .(Nguyễn Văn Siêu). Văn chương muôn đời luôn phải phục vụ con người,
hướng con người tới những giá trị cao cả của cuộc sống. “CNCGNX” của Nguyễn
Dữ là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học nước nhà. Truyện ngắn
đã hướng con người, đặc biệt những con người phụ nữ bất hạnh tới ánh sáng của
ngày mai, giúp họ vững tin hơn giữa giông bão của cuộc đời. Trong truyện,
Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương - là một hình tượng nhân
vật điển hình của người phụ nữ VN trong xã hội phong kiến đương thời.
- Đưa vào phần luận điểm:
+ Áp dụng khi phân tích ngôn từ: ngôn từ là tinh hoa quý nhất của người làm thơ.
Người làm thơ cũng như kẻ làm vườn vậy, phải chăm chút sao cho vườn hoa ngôn
ngữ của mình những bông hoa đẹp nhất. Thế mới có ý kiến : “Làm thơ là cân một
phần ngìn miligam quạng chữ”. Với ý niệm ấy chữ “…” xứng đáng là nhãn tự của
câu thơ.
+ Phân tích chi tiết nghệ thuật trong văn xuôi: Hội họa nhờ màu sắc, đường nét,
trong âm nhạc tiết tấu hình thành âm hưởng, trong sáng tạo văn chương thì những
chi tiết được xem alaf “hạt bụi vàng của tác phẩm (paulopxki). Nhờ các chi tiết ấy
mà hình tượng nhân vật hiện lên cụ thể, rõ nét như những người thật ngoài đời thật
từ ngoại hình, đến số phận, tính cách, tâm hồn. Chi tiết chiếc bóng trong
“CNCGNX” của Nguyễn Dữ chính là “bụi vàng” làm nên tên tuổi của nhà văn.
Nói như Hê - ghen: chi tiết như những con mắt….nhân vật”. Nhờ chi tiết chiếc
bóng….
- Đưa vào phần kết bài
+ X.Diệu quan niệm: Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. VĐL
đã đem hiện thực ấy vào trong trang viết của mình một cách tự nhiên, đồng thời
ông cũng khiến con tim người đọc tan chảy khi chứng kiến sự tàn lụi, mai một,
lãng quên của ông đồ, của một nền văn hóa bị chôn vùi. Quả thực văn học chân
chính nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, nên hình tượng ông đồ “Ông Đồ” ấm
ảnh người đọc hôm nay và mãi mãi về sau.”