You are on page 1of 9

Câu 5: Nguồn gốc của giá trị thặng dư.

1. Hàng hóa sức lao động


Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và nó được đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số tiền đó
mà phải phát sinh ở hàng hoá đặc biệt trong quá trình vận động của tư bản, giá trị sử
dụng của hàng hóa đó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa sinh ra một giá trị
lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hoá sức lao động.
Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.
Hai điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá:
(1) Người lao động phải được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị
trường với tư cách là hàng hóa khi nó do người có sức lao động đưa ra bán;
(2) Người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao
động của mình để tạo ra hàng hóa để bán.Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:-
- Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.
Giá trị hàng hoá sức lao động gồm những bộ phận sau:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để tái sản xuất
sức lao động;
Hai là, phí tổn đào tạo người lao động.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người lao
động.Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông
thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là công dụng để thỏa mãn nhu cầu
của người mua sức lao động.
Quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó; đồng thời là quá trình tạo ra giá
trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá
trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao
động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới
lớn hơn giá trị của bản thân nó.
2. Sự sản xuất giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm
tăng giá trị.
Sản xuất giá trị thặng dư trước hết là sản xuất hàng hóa, là quá trình kết hợp sức
lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra một giá trị sử dụng đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên, đó là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất mà nhà tư bản
đã mua được, nên có những đặc điểm khác biệt so với sản xuất hàng hóa giản đơn: công
nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của
nhà tư bản. Đồng thời đó là quá trình sản xuất giá trị và giá trị thặng dư dựa trên cơ sở
của quy luật giá trị.
Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ nhất
định phản ánh người lao động chỉ phải hao phí một phần thời gian lao động (trong thời
gian lao động đã được thỏa thuận mua bán theo nguyên tắc ngang giá) là có thể bù đắp
được giá trị hàng hóa sức lao động, C.Mác gọi bộ phận này là thời gian lao động tất yếu.
Phần còn lại của thời gian lao động gọi là thời gian lao động thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do người bán sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra và thuộc về nhà tư bản
(người mua hàng hóa sức lao động). C.Mác ký hiệu là m.
Trên thực tế, thời gian lao động tất yếu chưa đủ bù đắp hao phí sức lao động, giá
trị hàng hóa sức lao động của người lao động; người mua sức lao động cũng phải hao
phí sức lao động để tham gia quản lý…
Như vậy, có thể khái quát: Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột
lao động làm thuê
Nguồn gốc của lợi tức và địa tô. Các hình thức của địa tô. Từ đó vận dụng vào quản lý
và sử dụng đất đai ở Việt Nam.
Lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường, luôn xuất hiện hiện tượng có chủ thể thì có lượng
tiền nhàn rỗi, trong khi lại có những chủ thể khác lại rất cần tiền để mở rộng sản xuất
kinh doanh. Tình hình đó thúc đẩy hình thành quan hệ cho vay và đi vay. Dù cho vay sẽ
thu được lợi tức. Người đi vay phải trả lợi tức cho người cho vay. Vậy lợi tức đó từ đâu?
Người đi vay thu được lợi nhuận bình quân, do phải đi vay tiền của người khác
cho nên người đi vay phải khấu trừ một phần từ lợi nhuận bình quân thu được để trả cho
người cho vay.
Vậy là, lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà người đi vay phải trả cho
người cho vay vì đã sử dụng lượng tiền nhàn rỗi của người cho vay. Đây là quan hệ kinh
tế phản ánh quan hệ lợi ích giữa người đi vay với người cho vay. Xong về thực chất, lợi
tức đó là một phần của giá trị thặng dư mà người đi vay đã thu được thông qua sử dụng
tiền vay đó.
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt.
Người bán không mất tiền sở hữu, người mua chỉ được quyền sử dụng trong một
thời gian. Sau khi hết sử dụng, tư bản cho vay không mất giá trị sử dụng và giá trị mà
được bảo tồn, thậm chí còn tăng thêm.
Giá cả của tư bản cho vay được quyết định bởi giá trị sử dụng của nó là khả năng
thu được lợi nhuận bình quân, do đó không những không được quyết định bởi giá trị,mà
còn thấp hơn nhiều so với giá trị.
Thứ ba, là hình thái tư bản phiến diện nhất xong được sùng bái nhất.
Tư bản cho vay vận động theo công thức T – T’, tạo ra ảo tưởng là tiền đẻ ra tiền
không phản ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay.
*Địa tô tư bản chủ nghĩa
Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp. Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trên các lĩnh vực khác, nhà tư bản
kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân.
Khác với chủ thể kinh doanh khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông
nghiệp phải trả một lượng tiền cho địa chủ vì đã thuê đất của họ. Để có tiền trả cho địa
chủ, ngoài số lợi nhuận bình quân thu được tương tự như kinh doanh trên các lĩnh vực
khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp còn thu thêm được một phần giá
trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận siêu
ngạch này phải trả cho địa chủ dưới dạng địa tô.
C.Mác khái quát, địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi khấu trừ đi
phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh trên các lĩnh vực nông
nghiệp phải trả cho địa chủ.
Theo C.Mác, có các hình thức địa tô như:
Địa tô chênh lệch.
Trong đó, địa tô chênh lệch I là địa tô mà địa chủ thu được do chỗ cho thuê ruộng
đất tốt và độ màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi. Địa tô chênh lệch II là địa tô mà
địa chủ thu được do chỗ cho thuê mảnh đất đã được đầu tư, thâm canh và làm tăng độ
màu mỡ của đất.
Địa tô tuyệt đối là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê,không kể
độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi hay do thâm canh. Đó là phần lợi nhuận siêu ngạch dôi ra
ngoài lợi nhuận bình quân được tính bằng số chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả
sản xuất chung của nông sản.
C.Mác ký hiệu địa tô là R.
Trong thực tế đời sống kinh tế, địa tô là một trong những căn cứ để tính toán giá
cả ruộng đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người khác.
Về nguyên lý, giá cả ruộng đất được tính trên cơ sở so sánh với tỷ lệ lãi suất ngân
hàng, theo công thức:
Lý luận địa tư bản chủ nghĩa của C.Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa trọng nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các
chính sách kinh tế liên quan đến thuế, đến điều tiết các loại địa tô, đến giải quyết các
quan hệ đất đai. Tất cả nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử
dụng đất đai tiết kiệm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa sinh thái bền vững.
Phân tích những nguyên nhân hình thành Độc quyền và Độc quyền nhà nước
*Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền.
1. Độc quyền
- Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc
quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. - Trong nền kinh tế thị trường, độc
quyền có thể được hình thành một cách tự nhiên, cũng có thể được hình thành bởi
ý chí của nhà nước tạo ra một tổ chức độc quyền.
2.Nguyên nhân hình thành độc quyền
- Một là do sự phát triển của lực lượng sản xuất: Do tính chất đặc biệt của ngành
có lợi tức tăng dần theo quy mô đã khiến việc có nhiều hàng cùng cung cấp một
dịch vụ trở nên không hiệu quả và hãng nào đã có mặt trong thị trường từ trước
thì có thể liên tục giảm giá khi mở rộng sản xuất biến đó thành một hàng rào hữu
hiệu ngăn cản sự xâm nhập thị trường của những hãng mới.
- Hai là do cạnh tranh: Quá trình cạnh tranh sẽ làm cho những doanh nghiệp nào
kém hiệu quả, có những quyết định kinh doanh sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp
khác làm ăn hiệu quả hơn thôn tính, chiếm lĩnh thị phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải
ra khỏi cuộc chơi.
- Ba là do khủng hoảng và sự phát triển của hệ thống tín dụng: Cuộc khủng
hoảng kinh tế 1873 trong toàn thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản doanh
nghiệp vừa và nhỏ; các doanh nghiệp lớn còn tồn tại dẫn tới hình thành các doanh
nghiệp độc quyền. Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa thành
đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty
cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
+ Trong trường hợp cực đoan nhất, nếu tất cả các doanh nghiệp khác đều
bị một doanh nghiệp duy nhất đánh bại thì rốt cuộc, cạnh tranh tự do đã để
lại một doanh nghiệp duy nhất trên thương trường và doanh nghiệp đó
đương nhiên có được vị thế độc quyền.
- Bốn là, những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh
tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng
thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.
2. Các đặc điểm của độc quyền.
Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay
một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát
huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.

Những liên minh độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là sự liên
kết những doanh nghiệp trong cùng ngành, dưới những hình thức cácten, xanhđica,
tờrớt.
Cácten (Cartel) là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí
nghiệp thành viên để thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu
thụ, kỳ hạn thanh toán… còn việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn do bản thân mỗi
thành viên thực hiện.

Xanhđica (Cyndicate) là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc tiêu thụ sản phẩm do
một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi
thành viên.

Cácten và xanhđica dễ bị phá vỡ khi tương quan lực lượng thay đổi. Vì vậy, một hình
thức độc quyền mới ra đời là (Trust). Tờrớt thống nhất cả việc sản xuất và tiêu thụ vào
tay một ban quản trị chung, còn các thành viên trở thành các cổ đông.

Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, nghĩa là sự liên kết không chỉ những xí nghiệp lớn
mà cả những xanhđica, tờrớt… thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau
về kinh tế và kỹ thuật, hình thành các côngxoócxiom (CONSORTIUM) .

Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới – liên kết đa ngành – hình thành
những cônglômêrat (conglomerat) hay consơn (concern) khổng lồ thâu tóm nhiều công
ty, xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao gồm cả vận
tải, thương mại, ngân hàng và các dịch vụ khác, v.v..

Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc
quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự
chênh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất. Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản
xuất đối với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới giá cả sản
xuất đối với những hàng hóa mà họ mua, trước hết là nguyên liệu. Qua đó họ thu được
lợi nhuận độc quyền.

Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy
luật giá trị thặng dư. Vì xét toàn bộ xã hội thì tổng giá cả vẫn bằng tổng số giá trị và
tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư trong các nước tư bản chủ nghĩa. Những
thứ mà các tổ chức độc quyền kếch xù thu được cũng là những thứ mà các tầng lớp tư
sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa và nhân dân ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc mất đi.

Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính


Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc
quyền trong ngân hàng. Từ chỗ làm trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do
nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở thành người có quyền
lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế – xã hội.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và
nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời gian
dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt động của
nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ đó hình thành một loại tư bản mới gọi là tư bản
tài chính.
Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền
ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.
Bọn đầu sỏ tài chính (trùm tư bản tài chính) thiết lập sự thống trị của mình thông
qua “chế độ tham dự”. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tư bản tài chính hoặc
một tập đoàn tài chính, nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà chi phối được công ty
gốc hay “công ty mẹ”, rồi qua công ty mẹ chi phối các công ty phụ thuộc hay các “công
ty con”, các công ty này lại chi phối các “công ty cháu” v.v.. Bởi vậy, với một số tư bản
nhất định, một trùm tư bản tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất rất
lớn.
Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng
dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài)
nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó.
Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã
tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng “thừa tư bản”. Tình trạng
thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là không tìm được
nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn đến
tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận; trong khi đó, ở những nước
kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa, dồi dào nguyên liệu và nhân
công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật.
Do tập trung trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản ra
nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yếu của các tổ chức độc quyền.
Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu tư bản trực
tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước
ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay
để thu lợi tức.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là
công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn thế giới. Tuy
nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác động tích cực đến nền kinh tế
các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế
hàng hóa, thúc đẩy sự chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế
nông – công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính
quốc.
Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Cuộc đấu tranh giành thị trường tiêu
thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao ở nước ngoài trở nên gay
gắt. Những cuộc đụng đầu trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức mạnh
kinh tế hùng hậu dẫn đến các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng, tất yếu dẫn đến xu
hướng thỏa hiệp, ký kết hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những
lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc
tế, các tập đoàn xuyên quốc gia…
Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư bản
độc quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là “siêu lợi nhuận
độc quyền” do có những điều kiện thuận lợi mà tài chính quốc không có được như
nguồn nguyên liệu dồi dào giá rẻ hoặc lấy không, giá nhân công rẻ mạt…Do đó luôn
diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền thuộc các quốc gia khác
nhau. Điều này đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp cho các tổ chức độc
quyền của nước mình giành giật thị trường và môi trường đầu tư nhằm thu được siêu lợi
nhuận độc quyền ở ngoại quốc. Sự can thiệp đó của nhà nước đã biến nó thành một
nước đế quốc chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở
nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện
trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa
của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc
quyền.
Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm
các nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại
trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường
tiêu thụ. Đối với tư bản tài chính, không phải chỉ những nguồn nguyên liệu đã được tìm
ra mới có ý nghĩa, mà cả những nguồn nguyên liệu có thể tìm được cũng rất quan trọng,
do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh thổ kinh tế và thậm chí cả lãnh
thổ nói chung. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nhu cầu nguyên liệu càng lớn, sự
cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh để giành giật thuộc địa giữa chúng càng
quyết liệt.

Bước vào thế kỷ XX, việc phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các đế quốc tư bản ra
đời sớm đã hoàn thành. Nhưng sau đó các đế quốc ra đời muộn hơn đấu tranh đòi chia
lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
1914 – 1918 và lần thứ hai 1939 – 1945, và những xung đột nóng ở nhiều khu vực trên
thế giới…
Phân tích nguyên nhân ra đời của Độc quyền nhà nước và những đặc điểm của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước theo quan điểm của Lênin.
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước thực hiện nắm giữ vị
thế độc quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định chính trị xã hội
ứng với điều kiện phát triển nhất định trong các thời kỳ lịch sử
1, Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa độc quyền nhà nước.
Một là, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng
cao. Do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản
xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự
phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách
quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản
xuất xã hội hoá ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để
lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số
ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh
vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng
như năng lượng, giao thông vận tải, nghiên cứu khoa học cơ bản... đòi hỏi nhà nước tư
sản phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc
quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp
tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để
xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát
triển phúc lợi xã hội…
Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các
liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự phối hợp
giữa các nhà nước của các quốc gia tư sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế
quốc tế.
2. Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước theo quan điểm của Lênin.
Sự kết hợp nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
Sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự
liên minh cá nhân của các ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: “ Hôm nay là bộ
trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”.
Sự kết hợp này được thực hiện thông qua các Đảng phái, lực lượng hùng hậu đằng sau
các Đảng phái đó là các Hội chủ xí nghiệp độc quyền, có vai trò to lớn trong nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa.
Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản có nhiệm ủng hộ
và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
Sở hữu nhà nước được hình thành thông qua nhiều hình thức: Quốc hữu hóa
doanh nghiệp tư nhân bằng cách mua lại, xây dựng các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước…
Trong Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thực hiện 3 chức năng: Mở rộng sản
xuất tư bản chủ nghĩa; Tạo lợi nhuận cho việc di chuyển tư bản của tổ chức độc quyền;
Chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước.

Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Các công cụ chủ yếu của nhà nước để điều tiết kinh tế và thực hiện chính sách
kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế
hoạch hóa hay chương trình kinh tế và các công cụ hành chính pháp lý.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt
nhân sự có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và các
quan chức nhà nước.
Cơ quan điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế, đó là
thị trường, độc quyền tư nhân và sự điều tiết của nhà nước.

You might also like