You are on page 1of 22

Trường ĐH Kiến Trúc Tp.

HCM
Khoa Lý Luận Chính Trị
Môn Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin

BÀI TIỂU LUẬN


Tên Đề Tài: PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC, BẢN
CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

HUỲNH THANH THIÊN PHÚC


20510101405 Lớp KT20A5
GVHD: Ths. Trần Thị Phương Lan

TP.HCM, ngày 21, tháng 9, năm 2021


BÀI TẬP 2:
THẾ NÀO LÀ KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
THẾ NÀO LÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

• Trên thực tế, không có một mô hình kinh tế thị trường nào áp dụng
chung cho tất cả các nước trên thế giới. Tùy thuộc vào định hướng
chính trị của từng nước mà người ta lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường riêng phù hợp với từng quốc gia. Ở Việt Nam thì Đảng ta đã
xác định lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Vậy kinh tế thị trường định hướng XHCN là gì?
• Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành theo các quy luật của thị trường, có sự điều tiết của nhà nước
Việt Nam XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo, hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
• Trước hết đây là nền kinh tế thị trường và đã là nền kinh tế thị
trường thì nó vận hành đầy đủ và đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường. Nhưng mỗi mô hình kinh tế thị trường thì nó có
định hướng chính trị và định hướng chính trị đó là nhằm để thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tuy nhiên, mục tiêu đó không dễ dàng đạt được bởi vì kinh
tế thị trường vận động theo các quy luật khách quan của riêng nó.
Do đó, để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh đã được định hướng XHCN thì cần phải có
sự điều tiết của Nhà nước XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
• Có thể nói, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận
hành theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời bảo đảm
định hướng XHCN, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
LỢI NHUẬN
1/ Nguồn gốc của lợi nhuận:
Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận: Lợi nhuận xuất hiện từ lâu nhưng đến khi
có giai cấp thì lợi nhuận với được bàn đến với tư cách là một phạm trù kinh tế.
Trước Mác không phải các quan điểm đều thống nhất, đều đúng đắn mà các trường
phái đều cố gắng bào chữa cho quan điểm của họ.

- Chủ nghĩa trọng thương: Ra đời trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và
thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB, khi kinh tế hàng hóa và ngoại thương phát triển. Những
người theo chủ nghĩa trọng thương rất coi trọng thương nghiệp và cho rằng lợi nhuận thương
nghiệp chính là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt. Theo họ không một người
nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt hại cho kẻ khác, trong trao đổi phải có một bên lợi
và một bên thiệt.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương coi tiền là đại biểu duy nhât của của cải, là tiêu chuẩn
để đánh giá sự giàu có của mỗi quốc gia. Họ cho rằng khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng
con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương phải có chính sách siêu (mua ít, bán
nhiều) điều đó được thể hiện trong câu nói của Montchritren "Nội thương là ống dẫn ngoại
thương là báy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương để nhập dần của cải của ngoại
thương".
- Chủ nghĩa trọng nông:
• Cũng như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông xuất hiện
trong khuôn khổ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN
nhưng ở giai đoạn kinh tế phát triển trưởng thành hơn. Vào giữa TK
18 Tây âu đã phát triển theo con đường TBCN và ở Anh cuộc cách
mạng công nghiệp bắt đầu. ở Pháp và một số nước Tây âu công trường
thủ công cũng phát triển và ăn sâu vào cả trong nông nghiệp lẫn công
nghiệp. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng nông là giải phóng kinh
tế nông dân thoát khỏi phong kiến để phát triển nông nghiệp theo
kiểu TBCN.
• Về lợi nhuận họ cho rằng thương nghiệp chẳng qua là do nhờ vào các
khoản tiết kiệm chi phí thương mại, và theo họ cho rằng thương mại
chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị khác ngang như thế mà
thôi và trong quá trình trao đổi đó, nếu xét dưới hình thái thuần tuý
thì cả người mua và người bán đều không được lợi hoặc mất gì cả.
Thương nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không sinh ra được gì cả
không làm cho tài sản tăng lên. Khi phê phán chủ nghĩa trọng thương
C.Mác đã viết trong bộ Tư bản (quyển I tập 1):"Người ta trao đổi
những hàng hoá với giá hàng hoá hoặc hàng hoá với tiền tệ có cùng
giá trị với hàng hoá đó, tức là trao đổi ngang giá, rõ ràng là không ai
rút ra được trong lưu thông nhiều giá trị hơn số giá trị bỏ vào trong
đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không thể hình thành ra được".
Như vậy họ đã hơn chủ nghĩa Trọng thương ở chỗ là chỉ ra được lưu
thông (trao đổi) không sinh ra của cải.
- Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh:
Chủ nghĩa trọng thương và bắt đầu tan rã ngay ở TK 17. Cuối TK 18
ở Anh Pháp học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này,
sau khi tích luỹ được khối lượng tiền lớn, giai cấp tư sản tập trung
vào lĩnh vực sản xuất. Vì vậy các công trường thủ công trong lĩnh
vực công nghiệp và nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Diễn ra việc
tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành hai giai cấp vô sản
và chủ chiếm hữu ruộng đất. Mặt khác sự tồn tại của chế độ phong
kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của CNTB, mà còn làm sâu
sắc hơn mâu thuẫn trong giai cấp quý tộc và trong giai cấp này dần
dần cũng bị tư sản hoá. Chính sự chuyển đổi lĩnh vực sản xuất nên
nó đòi hỏi phải có những lý thuyết đúng soi đường mà Chủ nghĩa
trọng nông và trọng thương không đáp ứng được. Do đó kinh tế CC
chính trị học tư sản cổ điển ra đời.
William Petty ( 1623 - 1687): Là nhà kinh tế học người Anh được
Mác đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển. Ông tìm
thấy phạm trù phạm trù địa tô mà chủ nghĩa trọng thương đã bỏ
qua và ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá của sản
phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm tiền lương, giống má...). Về lợi
tức ông nói trong cuốn "Bàn về tiền tệ" là lợi tức là số tiền thưởng
trả cho sự ăn tiêu, coi lợi tức cũng như tiền thuê ruộng.
Adam Smith (1723 - 1790): Theo ông thì lợi nhuận là "khoản khấu
trừ thứ hai" vào sản phẩm lao động. Theo cách giải thích của ông
thì lợi nhuận, địa tô, và lợi tức cũng chỉ là hình thái khác nhau của
giá trị do công nhân tạo ra thêm ngoài tiền lương.
2. Bản chất của lợi nhuận
Các hình thức của lợi nhuận
a. Lợi nhuận công nghiệp:
Lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị thặng dư do
công nhân tạo ra trong lĩnh vực công nghiệp và bị
nhà tư bản chiếm không. Thời gian lao động trong
ngày của công nhân chia làm hai phần: một phần
thời gian lao động trong ngày công nhân tạo ra
một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao
động. Phần còn lại của ngày là phần lao động
thặng dư, lao động trong khoảng thời gian này là
lao động thặng dư. Phần lao động thặng dư của
công nhân thuộc về nhà tư bản. Khi hàng hoá
được bán trên thị trường thì phần giá trị thặng dư
này mang hình thức là lợi nhuận. Lợi nhuận cao
luôn là mục đích của nhà tư bản cho nên nhà tư
bản tìm ra hai phương pháp để làm tăng lợi
nhuận đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
b. Lợi nhuận Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh
thương nghiệp: vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp có nguồn gốc từ trong lĩnh vực sản xuất, nó
là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Nhưng điều đó không có
nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là
nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta
bán đúng giá trị của nó.
Nhà tư bản công nghiệp luôn tìm ra các phương pháp sản xuất để làm tăng lợi
nhuận. Vậy tại sao nhà tư bản công nghiệp lại chịu nhường một phần lợi
nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp bằng lòng
nhường một phần lợi nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp là do nhà tư bản
thương nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà tư bản công nghiệp.

Tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai
đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn này thì quá trình sản xuất không thể tiếp
diễn được. Tư bản thương nghiệp chuyên trách nhiệm vụ lưu thông hàng hoá phục vụ cho
nhiều lương tư bản và các chi phí bỏ vào lưu thông sẽ giảm đi rất nhiều do đó tư bản của
từng nhà tư bản công nghiệp cũng như của toàn xã hội bỏ vào sản xuất sẽ tăng lên, qui mô
sản xuất mở rộng và lợi nhuận cũng tăng lên. Mặt khác chủ nghĩa tư bản càng phát triển
thì mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng càng gay gắt do đó cần phải có các nhà tư bản
biết tính toán, am hiểu được nhu cầu thị trường, biết kỹ thuật thương mại... chỉ có tư bản
thương nghiệp đáp ứng được các yêu cầu đó.
Đối với nhà tư bản công nghiệp, khi lĩnh vực lưu thông đã có tư bản thương nghiệp đảm
nhiệm nên rảnh tay trong lưu thông chỉ tập trung vào đẩy mạnh sản xuất, do đó lợi nhuận
cũng tăng lên.
c. Lợi nhuận ngân hàng
-Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ làm môi giới
giữa người đi vay và người cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi ngân hàng trả lợi
tức cho người gửi tiền vào, còn trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu lợi tức cho
người đi vay. Lợi tức nhận gửi bao giờ cũng nhỏ hơn lợi tức cho vay.
-Lợi nhuận ngân hàng là chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi
các khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu nhập
khác về kinh doanh tiền tệ.
-Lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân
-Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động cho nên lợi nhuận ngân hàng hoạt động
theo qui luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.

d. Lợi tức cho


vay:
-Có nhà tư bản cần tư bản để hoạt động bởi vì họ chưa có đủ vốn. Một số
nhà tư bản có tiền nhưng chưa cần sử dụng vốn. Vì vậy nhà tư bản cần vốn
để hoạt động sẽ đi vay còn nhà tư bản chưa sử dụng đến sẽ cho vay. Nhà tư
bản đi vay (nhà tư bản hoạt động) vay tiền để sản xuất kinh doanh nên thu
được lợi nhuận. Nhà tư bản cho vay đã nhượng quyền sử dụng tư bản của
mình cho người khác trong một thời gian nhất định cho nên họ nhận được
một số tiền lời do người đi vay trả cho họ. Số tiền lời gọi là lợi tức.
-Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho
nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà
tư bản đi vay sử dụng.
-Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất.
e. Địa tô
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn phát
triển trong lĩnh vực nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp muốn kinh doanh thì phải thuê ruộng đất của địa
chủ. Cũng như nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp phải thuê đất
cho nên ngoài lợi nhuận bình quân ra họ phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận
bình quân gọi là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, họ phải trả nó cho
chủ đất dưới hình thái địa tô.
Địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của
nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa là kết quả của việc bóc lột công nhân làm thuê cho nông nghiệp.
Lý luận về lợi
nhuận của Mác :

Mác đã kế thừa những hạt nhân hợp lý của


kinh tế chính trị học tư sản cổ điển, phát triển
nó một cách xuất sắc và thực hiện một cuộc
cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học.
Trong bộ tư bản này Mác đã nêu lên một trong
những phát kiến vĩ đại nhất của ông đó là học
thuyết về giá trị thặng dư và chỉ ra rằng nguồn
gốc và bản chất của lợi nhuận chính là suất
phát từ giá trị thặng dư. Do vậy muốn làm rõ
được nguồn gốc bản chất và vai trò của lợi
nhuận chúng ta phải đi từ quá trình bản chất
giá trị thặng dư quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản.
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Để tạo ra giá trị hàng hoá cần phải chi một số lao động nhất định là lao
động quá khứ và lao động hiện tại.
Lao động quá khứ (lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c).
Giá trị của tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân được bảo
tồn và di chuyển vào gía trị của sản phẩm mới.
Lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v+m).
Giá trị mới này là do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá
trình lao động. Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị
sức lao động cộng thêm với giá trị thặng dư.
Như vậy đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì chi phí thực tế để sản xuất
ra hàng hoá (c+v+m).
Trên thực tế, nhà tư bản ứng tư bản để sản xuất hàng hoá tức là họ ứng ra
một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Do đó
nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem hao
phí hết bao nhiêu lao động xã hội. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa và ký hiệu bằng k (k=c+v).
Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ
ra để sản xuất hàng hoá.
Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng
hoá (gt=c+v+m) chuyển thành (gt=k+m).
b. Quá trình tạo ra giá trị thặng dư. c. Lợi nhuận:
Giá trị thặng dư là giá trị mới đã ra ngoài giá trị sức lao Giữa gía trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ
động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm nghĩa luôn có một khoảng chênh lệch, chi phí sản
không. Để hiểu rõ về quá trình ra gía trị thặng dư ta xét xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế
bài toán sau. hay giá trị của hàng hoá, (c+v)<(c+V+m), cho nên
Giả định để sản xuất ra 10 kg sợi cầu 10kg bông, giá sau khi bán hàng hoá nhà tư bản không những bù đắp
10kg bông là 10 đôla. để biến số bông đó thành sợi, đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được số tiền lời
một công nhân phải lao động trong 6giờ và hao mòn ngang bằng với gía trị thặng dư. Số tiền này gọi là lợi
máy móc là 2 đôla, giá trị sức lao động trong một ngày nhuận.
lao động của công nhân là 3 đôla; trong một giờ lao
động người công nhân tạo ra một giá là 0,5 đôla; Cuối Nếu ký hiệu lợi nhuận là P thì công thức: gt =
cùng ta giả định rằng trong quá trình sản xuất sợi đã (c+v+m)=k+m) bây giờ sẽ chuyển thành gt= k+P
hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết. (hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa cộng với lợi nhuận)
Với giả định như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng
dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được gía trị sứclao trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản
động (6giờ) thì chưa sản xuất ra giá trị thặng dư. Trên ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi
thực tế quá trình lao động không dừng lại ở đó. Nhà tư nhuận.
bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày. Vậy
việc sử dụng các sức lao động trong ngày thuộc về nhà
tư bản.
VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VIỆT NAM
1. Những tác động tích cực trong nền kinh tế:
1.1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Như đã biết, các nhà tư bản, các doanh nghiệp đầu tư để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh với
mục tiêu là thu được cảng nhiều lợi nhuận cảng tốt và cũng chính khoản lợi nhuận thu được này cũng
là nguyên nhân chính quyết định sự tồn tại phát triên hay sự phá sản của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả thì một phần lợi nhuận này sẽ được sử dụng để tái đầu tư để tái mở rộng
sân xuất và doanh nghiệp sẽ ngày cảng phát triển. Ngược lại nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì nó sẽ
bị đảo thải theo qui luật của sự phát triên. Các nhà tư bản, các doanh nghiệp tìm mọi cách để tạo ra
nhiều lợi nhuận để đạt được điều đó thì thời kỳ ban đầu có kéo dài ngày lao động của người công nhân
dùng phương pháp này có nhiều hạn chế và bị sự phản đối gây gắt của nghiệp đoàn và giai cấp công
nhân do đó để thu được lợi nhuận cao thì chỉ có cách nâng cao năng suất lao động bằng áp dụng
những kĩ thuật mới những phát minh mới vào trong sản xuất. Áp dụng những kĩ thuật mới đã làm cho
các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học những phát minh khoa học
lần lược ra đời đặc biệt ở thế kỷ 19 và 20 đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng
Và chính việc áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật này vào sản xuất đã giúp cho các nhà tư bản
không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được nhiều lợi nhuận siêu ngạch người công nhân
chính là người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ mới do đó đòi hỏi họ phải có một trình độ nhất
định nào đó thì mới có thể sử dụng được các trang thiết bị kỹ thuật mới đó chính vì vậy mà mỗi người
công nhân phải tự học hỏi để nâng cao trình độ nâng cao tay nghề nếu không chính họ sẽ bị đào thải
còn về phía nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao và tận dụng được hết công suất
của cái trang thiết bị kỹ thuật mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề với trình độ
cao vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ tay nghề của công nhân của nhà tư bản đã
diễn ra ngày càng mạnh mẽ và trở thành một yêu cầu tất yếu qua đó trình độ người lao động ngày càng
được nâng cao và nó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lên một tầm cao mới.
1.2 Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển:
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
và tái sản xuất xã hội: sản xuất phân phối trao đổi tiêu dùng. Quan hệ sản xuất bao
gồm quan hệ kinh tế xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau thông qua quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Như đã trình bày ở phần trên mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất và nó kéo
theo sự phát triển của quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ Phát
triển của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đòi hỏi các
nhà kinh tế các tổ chức kinh tế, bảo đảm được tính hiệu quả trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh tức là làm thế nào để một chi phí bỏ ra là ít nhất sẽ thu về được số
lợi nhuận lớn nhất. Điều đó đòi hỏi phải có tính chuyên môn hóa cao trong công tác
tổ chức quản lý. Các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất bắt đầu cắt giảm biên chế,
thu gọn bộ máy quản lý dành cho bộ máy quản lý gọn nhẹ hơn nhưng lại hoạt động
rất có hiệu quả. Cùng với nó là quá trình phân bố lại lực lượng lao động một cách
cân đối có kế hoạch để đảm bảo khai thác một cách có hiệu quả nhất nguồn tài
nguyên. Tất cả các vấn đề trên đời xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận và chính nó đã
cho thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động vẫn ra một cách hết sức mạnh mẽ
theo nguyên tắc làm nhiều hướng Nhiều, làm ít hưởng ít. Sự phân chia lợi nhuận đã
diễn ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau một cách chặt chẽ giữa các bên tham
gia vào quá trình phân chia làm cho chế độ sở hữu ngày càng được cùng cố và phát
triển. Quan hệ sở hữu từng bước được phát triển hơn rõ ràng hơn giữa các nhà tư
bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Như vậy
với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển bắt đầu
từ quan hệ sản xuất tự cung tự cấp và cho đến nay thì quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa đã rất phát triển
1.3 Lợi nhuận là động lực phát triển của doanh nghiệp :
Có thể nói lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả
của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kể từ lúc bắt đầu tìm
kiếm nhu cầu của thị trường cho tới khi tổ chức sản xuất ra hàng hóa dịch vụ
và bán đấu giá thị trường. Kinh doanh tốt sẽ tạo ra được nhiều lợi nhuận, khi
lợi nhuận nhiều sẽ tạo ra khả năng để đầu tư tái sản xuất mở rộng làm cho
quy mô của quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng, lợi nhuận
sẽ ngày càng nhiều hơn. Chính vì vậy, lợi nhuận là động lực kinh tế thúc đẩy
các doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng hợp lý các nguồn
lực nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh
doanh. Lợi nhuận của doanh nghiệp không những là bộ phận quan trọng trong
thu nhập thuần túy của doanh nghiệp mà nó còn là nguồn lực quan trọng của
ngân sách nhà nước, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Mặt
khác, nhờ có lợi nhuận thu được các doanh nghiệp không những thực hiện
được nghĩa vụ góp quan trọng trong nguồn thu của ngân sách nhà nước thông
qua các sắc thuế theo luật định mà còn tạo điều kiện tiền đề cho các doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Như vậy lợi nhuận có một
vai trò cực kỳ quan trọng không những đối với doanh nghiệp mà còn là nguồn
thu quan trọng đối với ngân sách nhà nước với mục tiêu lợi nhuận của mình,
các doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao hiệu quả
của quá trình sản xuất và kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
chung của toàn xã hội ngoài ra nhà nước chính phủ phải tạo ra hành lang pháp
lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
1.4 lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế :
Lợi nhuận là lý do phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường nó thúc
đẩy quá trình mở cửa của nền kinh tế nhằm mở rộng việc trao đổi hàng
hóa trao đổi khoa học kĩ thuật. Các nước tiến hành mở cửa nên kinh tế
nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong
làm thay đổi mạnh mẽ trình độ kĩ thuật công nghệ trong nước. Đồng
thời đầu tư Ra nước ngoài sẽ mang lại mức lợi nhuận cao hơn ở trong
nước như vậy để thu được lợi nhuận cao hơn đòi hỏi các nước phải tăng
cường liên doanh liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên
thế giới trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.

1.5 Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất :

Xã hội muốn mở rộng sản xuất ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích lũy
nhiều vốn. Như đã biết quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lập lại của quá
trình sản xuất cũ với quy mô lớn hơn chút, với nội dung tư bản lớn hơn chút.
Muốn như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng thì đòi
hỏi trong quá trình sản xuất phải tạo ra được lợi nhuận, lợi nhuận tạo ra
được càng nhiều thì quá trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn
và với quy mô lớn hơn ngược lại việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích thích các
chủ doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất để thu được lợi nhuận
cao hơn.
1.6 Vai trò của lợi Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn là một
điều tất yếu khách quan, đó chính là một phần thu nhập của
nhuận đối với các mặt những người đóng góp sức lao động hay bốn tài sản của mình
vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những người này
khác của đời sống xã còn có những người vì một lý do nào đó mà không thể tham
hội: gia vào lao động được, đời sống của những người này là do gia
đình họ hoặc cho xã hội đảm bảo .Mặt khác, đời sống của
CBCNVC nhà nước và tất cả những người lao động ở tất cả các
thành phần kinh tế cũng không phải dựa vào tiền công cá nhân
mà họ có được, mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng
của nhà nước, các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Nó
nhầm mục đích đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều
có mức sống bình thường tối thiểu.

Phân phối thù lao ngoài lao động còn kích thích lao động sản
xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội.
Mặt khác mỗi quốc gia đều có một bộ máy hành chính nhà
nước, việc nuôi sống bộ máy nhà nước từ tốn một khoản chi
phí rất lớn. Bên cạnh đó, vấn đề an ninh quốc phòng và vấn đề
giáo dục luôn đòi hỏi được ưu tiên hàng đầu. Tất cả các khoản
chi tiêu đều lấy từ ngân sách nhà nước, giấy tờ phần vốn tích
lũy của các doanh nghiệp các nguồn ngày đều được hình thành
từ lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Lợi nhuận thu được càng nhiều thì
phần dành cho các vấn đề trên càng nhiều. Ngoài ra khi lợi nhuận cao sẽ có điều kiện đầu tư phát triển nhân
tố con người cả về mặt lý luận và thực tiễn, đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tất cả những điều trên đều
góp phần nâng cao đời sống xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, quốc phòng
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN
Ở NƯỚC TA.
1. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận ở Việt Nam.
Trước năm 1986 nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế chỉ huy, ở đó Nhà nước kiểm soát hầu
hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực hiện được Nhà nước cần phải
kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối hàng hoá và dịch vụ sao cho doanh nghiệp
Nhà nước có thể chiếm đoạt lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận độc quyền
đó được chuyển vào ngân sách Nhà nước qua doanh thu như là một thứ thuế ngầm. Về
phía mình, các doanh nghiệp là người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc
tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà
nước cấp. Trong hệ thống phân phối này thu nhập về lợi nhuận của Nhà nước không dựa
trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên hệ thống định
mức, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền lực của
nó trong hệ thống này. Do đó nền kinh tế gặp phải khó khăn lớn.
Chính vì vậy cuộc cải cách kinh tế Việt Nam
năm 1986 đã đem lại một số thành tựu đáng
khích lệ. Nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính
năng động của nền kinh tế thị trường, xoá bỏ
tính bao cấp, trì trệ của cơ chế cũ, bước đầu
phát huy được nộ lực, kiềm chế đẩy lùi lạm
phát. Tóm lại lợi nhuận là mục đích của kinh tế
thị trường, kinh tế thị trường ở nước ta cũng
nhằm mục đích lợi nhuận không theo đuổi lợi
nhuận một cách đơn thuần. Mà xuất phát từ
đặc điểm nước ta là nước xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định
hướng xã hội củ nghĩa là không thay đổi. Vì vậy
chúng ta theo đuổi lợi nhuận nhưng phải đảm
bảo nhiệm vụ: Bảo đảm hiệu quả kinh tế trong
sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có
lãi.
- Kết hợp giải quyết những vấn đề về kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân…
2. Giải pháp cho vấn đề lợi nhuận.

Chúng ta phải tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (giữa các
thành phần kinh tế) và hội nhập tích cực vào thị trường thế giới để
tư bản và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng một cách có hiệu
quả. Phải có kế hoạch dài hạn trong việc xây dựng nguồn nhân lực
đồng thời tạo cơ chế để nhân tài được sử dụng đúng chỗ tạo môi
trường thuận lợi và đầu tư đúng mức để khoa học kỹ thuật được
ứng dụng rộng rãi. Cần cải cách nhanh, gọn bộ máy hành chính. Cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kém hiệu quả.
Tạo hành lang pháp lý thông thoáng, giảm bớt hàng rào thuế quan
để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Thiết lập mối quan hệ kinh tế
với nhiều nước để xác lập thị trường xuất khẩu và đầu tư hiệu quả.
Ngăn ngừa khủng hoảng và chuẩn bị khả năng phục hồi nhanh
chóng sau khủng hoảng.
KẾT LUẬN
Rõ ràng lợi nhuận là một phạm trù không chỉ riêng của chủ nghĩa tư bản. Nhưng vấn đề là tạo ra và sử dụng
nó như thế nào để phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường của chúng ta ở đảm bảo quyền
lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Vai trò tích cực của lợi nhuận đối
với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là rất to lớn, tuy vậy tác hại của việc theo đuổi lợi nhuận cũng
rất nguy hiểm nhất là đối với một đốt định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng còn kém phát triển như nước ta do
đó việc học tập nghiên cứu vận dụng vấn đề lợi nhuận cũng như các phạm trù khác của chủ nghĩa mác nhằm
góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thành công của công
cuộc đổi mới là nhiệm vụ của mỗi người sinh viên đại học Kiến Trúc.

You might also like