Professional Documents
Culture Documents
HCM
Khoa Lý Luận Chính Trị
Môn Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin
• Trên thực tế, không có một mô hình kinh tế thị trường nào áp dụng
chung cho tất cả các nước trên thế giới. Tùy thuộc vào định hướng
chính trị của từng nước mà người ta lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường riêng phù hợp với từng quốc gia. Ở Việt Nam thì Đảng ta đã
xác định lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Vậy kinh tế thị trường định hướng XHCN là gì?
• Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành theo các quy luật của thị trường, có sự điều tiết của nhà nước
Việt Nam XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo, hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
• Trước hết đây là nền kinh tế thị trường và đã là nền kinh tế thị
trường thì nó vận hành đầy đủ và đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường. Nhưng mỗi mô hình kinh tế thị trường thì nó có
định hướng chính trị và định hướng chính trị đó là nhằm để thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tuy nhiên, mục tiêu đó không dễ dàng đạt được bởi vì kinh
tế thị trường vận động theo các quy luật khách quan của riêng nó.
Do đó, để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh đã được định hướng XHCN thì cần phải có
sự điều tiết của Nhà nước XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
• Có thể nói, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận
hành theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời bảo đảm
định hướng XHCN, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
LỢI NHUẬN
1/ Nguồn gốc của lợi nhuận:
Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận: Lợi nhuận xuất hiện từ lâu nhưng đến khi
có giai cấp thì lợi nhuận với được bàn đến với tư cách là một phạm trù kinh tế.
Trước Mác không phải các quan điểm đều thống nhất, đều đúng đắn mà các trường
phái đều cố gắng bào chữa cho quan điểm của họ.
- Chủ nghĩa trọng thương: Ra đời trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và
thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB, khi kinh tế hàng hóa và ngoại thương phát triển. Những
người theo chủ nghĩa trọng thương rất coi trọng thương nghiệp và cho rằng lợi nhuận thương
nghiệp chính là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt. Theo họ không một người
nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt hại cho kẻ khác, trong trao đổi phải có một bên lợi
và một bên thiệt.
Những người theo chủ nghĩa trọng thương coi tiền là đại biểu duy nhât của của cải, là tiêu chuẩn
để đánh giá sự giàu có của mỗi quốc gia. Họ cho rằng khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng
con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương phải có chính sách siêu (mua ít, bán
nhiều) điều đó được thể hiện trong câu nói của Montchritren "Nội thương là ống dẫn ngoại
thương là báy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương để nhập dần của cải của ngoại
thương".
- Chủ nghĩa trọng nông:
• Cũng như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông xuất hiện
trong khuôn khổ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN
nhưng ở giai đoạn kinh tế phát triển trưởng thành hơn. Vào giữa TK
18 Tây âu đã phát triển theo con đường TBCN và ở Anh cuộc cách
mạng công nghiệp bắt đầu. ở Pháp và một số nước Tây âu công trường
thủ công cũng phát triển và ăn sâu vào cả trong nông nghiệp lẫn công
nghiệp. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng nông là giải phóng kinh
tế nông dân thoát khỏi phong kiến để phát triển nông nghiệp theo
kiểu TBCN.
• Về lợi nhuận họ cho rằng thương nghiệp chẳng qua là do nhờ vào các
khoản tiết kiệm chi phí thương mại, và theo họ cho rằng thương mại
chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị khác ngang như thế mà
thôi và trong quá trình trao đổi đó, nếu xét dưới hình thái thuần tuý
thì cả người mua và người bán đều không được lợi hoặc mất gì cả.
Thương nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không sinh ra được gì cả
không làm cho tài sản tăng lên. Khi phê phán chủ nghĩa trọng thương
C.Mác đã viết trong bộ Tư bản (quyển I tập 1):"Người ta trao đổi
những hàng hoá với giá hàng hoá hoặc hàng hoá với tiền tệ có cùng
giá trị với hàng hoá đó, tức là trao đổi ngang giá, rõ ràng là không ai
rút ra được trong lưu thông nhiều giá trị hơn số giá trị bỏ vào trong
đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không thể hình thành ra được".
Như vậy họ đã hơn chủ nghĩa Trọng thương ở chỗ là chỉ ra được lưu
thông (trao đổi) không sinh ra của cải.
- Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh:
Chủ nghĩa trọng thương và bắt đầu tan rã ngay ở TK 17. Cuối TK 18
ở Anh Pháp học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này,
sau khi tích luỹ được khối lượng tiền lớn, giai cấp tư sản tập trung
vào lĩnh vực sản xuất. Vì vậy các công trường thủ công trong lĩnh
vực công nghiệp và nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Diễn ra việc
tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành hai giai cấp vô sản
và chủ chiếm hữu ruộng đất. Mặt khác sự tồn tại của chế độ phong
kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của CNTB, mà còn làm sâu
sắc hơn mâu thuẫn trong giai cấp quý tộc và trong giai cấp này dần
dần cũng bị tư sản hoá. Chính sự chuyển đổi lĩnh vực sản xuất nên
nó đòi hỏi phải có những lý thuyết đúng soi đường mà Chủ nghĩa
trọng nông và trọng thương không đáp ứng được. Do đó kinh tế CC
chính trị học tư sản cổ điển ra đời.
William Petty ( 1623 - 1687): Là nhà kinh tế học người Anh được
Mác đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển. Ông tìm
thấy phạm trù phạm trù địa tô mà chủ nghĩa trọng thương đã bỏ
qua và ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá của sản
phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm tiền lương, giống má...). Về lợi
tức ông nói trong cuốn "Bàn về tiền tệ" là lợi tức là số tiền thưởng
trả cho sự ăn tiêu, coi lợi tức cũng như tiền thuê ruộng.
Adam Smith (1723 - 1790): Theo ông thì lợi nhuận là "khoản khấu
trừ thứ hai" vào sản phẩm lao động. Theo cách giải thích của ông
thì lợi nhuận, địa tô, và lợi tức cũng chỉ là hình thái khác nhau của
giá trị do công nhân tạo ra thêm ngoài tiền lương.
2. Bản chất của lợi nhuận
Các hình thức của lợi nhuận
a. Lợi nhuận công nghiệp:
Lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị thặng dư do
công nhân tạo ra trong lĩnh vực công nghiệp và bị
nhà tư bản chiếm không. Thời gian lao động trong
ngày của công nhân chia làm hai phần: một phần
thời gian lao động trong ngày công nhân tạo ra
một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao
động. Phần còn lại của ngày là phần lao động
thặng dư, lao động trong khoảng thời gian này là
lao động thặng dư. Phần lao động thặng dư của
công nhân thuộc về nhà tư bản. Khi hàng hoá
được bán trên thị trường thì phần giá trị thặng dư
này mang hình thức là lợi nhuận. Lợi nhuận cao
luôn là mục đích của nhà tư bản cho nên nhà tư
bản tìm ra hai phương pháp để làm tăng lợi
nhuận đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
b. Lợi nhuận Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh
thương nghiệp: vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp có nguồn gốc từ trong lĩnh vực sản xuất, nó
là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Nhưng điều đó không có
nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là
nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta
bán đúng giá trị của nó.
Nhà tư bản công nghiệp luôn tìm ra các phương pháp sản xuất để làm tăng lợi
nhuận. Vậy tại sao nhà tư bản công nghiệp lại chịu nhường một phần lợi
nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp bằng lòng
nhường một phần lợi nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp là do nhà tư bản
thương nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà tư bản công nghiệp.
Tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai
đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn này thì quá trình sản xuất không thể tiếp
diễn được. Tư bản thương nghiệp chuyên trách nhiệm vụ lưu thông hàng hoá phục vụ cho
nhiều lương tư bản và các chi phí bỏ vào lưu thông sẽ giảm đi rất nhiều do đó tư bản của
từng nhà tư bản công nghiệp cũng như của toàn xã hội bỏ vào sản xuất sẽ tăng lên, qui mô
sản xuất mở rộng và lợi nhuận cũng tăng lên. Mặt khác chủ nghĩa tư bản càng phát triển
thì mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng càng gay gắt do đó cần phải có các nhà tư bản
biết tính toán, am hiểu được nhu cầu thị trường, biết kỹ thuật thương mại... chỉ có tư bản
thương nghiệp đáp ứng được các yêu cầu đó.
Đối với nhà tư bản công nghiệp, khi lĩnh vực lưu thông đã có tư bản thương nghiệp đảm
nhiệm nên rảnh tay trong lưu thông chỉ tập trung vào đẩy mạnh sản xuất, do đó lợi nhuận
cũng tăng lên.
c. Lợi nhuận ngân hàng
-Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ làm môi giới
giữa người đi vay và người cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi ngân hàng trả lợi
tức cho người gửi tiền vào, còn trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu lợi tức cho
người đi vay. Lợi tức nhận gửi bao giờ cũng nhỏ hơn lợi tức cho vay.
-Lợi nhuận ngân hàng là chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi
các khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu nhập
khác về kinh doanh tiền tệ.
-Lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân
-Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động cho nên lợi nhuận ngân hàng hoạt động
theo qui luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
1.5 Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất :
Xã hội muốn mở rộng sản xuất ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích lũy
nhiều vốn. Như đã biết quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lập lại của quá
trình sản xuất cũ với quy mô lớn hơn chút, với nội dung tư bản lớn hơn chút.
Muốn như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng thì đòi
hỏi trong quá trình sản xuất phải tạo ra được lợi nhuận, lợi nhuận tạo ra
được càng nhiều thì quá trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn
và với quy mô lớn hơn ngược lại việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích thích các
chủ doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất để thu được lợi nhuận
cao hơn.
1.6 Vai trò của lợi Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn là một
điều tất yếu khách quan, đó chính là một phần thu nhập của
nhuận đối với các mặt những người đóng góp sức lao động hay bốn tài sản của mình
vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những người này
khác của đời sống xã còn có những người vì một lý do nào đó mà không thể tham
hội: gia vào lao động được, đời sống của những người này là do gia
đình họ hoặc cho xã hội đảm bảo .Mặt khác, đời sống của
CBCNVC nhà nước và tất cả những người lao động ở tất cả các
thành phần kinh tế cũng không phải dựa vào tiền công cá nhân
mà họ có được, mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng
của nhà nước, các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Nó
nhầm mục đích đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều
có mức sống bình thường tối thiểu.
Phân phối thù lao ngoài lao động còn kích thích lao động sản
xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội.
Mặt khác mỗi quốc gia đều có một bộ máy hành chính nhà
nước, việc nuôi sống bộ máy nhà nước từ tốn một khoản chi
phí rất lớn. Bên cạnh đó, vấn đề an ninh quốc phòng và vấn đề
giáo dục luôn đòi hỏi được ưu tiên hàng đầu. Tất cả các khoản
chi tiêu đều lấy từ ngân sách nhà nước, giấy tờ phần vốn tích
lũy của các doanh nghiệp các nguồn ngày đều được hình thành
từ lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Lợi nhuận thu được càng nhiều thì
phần dành cho các vấn đề trên càng nhiều. Ngoài ra khi lợi nhuận cao sẽ có điều kiện đầu tư phát triển nhân
tố con người cả về mặt lý luận và thực tiễn, đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tất cả những điều trên đều
góp phần nâng cao đời sống xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, quốc phòng
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN
Ở NƯỚC TA.
1. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận ở Việt Nam.
Trước năm 1986 nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế chỉ huy, ở đó Nhà nước kiểm soát hầu
hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực hiện được Nhà nước cần phải
kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối hàng hoá và dịch vụ sao cho doanh nghiệp
Nhà nước có thể chiếm đoạt lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận độc quyền
đó được chuyển vào ngân sách Nhà nước qua doanh thu như là một thứ thuế ngầm. Về
phía mình, các doanh nghiệp là người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc
tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà
nước cấp. Trong hệ thống phân phối này thu nhập về lợi nhuận của Nhà nước không dựa
trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên hệ thống định
mức, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền lực của
nó trong hệ thống này. Do đó nền kinh tế gặp phải khó khăn lớn.
Chính vì vậy cuộc cải cách kinh tế Việt Nam
năm 1986 đã đem lại một số thành tựu đáng
khích lệ. Nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính
năng động của nền kinh tế thị trường, xoá bỏ
tính bao cấp, trì trệ của cơ chế cũ, bước đầu
phát huy được nộ lực, kiềm chế đẩy lùi lạm
phát. Tóm lại lợi nhuận là mục đích của kinh tế
thị trường, kinh tế thị trường ở nước ta cũng
nhằm mục đích lợi nhuận không theo đuổi lợi
nhuận một cách đơn thuần. Mà xuất phát từ
đặc điểm nước ta là nước xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định
hướng xã hội củ nghĩa là không thay đổi. Vì vậy
chúng ta theo đuổi lợi nhuận nhưng phải đảm
bảo nhiệm vụ: Bảo đảm hiệu quả kinh tế trong
sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có
lãi.
- Kết hợp giải quyết những vấn đề về kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân…
2. Giải pháp cho vấn đề lợi nhuận.
Chúng ta phải tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (giữa các
thành phần kinh tế) và hội nhập tích cực vào thị trường thế giới để
tư bản và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng một cách có hiệu
quả. Phải có kế hoạch dài hạn trong việc xây dựng nguồn nhân lực
đồng thời tạo cơ chế để nhân tài được sử dụng đúng chỗ tạo môi
trường thuận lợi và đầu tư đúng mức để khoa học kỹ thuật được
ứng dụng rộng rãi. Cần cải cách nhanh, gọn bộ máy hành chính. Cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kém hiệu quả.
Tạo hành lang pháp lý thông thoáng, giảm bớt hàng rào thuế quan
để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Thiết lập mối quan hệ kinh tế
với nhiều nước để xác lập thị trường xuất khẩu và đầu tư hiệu quả.
Ngăn ngừa khủng hoảng và chuẩn bị khả năng phục hồi nhanh
chóng sau khủng hoảng.
KẾT LUẬN
Rõ ràng lợi nhuận là một phạm trù không chỉ riêng của chủ nghĩa tư bản. Nhưng vấn đề là tạo ra và sử dụng
nó như thế nào để phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường của chúng ta ở đảm bảo quyền
lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Vai trò tích cực của lợi nhuận đối
với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là rất to lớn, tuy vậy tác hại của việc theo đuổi lợi nhuận cũng
rất nguy hiểm nhất là đối với một đốt định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng còn kém phát triển như nước ta do
đó việc học tập nghiên cứu vận dụng vấn đề lợi nhuận cũng như các phạm trù khác của chủ nghĩa mác nhằm
góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thành công của công
cuộc đổi mới là nhiệm vụ của mỗi người sinh viên đại học Kiến Trúc.