You are on page 1of 115

ÔN THI ĐẠI HỌC

CÁC CHIẾN SỸ NGHĨA VỤ CÔNG AN 2023- 2024


Giáo viên: Cô Thủy – THPT Bà Rịa
PHẦN 1. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
1.DẠNG VAI TRÒ Ý NGHĨA
1.Mở đoạn

Đề bài

2.Thân đoạn 1

Là gì?

Khái niệm và biểu hiện

Thân đoạn 2

Vì sao? Lợi ích gì?

Câu giới thiệu

Thứ nhất Lý giải Ví dụ Đánh giá

Thứ hai Lý giải Ví dụ Đánh giá

Thân đoạn 3

Phải làm gì?

Phản đề

Việc làm

3.Kết đoạn

Thông điệp
2.DẠNG CẦN LÀM GÌ, GIẢI PHÁP
1.Mở đoạn

Đề bài

2.Thân đoạn 1

Là gì?

Khái niệm và biểu hiện

Thân đoạn 2

Vì sao? Lợi ích gì? (Viết ngắn)

Thân đoạn 3

Phải làm gì?

Câu giới thiệu - Việc làm

Thứ nhất Lý giải Ví dụ Đánh giá

Thứ hai Lý giải Ví dụ Đánh giá

3.Kết đoạn

Thông điệp
FORM NGHỊ LUẬN BÀN VỀ MỘT VẤN ĐỀ TRONG CUỘC SỐNG

DẠNG 1: Ý NGHĨA VAI TRÒ, SỰ CẤN THIẾT, GIÁ TRỊ…

“Dù người ta có nói với bạn bất kỳ điều gì đi nữa thì bạn hãy tin rằng cuộc sống này thật kỳ
diệu và đẹp đẽ.”

-Spauxtopki-

Chúng ta luôn tin rằng cuộc đời vẫn đẹp tươi hay hoài nghi về điều đó thì tất cả đều phụ thuộc
vào cách nhìn nhận sự việc của bạn. Vậy nên con người bạn được hình thành từ chính những
điều bạn suy ngẫm về cuộc đời, về trách nhiệm và tình yêu của bạn đối với mọi người. Từ đó,
tôi nhận ra ……. (đề bài) là một trong những điều tôi cho là quan trọng. Vậy, ………..(từ cần
giải thích) có nghĩa là………………..Điều đó được thể hiện qua nhiều phương diện của cuộc
sống như……………(ghi biểu hiện ra). Tôi nhận ra rằng……(vấn đề nghị luận) mang thật
nhiều ý nghĩa lớn lao. Thứ nhất, đối với bản thân tôi, khi……………………… tôi sẽ thể hiện
được bản thân mình với nhiều giá trị tốt đẹp. Tôi trưởng thành. Tôi hạnh phúc.Bởi
vì…………………………… Bạn có biết…………(nhắc tên 1 nhân vật nổi tiếng làm dẫn
chứng), đó là một người mà tôi vô cùng yêu quý và khâm phục. Tôi xin chia sẻ với bạn một
trải nghiệm từ chính cuộc đời tôi (kể câu chuyện của mình liên quan đến vấn đề đang nghị
luận). Thứ 2, đối với xã hội, khi chúng ta biết ……. Thì xã hội sẽ……………… Bởi
vì………….. Một ví dụ mà chúng ta đều biết là….Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, như bàn tay
cũng có hai mặt phải trái, có đúng có sai phải trái song hành. Bởi thế mà, ngoài những điều
thiện lành giá trị chúng ta còn thấy bên đời những tồn tại đáng buồn. Ví như đã có
người……… thì lại có những người, những sự việc trái ngược…….. Và ở độ tuổi trên hành
trình rèn luyện bản thân và cảm nhận thế giới, tôi cũng có nhiều mong mỏi….(ghi ra). Và tôi
sẽ….(ghi việc đã làm và sẽ làm ra). Sống có trách nhiệm, tin yêu cuộc đời,….(ghi lại vấn đề
nghị luận) chính là cách để chúng tôi vươn lên để sống một cuộc đời sáng tươi đẹp đẽ và tốt
lành. Trong vô vàn sự lựa chọn, trăm nghìn ngã rẻ cuộc đời, mọi cánh cửa sẽ mở ra khi ta
chạm tay gõ, hành trình vạn dặm sẽ bắt đầu bởi một bước chân thôi.
DẠNG 2. VIỆC CẦN LÀM, TRÁCH NHIỆM GÌ, GIẢI PHÁP.

“Dù người ta có nói với bạn bất kỳ điều gì đi nữa thì bạn hãy tin rằng cuộc sống này thật kỳ
diệu và đẹp đẽ.”

-Spauxtopki-

Chúng ta luôn tin rằng cuộc đời vẫn đẹp tươi hay hoài nghi về điều đó thì tất cả đều phụ thuộc
vào cách nhìn nhận sự việc và quan trọng hơn là hành động của bạn. Vậy nên con người bạn
được hình thành từ chính những điều bạn suy ngẫm về cuộc đời, về trách nhiệm và tình yêu
của bạn đối với mọi người. Từ những điều chiêm nghiệm ấy, tôi nhận ra ……. (đề bài) là một
trong những điều quan trọng. Vậy, ………..(từ cần giải thích)… có nghĩa
là………....................Điều đó được thể hiện qua nhiều phương diện của cuộc sống
như……………(ghi biểu hiện ra).Tôi nhận ra rằng………………………..(vấn đề nghị luận)
mang thật nhiều ý nghĩa lớn lao. Đối với bản thân tôi, khi………… tôi sẽ thể hiện được bản
thân mình với nhiều giá trị tốt đẹp. Tôi trưởng thành. Tôi hạnh phúc. Đối với xã hội, khi
chúng ta biết ……. thì xã hội sẽ… Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, như bàn tay cũng có hai
mặt phải trái, có đúng có sai phải trái song hành. Bởi thế mà, ngoài những điều thiện lành giá
trị chúng ta còn thấy bên đời những tồn tại đáng buồn. Ví như đã có người…………. thì lại có
những người, những sự việc trái ngược…….. Và ở độ tuổi trên hành trình rèn luyện bản thân
và cảm nhận thế giới, tôi cũng có nhiều mong mỏi….(ghi ra). Thứ nhất, đối với bản thân tôi,
tôi sẽ….(ghi việc đã làm và sẽ làm ra).Bởi vì………Bạn có biết…………(nhắc tên 1 nhân vật
nổi tiếng làm dẫn chứng), đó là một người mà tôi vô cùng yêu quý và khâm phục. Tôi xin
chia sẻ với bạn một trải nghiệm từ chính cuộc đời tôi (kể câu chuyện của mình đã từng làm
liên quan đến vấn đề đang nghị luận). Thứ 2, đối với xã hội, chúng ta sẽ …(ghi việc đã làm
và sẽ làm ra) …. thì xã hội sẽ……….Bởi vì………Một ví dụ mà chúng ta đều biết
là…………Như vậy, sống có trách nhiệm, tin yêu cuộc đời,….(ghi lại vấn đề nghị luận)
chính là cách để chúng tôi vươn lên để sống một cuộc đời sáng tươi đẹp đẽ và tốt lành. Trong
vô vàn sự lựa chọn, trăm nghìn ngã rẻ cuộc đời, mọi cánh cửa sẽ mở ra khi ta chạm tay gõ,
hành trình vạn dặm sẽ bắt đầu bởi một bước chân thôi.
DẠNG 3. HẬU QUẢ, TÁC HẠI.

“Dù người ta có nói với bạn bất kỳ điều gì đi nữa thì bạn hãy tin rằng cuộc sống này thật kỳ
diệu và đẹp đẽ.”

-Spauxtopki-

Chúng ta luôn tin rằng cuộc đời vẫn đẹp tươi hay hoài nghi về điều đó thì tất cả đều phụ thuộc
vào cách nhìn nhận sự việc và quan trọng hơn là hành động của bạn. Vậy nên con người bạn
được hình thành từ chính những điều bạn suy ngẫm về cuộc đời, về trách nhiệm và tình yêu
của bạn đối với mọi người. Từ những điều chiêm nghiệm ấy, tôi nhận ra ……. (đề bài) là một
trong những điều gây ảnh hưởng không tốt cho bản thân và xã hội. Vậy, ………..(từ cần giải
thích)… có nghĩa là………....................Điều đó được thể hiện qua nhiều phương diện của
cuộc sống như……………(ghi biểu hiện ra).Tôi nhận ra rằng………………………..(vấn đề
nghị luận) mang ý nghĩa cảnh báo về hậu quả của nó. Đối với bản thân tôi, khi…………. Đối
với xã hội, khi chúng ta ……. thì xã hội sẽ… Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, như bàn tay
cũng có hai mặt phải trái, có đúng có sai phải trái song hành. Bởi thế mà, ngoài những tồn tại
đáng buồn vẫn còn đó những điều thiện lành tốt đẹp. Như nhà thơ Lưu Quang Vũ đã viết:

“Nếu cuộc đời chỉ toàn việc xấu xa

Thì tại sao cây táo lại nở hoa”

Ví như đã có người…………. thì lại có những người, những sự việc trái ngược…….. Và ở độ
tuổi trên hành trình rèn luyện bản thân và cảm nhận thế giới, tôi cũng có nhiều mong mỏi….
(ghi ra). Như vậy, sống có trách nhiệm, tin yêu cuộc đời, tránh xa.….(ghi lại vấn đề nghị
luận) chính là cách để chúng tôi vươn lên để sống một cuộc đời sáng tươi đẹp đẽ và tốt lành.
Trong vô vàn sự lựa chọn, trăm nghìn ngã rẻ cuộc đời, mọi cánh cửa sẽ mở ra khi ta chạm tay
gõ, hành trình vạn dặm sẽ bắt đầu bởi một bước chân thôi.

PHẦN 2.CÁC DẠNG CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:


1.BIỆN PHÁP TU TỪ: Ghi form ra trước, điền từ sau:
-Gọi tên:
Chỉ ra:
-Nhấn mạnh làm nổi bật……………………………………………………………………….
Qua đó thể hiện cảm xúc, thái độ……………………………………………………………..của tác
giả.
-Tăng tính gợi hình gợi càm, tạo ra cách diễn đạt cân đối nhịp nhàng, hấp dẫn, giàu hình ảnh.
2.CÂU THÔNG ĐIỆP:

- Thông điệp rút ra: bắt đầu bằng những từ: hãy, đừng, cứ.. Thông điệp nào yêu thích nhất:
Viết lại câu hay nhất trong văn bản và giải thích ý nghĩa của câu.

-Hãy…………………………………………………………………………………………………
-Bởi vì: Ý nghĩa của thông điệp thật sâu sắc…(nêu các ý nghĩa. Lấy chi tiết hình ảnh làm dẫn
chứng). Bản thân tôi………………………………
3.CÂU NHẬN XÉT, CẢM NHẬN, SUY NGHĨ, NHẬN BIẾT:

- Nêu nhận xét:

+Tôi cho rằng đúng, sai, tích cực không, hay ở chỗ nào,…

+Bởi vì: Ý nghĩa của câu thật sâu sắc…(nêu các ý nghĩa. Lấy chi tiết trong văn bản, trong
cuộc sống làm dẫn chứng). Bản thân tôi………………………………
- Quan điểm của anh chị/Anh chị có đồng tình không? Theo tôi, Tôi đồng ý, không đồng
ý, giải thích vì sao dựa vào ý nghĩa của câu.

-Trả lời trực tiếp…………………………………………………………………………………………


-Bởi vì: Ý nghĩa của câu thật sâu sắc…(nêu các ý nghĩa. Lấy chi tiết trong văn bản, trong
cuộc sống làm dẫn chứng). Bản thân tôi………………………………
- Vì sao tác giả, theo tác giả: lấy ý và câu trong văn bản mà chép lại hoặc tóm tắt

- Theo anh chị vì sao tác giả cho rằng, em hiểu thế nào về câu: Phải trả lời bằng ý của
mình, đi từ giải thích những từ quan trọng và rút ra ý nghĩa toàn câu.

- Chủ đề, ý chính, nội dung chính: Chú ý câu đầu và cuối văn bản, từ lặp lại, phần trích dẫn
cuối văn bản trong văn bản để rút ra

- Nêu suy nghĩ của anh chị về câu, về vấn đề trích trong văn bản: Theo tôi, … là gì, phải
làm gì

5. PHÉP LIÊN KẾT VĂN BẢN:

Thế, Lặp, Nối, Liên tưởng – Tương phản – Tỉnh lược…

6. CÁCH THỨC TRÌNH BÀY: Diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành, tổng phân hợp…
7. SÁU PHONG CÁCH CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ:
a. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt: Chuyện trò, nhật kí, thư từ. Phong cách ngôn ngữ hành
chính - công vụ:Thông báo, thông tư, đơn từ, chỉ thị, nghị quyết, đề án, văn bằng, chứng chỉ,
công hàm, hiệp định, nghị định ...Phong cách ngôn ngữ khoa học: y khoa, toán học, lịch sử

b.Phong cách ngôn ngữ báo chí: tin tức thời sự trong nước và quốc tế, Bản tin, Phóng sự,
Tiểu phẩm. Phong cách ngôn ngữ chính luận bàn bạc nêu ý kiến về vấn đề chính trị, xã hội
nóng, tuyền truyền, giáo dục. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật: truyện ngắn, truyện dài,
truyện ký, thơ ca, kịch, câu đố, tục ngữ, ...

8. NĂM PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT


a. Tự sự kể lại, thuật lại sự việc, cốt truyện. Miêu tả nêu các đặc điểm thấy sự vật, hiện
tượng, con người.Thuyết minh: giới thiệu, giảng giải các nội dung

b. Biểu cảm: Là bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh. Nghị
luận: Là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải, trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ
kiến, thái độ…
9. SÁU CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN:
a. Phân tích: Chia tách vấn đề để tìm hiểu giúp ta biết cặn kẽ, thấu đáo. Chứng minh: nêu
các bằng chứng làm rõ. Giải thích: nêu khái niệm

b. Bình luận tán đồng với nhận xét, sự đánh giá, bàn bạc của mình về một hiện tượng, vấn đề.
So sánh nhằm đối chiếu để chỉ ra những nét giống nhau hoặc khác nhau giữa chúng. Bác bỏ
gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác.

10. KIẾN THỨC VỀ BIỆN PHÁP TU TỪ:

- Tu từ về ngữ âm: điệp âm, điệp vần, điệp thanh, tạo âm hưởng và nhịp điệu cho câu,… Tác
dụng nhấn mạnh, làm nổi bật…
- Tu từ về từ: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, tương phản, chơi chữ, nói giảm, nói tránh,
nói quá,… tác dụng thể hiện, bộc lộ, tăng tính biểu cảm
- Tu từ về câu: Lặp cú pháp, liệt kê, chêm xen, câu hỏi tu từ, đảo ngữ, đối, im lặng,… Tác
dụng nhấn mạnh, làm nổi bật, thể hiện, bộc lộ, tăng tính biểu cảm …

11. THỂ THƠ:

- Lục bát và song thất lục bát

- Đường luật ( thất ngôn tứ tuyệt thất ngôn bát cú, thất ngôn luật, ngũ ngôn).

-Thơ tự do (số chữ trong mỗi câu thơ khác nhau)


- Thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, 6 chữ,….

I.BÀI PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN XUÔI

1. MỞ BÀI: Chọn các trích dẫn sau:


“Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp chính ở chỗ không ai ngờ, tìm cái đẹp kín đáo che lấp
của sự vật cho người khác một bài học về trông nhìn và thưởng thức”
(Thạch Lam)
Cùng giá trị ấy,.... (Tên tác giả) đã tìm thấy cái đẹp tại .... (ở đâu) ........(Tên tác phẩm) là
một tác phẩm tạo ấn tượng mạnh mẽ trong tôi bởi ........ (Đề bài)

II.THÂN BÀI:
ĐOẠN 1: TÁC GIẢ TÁC PHẨM
-Kiến thức về tác già, tác phẩm (Theo tài liệu)
-TÓM TẮT TÁC PHẨM:
Bắt đầu….. Kết thúc….

ĐOẠN 2: PHÂN TÍCH

(Theo yêu cầu đề bài, ý nghĩa câu văn, các biện pháp tu từ, các giá trị mà nhà văn gửi gắm)
ĐOẠN 3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
-Theo tài liệu
-Mở rộng vấn đề: liên hệ so sánh với các tác phẩm khác
III.KẾT BÀI:
“Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc.
Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những
vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người.”
(Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ – NXB GD, 2015
Tác phẩm….. đã giữ được vị trí của mình trong tim người đọc bởi thông diệp nhân sinh giá trị của
tác giả được bộc bạch qua từng câu chữ. Thời gian là thước đo và là câu trả lời chính xác nhất cho
giá trị tác phẩm này, hôm nay và mai sau!

II.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM THƠ

I.MỞ BÀI:
“Đọc một bài thơ nghĩa là ta gặp gỡ một tâm hồn con người”
(Anatôle France)
Một tâm hồn đa cảm, giàu yêu thương và rung động của nhà thơ…. (ghi tên tác giả) đã kết nhụy
đơm hoa để trở thành một điệu nhạc thiết tha qua thi phẩm (ghi tên tác phẩm). Bài thơ/ đoạn thơ
đã thể hiện…..(ghi đề bài) …..

II.THÂN BÀI:
1.ĐOẠN 1:Tác giả - Tác phẩm
(Học theo tài liệu)
2.ĐOẠN 2:
*PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 1: (Viết khổ thơ ra)
Khổ thơ viết về….. với những hình ảnh ……. thể hiện (nêu ý nghĩa từng hình ảnh)………
Câu thơ được khắc họa bởi biện pháp tu từ …… và các từ ngữ biểu cảm…. đã thể hiện được cảm
xúc và thái độ…… của tác giả.
*PHÂN TÍCH KHỔ THƠ 2: (Viết khổ thơ ra)
-Khổ thơ thứ 2 viết về….. với những hình ảnh ……. thể hiện (nêu ý nghĩa từng hình ảnh)………
Câu thơ được khắc họa bởi biện pháp tu từ …… và các từ ngữ biểu cảm…. đã thể hiện được cảm
xúc và thái độ…… của tác giả.
3.ĐOẠN 3: So sánh mở rộng và chốt nội dung, nghệ thuật.
(học theo tài liệu)

III. KẾT BÀI:


“Thơ là nhạc của tâm hồn. Nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm.” ( Voltaire )
Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, của tình cảm con người. Thơ lấy điểm tựa là sự bộc lộ thế giới nội
tâm, tình cảm của nhà thơ, thể hiện rung cảm sâu đậm của trái tim thi sĩ trước cuộc đời. Bài thơ…..
đã giữ được vị trí của mình trong tim người đọc bởi chính tâm hồn đa cảm của tác giả được bộc
bạch qua từng câu chữ. Thời gian là thước đo và là câu trả lời chính xác nhất cho giá trị tác phẩm
này, hôm nay và mai sau!

PHẦN 3. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC:

1.TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP


-Hồ Chí Minh-
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
- Hồ Chí Minh ( 19/5/1890 – 2/9/1969).
HCM là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là nhà hoạt động lỗi lạc
của phong trào quốc tế cộng sản. Ngoài sự nghiệp cách mạng, Người còn là một nhà văn, nhà
thơ lớn của dân tộc Việt Nam.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Cách mạng tháng
Tám thành công, ngày 26/8/1945 Chủ tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn
nhà 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo bản “ Tuyên ngôn độc lập”. Ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình Người đọc bản TNĐL khai sinh nước Việt Nam mới.
b. Đối tượng và mục đích sáng tác:
- Đối tượng: TNĐL không chỉ đọc trước toàn dân ta, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt
là với những lực lượng thù địch đang lăm le xâm lược nước ta.
- Mục đích: Tuyên bố trước nhân dân cả nước và thế giới về thắng lợi của cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của đất nước. Ý chí bảo vệ nền độc lập tự
chủ, bác bỏ luận điểm xảo trá của thực dân Pháp.
c. Giá trị của bản tuyên ngôn:
- Giá trị lịch sử: Là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến. Khẳng định chủ quyền
và vị thế bình đẳng của Việt Nam trên toàn thế giới. Là mốc son lịch sử mở ra một kỷ nguyên
độc lập, tự do.
- Giá trị văn học:
+ Về tư tưởng: Là một áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của
Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta.
+ Về nghệ thuật: Là một tác phẩm chính luận kiệt xuất: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng
chứng xác thực.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản TNĐL:
a.HCM nêu nguyên lý chung của bản tuyên ngôn: Đó là quyền bình đẳng, quyền sống tự
do,sung sướng, hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc.
Chân lý đó không ai “ chối cãi được”, vì nó đã rành rành ghi lại trong bản “ Tuyên ngôn độc
lập” năm 1776 của Mĩ và “ Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền” năm 1791 của Pháp. Đây
là những văn kiện lịch sử có tầm vóc toàn nhân loại, đã nêu cao quyền con người.
=>Khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, là nguyên lý thiêng liêng cao đẹp
của nhân loại.
* Về nghệ thuật: Cách trích dẫn dung đòn “ Gậy ông đập lưng ông” vừa khéo léo, mềm
mỏng, vừa cứng cỏi, kiên quyết. Khéo léo, mềm mỏng bởi vì HCM tỏ ra rất trân trọng những
tuyên bố bất hủ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp. Cứng cỏi, kiên quyết vì Bác muốn ngăn
chặn âm mưu xâm lược nước ta của Pháp và Mĩ. Nếu họ cố tình đi ngược lại chân lí đã được
khẳng định trong bản Tuyên ngôn, tức là họ đã phủ nhận chính tổ tiên mình, làm vấy bẩn lá cờ
nhân đạo đã từng là niềm tự hào của cha ông họ.
b. Đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Từ nguyên lí chung về quyền con người, HCM đã suy rộng ra về quyền sống, quyền tự
do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới.
=>Đóng góp quan trọng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nó là phát sung lệnh
mở đầu cho cơn bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập ở các nước
thuộc địa.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn, chúng ta đã thấy được cách lập luận chặt chẽ, cách dung
văn chương để đánh địch khéo léo, hiệu quả của HCM. Bên cạnh đó, đoạn văn còn cho thấy
niềm tự hào, kín đáo của Bác khi Người đặt ba bản tuyên ngôn, ba cuộc cách mạng ngang
hang nhau; trong đó cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện được hai nhiệm vụ mà
cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ đã làm: Độc lập dân tộc và tự do dân chủ.
Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Dân quyền và Nhân quyền là tư tưởng thời đại đi
đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn: “ Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại:
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và
bảo vệ.
Cách đặt vấn đề của Bác cũng rất hay, hùng hồn và trang nghiêm. Người không chỉ nói
với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ,
thế chiến thứ hai vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc
địa của thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2.Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân
dân ta:
a.Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp:
Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp: “ Lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái,
đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.
Nếu Pháp kể công khai hóa đối với Việt Nam, thì bản tuyên ngôn đã chỉ ra những tội ác
của chúng như: Năm tội ác về chính trị: Tước đoạt tự do, dân chủ. Luật pháp dã man, chia để
trị. Chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta. Ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu
dân. Đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện. Năm tội ác lớn về kinh tế: Bóc lột, tước đoạt.
Độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Sưu thuế nặng nề vô lí làm dân ta bần cùng.
Đè nén, khống chế các nhà tư sản của ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta. Gây ra thảm họa cho
hơn hai triệu đồng bào ta chết đói 1945.
Nếu Pháp kể công bảo hộ An Nam, thì bản Tuyên ngôn đã chỉ ra trong vòng năm năm
( 1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “ Bán nước ta hai lần cho Nhật”. Pháp
còn thẳng tay khủng bố Việt Minh: “ Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết
nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Qua đó, tố cáo bản chất đê hèn, khát máu
của thực dân Pháp, trái hẳn với chính sách khoan hồng, nhân đạo của Việt Minh.
b.Quá trình đấu tranh và giành độc lập của nhân dân ta:
Từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Nhân
dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng minh.
Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ, lập nên chế độ Dân
chủ Cộng hòa: “ Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn bị xóa bỏ. Trên nguyên tắc dân tộc bình
đẳng mà tin rằng các nước đồng minh: “ Quyết không thể không công nhận quyền độc lập của
nhân dân Việt Nam”, “ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm
nay, một dân tộc gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.”
Tóm lại đoạn văn là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế
và lịch sử của bản Tuyên ngôn, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
3.Lời tuyên bố với thế giới:
Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập ( cơ sở pháp lí ), và sự thật đã trở
thành một nước tự do, độc lập ( từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên ).
Nhân dân ta quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy ( được làm nên bằng xương máu
và long yêu nước ).
III. TỔNG KẾT:
“ Tuyên ngôn độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới về
việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của
nước Việt Nam mới. Tác phẩm là một áng văn chính luận mẫu mực, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ
đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn; Vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm
mưu tái chiếm nước ta của kẻ thù, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân, khát vọng độc
lập, tự do cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân tộc.

2.TÂY TIẾN
- Quang Dũng –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Quang Dũng ( 1921 – 1988 ) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một nhà thơ
mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Năm 2001 ông được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm tiêu biểu: Mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn mùa hoa gạo…
“ Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ
thuật của nhà thơ.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sang tác:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, với phần đông là thanh niên
Hà Nội, trong đó đa số là học sinh, sinh viên. Binh đoàn Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với
bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng
Lào, cũng như miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng,
hoàn cảnh chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến rất gian khổ. Tuy vậy, nhưng các chiến sĩ Tây
Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang dung là đại đội trưởng ở đó từ đầu
1947, đến cuối 1948 ông chuyển sang đơn vị khác. Khi nhà thơ về dự Đại hội toàn quân liên
khu III, tại làng Phù Lưu Chanh, Quang Dũng sáng tác bài thơ: “ Nhớ Tây Tiến”. Đến năm
1975 in lại tác giả đổi tên là “ Tây Tiến”, in trong tập “ Mây đầu ô”.
b. Ý nghĩa nhan đề:
Tây Tiến là tiến về phía Tây so với Hà Nội. Nhan đề Tây Tiến khiến cho bài thơ mang âm
hưởng của một khúc quân hành. Tên bài thơ trùng với tên binh đoàn, nên đọc lên tạo không
khí của một cuộc hành quân đầy dũng khí. Nhan đề còn là tiếng gọi thường trực trong lòng
những người lính Tây Tiến.
c. Chủ đề:
Bài thơ Tây Tiến miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc và nét đẹp hào
hoa, dũng cảm, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
e. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về
những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt là khi bài thơ khắc họa thành công hình
tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng: Lãng mạn là cái tôi tràn đầy
tình cảm, là sử dụng các yếu tố cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường. Thiên nhiên và
con người Tây Bắc thật huyền bí và thơ mộng. Ngoài ra chất lãng mạn còn là tinh thần xả thân
vì nước. Bi tráng là vừa đau thương, vừa hùng tráng. Tức là không hề che giấu sự thật đau
thương, nhưng bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1. Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang
sơ, hiểm trở ( Đoạn 1: 14 câu đầu ):
a.Hai câu đầu: Mở đầu bài thơ là lời thơ mang âm điệu da diết:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Câu cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ”, kết hợp với vần “ơi” đã gieo vào lòng người đọc
một sức gợi cảm to lớn. Bởi câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của một người không muốn rời xa nơi
mà mình đã từng gắn bó. Nỗi nhớ dâng trào bật thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi!”. Từ láy “Chơi
vơi” dung rất sáng tạo, đã hình tượng hóa, cụ thể hóa nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, bồng
bềnh, khắc khoải, tràn ngập cả không gian và thời gian. Nó như ám ảnh và hiện hữu trong tâm
hồn Quang Dũng.
b.Sáu câu tiếp theo là nỗi nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ:
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu rộng lớn và thời tiết khắc nghiệt:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả vận dụng bút pháp lãng mạn bằng cách tô đậm cái phi thường để diễn tả thiên
nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại. Trước hết tác giả liệt kê những vùng đất lạ “Sài Khao,
Mường Lát,Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu”. Đó là những vùng đất hẻo lánh, nằm ở phía
Tây biên giới Việt – Lào nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng hành quân.
Thời tiết Tây Bắc thật là khắc nghiệt, thể hiện ở cụm từ “sương lấp”. Sương lấp là sương
mù dày đặc, che lấp cả con đường hành quân, sương đêm gây ra nhiều bệnh tật làm cho người
chiến sĩ mỏi mệt “Đoàn quân mỏi”, đây là hình ảnh bi thương có thực, nhưng mà không bi
lụy, bi mà hào hùng, lãng mạn, bởi vì họ mệt mỏi nhưng họ vẫn trở về với chiến công lấp lánh
trong đêm sương và vòng hoa chiến thắng được dệt bằng sương đêm.
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu hiểm trở:
Với những con dốc:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Câu thơ thật là gân guốc với năm thanh trắc trong một dòng thơ bảy chữ, cộng với điệp từ
“dốc” và từ láy giàu giá trị tạo hình “ khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, nhằm diễn tả dốc lên thì
ghập ghềnh, quanh co, dốc xuống thì sâu thăm thẳm. Dù hành quân lên dốc hay xuống dốc thì
người chiến sĩ đều mệt và thở gấp như nhịp đọc của câu thơ.
Địa bàn chiến đấu hiểm trở bởi núi đèo:
“ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặt từ láy “heo hút” lên đầu câu. “ Heo hút cồn
mây” gợi sự cao vút, vắng vẻ của núi đèo. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây nổi thành
cồn gọi là “cồn mây”. Người chiến sĩ hành quân lên ngọn núi cao, họ tưởng chừng như đang
đi trong mây nên mũi súng chạm trời. Cuộc hành quân thật gian nan, lên đèo, xuống dốc
nhưng họ không hề có ý nghĩ bi quan, mà họ lại tỏ ra hào hùng, lãng mạn, thể hiện ở nghệ
thuật nhân hóa “ súng ngửi trời”. Điều này thể hiện sự hồn nhiên, tinh nghịch của người lính
trước độ cao thử thách của núi đèo:
“ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ như bẻ làm đôi: “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, với điệp từ “ngàn
thước” và đối lên/xuống nhằm diễn tả hai sườn núi cao, thẳng đứng như thách thức, như cản
trở con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Họ hành quân lên cao lại xuống thấp, đèo
nối đèo, dốc tiếp dốc, núi cao sừng sững thế mà khi lên đỉnh núi, họ lại thở phào nhẹ nhõm,
thể hiện ở câu thơ toàn là thanh bằng: “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, họ phóng tầm mắt
ra xa để ngắm nhìn mưa núi, thấp thoáng họ nhìn thấy một vài ngôi nhà sàn bồng bềnh trong
biển nước.
c.Sáu câu cuối là nỗi nhớ về sự hy sinh của đồng đội và cuộc sống bình dị,
ấm áptình người của người dân Tây Bắc:
Trong kí ức về Tây Tiến có hình ảnh đồng đội hi sinh gợi ấn tượng sâu sắc trên chặng
đường hành quân gian khổ:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hình ảnh bi thương, có thực “ Anh bạn dãi dầu không bước nữa”, bởi thiên nhiên Tây Bắc
thật là khắc nghiệt. Đó là thử thách đối với những chàng trai Hà Nội mới rời ghế nhà trường,
lên đường chiến đấu, với một lí tưởng cao đẹp. Cách gọi “anh bạn” nghe thật gần gũi, thân
thương và từ láy “dãi dầu” nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Cho nên trên đường
hành quân, họ mệt mỏi, kiệt sức, họ không thể bước được nữa, họ gục xuống trong tư thế đang
bước đi “ gục lên súng mũ”, họ hi sinh trong tư thế thật đẹp, thật hiên ngang. Cái chết của họ
là cái chết về thể xác, khởi đầu cho sự bất tử về tinh thần. Bằng nghệ thuật nói giảm, nói
tránh“ bỏ quên đời”, nhà thơ đã diễn tả được cái chết nhẹ nhàng, thầm lặng của người lính
trên chặng đường hành quân gian khổ. Đồng thời bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn về sự hi sinh
của đồng đội. Qua đó ngợi ca tinh thần chiến đấu can trường của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ
hi sinh trong tư thế không bỏ cuộc, chết mà “súng, mũ” vẫn bên mình.
Trong kí ức về Tây Tiến còn ghê rợn qua những âm thanh hung dữ:
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Từ láy chỉ thời gian “ chiều chiều, đêm đêm”, dùng để chỉ thời gian lặp lại, có tính chất
thường xuyên, liên tục. Khi màn đêm buông xuống thì núi rừng Tây Bắc có những âm thanh,
hoạt động rất dữ dội. Đó là âm thanh của thác, của cọp beo thể hiện ở từ “ gầm thét,
trêu”.Những âm thanh này tạo thêm uy lực cho núi rừng Tây Bắc. Phải chăng tác giả đã lấy
ngoại cảnh của núi rửng miền Tây đầy nguy hiểm, để tô đậm cái anh hùng của đoàn quân Tât
Tiến?
Nhớ Tây Tiến còn là nhớ về cuộc sống bình dị và ấm áp tình người của nhân dân Tây
Bắc. Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ thể hiện cảnh tượng thật đầm ấm:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Từ cảm thán “nhớ ôi” và các cụm từ “cơm lên khói, thơm nếp xôi” đã kết thúc đoạn thơ
giúp người đọc liên tưởng: sau bao ngày hành quân lội suối, vượt đèo, họ dừng chân bên một
bản làng và quây quần bên nồi cơm nghi ngút khói và thơm nếp xôi. Câu thơ còn thể hiện tình
quân dân cả nước.
*Sơ kết: Với những từ chỉ địa danh, những hình ảnh giàu chất tạo hình, những câu thơ nhiều
vần trắc, gối lên trên những câu thơ nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ. Đoạn thơ mở đầu đã
nêu được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về
những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt, đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tranh
thiên nhiên, núi rừng miền Tây, vừa hiểm trở, dữ dội, vừa hùng vĩ, thơ mộng. Xuất hiện trong
cảnh núi rừng hiểm trở là hình ảnh người lính Tây Tiến hiên ngang, luôn vững bước trên
đường hành quân. Hình ảnh đó như hòa vào rừng núi bí hiểm. Núi rừng càng hùng vĩ, đường
hành quân càng khắc nghiệt, thì càng tôn lên chất hào hùng, ý chí kiên cường, tinh thần lạc
quan của người chiến sĩ Tây Tiến.
2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
Bắc thơ mộng ( Đoạn 2 – 8 câu tiếp theo):
a. Bốn câu đầu thể hiện nỗi nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Sau bao ngày hành quân vất vả, đoàn quân dừng lại ở một địa phương người Lào. Họ
tham dự một đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương. Những cụm từ: “ Bừng lên,
kìa em, khèn lên, nhạc về”, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng của người lính Tây
Tiến trong đêm văn nghệ bởi vì có đuốc hoa ( Đuốc hoa là một loại đuốc trong đêm tân hôn),
bởi vì nhân vật trung tâm của đêm văn nghệ là những cô gái nơi miền núi rừng bất ngờ hiện ra
với bộ trang phục truyền thống đẹp “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, đã làm rung động trái tim
người chiến sĩ bởi sự thẹn thùng, tình tứ trong cử chỉ của những cô gái miền sơn cước:“Nàng
e ấp” và trong vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ “man điệu”. Tuy say sưa trong tiếng nhạc,
điệu múa, nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng liêng của mình là tiến về phía trước,
phối hợp với nước bạn Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào được thể hiện ở câu thơ “ Nhạc về
Viên Chăn xây hồn thơ”. Đây là phát hiện độc đáo của Quang Dũng về người lính xuất thân từ
tầng lớp tri thức. Họ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn so với người lính xuất than từ tầng lớp
nông dân.
b. Bốn câu sau nhớ cảnh chia tay trên nền sông nước miền Tây Bắc thơ mộng:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ “ có thấy, có nhớ”, nhằm tái hiện lại giờ phút chia tay bên
dòng sông. Cảnh và người miền Tây Bắc đang hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ. Thời gian
chia tay là vào buổi chiều, không gian của dòng sông là một màu trắng của “chiều sương ấy”,
hai bên bờ sông hoang vắng như thời tiền sử, chỉ phất phơ, xào xạc trong gió những “hồn
lau”. Nổi bật trên dòng sông là sự mềm mại, uyển chuyển của các cô gái trên chiếc thuyền độc
mộc với những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên cùng dòng nước lũ. Đoạn thơ giàu chất
thơ, chất nhạc, chất họa.
*Sơ kết:Ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, làm hiển hiện trước
mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cái hồn của cảnh vật. Đoạn thơ chỉ tám
câu nhưng chất thơ và chất nhạc, chất họa hòa quyện với nhau đến mức mà khó tách biệt.
Thiên nhiên và con người có sự sóng đôi tạo nên hình ảnh thơ giàu chất trữ tình. Bút pháp
lãng mạn, tài hoa của tác giả đã khắc họa nên bức tranh đặc sắc về cảnh và người miền Tây
Bắc. Qua đó, ta thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.
3. Chân dung của người lính Tây Tiến ( Đoạn 3 – 8 câu tiếp theo):
Tác giả đã lựa chọn những nét có thực, tiêu biểu của người lính Tây Tiến. Đó là bi mà
không lụy, bi mà rất hào hùng, hào hùng mà không xơ cứng, hào hùng mà vô cùng lãng mạn.
Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài bi tráng về hình ảnh đoàn quân Tây Tiến bằng ngòi bút
lãng mạn, được điểm tô bằng tinh thần xả thân vì nước.
a. Hai câu thơ đầu miêu tả ngoại hình của người lính Tây Tiến:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, khi viết về người lính, thường nói đến căn bệnh sốt
rét hiểm nghèo. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, sự thật nghiệt ngã ấy được thể hiện bằng hình
ảnh “không mọc tóc”.Từ đó, người đọc liên tưởng đến người lính bị sốt rét rừng rụng tóc, trọc
đầu. Nhưng cũng có thể là hình ảnh của anh vệ quốc trọc đầu trong buổi đầu kháng chiến, vì
họ phải cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà với giặc. Hình ảnh “quân xanh
màu lá” giúp người đọc liên tưởng đến nước da xanh xao vì đói khát, bệnh tật, hay cũng có
thể là màu xanh của lá ngụy trang để che mắt quân thù. Hai hình ảnh trên dù hiểu theo nghĩa
nào thì tác giả vẫn khẳng định họ “dữ oai hùm”. Người lính vẫn giữ được sự oai phong của hổ
nơi rừng thiêng, nước độc Tây Bắc, hình ảnh bi mà rất hào hùng.
b.Hai câu thơ tiếp theo nói về tâm hồn của người lính Tây Tiến:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Nét oai hùng của đoàn quân Tây Tiến được thể hiện ở hình ảnh hoán dụ “mắt trừng”. Mắt
trừng là ánh mắt giận dữ khi nhìn kẻ thù. Ngoài ra mắt trừng còn chỉ tư thế gìn giữ biên cương
và tinh thần trách nhiệm cao và họ nuôi giấc mộng tiêu diệt quân thù “ gửi mộng qua biên
giới”. Người chiến sĩ Tây Tiến, đêm đêm vẫn mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”. “Dáng
kiều thơm” gợi vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, thanh lịch của người thiếu nữ Hà Thành. Quang
Dũng đã diễn tả một cách chân thực mà tinh tế tâm trạng của những người chiến sĩ xuất thân
từ tầng lớp tri thức Hà Nội. Nếu họ xuất thân từ tầng lớp nông dân thì họ nhớ giếng nước, gốc
đa ( “Đồng chí” của Chính Hữu).
c. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính
Tây Tiến:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Bi thương là nét có thực khi nhớ về Tây Tiến. Nhưng nét bi ấy đã được tác giả nâng lên
thành nét hùng. Hình ảnh “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” là trên đường hành quân, người
chiến sĩ nhìn thấy những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo.
Nhưng đó là cái chết bất tử cho Tổ quốc trường tồn, nên được thể hiện bằng hàng loạt từ Hán
Việt trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường”. Mặt khác người chiến sĩ không hề
chùn bước khi thấy đồng đội của mình hi sinh. Bởi cái chết đối với họ nhẹ tựa lông hồng “
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ nguyện đem tuổi thanh xuân mình hiến dâng cho
Tổ quốc. Qua đó, ta có thể thấy bức tượng đài về những người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực,
oai phong đến lạ thường.
d. Hai câu cuối: Đoạn thơ khép lại với hình ảnh về sự hi sinh của người
lính Tây Tiếnhùng tráng, mang màu sắc cổ điển:
“ Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sự thật bi thảm “ Áo bào thay chiếu anh về đất”, hình ảnh này giúp người đọc liên tưởng
đến người chiến sĩ Tây Tiến hy sinh trong manh chiếu che thân. Nhưng qua cái nhìn của
Quang Dũng, họ lại được khoác “áo bào”. Bởi Quang Dũng muốn tư thế ngã xuống của người
chiến sĩ hào hùng như những chiến binh năm xưa, nhằm ca ngợi sự hi sinh cao đẹp của họ.
Biện pháp tu từ nói giảm “anh về đất”, nhằm để chỉ cái chết của người chiến sĩ thật là thanh
thản vì họ đã hoàn thành nhiệm vụ đối với Tổ quốc. Nghệ thuật nhân hóa “ Sông Mã gầm lên
khúc độc hành”, nhằm diễn tả dòng sông như đồng cảm, nghiêng mình tấu lên khúc nhạc
hoành tráng “khúc độc hành” để tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ về với đất mẹ. Câu thơ giàu
chất sử thi nhằm ca ngợi sự hi sinh của người chiến sĩ, đồng thời cũng lí giải vì sao khi nhớ về
Tây Tiến thì cảm xúc đầu tiên của tác giả là nhớ về con sông Mã bằng tiếng gọi thân thương
“sông Mã xa rồi”. Trong cái tiếng gầm của sông Mã, còn có cả tiếng khóc cố nén sự tiếc
thương vô hạn đối với những người con trung hiếu, dũng cảm, kiên cường của Tổ quốc đã mãi
mãi ra đi. Đó là sự hi sinh thấm đẫm tinh thần bi tráng.
*Sơ kết: Hình tượng người lính trong đoạn thơ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, sử
thi. Với giọng điệu trang trọng, cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Qua đó, đã khắc họa nên bức
tượng đài về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa. Đồng thời
thể hiện thái độ trân trọng, kính cẩn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ trước sự hi sinh
thầm lặng, nhưng anh dũng của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ nói riêng, cũng như toàn bài
thơ nói chung, đã góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca viết về hình tượng người lính
trong văn học Việt Nam. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng:
phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
4. Lời thề của người lính Tây Tiến ( Đoạn 4 – 4 câu cuối):
“ Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Câu thơ khẳng định “Tây Tiến người đi không hẹn ước”, nhằm khẳng định tinh thần một
đi không trở lại, nếu không lập được chiến công. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn khắc họa
hình ảnh ra đi của người lính không xác định thời gian trở về. Cả loạt từ: “ thăm thẳm, không
hẹn ước, chia phôi” thể hiện cuộc trường chinh nhiều gian khổ, mất mát,hi sinh. Tuy vậy,
nhưng người lính ra đi với quyết tâm dứt khoát sống chết cùng đồng đội và gắn bó với miền
Tây Bắc. Lời thề này đã thấm sâu vào trong tư tưởng và tình cảm của đoàn quân.
“ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Câu thơ khẳng định “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” là lời thề sống đánh giặc, chết
cũng đánh giặc. Câu thơ này có sự tương đồng với câu thơ: “ Sống đánh giặc, thác cũng đánh
giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”, trong “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
Hai câu kết vang lên khỏe khoắn như một lời thề sắt son với Tổ quốc. Qua đó, ta thấy lý tưởng
của họ cao cả biết bao.
III. TỔNG KẾT:
Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng lãng
mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến
trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây
Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng, không chỉ gợi lên niềm tự hào về tuổi trẻ Việt
Nam anh hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà nó sẽ còn có sức
hấp dẫn lâu dài đối với người đọc bởi lí tưởng sống cao cả, sẵn sang xả thân vì Tổ quốc.
3.TÁC PHẨM “VIỆT BẮC”
( Trích )
I.GIỚI THIỆU:
Phong cách thơ Tố Hữu:
-Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang đậm tính chất trữ tình – chính trị:
+Hồn thơ luôn hướng đến cái ta chung, với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con
người cách mạng của cả dân tộc.
+Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi: Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử - dân tộc. Nổi bật
trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Những tư tưởng, tình cảm và vấn đề lớn lao,
được nhà thơ thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình, tự nhiên, đằm thắm.
-Về nghệ thuật: Thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc: Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng ngôn
ngữ, cách nói dân gian và phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.
1.Hoàn cảnh sáng tác:
Việt Bắc trong những năm kháng chiến là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách mạng. Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, miền
Bắc được giải phóng. Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi về miền
xuôi, trung ương Đảng và Chính Phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy, Tố Hữu
sáng tác bài thơ này và được in trong tập “Việt Bắc”. Bài thơ gồm hai phần: Đoạn trích sách
giáo khoa thuộc phần đầu –Tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến.
2.Chủ đề:
Qua việc tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng, nhà thơ ca ngợi tình
nghĩa sâu nặng, thủy chung của người Việt Bắc đối với cách mạng. Từ đó bài thơ vẽ ra viễn
cảnh tươi đẹp của đất nước hòa bình trong mối tình gắn bó thủy chung của miền xuôi – miền
ngược và lòng biết ơn sâu nặng đối với Đảng, với Bác Hồ của nhân dân ta.
3.Thể loại, kết cấu:
- Thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, phù hợp với khung cảnh chia tay.
- Kết cấu theo lối hát đối đáp giao duyên, nhằm diễn đạt tâm tình người đi – kẻ ở.
- Cặp đại từ nhân xưng “mình-ta”, trong ca dao dùng để thể hiện tình yêu đôi lứa. Còn trong
“Việt Bắc” nhằm để thể hiện sự gần gũi, thân mật, gắn bó không thể tách rời, giữa cán bộ cách
mạng và nhân dân Việt Bắc.
- Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là sự lưu luyến, nhớ nhung, được thể hiện ở điệp từ “nhớ” và
các từ ngữ thể hiện tâm trạng của tình yêu như “thiết tha, mặn nồng, bâng khuâng”…, làm cho
chuyện tình nghĩa của cách mạng đến với lòng người thật nhẹ nhàng, êm ái.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Tâm tình buổi chia tay ( khổ 1 và khổ 2 – 8 câu đầu):
a.Lời người ở lại (Khổ 1):
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Ở đoạn thơ này “mình” là cán bộ cách mạng, “ta” là nhân dân Việt Bắc. Bằng hàng loạt
câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”?, “mình có nhớ không”?, vang lên một cách day dứt, chứng tỏ
người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, nên lên tiếng trước để ướm hỏi người cán bộ
cách mạng, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội có còn nhớ Việt Bắc chăng?
Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ thời gian mười lăm năm, thời gian ấy mang âm
hưởng ca dao và nghệ thuật trong truyện Kiều, cùng với từ láy “thiết tha”, gợi cho người đọc
liên tưởng đây là thời gian riêng của tình yêu đôi lứa. Nhưng đó lại chính là thời gian cách
mạng từ 1940 khởi nghĩa Bắc Sơn, đến 1954 hòa bình lập lại. Đây là khoảng thời gian nhân
dân Việt Bắc và cán bộ Việt Minh gắn bó máu thịt để cùng nhau kháng chiến chống thực dân
Pháp và phát xít Nhật.
Người ở lại nhắc nhở người ra đi, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội hãy nhớ không gian Việt
Bắc. Đó là một vùng căn cứ địa cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh liên tưởng “ Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”, đây còn là cách nói hồn nhiên, chân thật của người miền núi,
nhằm nhắc người cán bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây Hà Nội nhớ núi rừng Việt Bắc,
nhìn sông ở Hà Nội nhớ suối nguồn Việt Bắc. Ngoài ra “cây, núi, sông, nguồn” là những hình
ảnh thiên nhiên có thực, nhưng gợi ra quy luật của tình cảm là dù ở đâu cũng cần hướng về cội
nguồn cách mạng “ Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”.
b. Nhớ cảnh chia tay ( khổ 2):
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ phiếm chỉ “ai” và từ láy “tha thiết” đã níu chân người ra đi, cho thấy người cán bộ
cách mạng trong giờ phút chia li lòng bị níu lại, bởi họ cảm nhận được tiếng nói ân tình của
người Việt Bắc gửi gắm trong lời nhắn nhủ thân mật, thiết tha. Tình cảm này đã làm cho
người cán bộ Việt Minh ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau, được thể hiện
qua hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn”. Tâm trạng “bâng khuâng trong dạ” cho thấy
người ra đi bịn rịn không muốn rời xa cảnh và người Việt Bắc, nhưng trong lòng lại “bồn
chồn bước đi”, họ muốn nhanh chóng trở về Hà Nội, vì ở đó còn có rất nhiều công việc đang
chờ đón họ.
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” ( áo nhuộm bằng củ chàm có màu xanh đen), nhằm để chỉ
nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xuôi. Đây là hình ảnh mà người ra
đi luôn mang theo, là động lực để họ tiếp tục sự nghiệp cách mạng của mình, bởi áo chàm đã
trao cho họ một tình cảm chân thành, mộc mạc.
Hình ảnh “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” phản ánh đúng tâm trạng của buổi chia
tay, họ không nói được gì vì nghẹn ngào, hay có nhiều điều để nói mà ngôn ngữ không đủ sức
diễn tả cho nên họ không nói gì, họ chỉ cầm tay nhau cũng chính là lúc họ hiểu nhau nhiều
nhất. Ngoài ra dấu chấm lửng ở cuối câu thơ còn là khoảng không im lặng, nghẹn ngào trong
cảm xúc.
*Sơ kết:Hai khổ đầu của bài thơ, đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc động, với những lời tâm
tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được trong đó tình yêu
thương tha thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Qua đó, nhà thơ diễn tả nỗi xúc
động, sự lưu luyến, tình cảm thắm thiết của đồng bào Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến.
Kết cấu đối đáp, cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình-ta, vừa diễn đạt được cảm xúc, vừa
tạo tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Tố Hữu đã diễn đạt vấn đề chính trị bằng một hình thức
nghệ thuật trữ tình, nên gây được sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.
2.Người ở lại nhắc người ra đi về những năm tháng kháng chiến gian khổ
( khổ 3- 12 câu tiếp theo):
a. Kỉ niệm những ngày đầu kháng chiến gian khổ, nhưng đầy ân tình
( 4 câu đầu):
Hình thức lặp “mình đi, mình về, có nhớ” đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ tràn
đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai tiếng “mình đi,
mình về” được luân phiên chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc
một đi xa dần
“ Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
Hình ảnh ẩn dụ “mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù”, kết hợp với cặp từ chỉ sự
tăng cấp “những, cùng” vừa để miêu tả thời tiết ở Tây Bắc thật khắc nghiệt, vừa để hàm chỉ
những gian khổ, thử thách mà cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phải trải qua trong
những năm tháng kháng chiến.
“ Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai.”
Chi tiết có thực “miếng cơm chấm muối”, nhằm phản ánh cuộc sống kháng chiến thiếu
thốn, gian khổ về vật chất, nhưng tinh thần của họ luôn lạc quan. Bởi người cán bộ cách mạng
và nhân dân Việt Bắc có chung một lí tưởng, một mối thù. Cách nói “mối thù nặng vai”, nhằm
cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp, đang đè nặng lên đôi vai của dân tộc ta.
b. Người dân Việt Bắc thể hiện tình nghĩa gắn bó, sâu nặng đối với người cán bộ cách
mạng ( 4 câu giữa):
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”.
Nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, lấy nỗi buồn của rừng núi, để thổ lộ thầm kín nỗi
buồn của người dân Việt Bắc khi chia tay người cán bộ cách mạng. Họ buồn đến nỗi không
còn tha thiết trong lao động “ Trám bùi để rụng măng mai để già”, trám bùi và măng mai là
nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc, nay cán bộ cách
mạng về xuôi thì họ hái tram, bẻ măng để làm gì? Câu thơ gợi nỗi buồn trống vắng trong lòng
người ở lại.
“ Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
Cụm từ “những nhà” ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “hắt hiu lau xám” gợi khung
cảnh hoang vu của núi rừng, mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống nghèo khó. Nghệ thuật
tiểu đối trong câu thơ “ Hắt hiu lau xám><Đậm đà lòng son”, chứa đựng sự tương phản giữa
cuộc sống nghèo khổ về vật chất, nhưng người dân Việt Bắc với phẩm chất cao đẹp, luôn ân
tình thủy chung với cách mạng.
c. Người ở lại nhắn nhủ người ra đi luôn nhớ cội nguồn cách mạng ( 4 câu cuối):
“ Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”.
Điệp từ “nhớ” và hình ảnh liệt kê “ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”, nhằm nhắc nhở
người cán bộ cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn cách mạng: Nhớ địa điểm thành lập quân đội
đầu tiên của cách mạng đó là cây đa Tân Trào, nhớ mái đình Hồng Thái là nơi hội họp quốc
dân lần đầu, khai sinh ra chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Câu thơ “
Mình đi mình có nhớ mình” cũng là lời nhắc nhở người ra đi khi trở về thành thị, nhớ đừng
thay lòng đổi dạ. Hãy luôn là chính mình, hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm
nghĩa tình.
*Sơ kết: Mười hai câu thơ tạo thành sáu câu hỏi. Mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da diết,
những kỉ niệm không thể nào quên của những ngày đầu cách mạng đầy gian khổ, khó khăn,
nhưng quân dân một lòng cùng nhau đánh giặc. Điệp ngữ “mình đi, mình về” và cấu trúc đối
đã diễn tả tình cảm sâu đậm, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với cách mạng.
3.Người ra đi khẳng định tình cảm sắt son của mình ( Khổ 4 và khổ 5 – 10 câu tiếp theo):
a.Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lòng sắt son chung thủy của mình đối với
Việt Bắc (Khổ 4 - 4 câu đầu):
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
Cách ngắt nhịp 3/3 “ta với mình/ mình với ta” làm cho người đọc cảm nhận, ta với mình
tuy hai mà một, gắn bó không thể tách rời. Cấu trúc so sánh và tăng tiến “lòng ta sau trước
mặn mà đinh ninh” nhằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc bao la và sâu
nặng.
Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”, không còn là câu hỏi mà là một lời tâm tình, tự
nhủ. Nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ về cuộc sống của chính bản thân mình. Cách so sánh đặc
biệt “bao nhiêu, bấy nhiêu”, nhằm để cụ thể hóa tình cảm sâu nặng của cán bộ cách mạng
dành cho nhân dân Việt Bắc. Đặc biệt câu thơ “mình đi mình lại nhớ mình”, thể hiện sự sáng
tạo của nhà thơ Tố Hữu khi vận dụng cặp đại từ nhân xưng “mình, ta”. Câu thơ có ba từ
“mình”, hai từ “mình” đầu được dùng để chỉ cán bộ cách mạng, từ “mình” thứ ba dùng để chỉ
nhân dân Việt Bắc. Câu thơ như khẳng định, người cán bộ cách mạng không bao giờ quên
chính mình trong những ngày khó khăn, gian khổ nhưng đậm nghĩa tình với Việt Bắc.
b. Nỗi nhớ về thiên nhiên và cuộc sống của người Việt Bắc (Khổ 5 - 6 câu sau):
“ Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Qua hồi tưởng của người cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp,
vừa hiện thực, lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt không nơi nào có được. Nỗi nhớ Việt
Bắc được tác giả so sánh “ Nhớ gì như nhớ người yêu”, bởi nỗi nhớ Việt Bắc tựa nỗi nhớ
người yêu, nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian và thời gian. Nhớ ánh
nắng ban chiều, nhớ ánh trăng buổi tối, nhớ bản làng mờ trong sương sớm, nhớ bếp lửa hồng
trong đêm khuya lạnh, nhớ núi rừng, sông suối mang những tên quen thuộc, được thể hiện
bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Điệp ngữ “nhớ từng” làm cho
nỗi nhớ thêm da diết, vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc nên thơ sẽ còn đọng mãi trong
kí ức người ra đi.
*Sơ kết: Đoạn thơ chỉ là một mảng nhỏ trong hồi tưởng của nhà thơ về những kỉ niệm không
thể quên, với cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống của Việt Bắc. Tuy nhiên, đó là những kỉ niệm
da diết và sâu đậm luôn thường trực trong nỗi nhớ của tác giả.
4.Nỗi nhớ về cảnh sinh hoạt ở Việt Bắc ( Khổ 6 – 12 câu tiếp theo):
“ Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày gần gũi
“mình đây ta đó”, cùng chia sẻ “đắng,cay,ngọt,bùi”. Có những ngày lũ rừng về xối xả, mưa
rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trôi, địch phục kích sau lung…Những đêm bị sốt rét rừng hành
hạ, được các mế, các chị chăm sóc…thấm thía vô cùng tình quân dân keo sơn gắn bó.
Hàng loạt tính từ “đắng, cay, ngọt, bùi” nhằm thể hiện những khó khăn tột cùng, nhưng
nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng, được thể hiện
qua những động từ “chia, sẻ, đắp cùng”. Trong kháng chiến chống Pháp họ thiếu thốn về vật
chất, nhưng họ đã vượt qua được, nhờ họ thương yêu, đùm bọc nhau: chia từng củ sắn, sẻ bát
cơm cho nhau, đắp chăn bằng vỏ cây sui cùng nhau để chống cái lạnh vùng cao…
“ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, giúp người
đọc cảm nhận, người dân Việt Bắc lao động làm ra của cải vật chất thật khó nhọc, thế mà họ
vẫn sẵn sang nuôi dưỡng cách mạng.
“ Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Điệp ngữ “nhớ sao” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác giả càng lúc
càng day dứt: Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm vui trong đêm liên hoan,
nhớ tinh thần lạc quan, yêu đời của quân dân Việt Bắc, đặc biệt tác giả nhớ âm thanh đặc
trưng của núi rừng Việt Bắc đó là tiếng mõ, tiếng chày.
*Sơ kết: Đoạn thơ cho ta thấy hình ảnh người cán bộ cách mạng nhớ phong cảnh quê hương
cách mạng, con người Việt Bắc và những sinh hoạt đời thường của quân dân Việt Bắc. Qua
nỗi nhớ, nhà thơ gợi lên một Việt Bắc thi vị, hài hòa. Đồng thời, nhắc lại một thời ở Việt Bắc
gian khổ mà ấm áp nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan. Âm hưởng trữ tình vang vọng, đã
tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình quân dân, tình yêu đất nước, yêu đời.
5.Nỗi nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc ( Khổ 7 – 10 câu tiếp theo):
Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, nhưng tiêu
biểu nhất và đẹp nhất là bức tranh tứ bình của Việt Bắc qua bốn mùa được thể hiện trong đoạn
thơ.
a. Hai câu đầu nêu cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ đó là nỗi nhớ về Việt Bắc:
“ Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Ở đoạn thơ này có sự thay đổi đại từ nhân xưng: “Ta” là người cán bộ cách mạng, “Mình” là
nhân dân Việt Bắc. Tác giả sử dụng hai lần cụm từ “ta về” vào cùng một thời điểm chia tay,
nhưng “ta về” ở câu lục là để hỏi người Việt Bắc, còn “ta về” ở câu bát là để giãi bày lòng
mình. Câu thơ “ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, từ “cùng” trong “hoa cùng người”,
nhằm khẳng định thiên nhiên và con người Việt Bắc có mối quan hệ khăng khít với nhau. Qua
đó, ta thấy hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện trong nỗi nhớ của người cán
bộ cách mạng về xuôi.
b. Tám câu sau bức tranh tứ bình Việt Bắc:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Ở đoạn thơ này, cảnh và người Việt Bắc hiện lên rất đẹp, rất trữ tình, thơ mộng trong nỗi
nhớ của người đi xa. Bốn cặp câu lục bát có kết cấu đan xen độc đáo: Câu lục nói đến thiên
nhiên, câu bát nói đến con người. Nói đến hoa như thể hiện tình người, nói đến người lại lấp
lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh tứ
bình Việt Bắc.
Cảnh mùa đông không tàn lụi, lạnh lẽo mà sống động, ấm áp. Giữa rừng xanh bạt ngàn tha
thiết, lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng ấm áp tình yêu:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Theo trình tự thời gian xuân, hạ, thu rồi đến đông. Nhưng ở đoạn thơ này tác giả đi theo trình
tự đông, xuân, hạ, thu. Bởi vì, bài thơ được sáng tác vào tháng mười, tức là vào mùa đông nên
mùa đông được nhắc đến trước. bức tranh mùa đông ở Việt Bắc là một không gian xanh thẳm,
bạt ngàn của núi rừng, được điểm tô màu đỏ tươi của hoa chuối. Phải chăng màu đỏ của hoa
chuối làm cho mùa đông bớt lạnh? Bên cạnh bức tranh mùa đông là nét đẹp khỏe khoắn của
con người Việt Bắc với hình ảnh “ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Hình ảnh hoán dụ
“dao gài thắt lưng”, lấy con dao đi rừng – vật bất li thân của người dân miền núi, để vẻ nên nét
đẹp đặc trưng của con người Việt Bắc, họ hùng vĩ, kiêu hãnh, thách thức trước cái lạnh của
núi rừng, trước độ cao của đèo. Giữa “ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, đã nổi bật lên hình ảnh
người lao động miền núi chăm chỉ làm việc “ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Cảnh mùa xuân cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân), là sự chuyển màu trong
bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ
khi mùa xuân đến:
“ Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bức tranh mùa xuân bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ, thời gian ở đây được chỉ rất rõ
“ngày xuân” với gam màu trắng là gam màu đặc trưng. Câu thơ đem lại cho người đọc cảm
nhận không khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên Việt Bắc giàu sức
sống. Giữa sự tinh khiết của màu trắng hoa mơ là hình ảnh người đan nón chuốt từng sợi
giang. Động từ “chuốt” gợi sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó trong lao động của người dân
Việt Bắc. Họ kết từng sợi nhớ sợi thương trong công việc đan nón tỉ mẫn hàng ngày. Trong
sắc xuân của thiên nhiên, đất trời, con người chính là chủ nhân của bức tranh xuân, đang tô
điểm cho sắc xuân bằng tình yêu lao động.
Cảnh mùa hè được chuyển sang gam màu vàng của “rừng phách” – Một loại cây phổ biến ở
rừng núi Việt Bắc:
“ Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh mùa hạ buộc người đọc phải cảm nhận bằng cả thính giác và thị giác. Tiếng ve
kêu báo hiệu hè về, những ngày xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn kín
kẽ trong lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông,
cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đặc biệt động từ “đổ’, trong “rừng phách đổ vàng” giúp
người đọc liên tưởng trong phút chốc màu vàng nhuộm cả rừng phách. Nổi bật trên nền bức
tranh màu vàng là hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”. Cách gọi trìu mến “cô em gái” và
động từ “hái” trong “hái măng”, hái chứ không phải là bẻ hay chặt, thể hiện sự mềm mại,
thành thạo trong lao động của cô gái Việt Bắc.
Cảnh mùa thu khép lại bức tranh với đêm trăng trữ tình, bình yên và huyền ảo:
“ Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bức tranh thu thật êm đềm, thơ mộng và thanh bình biết bao bởi không gian về đêm, trăng
hiện trong đêm thu, dưới rừng thu để chuyển tải một tình thu. Đó là tình yêu hòa bình “trăng
rọi hòa bình”. Đặc biệt điểm vào bức tranh mùa thu huyền ảo ấy là tiếng thu – Tiếng hát sắt
son, thủy chung, ân tình của người dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Thể thơ lục bát và cách diễn đạt bằng lời đối đáp của kẻ ở với người đi bằng cặp đại
từ nhân xưng “mình, ta”, khiến cho tình cảm trong bài thơ được thể hiện một cách vừa kín
đáo, tinh tế, vừa đậm đà ý vị dân tộc. Đoạn thơ giàu màu sắc hội họa, từ ngữ giàu giá trị tạo
hình đã vẽ nên bức tranh đầy màu sắc về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc. Cảnh và
người hòa quyện thắm thiết, tô điểm cho nhau, tạo nên nét riêng biệt của mảnh đất Việt Bắc
mà không có vùng quê nào có được. Qua đó, thể hiện tình yêu, sự gắn bó sâu nặng, nỗi nhớ
của cán bộ cách mạng đối với miền đất Việt Bắc ân nghĩa, thủy chung. Đây là một trong
những đoạn thơ hay nhất trong bài thơ, đồng thời cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu:
Đậm đà tính dân tộc.
6.Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu ( Khổ 8 –10 câu tiếp theo):
“ Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
Động từ “lùng” trong “giặc lùng”, và điệp từ “giặc”, nhằm nhấn mạnh tội ác của thực dân
Pháp, đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, chúng lùng sục để giết dân lành và triệt tiêu phong
trào cách mạng. Từ “cùng” trong “ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, cho thấy thiên nhiên
Việt Bắc cũng góp phần cùng bộ đội ta kháng chiến chống Pháp. Thực dân Pháp càng điên
cuồng, tàn bạo bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc, thiên nhiên Việt Bắc, càng thể hiện tinh thần
đoàn kết bấy nhiêu. Họ tạo ra những địa hình hiểm trở để che giấu cán bộ cách mạng và gây
khó khăn cho thực dân Pháp.
“ Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
Hàng loạt hình ảnh nhân hóa “núi giăng thành lũy, rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”,
cho thấy thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý nghĩa của cuộc kháng chiến
chống Pháp là nhằm đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế cuộc kháng chiến chống Pháp
là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa, nên thiên nhiên Việt Bắc tạo nên một địa hình hiểm trở để
che chở cán bộ cách mạng và vây hãm quân thù. Đoạn thơ còn gợi lại sự kiện quan trọng là
quân và dân ta đã chiến thắng giặc Pháp trận Thu Đông 1947, đập tan âm mưu của Pháp dự
định đánh chiếm vào chiến khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng.
Ngoài ra hình ảnh “núi rừng” còn tượng trưng cho sự đông đảo của từng lớp người Việt Nam
tham gia cách mạng đông như rừng, ý chí vững chắc như núi.
“ Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”.
Hình ảnh “ Mênh mông bốn mặt sương mù”, chỉ thời tiết Việt Bắc thật là khắc nghiệt, trời
đầy sương mù. Sương mù dày đặc đã góp phần che mắt quân thù, cản trở tầm nhìn và con
đường tiến công của giặc. Ngoài ra cặp từ ngữ đối “mênh mông đất trời – chiến khu một
lòng”, nhằm nhấn mạnh sự đoàn kết trong chiến đấu của quân và dân ta, giữa thiên nhiên và
con người Việt Bắc.
“ Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà…”
Câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ không?”, điệp từ “nhớ” và đại từ phiếm chỉ “ai”, cùng hàng
loạt hình ảnh liệt kê về địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng…nhằm nhắc nhở
người ra đi và người ở lại, hãy nhớ đến những địa danh lịch sử, nơi ấy đã xảy ra những trận
đánh lớn giữa ta và địch, quân dân ta đã giành những chiến thắng vẻ vang.
*Sơ kết: Với thể thơ lục bát, âm điệu sâu lắng, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, vận dụng thành
công các biện pháp tu từ như nhân hóa, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ… Đoạn thơ đã bộc lộ nỗi
nhớ, niềm tự hào của người cán bộ cách mạng về một Việt Bắc anh dũng, kiên cường.
7.Tinh thần chiến đấu và khí thế ra trận của quân dân Việt Bắc ( Khổ 9 –
12 câu tiếp theo):
“ Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.
Từ láy hoàn toàn chỉ thời gian “đêm đêm”, nhằm chỉ thời gian liên tục, đêm này sang đêm
khác, không ngừng nghỉ, thường xuyên. Hình ảnh so sánh “ Những đường Việt Bắc của ta,
đêm đêm rầm rập như là đất rung”, nhằm nhấn mạnh khí thế ra trận hùng dũng, rung trời, lở
đất của quân dân ta, bởi cuộc kháng chiến của dân tộc ta là cuộc kháng chiến chính nghĩa, với
mục đích đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc, nên đã tập hợp được
các tầng lớp sĩ, nông, công, thương. Những tầng lớp này đại biểu cho sức mạnh, cho tư tưởng
và khát vọng giành độc lập của dân tộc Việt Nam.
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Những từ, cụm từ chỉ số lượng đông đảo “điệp điệp, trùng trùng, từng đoàn, muôn tàn lửa
bay”, nhằm thể hiện sức mạnh, khí thế của quân dân Việt Bắc. Sức mạnh được chỉ ra rất cụ thể
gồm “quân” và “dân công” ( Bộ đội và nhân dân Việt Bắc) từng đoàn người ra trận, đoàn quân
này tiếp nối đoàn quân kia, liên tục không ngừng nghỉ.
Con đường Việt Bắc về đêm, không chỉ tấp nập bởi bộ đội, dân công, mà còn rực rỡ bởi
ánh sáng, ánh sáng của niềm tin, hi vọng, được thể hiện ở hàng loạt từ ngữ “ánh sao đầu súng,
đỏ đuốc, đèn pha bật sáng” (ánh sáng sao đêm, ánh sáng đuốc, và ánh sáng của đèn pha xe vận
tải quân sự). Hình ảnh ẩn dụ “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, nhằm để chỉ cuộc sống tối
tăm, nô lệ của nhân dân ta dưới chế độ thực dân phong kiến. Hình ảnh “bước chân nát đá”, lấy
từ thành ngữ “chân cứng đá mềm”, nhằm thể hiện ý chí quyết tâm, vượt qua gian khổ, hi sinh
để giành thắng lợi của quân dân Việt Bắc.
“ Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh “Hòa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, An Khê, Việt
Bắc, đèo De, núi Hồng” và điệp từ “vui” nhằm nhấn mạnh tâm trạng sung sướng của quân dân
ta vì đã chiến thắng giặc Pháp với những chiến dịch lớn. Đặc biệt ở đoạn thơ này, nhịp thơ dồn
dập, tạo nên khí thế hùng dũng của quân dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Với bút pháp lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu,
với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những
âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Đoạn thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ
sử thi hiện đại. Qua đó, thể hiện hào khí ngất trời của quân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Pháp. Đồng thời, tác giả ca ngợi Việt Bắc, ca ngợi cuộc kháng chiến chống Pháp oanh
liệt, hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta.
8.Vai trò của Việt Bắc và Bác Hồ ( Khổ 10 và khổ 11 – 16 câu còn lại):
“ Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc việc công”
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ không?”, cùng với đại từ phiếm chỉ
“ai” (chỉ người cán bộ cách mạng), khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội thì hãy nhớ những kỉ niệm
ở hang Việt Bắc – Thủ đô kháng chiến, nơi ấy những phiên họp của chính phủ được diễn ra,
cuộc họp “luận bàn việc công” – những công việc to lớn, quan trọng của đất nước. Cuộc họp
đầy tinh thần lạc quan của những người cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh “ngọn cờ đỏ
thắm, rực rỡ sao vàng”.
“ Điều quân chiến dịch Thu – đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Đoạn thơ liệt kê hàng loạt những công việc của cán bộ cách mạng “điều quân, giao thông
mở đường, giữ đê, phòng hạn, thu lương, gửi dao miền ngược, thêm trường các khu”. Nghĩa là
cách mạng ta vừa phải đánh giặc thắng lợi “ Điều quân chiến dịch Thu – đông”, vừa phải phát
triển kinh tế đảm bảo lương thực cho hậu phương và tiền tuyến “ Giữ đê, phòng hạn, thu
lương”, bên cạnh đó còn phải chăm lo phát triển văn hóa “ thêm trường các khu”. Nghĩa là
cách mạng đang thực hiện chủ trương “chống thù trong giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt”.
“ Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”.
Điệp ngữ “ở đâu” nhằm để nhấn mạnh nhân dân cả nước đang hướng về cách mạng. Động
từ “nhìn lên, trông về” dùng để chỉ hành động tuyệt đối tin tưởng của nhân dân đối với cách
mạng. Hình ảnh Bác Hồ hiện lên trong lòng nhân dân – Bác vừa là một vị lãnh tụ, vừa là
người cha, người bác, người anh, với trái tim vĩ đại đủ sức xóa tan sự u ám, đau đớn cho giống
loài Việt Nam.
“ Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cụm từ chỉ thời gian “mười lăm năm ấy”, nhằm để chỉ thời gian gắn bó ân tình, sâu nặng
giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu thơ khẳng định “ai quên, dựng nên
Cộng hòa”, nhằm khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt của người ra đi đối với Việt Bắc.
Bởi vì Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, nơi ấy nuôi dưỡng Đảng và Bác Hồ trong những
ngày kháng chiến gian khổ, để giành thắng lợi, lập nên chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
*Sơ kết:Đoạn thơ khẳng định Việt Bắc là căn cứ địa, chiến khu của kháng chiến, là cơ quan
đầu não của kháng chiến. Hình ảnh Bác Hồ được ngợi ca với một niềm tin yêu, thành kính:
Bác là ánh sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam.
III.TỔNG KẾT:
“ Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến
và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân
gian. Tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi mãi và phát huy
truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của cách mạng, của con người
Việt Nam.

4.ĐẤT NƯỚC
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)
- Nguyễn Khoa Điềm –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế. Ông thuộc thế hệ nhà trẻ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi cảm xúc nồng
nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về non sông, đất nước và con người Việt Nam.
2.Hoàn cảnh sáng tác:
Đất nước trích phần đầu, chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Trường ca
“Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Bình Trị Thiên 1971, in lần đầu
1974 với nội dung thức tỉnh tuổi trẻ thành thị, vùng địch tạm chiếm miền Nam, có ý thức về
đất nước và sứ mệnh của thế hệ mình mà đấu tranh chống đế quốc Mĩ.
3.Chủ đề:
Bài thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước – đất nước là sự hội tụ, kết tinh công sức và
khát vọng của nhân dân. Qua đó vẻ đẹp của đất nước được tác giả phát hiện có chiều sâu, trên
nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí và văn hóa.
4.Đặc điểm nổi bật:
a.Về nội dung:
Tác giả hòa quyện giữa lí trí và tình cảm, giữa trí tuệ và cảm xúc khi nói về đất nước. Tác
giả tìm về truyền thống để thấy rõ bản chất con người và dân tộc Việt Nam. Ông không nhìn
đất nước qua dáng vẻ bề ngoài mà hướng vào bên trong tâm hồn. Đất nước xuất hiện gần gũi,
thiêng liêng.
b.Về nghệ thuật:
Giọng thơ trữ tình – chính luận. Thể thơ tự do, giàu nhạc điệu. Từ “ Đất Nước” là danh từ
chung nhưng được viết hoa như danh từ riêng, nhằm thể hiện thái độ thành kính của tác giả.
Vận dụng thành công, sáng tạo nhiều yếu tố văn học dân gian.
5.Khái quát chung về bài thơ:
Tác giả mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với người con gái mà mình yêu thương. Đó
là nhân vật “em”, cùng với những dòng thơ tự do, giàu nhạc điệu để giúp người đọc có điều
kiện suy ngẫm về đất nước. Đặc biệt, toàn bài thơ được bao bọc bởi không khí văn hóa dân
gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hóa dân gian
như ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục tập quán và văn hóa sinh hoạt
trong đời sống hàng ngày của nhân dân. Những chất liệu này đã tạo nên một thế giới nghệ
thuật vừa gần gũi thân quen, vừa kì diệu: Đó là sức mạnh gợi lên hồn thiêng sông núi.

II.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1. Đất Nước là những gì gần gũi thân quen trong cuộc sống hàng ngày ( 9 câu đầu):
Đất Nước có từ lâu đời và gần gũi, gắn bó thân thương đối với mỗi con người:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Cả một quá trình bốn ngàn năm lịch sử của đất nước được tác giả thể hiện ở hàng loạt cấu trúc
thơ: “Đất Nước đã có rồi, Đất Nước bắt đầu, Đất Nước có từ ngày ấy”, nhằm thể hiện cả một
chiều dài đất nước sinh ra, lớn lên, trưởng thành và trường tồn cho đến ngày hôm nay. Câu
khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, lời khẳng định rất tự nhiên, thể hiện sự hình
thành lâu đời và bền vững của đất nước ta.
Đất nước hình thành và phát triển từ những phong tục tập quán, văn hóa ngàn đời của dân
tộc:
“ Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”
Đất nước có từ nền văn hóa dân gian ông cha ta để lại. Đất nước gắn liền với những câu
chuyện cổ tích mà thuở ấu thơ ai cũng từng đôi lần nghe bà, nghe mẹ kể. Những câu chuyện
cổ tích ấy, thường bắt đầu bằng cụm từ không xác định thời gian “ngày xửa ngày xưa”.
“ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đất nước gắn liền với phong tục tập quán riêng của dân tộc Việt Nam. Đất nước là hình
ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Hình ảnh miếng trầu gợi cho ta nhiều liên tưởng. Trong giao
tiếp của người Việt xưa, miếng trầu là đầu câu chuyện. Miếng trầu còn gợi đến sự tích trầu
cau, sự tích này đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em. Miếng trầu còn gợi nhớ phong
tục cưới xin của người Việt.
“ Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đất nước còn là thuần phong mĩ tục quen thuộc của người Việt qua hình ảnh “tóc mẹ bới sau
đầu”. Điều đáng tự hào là từ thuở dựng nước cho đến nay, nước ta thường xuyên có giặc ngoại
xâm. Giặc ngoại xâm luôn nuôi ý đồ đồng hóa dân tộc ta về ngôn ngữ, về văn hóa, thế mà
thuần phong đẹp “tóc mẹ thì bới sau đầu” lại không bao giờ bị đồng hóa.
Đất nước ta từ xa xưa luôn có truyền thống đánh giặc ngoại xâm “giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh”, điều này được thể hiện qua câu thơ:
“ Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc.
Câu thơ gợi nhớ đến bốn ngàn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm. Nó còn gắn liền với truyền
thuyết Thánh Gióng và ghi lại giai đoạn dân tộc ta thông minh, sáng tạo biết chống giặc ngoại
xâm bằng vũ khí làm từ tre: gậy tre, đuốc tre, chông tre…Ngoài ra, tre còn gần gũi với đời
sống thường ngày của người Việt Nam: đũa tre, giường tre, rổ tre…
Đất nước còn bắt nguồn từ những đạo lý tốt đẹp:
“ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Đất nước gắn liền với những đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là tình cảm vợ chồng, càng gian
lao khổ ải thì càng phải sắt son, chung thủy, được thể hiện qua thành ngữ “gừng cay muối
mặn”. Thành ngữ này gợi nhớ đến bài ca dao:
“ Tay bưng chén muối dĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.
Đất nước gắn liền với việc hình thành nên ngôn ngữ:
“ Cái kèo, cái cột thành tên”
Ngôn ngữ được hình thành từ những vật gần gũi, quen thuộc “cái kèo, cái cột”. Cụm từ
“cái kèo, cái cột” là tên gọi những vật dùng để làm nhà – những ngôi nhà tre, nhà lá mà cha
ông ta dùng để che mưa, che nắng.
Đất nước ta có truyền thống cần cù lam lũ:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Đất nước là truyền thống cần cù, lam lũ trong sản xuất. Đất nước gắn liền với hạt gạo vì
gạo là lương thực chính của người Việt. Nhưng hạt gạo lại được sản xuất theo quy trình rất
Việt Nam, được thể hiện ở hàng loạt động từ “xay, giã, dần, sàng” và thành ngữ “một nắng hai
sương”, chỉ hạt gạo được làm ra bởi bàn tay cần cù, tần tảo của nhân dân. Bàn tay ấy làm nên
sự sống cho đất nước.
*Sơ kết: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hóa dân gian, với hình thức thơ trữ
tình – chính luận. Chữ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại nhiều lần như một điệp khúc vừa
thể hiện ý nghĩa cao cả, thiêng liêng của đất nước, vừa thể hiện tình cảm yêu quý, trân trọng
đất nước. Từ đó, khắc sâu hình ảnh đất nước vào tâm trí người đọc. Đất nước không là những
khái niệm trừu tượng, mà đất nước là những gì gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng
ngày.
2.Cảm nhận đất nước qua phương diện thời gian – lịch sử, không gian – địa lí và văn hóa
phong tục ( Câu 10 – 29 ):
Trong những năm tháng Mĩ – Ngụy chiếm đóng, các đô thị miền Nam chịu ảnh hưởng
nặng nề về tư tưởng, văn hóa nô dịch và phản động, thì việc nhận thức lại khái niệm đất nước
là vô cùng cần thiết. Khi nói về đất nước, tác giả không giải thích, cắt nghĩa chung chung, mà
dùng cách phân hợp khái niệm nhiều lần: “ Đất Nước là…, Đất là…, Nước là…” để làm rõ đất
nước được tạo bởi hai yếu tố “Đất” và “Nước”.
Sáu câu đầu, đất nước là không gian địa lí.
Không gian địa lí hẹp:
“ Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Đất nước là những không gian thân quen, gần gũi, gắn bó với cuộc sống mỗi người. Đất
nước chính là con đường anh đến trường, là cái ao em tắm. Đất nước còn là nơi gieo mầm hạt
giống tình yêu, là nơi mang nỗi tương tư của người con gái “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”. Câu thơ gợi ta liên tưởng đến nỗi nhớ người yêu trong bài ca dao:
“ Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Không gian địa lí rộng:
“ Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất là núi, sông, rừng, biển, khái niệm này thật là quen thuộc. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm
rất độc đáo trong việc sử dụng hình ảnh “con chim phượng hoàng, con cá ngư ông”. Hình ảnh
này nhắc ta nhớ đến câu chuyện cổ tích “ hai anh em và cây khế” có con chim phượng hoàng
ăn khế trả vàng. Câu thơ này còn gợi nhớ đến câu hò Bình Trị Thiên:
“ Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài biển khơi”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo, thay cụm từ “bay ngang hòn núi bạc” thành “bay
về hòn núi bạc”, “móng nước ngoài biển khơi” thành “móng nước biển khơi” để người đọc dễ
dàng cảm nhận niềm tự hào, gắn bó với núi sông hùng vĩ của đất nước.
Bảy câu tiếp theo, đất nước là thời gian lịch sử:
“Thời gian đằng đẳng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Cụm từ chỉ thời gian không xác định “thời gian đằng đẳng”, nhưng người Việt ai cũng
hiểu đó là chiều dài lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt. Chiều dài lịch sử này đã trải qua
biết bao thăng trầm trước nạn ngoại xâm. Đi suốt chiều dài của “thời gian đằng đẳng, không
gian mênh mông”, ta sẽ hiểu rằng đất nước là báu vật, tổ ấm của nòi giống tiên rồng. Truyền
thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” là bản khai sinh vinh quang cho nguồn gốc dân tộc Việt.
Dải đất này là đất lành nên “chim về”, đất thiêng nên “rồng ở”, sự kết hợp vĩ đại của rồng tiên
đã khai sinh ra dân tộc Việt. Từ đó đến nay đất nước vẫn che chở và nuôi dưỡng biết bao thế
hệ rồng tiên, đất nước là ngôi nhà chung của người Việt “đất là nơi dân mình đoàn tụ”.
Bảy câu tiếp theo, trách nhiệm của người Việt đối với đất nước:
“ Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước là sự sinh tồn của bao cộng đồng người Việt, trải qua nhiều thế hệ, được thể hiện ở
cặp kết cấu cú pháp “ Những ai đã khuất – Những ai bây giờ”. Vì vậy, mỗi người đều phải có
trách nhiệm bảo tồn nòi giống bằng cách yêu nhau và sinh con đẻ cái. Ngoài ra còn phải có
trách nhiệm, nhắc nhở con cháu hướng về cội nguồn, Tổ tiên với lòng thành kính thể hiện ở
cụm từ “cúi đầu” trong câu thơ “cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Câu thơ này gợi đến bài
ca dao:
“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”.
*Sơ kết: Đoạn thơ sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian: ca dao, dân ca, truyện cổ tích…
tạo chiều sâu, định nghĩa sâu sắc và hoàn chỉnh về đất nước, thể hiện sự gắn bó của mỗi con
người đối với đất nước. Đất nước được cảm nhận trên nhiều phương diện: Từ chiều dài của
lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, đến chiều sâu của văn hóa dân tộc. Đặc biệt, đất
nước được cảm nhận trong sự thống nhất, hài hòa giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và
cộng đồng, giữa thế hệ này và thế hệ khác nối tiếp nhau…Đó là cách cảm nhận mới mẻ của
Nguyễn Khoa Điềm về đất nước bằng quan niệm của tuổi trẻ, vừa riêng biệt, vừa hết sức độc
đáo.
3.Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đất nước là mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng ( Câu 30 – 42 ):
“ Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Câu khẳng định “Trong anh và em hôm nay, đều có một phần Đất Nước”, nhằm khẳng
định, đất nước không phải là khái niệm xa lạ, mà ở ngay trong máu thịt của ta. Bởi mỗi người
Việt Nam sinh ra đều được hưởng một phần di sản vật chất, tinh thần của đất nước: Ăn hạt gạo
quê hương, lớn lên bằng lời ru yêu thương của bà, của mẹ cũng là của dân tộc, bập bẹ nói
ngôn ngữ Việt…Nên phải có trách nhiệm giữ gìn và truyền lại cho thế hệ sau.
“ Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Cấu trúc song hành “ Khi hai đứa cầm tay – Khi chúng ta cầm tay mọi người” và hàng
loạt tính từ “hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn” để chỉ mối quan hệ giữa cá nhân và cộng
đồng, giữa cái riêng và cái chung. Cụm từ “khi hai đứa cầm tay” thể hiện tình yêu đôi lứa, tình
yêu đôi lứa mang đậm dáng dấp quê hương nên “hài hòa nồng thắm”, là cội nguồn để chúng ta
“cầm tay mọi người”. Khi ấy mối quan hệ giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước sẽ làm
nên sức mạnh đoàn kết dân tộc trong bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
“ Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Hình ảnh ẩn dụ “tháng ngày mơ mộng” nhằm chỉ một tương lai sáng ngời của đất nước
mà thế hệ cha ông hằng mơ ước về thế hệ con cháu mai sau “mai này con ta lớn lên” sẽ đưa
đất nước vươn lên tầm cao mới. Ước mơ này của cha ông là lời nhắn nhủ về trách nhiệm, bổn
phận của người Việt và phải luôn tin tưởng vào thế hệ mai sau.
“ Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Cách gọi thân thương “em ơi em” và câu khẳng định “Đất Nước là máu xương của mình”,
nhằm khẳng định để có đất nước hôm nay, ông cha ta phải đổ biết bao xương máu để giữ gìn
và bảo vệ. Điệp ngữ “phải biết”, cùng với các động từ “gắn bó, san sẻ, hóa thân”, nhằm chỉ ra
trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam đối với đất nước. “Gắn bó” là biết đồng cam cộng
khổ với nhân dân, đứng về phía nhân dân chống lại kẻ thù. Cố gắng vươn lên từ trong gian
khó, cống hiến hết sức lực, tài năng để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước. “San sẻ” là biết
chia sẻ ngọt bùi, biết sống tình nghĩa “lá lành đùm lá rách”, yêu thương giúp đỡ mọi người lúc
khó khăn. Sẵn sàng chia sẻ một phần đời sống vật chất và tinh thần khi Tổ quốc cần. Từ “hóa
thân” ở đây có thể hiểu là sự hi sinh của mỗi con người để làm nên hình hài, dáng vẻ, sự
trường tồn vĩnh cửu của đất nước.
*Sơ kết: Với phong cách thơ trữ tình – chính luận, lời thơ ngọt ngào, tha thiết. Đoạn thơ thể
hiện những suy nghĩ, cảm nhận sâu sắc về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả đã nhìn
thấy mối quan hệ khăng khít giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và tương lai. Từ đó khơi
gợi trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đoạn thơ không là những lời giáo lí khô khan
mà là những lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau “em ơi em” và hình ảnh “khi hai đứa cầm tay”.
Lời tâm tình này làm lay động hàng triệu trái tim độc giả.
4.Tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra và do nhân dân cảm thụ ( Câu
43- câu 89):
a.Nhân dân là người làm ra danh lam thắng cảnh ( Câu 43 – Câu 54):
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Theo cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước chính là những danh lam thắng
cảnh đẹp, kì thú, được tác giả liệt kê: hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên…
Những danh lam thắng cảnh này, không chỉ là tặng vật của thiên nhiên, mà còn phản ánh đời
sống của nhân dân và được cảm thụ bằng chính tâm hồn, tình cảm của họ.
Nếu không có những người vợ Việt Nam mòn mỏi chờ chồng đến hóa đá thì làm sao có
núi Vọng Phu
“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”
Vậy đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu
thịt của nhân dân. Tác giả đã quy nạp hàng loạt những danh lam thắng cảnh, để đưa đến một
kết luận: Mỗi danh lam thắng cảnh đều mang “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông
cha”. “Một dáng hình” phải chăng đó là dáng hiên ngang của ông cha ta không chịu khuất
phục bất cứ kẻ thù nào? “Một ao ước” của ông cha ta, phải chăng là một ao ước về cuộc sống
bình yên, ấm no, hạnh phúc? “Một lối sống” phải chăng là lối sống cần cù, giản dị, thật thà và
thủy chung, tình nghĩa?
*Sơ kết: Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hiện tượng cụ thể, đến khái quát manh
tính triết lí sâu sắc. Dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh, đồng
thời cũng là nét đẹp văn hóa của dân tộc nên đã khẳng định: Trên không gian địa lí đất nước,
mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa, được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao
tâm hồn con người Việt Nam.
b.Nhân dân đã làm nên tiến trình lịch sử bốn ngàn năm của đất nước ( Câu 55 – câu 72):
“ Em em ơi
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
“ Em em ơi” cách xưng hô thân thương, trìu mến và giọng điệu tâm tình như lời nhắc nhở
thế hệ trẻ ngày nay “hãy nhìn rất xa, vào bốn nghìn năm Đất Nước”. Câu thơ hàm nghĩa, thế
hệ trẻ Việt Nam hãy nhìn vào quá khứ, lịch sử bằng cách lật những trang sử vàng của đất nước
với niềm say mê, tự hào.
“ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng”
Khi Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở thanh niên hãy nhìn về quá khứ lịch sử bốn ngàn năm,
tác giả không nhắc đến những triều đại hùng mạnh như Lý, Trần, Lê…với những người anh
hùng nổi tiếng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…mà chỉ muốn nhấn mạnh đến
vai trò của nhân dân – những người bình thường trong xã hội, bằng câu so sánh “con gái, con
trai bằng tuổi chúng ta”. Bởi lẽ trong giai đoạn đất nước hòa bình, họ quanh năm suốt tháng
“năm tháng nào”, họ cũng cần mẫn, chịu thương, chịu khó lao động trên mặt trận sản xuất, để
làm ra của cải làm giàu cho bản thân và đất nước, được thể hiện ở cụm động từ “cần cù làm
lụng”.
“ Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Cụm từ “khi có giặc” để chỉ đất nước trong thời chiến. Khi đất nước có ngoại xâm, nhân
dân tự giác phân công trách nhiệm gánh vác một cách hợp lí “người con trai ra trận, người con
gái trở về nuôi cái cùng con”. Câu thơ thể hiện khi Tổ quốc lâm nguy, người con trai phải
gánh trách nhiệm bảo vệ đất nước, còn người phụ nữ đảm trách vai trò hậu phương: nuôi con
và sản xuất lương thực.
“ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Câu khẳng định “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” nhằm nhấn mạnh khi Tổ quốc
lâm nguy thì người phụ nữ cũng tham gia giết giặc một cách dũng cảm, kiên cường, mưu trí.
Điệp từ “nhiều”, “anh hùng” trong câu thơ “nhiều người trở thành anh hùng, nhiều anh hùng
cả anh và em đều nhớ” đã khẳng định những người phụ nữ bình thường, quanh năm đầu tắt
mặt tối lo ruộng đồng, nhưng khi Tổ quốc gọi họ đã dũng cảm cầm vũ khí giết giặc và đã trở
thành những người anh hùng của đất nước như bà Trưng, bà Triệu, Lê Chân, Võ Thị Sáu…
“ Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”
Câu hỏi tu từ “nhưng em biết không” và cặp từ đối “sống – chết”, như một lời tự bạch đầy
tự hào về quan niệm sống chết của người Việt “chết vinh còn hơn sống nhục”. Vì vậy cuộc
sống đối với họ thật giản dị, áo nâu chân đất “gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”, “canh rau
muống cà dầm tương”, nhưng là cuộc sống do chính bàn tay cần cù lao động của họ làm ra với
tình yêu quê hương đất nước. Khi Tổ quốc lâm nguy, họ không chấp nhận cuộc sống nô lệ,
nên họ tình nguyện cầm vũ khí đánh giặc, nếu phải hi sinh họ cũng xem đó là chuyện bình
thường “bình tâm”.
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Cấu trúc câu phủ định mà ý khẳng định “ Không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng họ đã làm ra
Đất Nước”, cho thấy tác giả đề cao sự hi sinh thầm lặng của nhân dân, họ là những chiến sĩ
bình dị, vô danh trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Họ tuy không để lại tên
tuổi, nhưng chính họ là những người làm ra bốn ngàn năm lịch sử của đất nước.
“ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”
Điệp từ “họ” kết hợp với phép liệt kê, hình thức lặp cấu trúc cùng các động từ “giữ,
chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ”, nhằm nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Trong quá trình
sinh sống, các thế hệ bằng sự cần cù, lòng yêu nước đã tạo ra, gìn giữ và truyền lại cho thế hệ
sau những giá trị vật chất (hạt lúa, cách tạo lửa, giữ lửa bằng than, con cúi, đắp đập, be bờ…),
cùng các giá trị tinh thần (ngôn ngữ, tên xã, tên làng…). Những điều ấy, đã góp phần bảo tồn
văn hóa dân tộc và để lại cho thế hệ sau truyền thống chống giặc ngoại xâm, nội thù để bảo
toàn bờ cõi, được thể hiện qua động từ “vùng lên”, trong lối điệp cấu trúc “có ngoại xâm thì
chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại”, để cuối cùng nhà thơ đi đến sự khẳng
định đầy tự hào “để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.
*Sơ kết: Tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, vừa cụ thể, gần gũi với
đời sống, vừa có ý nghĩa khái quát, giàu sức suy tư. Bằng giọng thơ trữ tình – chính luận sâu
lắng, thiết tha. Đoạn thơ là bức tượng đài kì vĩ khẳng định, ca ngợi vai trò chủ thể của nhân
dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Từ đó góp phần làm nỗi bật tư tưởng chủ đạo
của đoạn trích: Đất nước là của nhân dân.
c.Nhân dân là người làm ra kho tàng văn học dân gian ( Câu 80 – câu 89):
“ Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Câu thơ gồm hai vế song song “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”,
nhằm đưa người đọc về với cội nguồn văn hóa dân gian.
“ Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Cả một kho tàng văn hóa dân gian, nhưng tác giả chỉ chọn ba câu, nhằm thể hiện ba phương
diện quan trọng nhất trong truyền thống của người Việt Nam: Người Việt nam say đắm trong
tình yêu được thể hiện ở câu thơ: “ Yêu em từ thuở trong nôi”. Câu thơ này gợi nhớ đến bài ca
dao:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
Người Việt Nam quý trọng tình nghĩa, xem nhẹ vật chất được thể hiện ở câu thơ: “ Biết
quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ này gợi nhớ đến bài ca dao:
“ Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Người Việt Nam quyết liệt trong căm thù và chiến đấu được thể hiện ở câu thơ: “ Biết
trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu”, được tác giả lấy ý từ bài ca dao:
“ Thù ấy ắt hẳn đợi lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh quàng”
*Sơ kết: Đoạn thơ có sự đan dệt của những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, vô vàn phong
tục tập quán một cách sáng tạo. Điều có ý nghĩa nhất là chất liệu này được nhà thơ tái sinh
bằng cảm xúc mảnh liệt của người nghệ sĩ am hiểu và vô cùng yêu quý, trân trọng kho tang
văn hóa, văn học do chính nhân dân tạo nên. Tất cả cảm xúc được thể hiện trong nguồn ánh
sáng mới của tư tưởng: Quần chúng nhân dân làm nên lịch sử, văn hóa của đất nước.

III.TỔNG KẾT:
Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát
hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa…Đóng góp riêng của đoạn trích
là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư,
qua giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Các chất liệu văn hóa dân gian được sử
dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
5.SÓNG
- Xuân Quỳnh –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Xuân Quỳnh (1942 – 1988), quê ở Hà Tây. Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ
tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của
một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn
da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Các tác phẩm chính như: “Hoa dọc
chiến hào”, “Gió lào cát trắng”, “Tự hát”…Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sáng tác:
“Sóng” được sáng tác năm 1967 trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình) và được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968)
b.Chủ đề:
Bài thơ cho thấy trái tim người phụ nữ đang yêu soi mình vào sóng để thấy lòng mình, nhờ
sóng mang tâm trạng của mình đến với đại dương, cuộc đời và biển lớn tình yêu.
c.Ý nghĩa nhan đề:
- Nghĩa thực: Sóng là hiện tượng tự nhiên của biển cả.
- Nghĩa liên tưởng: Sóng là hình ảnh ẩn dụ gợi ra nhiều liên tưởng: Sự phong phú trong tâm
hồn người con gái đang yêu. Sóng là sự hóa thân của nhân vật “em”. Nhân vật “em” soi mình
vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng thể hiện tâm trạng yêu của mình.
3.Cảm nhận khái quát:
a.Nét đẹp của hình tượng sóng:
Sóng là gương mặt, là nhịp thở, là mạch đập con tim của biển cả. Sóng hiền hòa dịu êm,
nhưng cũng có lúc phong ba dữ dội. Sóng cứ vỗ vào bờ triền miên như nỗi nhớ tình yêu không
bao giờ tắt. Xuân Quỳnh đã tìm thấy ở sóng một ý nghĩa ẩn dụ cho tình yêu mãnh liệt. Hay nói
khác đi Xuân Quỳnh đã lấy sóng biển để biểu lộ sóng tình của người con gái đang yêu.
b.Hình tượng sóng được lặp lại nhiều lần trong bài:
Toàn bộ bài thơ, sóng được lặp đi lặp lại nhiều lần, với những vị trí khác nhau: đầu, giữa,
hay cuối câu, với mục đích tái hiện những vẻ đẹp khác nhau, những trạng thái khác nhau của
sóng và những đối cực của nó: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, ngày xưa – ngày sau, dưới
lòng sâu – trên mặt nước…Sóng được soi chiếu ở nhiều góc độ làm cho nó mang vẻ đẹp
phong phú, đa dạng, vừa thực lại vừa ảo. Cùng song song, tồn tại với hình tượng sóng là “em”,
hai hình tượng này soi rọi vào nhau trong biển lớn của tình yêu. Vì vậy, thật khó phân biệt đâu
là trăn trở của sóng, đâu là nhịp đập trái tim của em.

III.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1. Đặc tính của sóng cũng là của người con gái đang yêu ( Khổ 1 và khổ 2):
“ Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Xuân Quỳnh đã khám phá ra hai mặt đối lập nhau của sóng và khéo léo liên kết những
mặt đối lập ấy bằng hai từ “và”, cùng bốn tính từ liên tiếp “dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ”, làm
cho câu thơ trở nên gợi hình. Sóng ngoài đại dương rất dữ dội, cuồng phong, nhưng khi hôn
lên bờ cát trắng thì thật dịu êm. Sóng ngoài đại dương thật ồn ào, nhưng khi vỗ vào bờ thật
lặng lẽ. Vậy sóng mang hai trạng thái trái ngược nhau: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”.
Trạng thái đối lập của sóng cũng như muôn hình vạn trạng của thiên nhiên đất trời: ngày –
đêm, buồn – vui, sống – chết… Từ đó, giúp ta liên tưởng đến quy luật của tình yêu, tình yêu là
sự dung hòa của những sắc thái tình cảm, tưởng chừng như đối lập nhưng lại rất thống nhất
( buồn mà vui, giận mà thương, xa mà gần…). Tính khí của người con gái khi yêu cũng giống
như sóng, như quy luật của tình yêu thôi. Nó mang nhiều trạng thái đối lập nhau. Vì vậy, theo
nhà thơ, muốn hiểu được tình yêu của người thiếu nữ, người con trai cần phải vượt qua vẻ bên
ngoài thất thường, nông nỗi của người con gái (vui đó rồi buồn đó) thì sẽ khám phá được cái
dịu êm, lặng lẽ bí ẩn của người con gái.
“ Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Câu thơ mang hình ảnh nhân hóa “sông không hiểu nổi mình” cho nên “sóng tìm ra tận
bể”, như một lời khẳng định: Sóng ở sông không thể là sóng lớn, muốn biết sóng lớn như thế
nào thì sóng phải ra biển. Cũng giống như người con gái, khi trái tim đã biết đập “những nhịp
đập không bình thường”, họ thường khát khao vượt qua cái giới hạn chật chội của gia đình để
đi tìm “nữa kia” của đời mình. Hai tâm hồn tìm đến nhau, yêu nhau để hiểu nhau nhiều hơn và
cũng là để hiểu mình hơn. Bởi vì, ta chỉ hiểu được giá trị đích thực của mình trong mắt người
yêu ta. Đây là quan niệm mới của Xuân Quỳnh: yêu là tự nhận thức và vươn tới cái cao cả là
quy luật của tự nhiên và quy luật của cuộc sống. Xuân Quỳnh đã thể hiện khát vọng cháy bỏng
của tình yêu nói chung và của người phụ nữ nói riêng.
“ Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Cụm từ đối lập chỉ thời gian vĩnh hằng “ngày xưa – ngày sau” được kết nối với từ “và” cùng
từ khẳng định “vẫn thế”, nhằm kết nối thời gian, kết nối lịch sử tồn tại của sóng, cũng là lịch
sử tình yêu của loài người. Sóng mãi mãi trường tồn với thời gian, cũng như con người “nỗi
khát vọng tình yêu” là nỗi khát vọng của tôi, của anh, của bạn, của cả thế giới loài người, ai
cũng đều có khát vọng yêu và được yêu. Nhưng nỗi khát vọng ấy rõ nét nhất, mãnh liệt nhất là
ở tuổi trẻ “bồi hồi trong ngực trẻ”. Từ đó, ta hiểu rằng, tình yêu là điểm sáng để con người
hang say sống, chiến đấu, lao động và học tập.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” là một hình tượng ẩn dụ độc đáo, dùng để chỉ tâm hồn người phụ
nữ đang yêu. Hình tượng sóng được gợi ra từ âm điệu dạt dào, nhịp nhàng của bài thơ. Thể thơ
năm chữ, với kết cấu trùng điệp và cách ngắt nhịp linh hoạt, đã tạo nên nhịp điệu của những
con sóng biển có lúc dạt dào, dữ dội, có lúc sâu lắng, dịu êm, đã diễn tả được những trạng thái
tinh tế của tình yêu. Đoạn thơ thể hiện khát vọng tình yêu nồng nàn, mãnh liệt. Đồng thời, thể
hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.
2.Nghĩ về sóng và cội nguồn của tình yêu đôi lứa ( Khổ 3 và khổ 4):
a.Khát khao tự tìm hiểu, tự phân tích trong tình yêu (Khổ 3):
“ Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Với nghệ thuật điệp cấu trúc và điệp ngữ “ em nghĩ về” và câu hỏi tu từ “ Từ nơi nào sóng
lên?”, nhằm thể hiện sự trăn trở của người con gái khi yêu. Từ chuyện của sóng, câu thơ
chuyển tự nhiên sang chuyện tình yêu, từ chổ là đối tượng để cảm nhận, sóng giờ đây trở
thành đối tượng để người con gái đang yêu giải bày suy tư. Dòng suy tư bắt đầu từ nỗi băn
khoăn, trăn trở, khát khao tìm đến ngọn nguồn của tình yêu. Tâm trạng băn khoăn này từ ngàn
xưa đã có trong ca dao:
“ Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
Hay nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng thốt lên:
“ Đố ai định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
“Sóng” và “em” tạm tách ra để soi chiếu vào nhau. Trong không gian bao la, trước muôn
trùng sóng bể, nhân vật trữ tình “em” bâng khuâng nghĩ về anh, nghĩ về em và nghĩ về cuộc
đời, về tình yêu. “Em nghĩ” tức là em đã lo lắng, đã thao thức, đã trăn trở về tình yêu của
mình.
b.Tình yêu vốn hồn nhiên, nhưng đầy bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể nào hiểu hết, không
thể nào cắt nghĩa đầy đủ (Khổ 4):
“ Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Tâm trạng của người con gái đang yêu luôn suy tư về sự huyền diệu, bí ẩn của tình yêu
nên “em” đã đặt ra nhiều câu hỏi và tự tìm câu trả lời. Xuân Quỳnh đã dựa vào quy luật của tự
nhiên để truy tìm cội nguồn của tình yêu. Nhưng tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió
trời không thể hiểu hết được. Điểm khởi đầu của sóng cũng giống như điểm khởi đầu bí ẩn
của tình yêu. Câu thơ vang lên với chút bối rối, đắm say, với cả ngọt ngào và nũng nịu “Em
cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Lời thú nhận nhỏ nhẹ, thành thực ấy chứa đựng
niềm hạnh phúc yêu và được yêu. Đó là cách cắt nghĩa tình yêu rất trực cảm, chân thành và
đầy nữ tính của Xuân Quỳnh.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” song hành với hình tượng “em” gợi sự liên tưởng phong phú,
mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu tình
yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Hai khổ thơ trên
thể hiện tâm trạng người con gái khi yêu thường trăn trở đi tìm cội nguồn của tình yêu, nhưng
không có lời giải đáp, vì tình yêu không tuân theo quy luật nào của lí trí.
3.Nghĩ về sóng và nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin trong tình yêu ( Khổ 5, khổ 6 và
khổ 7 ):
Không tìm được ngọn nguồn, nguyên nhân của tình yêu, “em” tìm về để vừa trăn trở, vừa
say sưa với những cung bậc tình yêu muôn thuở. Đó là nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin
trong tình yêu. Những khổ thơ tiếp theo đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế trong tình yêu của trái
tim người con gái. Ở đó có sự đam mê, khao khát, nhưng đẹp nhất là sự dâng hiến, vẻ đẹp
thánh thiện của người con gái đang yêu.
a. Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách ( Khổ 5):
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Tình yêu thường đồng hành với nỗi nhớ, yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát tan đất trời, nỗi nhớ
là thước đo chiều sâu của tình yêu. Điều này từ xa xưa đã được thể hiện trong ca dao:

“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi


Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Sóng luôn vận động như tình yêu, gắn liền với những khát khao, trăn trở không yên. Cũng như
người con gái khi yêu luôn da diết nhớ nhung, nỗi nhớ trong tình yêu được Xuân Quỳnh diễn
tả thật mãnh liệt qua hình tượng con sóng nhớ bờ.
Trong nhịp điệu của sóng ẩn chứa cả nỗi nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ bờ của sóng luôn
thiết tha, khắc khoải. Dù ở “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm”, sóng
vẫn chỉ thương nhớ bờ. Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi không gian và thời gian. Phép đối
và giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt đã diễn tả một nỗi nhớ da diết, không thể nào yên,
không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như sóng biển triền miên. Nhân vật trữ tình “em”
nhờ con sóng nói hộ nỗi nhớ triền miên (ngày, đêm), nhớ da diết (không ngủ được), không chỉ
thể hiện ở bề ngoài mà còn chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quắt, khắc khoải trong lòng.
Nhưng sự hóa thân của sóng dường như chưa đủ để diễn tả nỗi nhớ da diết trong tình yêu, tác
giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc:
“ Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Em nhớ anh như sóng nhớ bờ, nhưng chân thành hơn, sâu sắc hơn. Sóng nhớ bờ mãnh
liệt, tha thiết, còn em nhớ anh say đắm hơn bội phần: “Sóng nhớ bờ” nên “không ngủ được”,
còn “em nhớ anh” đến “trong mơ còn thức”. Câu thơ mới lạ diễn tả nỗi nhớ choáng ngợp cõi
lòng, không chỉ trong ý thức, mà còn thấm sâu vào trong tiềm thức. Em nhớ anh đến “cả trong
mơ còn thức” là cách diễn đạt độc đáo về nỗi nhớ bằng lối nói cường điệu, có vẻ phi lí, nhưng
lại rất hợp lí với trái tim tràn ngập yêu thương. Các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp đã góp
phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt, da
diết, cháy bỏng của người phụ nữ trong tình yêu. Qua đó, tác giả bày tỏ một tình yêu cuồng
nhiệt không chỉ tồn tại ở dạng ý thức, mà đã ăn sâu vào tiềm thức.
b. Tình yêu gắn liền với sự thủy chung, sắt son ( Khổ 6 ):
“ Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Điệp từ “dẫu” và cụm từ chỉ sự đối lập về không gian, địa điểm “xuôi – ngược”, “phương
Bắc – phương Nam” nhằm chỉ độ dài cách trở, sự thay đổi của cuộc đời. Nhưng đã yêu thì
người con gái luôn thủy chung, bởi cây kim la bàn trong trái tim em luôn quay về “phương
anh”. Vậy tình yêu sẽ chiến thắng tất cả sự trở ngại của đời thường nếu đó là một tình yêu
chân thành và thủy chung.
Khi yêu, em không chỉ nhớ anh mà còn “nghĩ về anh” và “hướng về anh”. Bởi sau nỗi
nhớ là niềm tin và lòng thủy chung. Đó cũng là thuộc tính và bản chất của tình yêu. Bằng biện
pháp điệp, kết hợp với hình ảnh đối lập, nhà thơ khẳng định sự chung thủy trong tình yêu:
Mặc dù phải trải qua nhiều thử thách, em vẫn yêu thương, hướng về anh với sự thủy chung
son sắt. Qua đó, ta thấy tình yêu của người con gái vừa tha thiết, mãnh liệt vừa trong sáng,
thủy chung. Tình yêu chiếm cả trái tim, khối óc, là máu thịt, là lẽ sống, là mục đích, là nơi đến
của cuộc đời.
c. Tình yêu gắn liền với niềm tin, sự tin tưởng trong tình yêu là bến bờ hạnh phúc
( Khổ 7 ):
“ Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Cách nói “chẳng nào…dù” nhằm khẳng định, sóng dù to hay nhỏ cũng sẽ đến bờ. Mượn
hình ảnh thể hiện quy luật tất yếu của tự nhiên, Xuân Quỳnh thể hiện niềm tin của mình về
một tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc trong tương lai. Sóng tới bờ dù cách trở, tình yêu là sức
mạnh giúp em và anh vượt qua gian nan, thử thách của cuộc đời để đến bến bờ hạnh phúc.
Xuân Quỳnh bộc lộ cái tôi của một con người luôn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” song hành cùng hình tượng “em” gợi sự liên tưởng phong phú,
mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu của
tình yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng, đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Đoạn thơ
thể hiện sâu sắc nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin tưởng trong tình yêu. Qua đó, tác giả đã
khắc họa vẻ đẹp tâm hồn vừa truyền thống, vừa hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu:
nồng nàn, dịu dàng, đắm say, cháy bỏng, chân thành, thủy chung…Đây là đoạn thơ trung tâm,
cũng là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ và tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân
Quỳnh.
4.Khát vọng về một tình yêu vĩnh hằng ( Khổ 8 và khổ 9):
Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim nhạy cảm, nhà thơ cũng sớm nhận ra và thấm thía
trước sự hữu hạn của kiếp người trước dòng chảy thời gian của quy luật tự nhiên.
a. Ý thức về thời gian, đi liền với niềm lo âu và khao khát nắm lấy hạnh phúc trong
hiện tại ( Khổ 8 ) :
“ Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Câu một, câu hai song hành đối xứng với câu ba, câu bốn làm cho giọng thơ tha thiết, ngọt
ngào. Quan hệ chính phụ “tuy…vẫn”, “dẫu…vẫn” làm cho ý thơ được khẳng định mạnh mẽ.
Tác giả khẳng định, thời gian và tình yêu thì vĩnh hằng mà đời người tuy dài nhưng cũng có
giới hạn “Cuộc đời tuy dài thế. Năm tháng vẫn đi qua”. Với trái tim nhạy cảm, Xuân Quỳnh
hiểu rằng: tình yêu dầu đẹp đến đâu, cũng không thoát khỏi quy luật của thời gian, nên hãy
sống hết mình cho tình yêu để nó vĩnh hằng.
Bốn câu thơ nói về một quy luật: cuộc sống tuy dài, tuy rộng, nhưng thời gian không
ngừng trôi, nên đời người hữu hạn và mỗi người phải ý thức được sự hữu hạn của mình. Thế
nhưng tình yêu có thể vượt qua sự hữu hạn để đi đến sự vĩnh hằng.
b. Khao khát được sống hết mình cho tình yêu ( Khổ 9 ) :
“ Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Câu hỏi “làm sao” gợi lên một ước mơ cháy bỏng của người con gái khi yêu. Người con
gái khi yêu muốn tan ra “thành trăm con sóng nhỏ” để hiến dâng cả cuộc đời cho một tình yêu
đích thực “giữa biển lớn tình yêu”, để vĩnh hằng tình yêu của mình “ngàn năm còn vỗ”. Đối
diện với cái vô biên, vĩnh hằng, em ao ước hóa thân thành sóng, giữa biển lớn tình yêu muôn
đời. Đó là khát vọng tình yêu nồng nàn, mãnh liệt như ở bài thơ “Tự hát” Xuân Quỳnh viết:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai cũng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Chính vì cuộc đời con người ngắn ngủi, trước sự vĩnh hằng của vũ trụ, nên Xuân Quỳnh
khao khát được sẻ chia, hòa nhập vào cuộc đời. Đó là khao khát sống hết mình trong biển lớn
tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở. Sóng là hiện tượng thiên nhiên
vĩnh cửu, cũng như tình yêu là khát vọng muôn đời của con người. Nhân vật trữ tình “em’
muốn hiến dâng cuộc đời cho một tình yêu đích thực.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” là một ẩn dụ độc đáo, chỉ tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Hình
tượng “sóng” song hành với hình tượng “em” gợi sự liên tưởng phong phú, mang đậm tính
triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu tình yêu dạt dào. Lời
thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng, đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Mượn hình ảnh sóng để nói và
suy nghĩ về tình yêu, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn
hóa thân vĩnh hằng thành tình yêu muôn thuở. Qua đó, tác giả thể hiện vẻ đẹp tâm hồn vừa
truyền thống, vừa hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu, với khát vọng đầy tính nhân văn.
III.TỔNG KẾT:
Sóng được viết theo thể thơ năm chữ nhưng ngắt khổ không đều nhau, nhịp thơ đa dạng
và linh hoạt, nhờ thế mà bài thơ có những nét hồn nhiên. Tuy vậy, giọng điệu chủ đạo của bài
thơ là giọng điệu tha thiết, chân thành, có ít nhiều sự phấp phỏng, lo âu. Bài thơ là nhịp đập
trái tim hồn hậu, giàu yêu thương, giàu khát vọng của Xuân Quỳnh. Sóng là bài thơ tình thuộc
loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Việc sử dụng
hình tượng sóng làm ẩn dụ không mới, nhưng những tâm sự về tình yêu, cùng cách khai thác
sức chứa ẩn dụ này lại có những nét thực sự mới mẻ. Xuân Quỳnh quả thực đã tìm được một
hình tượng thơ đẹp, để giải bày tình yêu dịu dàng, mãnh liệt, gần gũi, riêng tư, mà rộng mở,
phóng khoáng của người phụ nữ. Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng,
hòa hợp giữa “sóng” và “em”. Bài thơ diễn tả tình yêu của người con gái thiết tha, nồng nàn,
chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, ta
thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
6.NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
- Nguyễn Tuân –
A.GIỚI THIỆU:
I.Tác giả:
Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987 ) là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam, là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo: tài hoa, uyên bác. Cái đẹp, cái
thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, bằng cái nhìn phát
hiện đầy sáng tạo. Đặc biệt, Nguyễn Tuân có cách viết độc đáo và thành công với thể loại tùy
bút.
II.Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
“ Người lái đò sông Đà” là một trong 15 bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (1960),
là kết quả của chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân về Tây Bắc 1958.
2. Chủ đề:
Tác giả ca ngợi nét hùng vĩ, uy nghiêm và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc và sông Đà. Từ
đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên và con người lao động ở Tây Bắc của tác giả.
3. Tóm tắt tác phẩm:
Sông Đà bắt nguồn từ dãy núi Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua vùng Tây Bắc của nước ta.
Dọc sông Đà có 73 thác nước hùng vĩ và hung bạo. Sông Đà gây nhiều nguy hiểm cho người
đi dọc theo nó. Nhờ kinh nghiệm, trí thông minh và lòng dũng cảm, người lái đò vượt qua thác
trận, thạch trận, thủy trận, sóng trận để đưa con đò về bến bờ bình yên. Tuy nhiên, sông Đà
cũng có những đoạn rất thơ mộng, trữ tình nằm ở phần hạ nguồn con sông. Trong thời kì
kháng chiến chống Pháp, sông Đà là con đường vận chuyển vũ khí và lương thực cho cách
mạng. Sau hòa bình, thủy điện Sông Đà góp phần xây dựng Tổ quốc.

B.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


I.Hình tượng con sông Đà:
1.Nguồn gốc:
Sông Đà có những tên gọi khác, tên nào cũng đẹp và thơ mộng như: Li Tiên, Đà Giang,
Bả Biên Giang…Sông Đà dài gần 900km lượn rồng rắn qua những vùng núi rừng bao la, rồi
nó đổ vào địa phận Việt Nam. Sông Đà có độ dốc rất lớn gần 500m với 73 con thác lớn nhỏ.
Đặc biệt, các con sông khác đều chảy hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc:
“ Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Như vậy, Nguyễn Tuân nhìn con sông Đà và phát hiện ra nguồn gốc của nó trên phương
diện địa lí.
2. Tính cách con sông Đà:
Với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà là nhân vật thực sự, bởi nó có tính cách
rất phức tạp, lúc thì rất hung bạo, lúc thì rất trữ tình “Sông Đà lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu
dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”
a.Sông Đà hung bạo:
*Sông Đà hung bạo ở những nơi có đá:
Sông Đà hung bạo bởi vì hai bên bờ sông có đá, đá dựng thẳng đứng giống như “dựng
thành vách”. Vì đá đã che khuất mặt trời, nên những đoạn sông ấy rất là tối, mặt trời chỉ làm
bạn được với sông khi đứng bóng “Mặt sông chổ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Đá
làm cho mặt sông vừa tối, vừa lạnh “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh”. Đá hai bên bờ sông còn rất ngang ngược, có đoạn đá lấn ra sông làm cho
lòng sông đoạn ấy rất hẹp “Đá chẹt lòng sông Đà như cái yết hầu”, hẹp đến nỗi đứng bên bờ
này sông ném nhẹ hòn đá qua được bờ bên kia, có đoạn con nai, con hổ có thể vọt từ bờ này
sang bờ kia một cách dễ dàng.
Đá dưới lòng sông Đà hình như đã được mai phục từ hàng nghìn năm làm thành một
thạch trận, thạch trận ấy dày đặc cửa tử, boongke, pháo đài. Đặc biệt, đá dưới lòng sông Đà nó
nằm ngồi rất tự do, không biết là do sở thích hay là do nhiệm vụ “Nó đứng, nó ngồi, nó nằm
tùy theo sở thích”. Đá có ngoại hình rất hung bạo “Mặt hòn đá cũng trông ngỗ ngược, hòn
nào cũng nhăn nhăn, méo mó”, nó chỉ chờ con thuyền nào đi qua là lập tức “vồ lấy thuyền”.
Tác giả đã dùng nhiều giác quan, nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh…cùng
với trí tưởng tượng phong phú và kiến thức uyên bác để gợi ra sự hung bạo của sông Đà.
*Nước sông Đà hung bạo:
Nước sông Đà phát ra những âm thanh thật quái dị “nước ở đây thở và kêu như cửa cống
cái bị sặc”. Nhiều đoạn dòng sông hẹp, nước bị xoáy lâu ngày tạo nên những cái hút nước, cái
hút nước ấy “kêu ặc ặc như rót dầu sôi vào”. Đặc biệt cái hút nước sâu thăm thẳm như cái
giếng bê tông sẵn sàng chờ con thuyền nào đi qua thì lôi xuống dưới rồi đánh cho tan tác. Có
những thuyền bị cái hút nước nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi. Cái hút nước thật là khủng khiếp và dữ dội, muốn tránh cái hút nước người lái đò phải như
người lái ô tô “sang số, nhấn ga” để vọt qua ổ gà vậy.
*Thác nước sông Đà hung bạo:
Thác từ trên cao đổ xuống làm thành những âm thanh ghê rợn để hù dọa con người “tiếng
nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn
mà chế nhạo”. Rồi đột ngột rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”, như vậy là thác nước sông Đà gây ra những âm thanh rất lớn.
Nguyễn Tuân rất độc đáo khi dùng lửa tả nước, dùng cách lái xe tả chèo đò, giúp người đọc
tưởng tượng sự hung bạo của thác và nước. Ngoài ra, còn có sự phối hợp giữa gió, sóng và
đá. Hình như từ ngàn năm nay, sóng và đá sông Đà, phối hợp với nhau ăn ý, làm nên một sức
mạnh uy hiếp con đò “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Làm cho sóng sông Đà cuồn
cuộn quanh năm, chỉ chờ khi nào người lái đò khinh suất, không cẩn thận, sơ ý “thì sóng bèn
lật ngữa bụng thuyền ra”
*Thạch trận sông Đà hung bạo:
Sông Đà bày thạch trận rất bài bản, thác đá được xếp thành từng tuyến “đám tảng, đám
hòn chia làm ba hàng trên sông”, “những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ”. Nhà văn sử
dụng nghệ thuật nhân hóa, lối nói ví von, gợi nhiều liên tưởng bất ngờ “những hòn đá trông
nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi, một hòn đá khác thách
thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào”. Dòng sông còn bày ra ba trùng vi thạch trận, với nhiều
cửa tử, ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền, đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chổ hiểm”, rồi chực “đòi ăn chết cái thuyền”. Dòng
sông khi xung trận cũng biết “dụ”, biết “khiêu khích”, nếu cần thì “giở mọi ngón đòn hiểm
hóc”, phối hợp với thác, với sóng để tiêu diệt con thuyền.
*Sơ kết: Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không thích sự
bằng phẳng, nhợt nhạt. Bởi thế, khi khắc họa tính hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân đã
dùng hết bút lực để thi tài với tạo hóa, bằng những câu văn góc cạnh, giàu tính tạo hình, sử
dụng nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng và thuật ngữ quân sự, kết hợp với nhiều động từ mạnh,
để miêu tả đầy ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà. Qua đó, ta thấy được
niềm tự hào của tác giả về sự hùng vĩ, giàu đẹp của Tổ quốc.
b.Sông Đà trữ tình:
Bên cạnh tính hung bạo, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà lại rất trữ tình,
mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng, gợi bao cảm xúc làm say mê lòng người. Nguyễn Tuân
miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ, nhìn từ trên cao xuống sông Đà như một
“mỹ nhân”, từ trong rừng ra sông Đà như một “cố nhân”, khi ở trên sông Đà như một “tình
nhân”.
*Sông Đà đẹp bởi hình dáng:
Sông Đà từ trên cao nhìn xuống giống như mái tóc người phụ nữ kiều diễm “con sông Đà
tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Khi tả về dáng con sông
Đà, tác giả dùng những câu văn vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh
cảm nhận để người đọc dễ dàng liên tưởng con sông Đà thật là mềm mại, uyển chuyển và
duyên dáng.
*Sông Đà đẹp bởi màu nước:
Tác giả vì yêu con sông Đà nên đã mấy lần bay tạt ngang sông Đà để quan sát màu nước.
Tác giả khẳng định nước sông Đà không hề có màu đen như thực dân Pháp vu khống cho nó.
Ngược lại, nước sông Đà rất đẹp, nó thay đổi theo mùa: mùa xuân nước màu xanh, mùa thu
nước màu đỏ “mùa xuân màu xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa”. Và cũng có lúc nó mang màu sắc “nắng tháng ba Đường thi” thật trươi tắn.
*Hai bên bờ sông Đà rất đẹp:
Lạc vào sông Đà, ta như lạc vào một thế giới huyền ảo, vì ở đấy nắng cứ giòn tan và
chuồn chuồn, bươm bướm bay rợp trời, còn con thuyền thì lặng lẽ trôi như thương nhớ ai. Hai
bên bờ sông Đà mang vẻ đẹp bình yên. Bình yên đến nỗi “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm”. Hai bên bờ sông “hồn nhiên và hoang dại như thời tiền sử”. Sông Đà
còn mang vẻ đẹp trù phú “những đàn cá dầm xanh quẩy vọt lên mặt sông”. Không gian sông
Đà là một sự yên ắng, tĩnh mịch đến nỗi con người ở đây, thèm được giật mình bởi một âm
thanh nào đó. Để tả vẻ đẹp của con sông Đà, tác giả mượn lời thơ của Tản Đà:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhêu tình”
Tâm trạng của tác giả xúc động, ngây ngất, sống dậy những hoài niệm “hình như từ đời
Lí, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”.
*Sơ kết: Từ cách nhìn nhiều chiều về sông Đà, Nguyễn Tuân đã tạo được một dấu ấn khó
quên trong lòng người đọc về con sông. Qua đó, thể hiện một tình yêu thiên nhiên tha thiết,
với những phát hiện tinh tế, độc đáo của tác giả. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông
Đà được xem như một công trình nghệ thuật tuyệt vời, một kì công của tạo hóa mang đến cho
Tây Bắc, làm đẹp thêm bức tranh thiên nhiên của Tổ quốc.
II.Hình tượng người lái đò sông Đà:
Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, hình ảnh người lái đò sông Đà, chính là đối
tượng của cái đẹp, lấp lánh ánh sáng của người nghệ sĩ tài hoa. Bởi lẽ ở đây, lái đò là một
nghệ thuật cao cường trên sông nước.
1. Lai lịch:
Ông lái đò 70 tuổi, quê ở Lai Châu, làm nghề chèo đò dọc sông Đà. Ông xuôi ngược sông
Đà 100 lần, tay ông giữ lái 60 lần. Điều này thật khó tin,vì thế để tang tính thuyết phục
Nguyễn Tuân khẳng định “ông lái đò Lai Châu là bạn tôi”
2. Ngoại hình người lái đò:
Ngoại hình người lái đò gắn liền với nghề nghiệp sông nước của ông “tay ông lêu nghêu
như cái sào”, chân ông lúc nào cũng khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng,
“giọng ông ào ào như nước trên mặt ghềnh”. Đặc biệt, trên ngực ông có nhiều củ nâu, đó là
vết tích của những ngày chiến đấu với sông Đà, mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là “huân
chương lao động siêu hạng”.
3. Tính cách ông lái đò:
Ông lái đò là người thích đương đầu với nguy hiểm, khó khăn, nên ông thích đi qua ghềnh
thác. Ông bảo rằng “chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại chân, dại tay dễ
buồn ngủ”.
4. Ông lái đò là người có kinh nghiệm vượt sông Đà:
Ông thuộc con sông Đà như người ta thuộc một thiên anh hùng ca “thuộc đến dấu chấm than,
chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Đặc biệt, ông nắm chắc “binh pháp của thần sông,
thần đá”, ông cũng thuộc luôn “quy luậtcủa lũ đá nơi ải nước hiểm”. Ông biết rằng khi xuôi
sông Đà thì đi vào chính giữa cái luồng nước, khi ngược sông Đà thì người đứng mũi phải
đứng bằng sào và đầu con thuyền hướng ra sông.
5. Ông lái đò chiến đấu với sông Đà:
Tinh thần dũng cảm, sự dày dạn kinh nghiệm khi chiến đấu với con sông Đà của ông lái
đò, mang cốt cách tài hoa, nghệ sĩ của một viên dũng tướng.
a. Vượt trùng vi thạch trận thứ nhất:
Trùng vi thạch trận thứ nhất gồm năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh
nằm “lập lờ phía bên tả ngạn”. Đá sông Đà làm thành ba hàng chặn ngang sông, mỗi hàng
đều có hai tiền vệ làm nhiệm vụ dụ con thuyền vào. Khi thuyền đã lọt vào tuyến một, sóng
nước đánh “quật vu hồi”, thuyền vượt qua được thìlọt vào tuyến hai. Khi thuyền đã lọt vào
tuyến hai, thì đá phối hợp với nước, với thác reo hò làm người lái đò mất bình tĩnh, thừa cơ
hội ấy sông nước xô đến “bẽ gãy cán chèo”, hòng tiêu diệt vũ khí duy nhất của người lái đò.
Thấy không thành công sóng nước lại liều mạng “thúc gối vào bụng, vào hông thuyền” với
mục đích để thuyền vỡ ra và chìm, khi không được chúng bèn dùng sóng nước “đội cả thuyền
lên” giống như đô vật túm lấy thắt lung ông đò rồi lật ngữa ra. Không có tác dụng thì chúng
đánh miếng đòn hiểm độc nhất “bóp chặt lấy hạ bộ ông lái đò”. Trước tình hình ấy, ông lái đò
cố nén vết thương dù “mặt ông thì méo bệch đi, mắt thì nổi đom đóm”, ông vẫn bình tĩnh, hai
chân kẹp chặt cuống lái, miệng thì rành rọt chỉ huy “sáu tay bơi chèo còn lại đi vào luồng
sinh”.
b. Vượt trùng vi thạch trận thứ hai:
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà bố trí thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền,
còn cửa sinh nằm ở bên bờ hữu ngạn. Vượt trùng vi thứ hai không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt
và phải đổi luôn chiến thuật. Ông lái đò quan niệm “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến
cùng như là cưỡi hổ”, có nghĩa đây là cuộc chiến một mất, một còn của người lái đò và sông
Đà. Ông lái đò bình tĩnh “nắm chặt lấy cái bờm sóng”, chọn đúng tim luồng, ông đò ghì
cương lái phóng nhanh vào cửa sinh. Khi tiến vào cửa sinh thì “bọn thủy quân liền xô ra, níu
thuyền lại để lôi vào tập đoàn cửa tử”. Ông lái đò nhớ mặt bọn này “đứa thì ông rảo bơi
chèo”, “đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi để mở đường tiến”, vượt qua trùng vi thạch trận
thứ hai.
c.Vượt trùng vi thạch trận thứ ba:
Ở trùng vi thạch trận thứ ba này ít cửa hơn nhưng “bên trái, bên phải đều là luồng chết
cả, cửa sinh duy nhất nằm giữa bãi đá hậu vệ”. Ông lái đò cứ phóng thẳng thuyền lao qua
thác nước nhanh và chính xác như “một mũi tên tre xuyên nhanh qua làn hơi nước”, bản hùng
ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng của nước sông Đà và
sóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã khắc họa được hình ảnh người lái đò bình tĩnh, chủ động
xử lí những tình huống nguy hiểm của ba trùng vi bằng sự gan dạ, thông minh, động tác chính
xác, nhanh nhẹn, điêu luyện, thành thục và tài hoa.
6. Trong đời thường:
Khi đối mặt với sông Đà ông lái đò dũng cảm, bình tĩnh, lạnh lùng. Nhưng khi trở lại với
cuộc sống đời thường, Nguyễn Tuân miêu tả ông như một nghệ sĩ tài hoa. Trải qua cuộc vật
lộn với thần sông, thần đá, mà vị thuyền trưởng ấy lại rất trầm tĩnh, ung dung. Đêm ấy trong
hang đá, đốt lửa nấu ống cơm lam, ông lái đò chỉ bàn tán về “cá anh vũ, cá dầm xanh”, về
“những hầm cá nhiều như mìn bộc phá”. Đối với ông chuyện vượt thác vừa rồi chẳng có gì
hồi hộp, đáng nhớ.
*Sơ kết: Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ. Nghệ thuật ở đây là
nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do. Qua hình
tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động Tây bắc, họ là những người
dũng cảm, tài hoa, giàu ý chí nghị lực, đó là yếu tố làm nên chất “vàng mười” của người dân
Tây Bắc nói riêng và người dân lao động nói chung.
III.TỔNG KẾT:

1. Nghệ thuật:
Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp. Ông
có cảm hứng đặc biệt đối với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. Tiếp cận con
người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ngòi bút của Nguyễn Tuân tài hoa và uyên bác, giàu tri
thức, thông hiểu nhiều lĩnh vực, tác phẩm của ông có tính chất khảo cứu, có giá trị thông tin
lớn. Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu
sức liên tưởng bất ngờ và độc đáo.
2. Nội dung:
“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp, được làm nên từ một tình yêu đất nước say đắm,
thiết tha, của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng,
vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là người lao động bình dị ở miền núi Tây Bắc.
Qua việc khắc họa vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình, gắn với hình
ảnh vừa kì vĩ, vừa giản dị của người lái đò, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu, sự say đắm trước
thiên nhiên và con người lao động trên miền Tây Bắc của đất nước.
7.AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
(Trích)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế, là nhà văn gắn bó máu thịt với mảnh đất
miền Trung và quê hương xứ Huế. Là nhà văn chuyên về bút kí, bút kí của ông có sự kết hợp
giữa trữ tình và chính luận, giữa trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và chiều sâu văn hóa,
khả năng liên tưởng, tưởng tượng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sáng tác:
Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế ngày 4 – 1 – 1981, in trong tập
sách cùng tên. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc
Tường: Tri thức phong phú, cảm xúc sâu lắng, văn phong tao nhã. Bài bút kí gồm ba phần,
đoạn trích thuộc phần thứ nhất.
b.Chủ đề:
Qua việc miêu tả và cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở nhiều góc độ, bài kí đã thể hiện tình
yêu tha thiết, say đắm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế của tác giả. Qua đó, bộc cái tôi
trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cái tôi đầy tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí
tưởng tượng phong phú.
c.Ý nghĩa nhan đề:
Tác giả đặt nhan đề và kết thúc bài bút kí bằng câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”,
không chỉ nhằm mục đích lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông, mà còn gợi lên lòng
biết ơn đối với những người khai phá miền đất này. Nhan đề mang ý nghĩa là một câu hỏi, mà
nội dung bài kí là câu trả lời. Bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông, có cái tên cũng rất
đẹp và phù hợp với nó – sông Hương. Nhan đề còn mang tính chất biểu cảm: Là cái cớ để nhà
văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương, gắn với vùng đất cố đô cổ kính, tươi
đẹp. Đồng thời, thể hiện tình cảm ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, thái độ trân trọng, ngợi ca của tác
giả với dòng sông Hương và thành phố Huế thân yêu.
d. Cảm nhận khái quát:
Sông Hương là hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm và cũng là đối tượng trữ tình
của bài kí. Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, vốn văn hóa phong phú và tình yêu tha thiết quê
hương xứ Huế, tác giả đã viết nên những dòng kí tràn đầy cảm xúc về dòng sông Hương –
Con sông chỉ chảy duy nhất qua một thành phố - thành phố Huế. Sông Hương được nhìn từ
nhiều góc độ nên vẻ đẹp con sông được phát hiện bất ngờ và khá độc đáo.
Trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông nhìn dòng sông
Hương như một cô gái Huế. Cô gái Huế ấy khi trái tim chưa biết đập nhịp đập của tình yêu, thì
tựa như cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại. Khi biết yêu rồi thì đó là một thiếu nữ tài
hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kính đáo, lẳng lơ mà rất mực chung tình, khéo trang sức
mà không lòe loẹt, phô trương.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Vẻ đẹp thiên nhiên (địa lí) của sông Hương:
a. Sông Hương ở thượng nguồn:
Sông Hương ở thượng nguồn gắn liền với núi rừng Trường Sơn hùng vĩ, nên dưới cái
nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường dòng sông như một cô gái đầy sức sống mãnh liệt, dòng
sông được ví như “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”. Đây là một liên tưởng độc
đáo, bởi những cô gái Di – gan là những cô gái bộ tộc Bô – hê – miêng thích sống lang thang,
tự do và yêu đời, yêu cuộc sống ca hát. Sông Hương được ví như cô gái Di – gan, tạo cho con
sông một vẻ đẹp hoang dại và tình tứ. Cảnh sông ở đây được khắc họa bằng những câu văn dài
và nhiều động từ mạnh, tạo nên cái dư vang của rừng già và cái mạnh mẽ của con sông: “Đó
là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua thác ghềnh,
cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”.Nhưng có những lúc dòng sông lại
dịu dàng say đắm: “Dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Như vậy, để hiểu dòng
sông, ta không chỉ “nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó”, mà phải lên tận phía thượng
nguồn, để thấy được hành trình gian truân mà nó vượt qua thì mới hiểu “tâm hồn sâu thẳm
của nó”.
*Sơ kết:Bằng nghệ thuật nhân hóa, so sánh và sự liên tưởng độc đáo, vẻ đẹp sông Hương ở
thượng nguồn là một vẻ đẹp hoang dã, mạnh mẽ, đầy cá tính, có sức sống mãnh liệt. Nhưng
cũng có lúc dịu dàng và say đắm.
b.Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế:
Ở vùng đồng bằng, tác giả nhận ra sông Hương có sự thay đổi về tính cách. Nếu ở rừng
già Trường Sơn, sông Hương sống một cuộc sống tự do, phóng khoáng của một cô gái Di –
gan đầy bản lĩnh, thì khi ra khỏi rừng già, sức mạnh bản năng ấy đã được chế ngự, để con
sông mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ của một dòng sông chảy nặng phù sa“sông Hương
trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, nhưng “dòng sông hình như không
muốn bộc lộ” công lao lớn ấy, đó là vẻ đẹp tính cách của sông Hương.
Bằng cặp mắt quan sát tinh tế và lãng mạn, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương
như một người con gái đa tình đang mãi miết đi tìm “một nửa kia của đời mình”. Trên hành
trình đi tìm người tình mong đợi, sông Hương bộc lộ bao nhiêu là tâm trạng trong dòng chảy
của mình. Có lúc sông Hương như một người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hóa đầy hoa dại”, có lúc bừng tỉnh “chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc
quanh đột ngột”, rồi “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, bất ngờ“vẽ một hình
cung thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”, đây là câu văn giàu chất họa.
Hành trình sông Hương đi qua, đó là những địa danh “ngã ba Tuần, điện hòn chén, bãi
Nguyệt Biều…”. Có những đoạn sông quanh co, khúc khuỷu như những gian truân trên hành
trình đi tìm hạnh phúc, nhưng có lúc sông Hương lại trầm mặc trôi qua những cánh rừng thông
u tịch, nơi có những lăng tẩm của vua chúa, tỏa niềm kiêu hãnh âm u. Đoạn này sông Hương
chảy lặng lờ, như đang suy nghĩ về một quá khứ xa xôi của đất nước. Vẻ đẹp trầm mặc của
sông Hương kéo dài cho đến khi mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên
Mụ ngân nga. Vậy là bằng ngòi bút tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh
động từng bước đi của sông Hương, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến thú vị khác.
c. Sông Hương trong lòng thành phố Huế:
Trước khi đến với Huế, sông Hương còn dịu dàng khoác nhiều màu áo đẹp cho mình, đó
chính là vẻ đẹp biến ảo, nhờ phản quang nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố, làm
cho nước sông Hương có nhiều màu: sáng xanh, trưa vàng, chiều tím, mà người dân Huế gọi
là dòng sông đa sắc.
Sông Hương khi tìm được đúng hướng về với thành phố, dòng sông vui tươi hẳn lên, sông
nhận ra Huế bởi chiếc cầu Tràng Tiền như Nguyễn Bính viết:
“ Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông bờ”
Hoàng Phủ Ngọc Tường độc đáo hơn, khi vẽ chiếc cầu Tràng Tiền vắt ngang sông Hương,
như một tín hiệu để sông Hương nhận ra mình đã đến với Huế “chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn những vầng trăng non”.
Sông Hương trong lòng thành phố Huế “dòng sông mềm mại hẳn đi như một tiếng vâng
không nói ra của tình yêu”. Nhà văn phải trôi theo dòng liên tưởng để tìm lời giải cho tiếng
vâng không nói ra của tình yêu, bằng cách bắt cho được nhịp đập riêng của trái tim sông
Hương. Giữa lòng thành phố Huế, sông Hương lặng lờ chảy, như tận hưởng cho hết thời gian
của tình yêu, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường phải chọn cho mình sự tiếp cận âm nhạc để diễn tả,
để tưởng tượng đó là “điệu slow”, trong tiếng Anh “slow” có nghĩa là chậm, vậy là sông
Hương đã chọn cho mình một giai điệu trữ tình, chậm rãi dành riêng cho Huế yêu.
Nhà văn đặt sông Hương bên cạnh sông Nê – va của thành phố Lêningrat, để chúng ta
thêm yêu quý “vẻ ngập ngừng vương vấn của sông Hương”.Nếu như nhiều dòng sông khác
trên thế giới, vội vã qua phố thị để mau chóng về với biển cả, thì sông Hương lại không muốn
giã từ Huế nên sông Hương chảy thật chậm “sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm,
thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Phải chăng vì quá yêu thành phố, yêu Huế
nên sông Hương muốn ngắm nhìn nhiều hơn nữa Huế yêu của mình, trước khi phải rời xa nó?
*Sơ kết: Bằng ngôn ngữ uyển chuyển đầy chất thơ và nhạc, tác giả đã thể hiện cuộc gặp gỡ
của sông Hương và Huế như một cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương và Huế hòa vào làm
một, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ trầm tư sâu lắng của sông
Hương. Sông Hương như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Tác giả vẻ nên vẻ
đẹp của sông Hương ở nhiều góc độ: địa lí, hội họa, âm nhạc và tình yêu say đắm.
d. Sông Hương từ biệt Huế để về với biển:
Trước khi từ biệt Huế, sông Hương chếch về hướng chính Bắc. Tuy nhiên do đặc điểm
địa lí ở nước ta (hầu hết các con sông đều chảy về hướng Đông để đổ ra biển), vì vậy nó phải
chuyển dòng sang hướng Đông và “gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh cổ
xưa”. Nhưng trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lưu luyến không muốn
rời xa Huế nên quay lại thị trấn Bao Vinh như ôm Huế lần cuối. Sông Hương “như sực nhớ
lại một điều gì chưa kịp nói” khi từ giã Huế, tựa như nàng Kiều muốn trở lại gặp Kim Trọng
“để nói một lời thề trước khi về biển cả”.
*Sơ kết: Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, năng lực quan sát tinh tế, trí tưởng tượng
phong phú và đặc biệt là tình yêu Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn vào dòng sông
Hương làm cho nó có sự quyến luyến, không muốn rời Huế, trước lúc đổ ra cửa biển Thuận
An.
2. Vẻ đẹp văn hóa của sông Hương:
a. Sông Hương là dòng sông của âm nhạc:
“Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đó là một vẻ đẹp dịu
dàng, thanh thoát, uyển chuyển, đầy quyến rũ. Tác giả khẳng định: Toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương. Phải đến với Huế, vào một đêm khuya
trên dòng sông Hương, lắng nghe tiếng nước vỗ mạn thuyền, tiếng mái chèo khua “tiếng nước
rơi bán âm của những mái chèo khua”, thì mới hiểu được âm nhạc cổ điển Huế. Phải thưởng
thức nhạc Huế trên sông Hương thì mới thấy hết giá trị của nó. Tác giả đã cảm nhận sông
Hương bằng nét văn hóa của Huế.
b.Sông Hương là dòng sông của thi ca:
Nếu nhìn ở phương diện thi ca thì sông Hương là “dòng sông không bao giờ tự lặp lại
mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Trong thơ Tản Đà, sông Hương là “dòng sông trắng lá
cây xanh”. Trong thơ Cao Bá Quát, sông Hương có vẻ đẹp hùng tráng. Trong thơ Bà Huyện
Thanh Quan, sông Hương đẹp với bóng chiều hoài cổ. Trong thơ Tố Hữu, “sông Hương quả
thật là Kiều”. Lời nhận xét của Tố Hữu có nhiều nghĩa: “Kiều” chỉ những người con gái làm
nghề ca kĩ trên sông Hương (tiếng hát sông Hương). Mặt khác “Kiều” cũng là vẻ yêu kiều của
một dòng sông hội đủ vẻ đẹp của thi, ca, nhạc, họa. Sau này nhà thơ Thu Bồn cũng viết về
sông Hương rất hay:
“ Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Có thể nói, sông Hương đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Với mỗi nhà thơ sông
Hương là một khám phá, một tuyệt tác riêng.
3.Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương:
Thời các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước. Trong sách
“Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, sông Hương mang tên Linh Giang, nghĩa là dòng sông linh
thiêng, có sứ mệnh bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt. Ở thế kỉ mười tám, sông Hương
vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, của người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ mười chín và
hai mươi, sông Hương sống những giây phút hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mĩ. Với lịch sử, sông Hương là một chứng nhân, điều đó đã khiến thành phố Huế mang sức
hấp dẫn về văn hóa và du lịch.
4.Sông Hương với vẻ đẹp đời thường:
Sông Hương tri ân xứ sở, cưu mang nó bằng cách tặng cho những ngôi làng ven sông
dòng nước trong mát và phù sa màu mỡ. Con người cũng tặng sông Hương một huyền thoại
“vì yêu quý con sông, con người hai bên bờ sông đã nấu nước trăm loài hoa, đổ xuống sông
để làm cho nước thơm tho mãi”. Vẻ đẹp sông Hương còn in dấu trong sắc áo điều lục của cô
dâu Huế ngày xưa “đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương”. Vẻ đẹp của con
sông Hương cũng chính là vẻ đẹp của Huế, của con người xứ Huế.
III. TỔNG KẾT:
Bài kí thể hiện chất trí tuệ, tình yêu, trí tưởng tượng tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài
kí đậm chất sử thi, giàu cảm hứng trữ tình lãng mạn. Dùng nhiều biện pháp tu từ như nhân
hóa, so sánh, ẩn dụ…Ngôn ngữ giàu hình ảnh nên người đọc dễ dàng liên tưởng. Tùy bút được
xây dựng bằng nhiều kiến thức: địa lí, lịch sử, văn hóa…Đoạn trích bài bút kí “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Qua đoạn trích,
người đọc cảm nhận được tình yêu và niềm tự hào của tác giả về quê hương xứ sở.
***************************************************************************

8.VỢ CHỒNG A PHỦ


- Tô Hoài –
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, quê ở Hà Tây trong gia đình thợ thủ
công. Tuổi thơ và thời trai trẻ phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề. Trong kháng chiến,
ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí, O
chuột, nhà nghèo…
2.Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, nhân chuyến Tô Hoài cùng bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi dài tám tháng, giúp Tô Hoài hiểu sâu hơn về cuộc
sống và con người miền núi. “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “truyện Tây Bắc” (1953), được
tặng giải nhất của hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955). Tập “truyện Tây Bắc” gồm ba truyện
ngắn: Cứu đất cứu mường, mường Giơn và vợ chồng A Phủ. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
gồm hai phần: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, vợ chồng A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích sách giáo
khoa thuộc phần Mị và A phủ ở Hồng Ngài.
3.Chủ đề:
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” cho thấy cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự vùng
lên giải phóng, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của
bọn chúa đất và thực dân.
4.Tóm tắt văn bản:
Mị là một cô gái Mèo, vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lí nên bị bắt về làm dâu trừ nợ, làm vợ
cho A Sử. Cuộc sống làm dâu, làm vợ vô cùng khổ, Mị muốn chết. Nhưng vì thương cha già
không đủ sức làm nương trả nợ, Mị đành chấp nhận cuộc sống hiện tại và lâu dần trở thành
con người vô cảm. Mùa xuân đến Mị muốn đi chơi, A Sử không cho, trói Mị Lại. A Phủ là
một thanh niên nghèo, mồ côi, lao động giỏi, vì đánh A Sử, con quan, nên bị thống lí phạt vạ.
A Phủ không có tiền nộp phạt nên phải ở đợ cho nhà thống lí. Vì hổ bắt mất một con bò, A
Phủ bị cha con thống lí trói đứng cho đến chết. Mị đồng cảm cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng
trốn đến Phiềng Sa chung sống và giác ngộ cách mạng.
5. Dàn ý chi tiết về nhân vật Mị:
5.1. Cuộc đời làm dâu khổ đau, tủi nhục
a. Trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
- Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. (Mị có tài thổi sáo, nhiều trai làng theo đuổi).
- Mị đã có người yêu, không muốn về làm dâu nhà thống lí để trừ nợ.
- Mị quyết tâm trả nợ bằng sức lao động của mình.
→ Mị khát khao được sống tự do, hạnh phúc; cô muốn làm chủ cuộc đời mình.
b. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí:
- Mị làm con dâu nhưng thực chất là con nợ. Để trả món nợ truyền kiếp, Mị bị trói chặt cuộc
đời mình vào kiếp sống nô lệ.
- Mị sống trong khổ đau, vật vả âm thầm “đêm nào Mị cũng khóc”. Mị muốn ăn lá ngón để
giải thoát mình. Nhưng vì thương cha Mị không thể chết. Mị đành nén nỗi đau riêng mà chấp
nhận kiếp sống đọa đày.
→ Vì chữ hiếu, Mị đã hi sinh tự do, hạnh phúc. Từ đó, Mị rơi vào hoàn cảnh bế tắt, không lối
thoát.
c. Kiếp sống đọa đày:
* Đọa đày về thể xác:
- Mị phải làm lụng quanh năm suốt tháng không được ngơi nghỉ. Thân phận Mị còn thua cả
con trâu, con ngựa.
- Mị bị chồng đối xử tàn nhẫn. A sử đánh Mị vô tội vạ: Trói đứng, đạp vào mặt, tự dưng đánh
ngã xuống cửa bếp.
* Đọa đày về tinh thần:
- Mị sống cam chịu, nhẫn nhục: Lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, tưởng mình là con
trâu, con ngựa “chỉ biết ăn cỏ, đi làm mà thôi”.
- Mị sống cô độc, âm thầm: Mỗi ngày càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”.
- Mị không còn ý niệm về thời gian và thế giới xung quanh. Mị là một tội nhân bị giam cầm ở
chốn ngục tù “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay… trông ta
chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.
- Mị mất hết niềm tin vào cuộc sống, không ý thức về tương lai, hoàn toàn tuyệt vọng “ Cứ chỉ
ngồi trong cái lỗ vuông ấy đến bao giờ chết thì thôi.”
→ Mị tồn tại với trạng thái gần như đã chết. Sức sống của Mị gần như bị tê liệt. Mị trở nên vô
cảm với mọi thứ quanh mình.
=> Nhà văn đã cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của Mị. Đồng thời tố cáo tội ác của
bọn thống trị tàn bạo chà đạp quyền sống của con người.
5.2. Sức sống tiềm tàng
a. Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao:
- Mùa đông năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ con
đi hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi…”. Như một niềm
mong đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi.
- Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi
chơi.
→ Vẻ đẹp gợi cảm của không khí ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng , tự do của người
Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo.
b. Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu:
- Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha, bổi hổi”. Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ
niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao xuyến của hiện tại.
- Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
+ Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc
sống tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.
- Mị lén lấy hũ rượu “cứ uống ực từng bát”. Cách uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể nuốt
những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời sắp
tới.
- Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”.
Mị sống lại những kí ức đẹp thời thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người mê, đi
theo Mị.
- Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh “Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên vui
sướng. Mị ý thức mình còn rất trẻ. Mị muốn được đi chơi. Chính tiếng sáo đã làm sống dậy cái
sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.
- Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời nào
cho Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của một tâm
hồn đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được sống.
- Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do, hạnh
phúc. Mị thắp đèn cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để đi chơi.
Khát vọng tự do trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau.
- Bị A Sử trói nghiến vào cột nhà, Mị không phản ứng vì lúc này tâm hồn Mị vẫn miên man
theo tiếng sáo. Nỗi đam mê cuộc sống trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị không còn cảm giác thể xác
đau đớn.
- Mị không còn nghe tiếng sáo nữa. Mị thổn thức khóc cho thân phận “ mình không bằng con
ngựa”. Mị nhớ về câu chuyện một người vợ bị chồng trói đến chết. Mị sợ chết. Sợ chết có
nghĩa là không muốn chết. Mị vẫn rất ham sống và muốn sống.
→ Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, tự do, hạnh phúc. Tiếng sáo gợi kỉ niệm quá
khứ, đánh thức sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị.
=> Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản giữa hoàn cảnh tù túng, khắc nghiệt với lòng
người tha thiết cuộc sống tự do để khẳng định: Sức sống của con người rất kì diệu. Dù bị đè
nén, vùi dập tới đâu cũng không thể hủy diệt.
5.3. Sự phản kháng mạnh mẽ, táo bạo
- Khát vọng sống trở thành ngọn lửa âm ỉ trong lòng Mị. Khi có cơ hội, ngọn lửa ấy sẽ bùng
cháy, trở thành một sự phản kháng mãnh liệt không ai có thể ngờ tới.
- Những đêm mùa đông trên núi cao, Mị thường dậy sớm trong nỗi cô đơn hiu quạnh một
mình lặng lẽ. Thấy A Phủ bị trói, lúc đầu Mị thản nhiên “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy
cũng thế thôi”. Nhưng đến lúc bất chợt nhìn thấy dòng nước mắt đau đớn, tuyệt vọng của A
Phủ thì tâm hồn Mị hồi sinh một tình người sâu sắc:
+ Mị thấy đồng cảm với A Phủ, “Mị nhớ lại đêm năm trước A Sử cũng trói Mị, Mị cũng phải
trói đứng thế kia”. Mị và A Phủ là những phận người đồng cảnh ngộ, vừa nghèo khổ vừa bị
bọn thống trị đày đọa tàn nhẫn.
+ Trong phút chốc Mị nhớ lại những ngày tháng tủi nhục trước đây. Mị sống và làm việc như
một con vật, bị bắt trói đứng suốt đêm. Mị nhớ đến người đàn bà bị chồng trói đến chết. Trong
Mị bừng lên sự căm phẫn tột cùng “Chúng nó thật độc ác”.
+ Mị lo lắng, cảm thương cho tình cảnh hiểm nghèo của A Phủ “ Chỉ đêm mai là người kia
chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Một cái chết thê thảm sẽ đến với A Phủ.
+ Mị thấy thật bất công, vô lí nếu A Phủ phải chết “người kia việc gì phải chết thế”. Mị nhận
ra nếu phải chết thì đó là một cái chết đầy oan ức cho A Phủ.
+ Mị nghĩ rằng nếu giải thoát cho A Phủ thì Mị sẽ là người thay thế nhưng “làm sao Mị cũng
không thấy sợ”. Sức mạnh của tình người thôi thúc Mị, khiến Mị chiến thắng sự sợ hãi.
+ Mị quyết tâm cởi trói cho A Phủ, Mị đem hết nghị lực để thực hiện hành động táo bạo ấy.
Dù trong lòng rất hồi hộp, lo lắng đến “nghẹn lại” nhưng cách Mị cắt, gỡ dây trói thì rất dứt
khoát. Sự dũng cảm, lòng thương người đã giúp Mị giải thoát cho A Phủ.
+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Đó chính là giây phút Mị suy nghĩ về bản thân và lựa chọn. Mị
đang đứng ở ranh giới ở lại thì chết mà chạy đi có thể được sống. Một khoảnh khắc định mệnh
và Mị phải sáng suốt quyết định.
+ Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Một sự lựa chọn sáng suốt. Chỉ có giải thoát mới mong thay
đổi được số phận, mới được sống đúng nghĩa. Hàng loạt động từ: “Vụt chạy, băng đi, đuổi kịp,
lăn…” cho thấy Mị đã dồn hết sức mạnh cố thoát khỏi cõi chết để tìm đến sự sống. Mị và A
Phủ “đỡ nhau lao chạy” trong niềm thôi thúc mãnh liệt của lòng khao khát được sống tự do.
→ Đây là kết quả tất yếu của một quá trình Mị bị dồn nén, chà đạp. Sức sống tiềm tàng đã
thúc đẩy Mị phản kháng và tự giải thoát mình.
=> Mị, tiêu biểu cho người phụ nữ lao động người Mông nghèo khổ, bị vùi dập trong hoàn
cảnh khắc nghiệt nhưng vẫn tỏa sáng một tâm hồn đẹp: Khát khao tự do, hạnh phúc, dũng
cảm vùng lên giải thoát số phận nghiệt ngã.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1.Nhân vật Mị:
a. Cách giới thiệu nhân vật độc đáo:
Mở đầu tác phẩm, tác giả buộc người đọc phải chú ý hình ảnh: “Người con gái ngồi quay
sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa” và “lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, buồn rười
rượi”, gợi sự tò mò cho người đọc vì là con dâu một gia đình quyền thế, giàu có thì tại sao lại
nhẫn nhục, buồn bã vậy, tại sao lại đơn côi, âm thầm như hòa lẫn vào các vật vô tri vô giác
vậy? Đây là thủ pháp tạo tình huống có vấn đề để lôi cuốn người đọc khám phá những bí ẩn
của số phận nhân vật.
b.Mị thời con gái ( Mị trong quá khứ ):
Mị sinh ra và lớn lên trong nghèo khổ, nhưng rất hạnh phúc với cuộc sống tự do. Thời con
gái Mị đẹp như một bông hoa rừng Hồng Ngài. Có rất nhiều chàng trai theo đuổi: “Có biết
bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
Mị rất yêu lao động, yêu tự do và đặc biệt là ghét bọn nhà giàu. Vì vậy khi thống lí đến
nói với bố Mị về làm dâu trả nợ (Món nợ mà cha mẹ Mị mượn không trả nỗi vì lãi quá cao).
Mị nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay
cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Mị có tài thổi sáo, tiếng sáo của một tâm hồn nhạy cảm, yêu tự do, yêu núi rừng Hồng
Ngài “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Mị đã có người yêu.
Với những phẩm chất tốt đẹp trên, Mị xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc đời
thường. Nhưng người con gái miền sơn cước ấy phải sống những tháng ngày đọa đày trong
đau khổ, tủi nhục bởi chế độ vay nặng lãi đã bóc lột những người nghèo như gia đình Mị một
cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc giai đoạn trước cách mạng tháng tám.
c.Mị trong hiện tại (Sau khi làm dâu thống lí):
* Nguyên nhân Mị rơi vào nhà thống lí:
Mị bị cha con thống lí bắt cóc theo tục cướp vợ của người Mèo. Vào đêm tình mùa xuân,
Mị hồi hộp chờ người yêu đến đón ra rừng chơi, khi thấy ngón tay lách vào khe gỗ, Mị cẩn
thận kiểm tra ngón tay đeo nhẫn của người yêu và giở tấm vách gỗ bước ra thì bỗng “mấy
người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi”. Mị buộc phải làm dâu để
trừ nợ, vì sau khi bắt cóc được Mị rồi, A Sử đến nhà nói với bố Mị: “Tiền bạc để cưới thì bố
tôi đã đưa cả cho bố rồi”. Mị bị cha con thống lí dùng thần quyền để trói buộc cả cuộc đời
bằng cách cúng trình ma.
*Phản ứng đầu tiên của Mị (Sức sống tiềm tang trỗi dậy lần thứ nhất):
Phản ứng đầu tiên của Mị khi về làm dâu nhà thống lí là Mị khóc: “Có đến hàng mấy
tháng đêm nào Mị cũng khóc”. Mị khóc vì tình yêu tan vỡ, vì ghét bọn nhà giàu mà vẫn phải
sống chung với chúng, khóc vì thân phận tủi nhục, phải làm dâu trừ nợ, phải làm một tên nô lệ
không công. Mị quyết định tự tử để tìm được tự do ở thế giới bên kia. Mị về chào cha với nắm
lá ngón trên tay, nhưng vì thương cha già, không đủ sức làm nương ngô trả nợ, Mị đành quay
về nhà thống lí.

*Những tháng ngày làm dâu:


Cha con thống lí biến Mị thành một tên nô lệ không công: “Con ngựa, con trâu làm còn
có lúc đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc
làm cả đêm cả ngày”. Cha con thống lí biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tràn đầy sức sống, yêu
tự do thành một cái xác không hồn: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa
nuôi trong xó cửa”. Mị không suy nghĩ, không nói và không có khái niệm về thời gian và
không gian, bởi cái buồng của Mị giống như nhà tù: “Cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc
cửa sổ bằng gỗ vuông bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng không biết là sương
hay nắng”. Mị giống như một tù nhân bị giam cầm trong một căn buồng mờ tối. Mị nghĩ mình
cứ ngồi trong ấy mà trông ra cho đến bao giờ chết thì thôi.
Tóm lại, cha con thống lí (đại diện cho bọn thống trị phong kiến), đã biến người lao động
miền núi thành những nô lệ không công, cái xác không hồn. Mặt khác tác giả tố cáo tội ác của
bọn thực dân, chúa đất, cảm thông sâu sắc với người lao động nghèo. Đó cũng chính là giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
*Sức sống tiềm tàng, lòng khát khao tự do, hạnh phúc trỗi dậy lần thứ hai:
Nguyên nhân sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy lần thứ hai là: “Mùa đông năm ấy gió và rét
dữ dội”, nhưng mùa xuân cứ đến. Người Mèo dù nghèo khổ đến đâu cũng đi chơi xuân. Đã
lâu rồi, mắt Mị mới nhìn thấy “những chiếc váy hoa sặc sỡ đem phơi trên mõm đá xòe như
con bướm sặc sỡ”, trai gái rủ nhau ra sân, chơi ném pao, thổi sáo, thổi kèn. Mị chợt nhớ đến
mùa xuân năm nào của thời con gái. Tai Mị thì nghe tiếng sáo từ rất xa (lấp ló ngoài đầu núi)
vọng lại, lòng Mị bổi hổi, bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm theo lời bài hát của người đang thổi:
“ Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Sáo vốn là một phần tâm hồn của Mị, thấm vào da thịt Mị, lay động tâm hồn câm lặng
bấy lâu, Mị nhớ lại thời con gái. Buồn quá, Mị uống rượu “cứ uống ừng ực từng bát” như
nuốt cái cay đắng của đời mình. Rượu đã làm Mị lãng quên thực tại (Mị nhìn mọi người nhảy
đồng, hát mà lại không nghe, không thấy gì, thậm chí tiệc rượu tàn lúc nào cũng không biết).
Mị say, nhưng tai Mị vẫn nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại
như những đêm trước thời con gái. Mị suy nghĩ: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau”. Mị quyết định nếu phải sống với A Sử thì Mị sẽ ăn lá ngón chết, nhưng
Mị lại không có lá ngón trong tay. Còn sống thì phải sống tự do, mà biểu hiện đầu tiên của tự
do là đi chơi xuân, vì “Mị còn trẻ, Mị còn trẻ lắm” và từ ngày lấy A Sử, không có năm nào A
Sử cho Mị đi chơi xuân.
Mị đi chơi xuân: Mị từ từ vào buồng, thắp sáng đèn lên như thắp sáng tình yêu, thắp sáng
cuộc sống tự do và hạnh phúc của mình. Đối với Mị đi chơi xuân bây giờ chính là hành động
nỗi loạn để chấm dứt kiếp sống tù nhân, giành lại quyền được sống tự do như một con người,
càng nghĩ Mị càng trở nên mạnh mẽ, quyết liệt, Mị vấn lại tóc, sửa soạn váy áo. Đúng lúc đó
thì A Sử xuất hiện, A Sử ngạc nhiên hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”. Bình thường, Mị rất sợ A
Sử, nhưng hôm nay A Sử hỏi Mị vẫn thản nhiên rút thêm một cái váy hoa. A Sử im lặng rồi
dùng thắt lưng, một thúng dây đay và cả tóc Mị để trói Mị lại. Độc ác hơn là ở buồng riêng
của hai vợ chồng, vì không muốn ai cứu Mị, buộc Mị phải chết, nên hắn tắt đèn, sập cửa
buồng lại rồi đi chơi. Cha con thống lí có thể trói Mị về mặt thể xác, nhưng không thể trói Mị
về mặt tinh thần: “Hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo”, theo cuộc chơi, có lúc vui quá Mị vùng
bước đi nhưng không được vì đang bị trói. Đau khổ, thổn thức, Mị khóc.
*Sức sống tiềm tàng trỗi dậy lần thứ ba (Mị cứu A Phủ):
Nguyên nhân: Sau đêm bị A Sử trói, Mị lại rơi vào cuộc sống âm thầm, lặng lẽ, đau đớn
như trước. Nhưng lòng khát khao tự do lại trỗi dậy khi Mị nhìn thấy A Phủ bị cha con thống lí
đánh đập rất dã man, vì tội đánh A Sử - con quan, cho dù con quan có làm điều bạo ngược. Mị
lại nhìn thấy A Phủ bị trói đứng cho đến chết vì tội để hổ bắt mất một con bò của nhà thống lí.
Mị cứu A Phủ: “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn”, Mị không ngủ được vì
cái lạnh buốt giá của mùa đông, hay cái lạnh cô đơn trong lòng Mị, Mị thường trở dậy làm bạn
với lửa “Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay”, dù cho có bị A Sử đánh ngã ngay xuống bếp, thì Mị
vẫn lặng lẽ như cái bóng, đêm sau lại thổi lửa hơ tay, vì vậy khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị
vẫn thản nhiên “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”, vì cảnh đánh và trói
người ở nhà thống lí là chuyện bình thường.
Đêm nay, Mị lại dậy thổi lửa, hơ tay, ngọn lửa – người bạn duy nhất của Mị bỗng bùng
sáng lên để Mị nhìn thấy A Phủ khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
xám đen lại”. Dòng nước mắt uất hận của A Phủ - Một con người dũng cảm, yêu cuộc sống tự
do và ghét bọn nhà giàu cậy quyền thế làm điều bạo ngược, thế mà giờ đây lại bất lực trước sự
tàn bạo của cha con thống lí. Giọt nước mắt của A Phủ đã tác động vào trái tim Mị, phải chăng
đây là giọt nước mắt cuối cùng của A Phủ trước khi chết đã đưa Mị từ cõi quên trở về cõi
nhớ? Mị nhớ đến ngày nào mình cũng bị A Sử trói, mình cũng khóc “nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Mị bắt đầu biết thương mình và thương cho người đồng
cảnh ngộ bị cha con thống lí đày đọa “trời ơi nó bắt trói đứng người ta cho đến chết”. Mị kết
luận “cơ chừng đêm mai là người kia chết”, chết vì đói, vì rét và đau đớn.
Mị thấy cha con thống lí “chúng nó thật độc ác”, Mị nhận ra sự vô lí “ta là thân đàn bà,
nó bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết ngày rũ xương ở đây thôi”, nhưng “người kia việc
gì phải chết”. Nỗi bất bình ấy, khiến Mị không hề cảm thấy sợ, kể cả khi phải chết thay cho A
Phủ. Rồi Mị tưởng tượng, lúc nào đó A Phủ trốn được, Mị sẽ bị cha con thống lí buộc tội và
Mị bị trói vào cái cột kia “Mị cũng không thấy sợ”. Lòng thương người và căm ghét bọn
thống trị đã trao sức mạnh cho Mị cầm dao, cắt dây, cởi trói cho A Phủ.
A Phủ đi rồi, “Mị đứng lặng trong bóng tối” và bản năng muốn sống, Mị chạy theo A
Phủ. Khi đuổi kịp A Phủ, Mị nói: “A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất”. Mị đâu có sợ chết,
Mị đã từng tìm đến cái chết, vậy câu nói đó hàm nghĩa Mị không muốn tiếp tục cuộc sống như
kiếp trâu ngựa.
Tóm lại, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu
chuyển thành hành động, đấu tranh chống lại cường quyền và thần quyền để đòi cuộc sống tự
do.
2.Nhân vật A Phủ:
a. A Phủ với số phận đặc biệt
Cuộc sống hoang dã ở núi rừng đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, một bản lĩnh
vững vàng trước mọi gian khổ, khó khăn.
b. A Phủ với cá tính đặc biệt:
- Tự lập từ thuở bé, khiến khi lớn lên A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, táo bạo, gan góc. Biết
A Sử là kẻ xấu, ỷ thế con quan nên A Phủ đã thẳng tay trừng trị “chạy vụt ra vung tay ném
con quay rất to vào mặt A Sử…xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống , xé vai áo , đánh
tới tấp”.
→ Hàng loạt động từ mạnh cho thấy sức mạnh, sự ngang tàng của A Phủ trước thế lực cường
quyền.
- A Phủ trả giá rất đắt cho hành động đó, trở thành người làm công gạt nợ cho thống lí; thế
nhưng:
+ Làm lụng vất vả“một thân một mình bôn ba ngoài gò ngoài rừng”, A Phủ vẫn phăng phăng
làm mọi thứ như trước kia.
+ Để hổ ăn mất một con bò, A Phủ vác nửa con bò hổ ăn dở về gặp thống lí nói chuyện đi bắt
hổ một cách thản nhiên.
+ A Phủ lặng lẽ đo lấy cọc, lấy dây mây rồi đóng cọc cho người ta trói thế mạng cho con hổ
cũng rất thản nhiên.
→ A Phủ mạnh mẽ, gan góc. Dù sống kiếp nô lệ nhưng những biểu hiện cho thấy A Phủ vẫn
là một chàng trai của tự do.
- Bị trói đứng nhiều đêm, A Phủ đã khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại”.
→ Đó là lúc A Phủ đã ý thức được nỗi đau của mình, khóc mà uất ức, đau đớn cho số phận
của mình.
- Khi được Mị cứu, A Phủ khuỵu xuống nhưng chợt bừng tỉnh “ quật sức vùng lên chạy”. A
Phủ cũng hiểu được hoàn cảnh của Mị nên đã mang Mị theo cùng.
→ Sức sống mãnh liệt đã chiến thắng áp bức đọa đày.
->Một người như A Phủ thì không dễ gì buông xuôi số phận. Đó là sức mạnh tiềm tàng của
một mầm sống luôn gan lì đối mặt với môi trường khắc nghiệt và vươn lên tìm tới tự do.
=> A Phủ tiêu biễu cho người thanh niên lao động Mông có số phận bất hạnh nhưng có sức
sống mãnh liệt , có tinh thấn phản kháng mạnh mẽ.

III. TỔNG KẾT:


Với ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo, Tô Hoài đã phân tích những diễn biến tâm lí hết sức
phức tạp, nhưng cũng đầy tự nhiên của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông giải cứu A
Phủ. Khác với vẻ ngoài gan góc, mạnh mẽ, bộc trực của A Phủ, nhân vật Mị tuy vẻ ngoài trầm
lắng nhưng đời sống nội tâm lại sôi nổi, phức tạp. Nhưng cũng vì thế mà Tô Hoài đã tái hiện
lại những nỗi đau, sự đè nén của nhân dân lao động miền núi và khát vọng mạnh mẽ của họ
thông qua nhân vật này. Truyện có những đặc sắc về nghệ thuật như: Nghệ thuật trần thuật,
cách miêu tả phong tục tập quán của người miền núi, nghệ thuật xây dựng và khai thác tâm lí
của nhân vật…

9.VỢ NHẶT
- Kim Lân -
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Kim Lân (1920 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Kim Lân là cây bút
chuyên viết về truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân bằng sự am hiểu
sâu sắc, tình cảm chân thành. Tác phẩm chính: “Nên vợ nên chồng” (Tập truyện ngắn – 1955),
“Con chó xấu xí” (Tập truyện ngắn – 1962). Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật 2001.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, nhưng dang dở và thất lạc
bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ viết thành
truyện ngắn “Vợ nhặt”, in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
b.Chủ đề:
Truyện tố cáo thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào cảnh đói thê thảm. Đồng
thời, ca ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao
khát sống, khao khát hạnh phúc và hướng về cách mạng đầy tin tưởng.
c.Tình huống truyện:
Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: Tràng xấu xí, thô kệch, ngờ nghệch, lại còn không
bình thường, nên không ai thèm lấy, bỗng nhặt được vợ một cách dễ dàng, nhanh chóng chỉ
bằng bốn bát bánh đúc và câu nói nửa đùa nửa thật.
*Nhận xét:
- Tình huống lạ lùng: Tràng nghèo xơ, nghèo xác, lại là dân ngụ cư mà “nhặt” được vợ.
- Tình huống éo le: Tràng có vợ thật bất ngờ, ngay trong nạn đói, cái chết luôn đe dọa, ám ảnh
mọi người thì Tràng lại nhặt được vợ với tâm trạng sung sướng.
- Tình huống cảm động: Người dân xóm ngụ cư chia sẻ niềm vui với Tràng. Tràng thì trân
trọng người vợ mới, còn bà cụ Tứ thì rộng lòng đón nhận con dâu.
- Tình huống giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nỗi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác
phẩm.
d. Ý nghĩa nhan đề:
- Nghĩa thực: Vợ nhặt là người vợ không được cưới xin theo phong tục, tập quán của người
Việt.
- Nghĩa liên tưởng:
+ Nhan đề “Vợ nhặt” gợi sự rẻ rúng của con người trong nạn đói 1945.
+ Nhan đề “Vợ nhặt” rất phù hợp với nội dung câu chuyện: Tràng ngờ nghệch, xấu xí, nghèo
không ai thèm lấy, bỗng nhặt được vợ một cách nhanh chóng, chỉ bằng bốn bát bánh đúc và
một câu nói nửa đùa, nửa thật.
+ Nhan đề “Vợ nhặt” góp phần tô đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
e.Tóm tắt tác phẩm:
Truyện kể về nạn đói 1945 ở miền Bắc nước ta. Làng xóm xơ xác, tiêu điều, người chết
như ngả rạ. Giữa lúc ấy, Tràng ( làm nghề kéo xe bò, xấu trai, dân xóm ngụ cư ), nhặt về một
cô vợ là thị ( không nhà cửa, không người thân, không họ hàng ), khiến cả xóm và bà cụ Tứ
kinh ngạc. Thương con, bà cụ Tứ chấp nhận, vui mừng. Bữa cơm đầu tiên họ ăn cháo loãng
với muối, ăn thêm rau chuối thái rối và cháo cám. Bà cụ Tứ khuyên các con bảo ban nhau làm
ăn rồi sẽ khá. Cuối truyện là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ bay
phất phới hiện lên trong óc Tràng.

III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Bức tranh nạn đói 1945:
Bối cảnh: Nạn đói 1945 đang hoành hành dữ dội ở miền Bắc nước ta, làm hơn hai triệu
người chết đói.
Bối cảnh chuyện đã góp phần tô đậm giá trị hiện thực: Tác phẩm phản ánh tình cảnh thê thảm
của nhân dân ta trong nạn đói 1945 do thực dân Pháp, phát xít Nhật gây ra.
2.Nhân vật Tràng:
a. Lai lịch:
Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê để nuôi mẹ già. Nhà Tràng rất
nghèo, nơi ở thật thảm hại: “Cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”. Qua đó, ta thấy thân phận nghèo hèn của Tràng.
b.Ngoại hình:
Tràng xấu xí, thô kệch, mặc “chiếc áo nâu tàng”, “hai con mắt nhỏ tí, cái đầu trọc nhẵn,
lưng to rộng như lưng gấu”. Ngoài ra, Tràng có cách ứng xử lạ lùng “vừa đi vừa nói”, “ngữa
mặt lên trời cười hềnh hệch”. Hay nói khác đi, Tràng là người không bình thường, ngờ
nghệch.
c.Ngôn ngữ:
Tràng ăn nói thật cộc cằn, thô lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn. Nói chuyện với phụ nữ
mà dùng tiếng Tây bồi “rích bố cu, hở!”, thậm chí thô tục “làm đếch gì có vợ”.
d.Tính tình:
Tràng là người hiền lành, vui vẻ, nên trẻ con trong xóm rất mến Tràng. Tràng rất nhân
hậu, thương người cùng cảnh ngộ: Giữa lúc cái đói hoành hành dữ dội, vì đói quá người ta có
thể làm những điều ti tiện, xấu xa để có miếng ăn, để sống sót. Thế mà Tràng sẵn sàng cho
một người đàn bà xa lạ một bữa ăn. Tràng cho thị ăn không phải để trả ơn hay lợi dụng, mà vì
sự cảm thông, vì tình người. Hành động ấy cho thấy Tràng là người hào hiệp, bởi vì bản thân
Tràng đang bị cái đói đe dọa.
e.Tràng nhặt vợ:
Tràng nhặt vợ trong tình huống thật độc đáo, lạ lùng, pha một chút hài hước. Trong cái
đói quay quắt, nên nhớ “cho một miếng ăn là cho nhau sự sống. Gắn thêm một miệng ăn vào
mình là thêm một nguy cơ chết đói”, thế mà Tràng lại nhặt vợ. Điều này thể hiện niềm khát
khao hạnh phúc của Tràng.
Tràng nhặt vợ thật dễ dàng; chỉ bằng câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với
tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Lời nói đó của Tràng là nói đùa, nhưng thái độ của
Tràng đối với thị thì không hề đùa cợt, vì nó xuất phát từ tình người. Thấy người phụ nữ quyết
định theo mình, Tràng rất lo nhưng lại không nỡ từ chối. Tràng nghĩ “thóc gạo này đến cái
thân mình chả biết có nuôi nỗi không, lại còn đèo bồng”. Nhưng lòng khát khao hạnh phúc
khiến Tràng liều lĩnh, đánh cược với cái đói để có vợ, Tràng chặc lưỡi “chậc kệ!”, quyết định
liều lĩnh này là ánh sáng soi tận đáy tâm hồn nghèo nàn, xấu xí khao khát có vợ nhưng không
dám nghĩ đến.
f.Trên đường dẫn vợ về nhà:
Việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn. Dân xóm ngụ cư bàn tán “ai
đấy nhỉ”, rồi họ mừng cho Tràng, khuôn mặt u tối của họ rạng rỡ hẳn lên “hay là vợ anh cu
Tràng”, nhưng nguy cơ chết vì đói đang rình rập, họ lại lo cho Tràng “biết có nuôi nổi nhau
sống qua cái thì này không?”, nên mọi người cùng nín lặng. Còn Tràng thì khác, trên đường
đưa thị về nhà, Tràng như trở thành một con người khác. Tràng không còn cúi xuống với cái
dáng vẻ đầy vất vả, nhọc nhằn “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm
cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Trước những đôi mắt tò mò của người
dân xóm ngụ cư, người đàn bà tỏ ra lúng túng, ngượng nghịu…thì Tràng lại “lấy vậy làm
thích lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Nhưng cũng có lúc, anh lúng túng “tay nọ cứ
xoa xoa vào vai kia”. Kim Lân đã diễn tả vừa sinh động, vừa cụ thể niềm mơ ước hạnh phúc
gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cái đói
và cái chết: Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng
ngày, quên cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong
lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Kể cũng lạ, đói là thế,
khổ là thế, đến cám cũng chẳng có mà ăn, nhưng Tràng vẫn sung sướng, hạnh phúc, Tràng
nâng niu hạnh phúc nên không có cái ăn nhưng vẫn mua “hai hào dầu” để đón “vợ mới”, để
thắp lên niềm tin, lòng trân trọng con người, dẫu người đó là do “nhặt được”.
g. Buổi sáng đầu tiên có vợ:
Tràng đã thực sự thấy cuộc đời mình từ đây thay đổi hẳn. Tràng cảm thấy “trong người
êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng chợt nhận thấy “xung quanh
mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Trong những giờ phút có tính chất bước ngoặt
ấy, con người bỗng thấy mình trưởng thành hơn. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Tràng đã gắn
liền với ý thức, bổn phận và trách nhiệm “bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái
nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”. “Một nguồn
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập vào trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Chữ “người” được nhà văn sử
dụng như xác nhận sự biến đổi ở nhân vật Tràng. Từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý
thức, Tràng đã phục sinh tâm hồn nhờ hạnh phúc mới đến.
Ở đoạn cuối truyện, nhờ những thông tin của vợ, Tràng đã hiểu biết hơn về phong trào
Việt Minh. Trong đầu anh đã xuất hiện hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, tín hiệu của sự đổi đời.
Anh nông dân thất học, xa lạ với chính trị, nay lại khát khao một sự đổi thay. Đó không còn là
mơ ước viễn vông, mà có cơ sở từ hiện thực cuộc sống. Câu chuyện khép lại nhưng số phận,
tương lai của nhân vật lại được mở ra, hướng về ánh sáng và niềm tin. Đó chính là giá trị nhân
đạo và nhân văn của tác phẩm.
3.Nhân vật người vợ nhặt (thị):
a. Hoàn cảnh:
Thị là một người phụ nữ lao động nghèo: không nhà cửa, không họ hàng, không nghề
nghiệp, ngay cả cái tên riêng thị cũng chẳng có. Nhà văn chỉ gọi: thị, cô ả, người đàn bà,
người con dâu. Hàng ngày, thị ngồi trước cửa nhà kho để nhặt thóc rơi, hoặc ai kêu gì làm
nấy.
b.Lần thứ nhất gặp Tràng:
Lần đầu gặp Tràng, Tràng kéo xe bò nặng nên Tràng hò cho đỡ mệt, thị hồn nhiên vui vẻ
đẩy xe bò giúp Tràng, còn táo bạo gọi Tràng “nhà tôi ơi” và đưa mắt cười tình với Tràng.
c.Lần thứ hai gặp Tràng:
Cái đói đã tàn phá ghê gớm ngoại hình của thị “quần áo rách tả tơi như tổ đỉa”, “bộ
ngực gầy lép”, “người gầy xọp hẳn đi trên gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt”.
Chỉ vì đói quá thị đã vinh vào câu hò tầm phào của Tràng “muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”, để gợi ý đòi ăn, nên vừa thấy Tràng ngồi uống nước ở
cổng chợ, thị rầm rập chạy đến mắng vào Tràng “điêu! Người thế mà điêu!”. Được Tràng mời
uống nước, ăn trầu, thị trơ trẻn nói “có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Khi được Tràng cho ăn, vì
đói quá thị sà xuống “cắm đầu xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, thị ăn không kịp thở và
chẳng chuyện trò gì. Đáng thương hơn, thị chấp nhận làm “vợ theo” chỉ sau một câu nói nửa
đùa nửa thật của Tràng. Như vậy, cái đói đã đánh cướp lòng tự trọng, nhân cách con người.
Trên dòng sông đói khát, thị là người sắp chết đuối vì đói, mà Tràng là cái phao, nên thị chẳng
còn lựa chọn nào khác là theo Tràng để được sống.
d.Trên đường theo Tràng về nhà:
Khi chấp nhận theo Tràng về nhà, thị đã trở thành một con người khác, một cô dâu vừa e
thẹn vừa rón rén về nhà chồng “đi sau hắn chừng ba bốn bước, cắp cái thúng con, đầu hơi cúi
xuống, cái nón rách nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi thấy mọi người trong xóm
ngụ cư nhìn chăm chăm vào mình và bàn tán, chị “càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu vào
cả vào chân kia”.
e.Thị về nhà Tràng:
Lúc về đến nhà Tràng, thị nhìn thấy căn nhà của Tràng hoang tàn, xơ xác thì “cái ngực
gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Dưới ngòi bút nhân hậu của Kim Lân, người “vợ
nhặt” không tìm được no ấm nhưng chị đã tìm được sự đầm ấm của một gia đình. Nhà văn đã
miêu tả rất tinh tế, cảm động cái thế ngồi rụt rè, ch6ng chênh của chị “ngồi mớm ở mép
giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”, dáng điệu “nàng dâu mới” e lệ, khép
nép trước bà cụ Tứ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo rách bợt”. Lúc ở bên Tràng, người đàn
bà đã thể hiện niềm khát khao hạnh phúc qua những cử chỉ thân mật như “thị phát đánh đét
vào lưng hắn”, “giơ tay củng vào trán hắn”,…Khi được đón nhận yêu thương, thị như một
con người bơ vơ, đứng bên bờ vực của nạn đói, nay đã tìm được một chốn dung thân êm đềm.
Ở nhà Tràng, sáng hôm sau có một sự thay đổi khá lạ lùng “nhà cửa, sân vườn được quét
tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa đã đem ra sân hong. Hai
cái ang nước đầy ăm ắp, đống rác mùn ngay lối đi đã được hót sạch”. Chính thị đã dọn dẹp,
thu vén ngôi nhà. Điều này chứng tỏ tính nết đảm đang của một người vợ hiền. Vậy cũng như
Tràng, thị đã thay đổi hẳn “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng
mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏng như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
4. Nhân vật bà cụ Tứ:
4.1. Ngoại hình:
Bà cụ Tứ là một nông dân nghèo, già nua, ốm yếu “bước lọng khọng, húng hắng ho”.
4.2.Vẻ đẹp nội tâm:
Không phải ngẫu nhiên tác giả để cho nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện sau những bồn chồn, lo
lắng của Tràng. Bởi vì, Tràng vừa làm một việc “động trời”, đó là nhặt một người đàn bà xa lạ
ở ngoài đường về làm vợ trong lúc đói kém. Điều Tràng sợ là mẹ không chấp nhận.
a.Bà cụ Tứ ngạc nhiên:
Bà cụ Tứ không hay biết một chút gì về chuyện “nhặt vợ” của Tràng, nên bà rất ngạc
nhiên khi nhìn thấy người đàn bà xa lạ trong nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập đến với bà:
“Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” , “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u ?”…
b.Bà hiểu ra:
Khi nghe Tràng giải thích sự việc “vợ nhặt” bà hiểu ngay, bà “cúi đầu nín lặng”. Bởi
cảnh nghèo đói của thị đã phơi bày ra hết ở cái vẻ bề ngoài “áo quần tả tơi như tổ đĩa”…,
“Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Bà nhìn cô con dâu đang vân
vê tà áo rách, bà thấu hiểu sự tình.
c.Bà hờn tủi, xót thương:
Chỉ cần một thoáng ích kỷ của bà mẹ đang trong nghèo khổ, đói khát, thì bà sẽ mắng mỏ
con trai và xua đuổi người đàn bà kia. Nhưng từ giây phút hiểu ra cơ sự, lòng bà tràn ngập hờn
tủi, xót thương. Bà xót thương cho con lấy vợ trong giai đoạn đói khát thê thảm thế này. Bà
hờn tủi cho mình, làm mẹ mà không lo nổi cho con một mâm cơm ra mắt họ hàng. Bà nhớ lại
cả một cuộc đời dài đằng đẳng, nghèo khổ, cực nhọc của mình, của người chồng đã chết, trong
kẽ mắt của bà “rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
d.Bà vui mừng và lo lắng:
Tràng “nhặt vợ”, bà nửa mừng nửa lo. Là mẹ, bà mừng lòng chứ không phải là bằng lòng,
có nghĩa là bà vui mừng chấp nhận thị, bà bảo “Ừ ! Thôi thì các con phải duyên, phải kiếp với
nhau u cũng mừng lòng”. Con trai đã có vợ, yên bề gia thất, nhưng bà không khỏi lo lắng cho
đôi vợ chồng “mới cưới”: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát
này không?”.
e.Bà cảm thông cho con dâu:
Bao nhiêu lo lắng, hờn tủi bà giữ lại trong lòng, bà trao tình thương cho con, cho người
phụ nữ xa lạ, nghèo đói ấy. Bà đón nhận thị bằng sự cảm thông, dù bà biết rằng, cô ta lấy con
trai mình vì sắp chết đói “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được” … Rồi bà suy nghĩ thật nhân hậu, bao dung “bà lão
nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu, là con trong nhà mình rồi”. Bà
tâm sự với con dâu về cảnh nghèo khổ, để xóa đi khoảng cách giữa hai người.
f.Bà khuyên con chí tình, đôn hậu:
Bà mẹ già nghèo khổ ấy, cố tìm những lời lẽ để xóa đi hai chữ “vợ nhặt” cho con trai và con
dâu. Bà an ủi con “có ra làm dăm ba mâm thì phải, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai chấp
nhặt chi cái lúc này”, bà còn chỉ cho con sức mạnh của sự đồng thuận vợ chồng “chúng mày
hòa thuận là u mừng rồi”, câu nói gợi nhớ đến lời dạy của dân gian “thuận vợ, thuận chồng
tát bể Đông cũng cạn”.
g.Bà gieo vào lòng con niềm hi vọng:
Có đôi lần bà cụ Tứ quay đi, giấu những giọt nước mắt lo lắng, hờn tủi. Bởi vì xung
quanh ngôi nhà xiêu vẹo là cả một vùng quê sầm tối lại vì cái đói đe dọa, tiếng khóc hờ tỉ tê,
mùi đốt đống rấm của nhà có người mới chết đói bay vào. Nhưng bà đã vượt lên sự lo âu để
tin tưởng vào sự sống, vào tương lai của các con. Bà dùng lời yêu thương để an ủi, động viên
con “ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà nhắc Tràng
đan lấy tấm liếp mà ngăn buồng ra, nuôi lấy một đôi gà, đó là bà nghĩ về một cuộc sống lâu
dài.
h.Bà hành động:
Sáng hôm sau, bà cụ Tứ dậy sớm, cùng con dâu thu dọn nhà cửa với một niềm tin: nhà
cửa sạch sẽ thì điều may mắn sẽ đến. Gương mặt bà tươi vui hẳn lên “cái mặt bủng beo u ám
của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới là niêu cháo loãng, ăn với muối
và một lùm rau chuối thái rối, nhưng cả nhà ăn rất ngon. Bà cụ Tứ toàn kể chuyện vui, chuyện
làm ăn, chuyện sung sướng về sau. Ăn hết cháo loãng, bà còn mừng nàng dâu mới bằng nồi
chè khoán (cháo cám) mà bà âm thầm nấu từ sớm vì bà biết cháo không đủ ăn.
*Tóm lại: Nhân vật bà cụ Tứ điển hình cho người mẹ Việt Nam tuy nghèo khổ, đắng cay, mà
rất thương con, đầy lòng hi sinh, giàu lòng vị tha, nhân hậu. Đó chính là giá trị nhân đạo của
tác phẩm.

IV. TỔNG KẾT:


1. Nội dung:
a. Giá trị hiện thực
Phản ánh chân thực nạn đói năm 1945. Lên án thực dân, phát xít đã đẩy người lao động Việt
Nam vào cảnh khốn cùng
b.Giá trị nhân đạo
Xót xa, thương cảm trước cảnh ngộ bi đát của con người trong nạn đói. Phát hiện, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Hướng tới một tương lai tốt đẹp.
2.Nghệ thuật:
Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện rất độc đáo. Cách kể chuyện tự nhiên,
hấp dẫn. Miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với khẩu ngữ,
nhưng có sự lựa chọn kĩ lưỡng, gây ấn tượng với người đọc.
10.RỪNG XÀ NU
- Nguyễn Trung Thành –

I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, bút danh khác là Nguyên Ngọc, sinh
năm 1930, quê ở Quảng Nam. Các tác phẩm chính “Đất nước đứng lên”, “Rẻo cao”, “Trên
quê hương những anh hùng Điện Ngọc”…Nguyễn Trung Thành là nhà văn rất có duyên với
mảnh đất Tây Nguyên. Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết về cuộc sống và con
người Tây Nguyên. Trong đó “Rừng xà nu” được đánh giá là “sử thi Tây Nguyên” thời chống
Mĩ.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Mùa hè năm 1965, đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Trong hoàn cảnh ấy,
Nguyễn Trung Thành muốn viết một bản “hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ. Truyện ngắn “rừng xà
nu” ra đời như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên
nói riêng và đồng bào cả nước nói chung.
Truyện được đăng lần đầu trên tạp chí “Quân giải phóng Trung Trung Bộ”, số 2, 1965,
sau đó được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
b.Chủ đề và ý nghĩa nhan đề:
Chủ đề: Thông qua câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man,
tác giả ca ngợi tinh thần quật khởi của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ.
Ý nghĩa nhan đề: Cây xà nu, rừng xà nu gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên, là biểu
tượng cho phẩm chất cao đẹp của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói
chung. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ
thuật của nhà văn được khơi nguồn từ cây xà nu, rừng xà nu.
c.Mối quan hệ giữa Tnú và rừng xà nu:
Hai hình tượng này không tách rời nhau, mà gắn bó, bổ sung cho nhau để trở nên hoàn
chỉnh. Rừng xà nu sẽ mãi mãi phát triển tới chân trời trong xanh bất diệt, nên con người thấm
thía bài học: Chúng nó cầm súng thì chúng ta cầm giáo mác, được rút ra từ cuộc đời Tnú. Mặt
khác, Tnú cầm vũ khí đứng lên là để cho cánh rừng kia mãi mãi sinh sôi.
d.Tóm tắt tác phẩm:
Tác phẩm “rừng xà nu” gồm hai câu chuyện đan cài vào nhau. Truyện về cuộc đời Tnú,
lồng vào chuyện nổi dậy của dân làng Xô – man. Tnú tham gia cách mạng, để bắt cho được
Tnú, giặc Mĩ bắt vợ con anh, rồi dùng cây sắt đánh đập dã man cho đến chết. Tnú xông ra cứu
vợ con thì bị giặc Mĩ bắt. Giặc dùng nhựa cây xà nu đốt mười đầu ngón tay Tnú. Dân làng Xô
– man vùng lên cứu Tnú. Tnú tham gia lực lượng giải phóng quân để trả thù nhà, nợ nước và
ba năm sau Tnú về thăm quê hương, bản làng.

III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Hình tượng cây xà nu:
a. Nghĩa thực:
Cây xà nu đẹp ở dáng vẻ, màu sắc, hương thơm mà những loài cây khác không có được:
Những cây xà nu “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên, lao thẳng lên bầu trời”. Đó là vẻ đẹp
mạnh mẽ, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Nhựa xà nu “thơm ngào ngạt”, “thơm mỡ màng”,
đầy quyến rũ.
Cây xà nu đẹp ở sự gắn bó mật thiết với người Tây Nguyên: Cây xà nu là loại cây đặc
trưng của núi rừng Tây Nguyên, tác giả đã hai mươi lần nói đến rừng xà nu ở nhiều góc độ
khác nhau: cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu…và bao trùm
là rừng xà nu. Cây xà nu gắn bó với cuộc sống dân làng Xô – man. Củi xà nu dùng làm chất
đốt trong bếp ăn gia đình, củi xà nu còn dùng để soi sáng nhà ưng để dân làng Xô – man hội
họp, khói xà nu dùng để xông bảng đen cho trẻ em học chữ…Ngoài ra cây xà nu còn tham dự
vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô – man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngọn
đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi
dậy. Đuốc xà nu rực sáng đêm đồng khởi. Đặc biệt, cây xà nu còn gắn với kỉ niệm đau buồn
của dân làng, đó là giặc đốt mười ngón tay Tnú bằng nhựa xà nu. Cụ Mết kể chuyện cuộc đời
Tnú dưới ánh lửa xà nu.
b.Nghĩa tượng trưng:
Cây xà nu trước bom đạn giặc Mĩ: Mở đầu tác phẩm là “đến tầm mắt, cũng không thấy gì
khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”, kết thúc tác phẩm cũng câu nói ấy nhưng
chỉ khác mỗi chữ “đồi” thành chữ “rừng”. Phải chăng Nguyễn Trung Thành muốn ca ngợi sức
sống dẻo dai, mãnh liệt của cây xà nu dưới bom đạn giặc Mĩ “hầu hết đạn đại bác của đồn
giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”, cũng là của con người Tây
Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Cây xà nu tượng trưng cho những phẩm chất của dân làng Xô – man:
Cây xà nu chịu nhiều đau thương mất mát: Bom đạn của giặc Mĩ đã tàn phá những
cánh rừng xà nu “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương”, thậm
chí “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão, chổ vết
thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh dưới ánh nắng hè gay gắt rồi dần dần
bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, có những cây non “nhựa còn trong, chất
dầu còn loãng” vết thương không thể lành được nên năm ba hôm thì cây chết. Chi tiết này gợi
lên bao mất mát, hi sinh mà dân làng Xô – man phải nếm trải. Trong mỗi dáng cây xà nu bị
chặt đứt, hoặc mang đầy thương tích như có một cuộc đời, một con người Xô – man hiển hiện
lên. Bà Nhan, anh Xút bị bọn giặc chặt đầu treo trên cây vả, hoặc cột tóc treo trên mũi súng.
Mai và đứa con chưa đầy một tháng tuổi bị giặc dùng cây sắt đánh đập cho đến chết. Đôi bàn
tay Tnú bị giặc dùng nhựa cây xà nu đốt cháy.
Cây xà nu có sức sống mãnh liệt: Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, nó sinh sôi nảy nở rất
nhanh, bất chấp sự tàn phá, giết chóc của giặc Mĩ “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn
năm cây mọc lên”, giúp người đọc liên tưởng đến sự tiếp nối truyền thống cách mạng của dân
làng Xô – man , lớp trước hi sinh thì lớp sau tiếp tục, anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai. Mai
ngả xuống khi tuổi tràn đầy sức sống thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi
bộ, rồi bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang tiếp bước con đường của Dít.
Cây xà nu rất ham ánh sáng mặt trời:“Trong rừng ít có loại cây nào ham ánh sáng mặt
trời đến thế chúng phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng”, cũng giống như dân làng Xô –
man vì yêu ánh sáng cuộc sống tự do nên họ tìm cách vươn đến cách mạng, đến với Đảng, như
lời cụ Mết dạy dân làng “Đảng còn, núi nước này còn”.
Cây xà nu tượng cho nhiều thế hệ dân làng Xô – man: Tác giả đã miêu tả ba lứa cây (cổ
thụ, trưởng thành và cây non), tượng trưng cho ba thế hệ con người. Những cây cổ thụ đại
diện cho lớp người già như cụ Mết. Bom đạn không thể quật ngã cây cổ thụ, chúng che chở
cho cả cánh rừng. Cụ Mết trụ vững trên mảnh đất Tây Nguyên, là chổ dựa vững chắc cho cả
buôn làng trong kháng chiến chống Mĩ. Những cây xà nu trưởng thành tượng trưng cho lớp
thanh niên như Tnú, Mai, Dít. Lớp người ấy lớn lên trong đấu tranh và chịu nhiều đau thương
mất mát, nhưng vô cùng anh dũng, kiên cường, cũng giống như cây xà nu lớn lên trong tầm
đại bác của giặc một cách mãnh liệt. Những cây xà nu mới mọc tượng trưng cho lớp thiếu
niên, nhi đồng như bé Heng. Cây xà nu mới mọc vừa nhô khỏi mặt đất đã nhọn hoắt mũi tên
lao thẳng lên bầu trời. Bé Heng tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã là tay súng của du kích làng. Vậy
nếu nhựa xà nu được truyền từ cây cổ thụ sang cây non mới mọc, thì dòng máu Tây Nguyên
bất khuất trước kẻ thù được truyền nguyên vẹn từ lồng ngực thế hệ già sang trái tim thế hệ trẻ.
Hình tượng xà nu đẹp như hình tượng thơ làm cho truyện giàu chất sử thi.
Cây xà nu biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của Tây Nguyên: Những con người Tây
Nguyên thật thà, giàu tình thương yêu, đoàn kết, giống như cây xà nu nương tựa vào nhau, lớn
lên trong bom đạn. Cụ mết nói “không cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, sức mạnh ấy thể
hiện qua cuộc đồng khởi của dân làng Xô – man.
Tóm lại: Bằng ngòi bút giàu chất sử thi và tình yêu sâu nặng với Tây Nguyên, tác giả đã chọn
cây xà nu, loài cây đặc trưng ở Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu là một hình tượng ẩn dụ,
tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng và nhân dân Việt Nam
nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
2.Nhân vật Tnú:
Trong dụng ý nghệ thuật của mình, Nguyễn Trung Thành nói “rừng xà nu là là truyện
của một đời, được kể trong một đêm”. Người một cuộc đời được kể trong một đêm ấy chính là
nhân vật Tnú.
a.Tnú trung thành với cách mạng:
Tnú không phải tìm đường đến với cách mạng như A Phủ. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ
nhưng may mắn được dân làng Xô – man nuôi dưỡng. Được cụ Mết dạy cho tình yêu cách
mạng, lại được sống gần anh Quyết – một chiến sĩ cách mạng kiên cường, nên từ nhỏ Tnú
được tham gia vào việc nuôi giấu cán bộ cách mạng và luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách
xuất sắc, với một tinh thần trách nhiệm cao, nhiều đêm Tnú phải ngủ trong rừng vì sợ “lỡ giặc
lùng, ai dẫn cán bộ chạy”. Tnú luôn nghe lời chỉ dạy của cán bộ cách mạng, được anh Quyết
dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học. Không có bảng, không có phấn “Tnú lấy tre
nứa làm bảng”, “Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng
làm phấn”. Trong lúc học chữ, Tnú tỏ ra tối dạ, học hoài không nhớ, Tnú lấy đá tự đập đầu
chảy máu, nhưng chỉ một lời động viên của anh Quyết “không học chữ làm sao làm được cán
bộ giỏi”, câu nói ấy đã truyền thêm sức mạnh để Tnú học tốt, với mục đích sau này thay anh
Quyết lãnh đạo phong trào cách mạng quê hương mình.
b.Tnú gan dạ, dũng cảm, mưu trí:
Làm giao liên, Tnú tỏ ra rất gan dạ, mưu trí. Anh không bao giờ chịu đi đường mòn, giặc
vây các ngả, Tnú nhìn quanh một lượt “xé rừng mà đi”. Qua sông anh không lựa chổ nước êm
mà cứ “lựa chổ thác mạnh” để bơi ngang, vì Tnú biết rằng “qua chổ nước êm thằng Mĩ –
Diệm hay phục, chổ nước mạnh nó không ngờ”.Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt luôn thư vào bụng,
cam chịu tù đày, tra tấn chứ nhất định không khai, một lòng trung thành với cách mạng. Khi
giặc đốt mười đầu ngón tay, Tnú gan dạ không hề kêu than, mà cắn rang chịu đựng “răng anh
đã cắn nát môi rồi”…Tnú còn là một con người giàu ý chí nghị lực, biết vượt lên nổi đau gia
đình, bi kịch cá nhân để sống đẹp, sống đúng, sống có ý nghĩa. Thuở nhỏ đã chịu cảnh mồ côi
cha mẹ, nhưng biết noi theo gương cụ Mết, dân làng Xô – man đi nuôi giấu cán bộ. Lớn lên
phải tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù đánh chết. Bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón
tay nhưng anh vẫn dùng bàn tay cầm súng đi theo con đường cách mạng trả thù nhà, đền nợ
nước. Đúng như lời cụ Mết nhận định về Tnú “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối
làng ta”.
c.Tnú thương yêu quê hương bản làng:
Tnú sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa những con người mộc
mạc, chân tình, cho nên Tnú rất yêu thương bản làng của mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản
làng, khi trở về Tnú vô cùng xúc động, anh nhớ từng hàng cây, con đường, dòng suối mát và
nhớ nhất là tiếng chày giã gạo. Tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà, những
cô gái Strá, của mẹ anh thời xa xưa, của Mai, của Dít, bởi từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng
chày đó rồi.
d.Tnú rất yêu thương vợ con:
Tnú yêu Mai bằng một tình yêu chân thành và mãnh liệt, vì nó bắt nguồn từ tình bạn bè,
tình đồng chí. Ba năm đi bộ đội, khi trở về làng nhìn thấy gốc cây xà nu, nơi mà ngày xưa khi
Mai đứng đón anh khi anh đi tù về, những kỉ niệm thời thơ ấu, lúc yêu nhau lại ùa về “những
kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao”. Ngày con Tnú chào đời, vì bận công tác cách
mạng, Tnú không đi Kon Tum mua vải cho con được, Tnú phải xé đôi tấm đồ của mình ra làm
tấm choàng cho Mai địu con. Vì bí mật cách mạng, Tnú buộc phải núp sau gốc cây và chứng
kiến kẻ thù man rợ dùng cây sắt đánh đập, tra tấn dã man vợ con anh, chúng thực hiện mưu
“bắt được cọp cái và cọp con, tức sẽ dụ được con cọp đực”. Tnú đau đớn dữ dội nhưng anh
không làm gì được, tay anh bóp hàng chục trái vả mà không hề hay biết. Khi nghe tiếng con ré
lên rồi im bặt, căm thù dồn nén không chịu được nữa, Tnú lao vào lũ giặc với một tiếng thét
lớn “Tao đây, Tnú đây”. Rồi anh hành động thật đẹp “anh dang hai cánh tay rộng lớn như
hai cánh lim chắc ôm lấy mẹ con Mai”, mặc dù anh hiểu rằng sau đó anh sẽ bị giặc bắt và giết
chết. Tnú không cứu được hai mẹ con Mai vì Tnú chỉ có hai bàn tay không. Dân làng thương
Tnú nhưng cũng không làm gì được cho anh vì họ cũng chỉ có hai bàn tay không.
e.Tnú rất căm thù giặc:
Lòng căm thù giặc của Tnú mang đậm chất Tây Nguyên. Tnú mang trong tim ba mối thù:
Mối thù của bản thân (Lưng Tnú dọc ngang vết dao giặc chém, mười đầu ngón tay bị đốt),
mối thù gia đình (Vợ con chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc), mối thù buôn làng ( Tnú
không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu bị tàn phá, những người dân vô tội bị sát
hại). Khi Tnú buộc phải nhìn cảnh vợ con mình bị giặc tra tấn, căm thù dồn nén đã biến đôi
mắt anh thành “hai cục lửa lớn”. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu, ngay lập
tức mười đầu ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc, lửa từ mười đầu ngón tay thiêu đốt gan
ruột Tnú đau đớn“anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở
trong lồng ngực, cháy ở bụng”. Anh không hề kêu than mà cắn răng chịu đựng, rồi căm thù
biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng, tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều
tiếng thét, tạo thành sức mạnh căm hờn để dân làng Xô – man vùng lên giết sạch một tiểu đội
Mĩ. Lòng căm thù của Tnú còn được thể hiện ở việc Tnú dùng chính bàn tay thương tật của
mình cầm súng trả thù nhà, nợ nước.
f.Tnú có tính kỷ luật cao:
Ba năm tham gia lực lượng giải phóng quân, Tnú rất nhớ nhà, nhớ quê hương. Được cấp
trên cho phép về một đêm và Tnú cũng chỉ về một đêm đúng quy định.
g.Tnú mang tính cách của người Tây Nguyên:
Tnú mạnh mẽ và kiên quyết trong căm thù, Tnú trả thù một cách lạnh lùng và dứt khoát.
Vẻ đẹp Tây Nguyên còn kết tụ tại hai bàn tay Tnú: Bàn tay trung thực ấy dám lấy đá đập vào
đầu để trừng phạt mình vì học hay quên. Bàn tay ấy đã từng đặt lên bụng mình và nói với giặc
“cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của
giặc. Bàn tay Tnú là bàn tay của sự hận thù, vì bàn tay ấy đã thành thương tật do giặc Mĩ gây
ra. Bàn tay Tnú là bàn tay của sự trả thù, mặc dù bàn tay Tnú đã thành thương tật Tnú vẫn cầm
súng trả thù nhà, nợ nước.
*Tóm lại: Câu chuyện về cuộc đời và con đường cách mạng của Tnú, tiêu biểu cho số phận
và con đường cách mạng của dân tộc Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước.
IV. TỔNG KẾT:
“Rừng xà nu” là một thiên mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi
hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào
hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hóa Tây Nguyên. Thông qua câu
chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn,
xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự
sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng
nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

***************************************************************************

11.CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


- Nguyễn Minh Châu –
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An.
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và chiến đấu tại
sư đoàn 320.- Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang tạp chí văn nghệ
quân đội.
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh
Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật
đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con
người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện
nhân cách.
- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện
nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính : “Dấu chân người lính”,“Chiếc thuyền ngoài xa”,...
2. Xuất xứ:
- “Chiếc thuyền ngoài” xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã
đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn
hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
- Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội,
khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
3. Tóm tắt:
- Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền
Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau.
- Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời
cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.
- Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc
thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo
vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.
- Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp...
- Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài
đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất
quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do
giải thích cho sự từ chối trên.
- Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh
vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người
nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ
anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.
4. Nhan đề:
- “Chiếc thuyền ngoài xa” trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới
sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình
được thanh lọc.
- Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của
những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ
sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ
thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.
- Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.
5. Tình huống truyện:
- Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh
về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng
“trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.
Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh
đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời
đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà
hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn
bạo.
- Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống,
chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí
của đời thường.
- Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng
đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với
người đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn
đời, nhìn người trong cuộc sống.

II. DÀN Ý CHI TIẾT:


1. Nhân vật Phùng:
a. Thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
* Phùng là người yêu nghề, có trách nhiệm với nghề:
- Anh đã phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào.
- Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm anh mới chụp được bức ảnh ưng ý.
->Phùng không đơn giản, qua loa với công việc mà anh luôn hết lòng vì công việc.
* Phùng là một nghệ sĩ tài năng:
- Anh đã phát hiện bức tranh thiên nhiên giàu giá trị nghệ thuật:
+ Trước mặt Phùng là một khung cảnh thiên nhiên như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ
thời cổ”.
+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút
màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào”.
+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,
đang hướng mặt vào bờ”.
+ Khung cảnh được nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó giống hệt
“cánh một con dơi”, đẹp từ đường nét đến ánh sáng.
->Phùng là người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh tường,
"nhà nghề” để lựa chọn cái đẹp hài hoà giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người - vẻ đẹp mà cả
đời bấm máy anh chỉ gặp một lần.
* Phùng là người nghệ sĩ thật sự rung cảm trước cái đẹp:
- Cái đẹp đã làm Phùng xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình.
+ Anh liên tưởng tới câu nói của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
+ Và tưởng chính mình vừa khám phá “cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn".
->Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, khi cảm nhận cái đẹp hài
hoà, lãng mạn giữa thiên nhiên và cuộc đời. Trong hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” giữa
biển trời mờ sương, Phùng đã cảm nhận cái đẹp toàn bích và thấy tâm hồn mình như được
gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và
mang cái đẹp đến cho đời.
* Nhân vật Phùng thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
- Qua việc khám phá bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” của Phùng, tác giả muốn đề ra một
quan niệm về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục
vụ cho cuộc sống; người nghệ sĩ phải có tài năng, có sự lao động miệt mài và phải có sự xúc
động trước cái đẹp thì mới sáng tạo được những tác phẩm có giá trị.
b. Nhân vật Phùng thể hiện cách nhìn về cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
* Phùng là người có tấm lòng nhân hậu:
- Chưa thoả thuê ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” thì ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm
thẳng vào nơi Phùng đứng.
- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ bước ra một
người đàn bà xấu xí, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, đánh vợ như một phương cách để giải
tỏa những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh
vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.
- Chứng kiến cảnh ấy, Phùng đã “kinh ngạc đến mức (…) há mồm ra mà nhìn” rồi sau đó thì
“vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác
(con lão đàn ông) đã kịp tới để che chở cho người mẹ .
- Đến lần thứ hai, bản chất người lính ở người nghệ sĩ được thể hiện. Anh xông ra buộc lão
đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác … Hành động của Phùng cho thấy anh không thể
làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác.
->Đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng
phải là “đạo đức”, là “chân lí của sự toàn thiện” mà nó là những ngang trái, xấu xa, những
bi kịch còn tồn tại trong cuộc sống.
* Phùng luôn ý thức để hoàn thiện nhân cách:
- Tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa”, cảnh người đàn ông đáng
vợ và khi lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án (vì tình thương con, vì ý thức phải
sống cho con, vì mong nuôi con cho đến khi khôn lớn mà chị chấp nhận gánh lấy cái khổ),
Phùng nhận thức rất nhiều điều qua các cảnh ấy.
+ Đằng sau bức ảnh như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” là những điều nghịch
lý trong cuộc sống đời thường với biết bao số phận, bao mảnh đời éo le.
+ Để Phùng chứng kiến hành động vũ phu của người chồng, Nguyễn Minh Châu muốn phê
phán tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại.
+ Phùng đã hiểu về người đàn bà hàng chài kia: Ẩn bên trong sự xấu xí, nhẫn nhục là vẻ đẹp
tình mẫu tử đầy vị tha, là khát khao hạnh phúc bình dị đời thường của người phụ nữ còn đói
nghèo, lạc hậu.
+ Nỗi trăn trở của Phùng trong nhiều năm dài về hình ảnh người đàn bà hàng chài cứ hiện ra
sau mỗi lần anh ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” chính là quá trình tự ý thức của Phùng
để hoàn thiện nhân cách của mình.
=>Phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ
của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà
văn về nhân cách, đời sống con người; bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ
đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài
a. Số phận:
- Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng – người nghệ sĩ
nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị.
+ Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định. Có lẽ đây
là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
+ Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác,
nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm
nhất trong truyện ngắn.
-> Cách gọi tên nhân vật như vậy vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng
lại vừa xác định.
– Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên một
chiếc thuyền đánh cá.
– Chị là một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị
thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
-> Nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời
tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta.
b. Ngoại hình:
- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người phụ
nữ có ngoại hình thô kệch, xấu xí.
-> Người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở vùng
biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải đặt trong
vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.
c. Phẩm chất, tính cách:
– Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách bình tĩnh như
thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình, chấp nhận
nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn vậy.
– Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người
khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy “đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục
nhã”. Và chị đã khóc.
– Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường
xuyên hành hạ chị: “Con lạy quý toà… Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
đừng bắt con bỏ nó”.
– Chị là người mẹ thương con:
+ Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột
mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị
thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản.
+ Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ.
Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất
được!”. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người
đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn
lên,…
– Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt.
+ Chị xưng hô: quý toà – con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu khuyên
chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định: “Lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của
những người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Chị quả rất hiểu lẽ đời.
+ Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình
đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi,
khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn
cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa
con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng
những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.
– Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: “Trên thuyền
cũng có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn no”.
Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không chấp
nhận.
-> Ở Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về
hình ảnh ngừơi đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa
ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con
hơn tất cả mọi thứ trên đời.
=> Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không khỏi
băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ như người
đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc hoạ rõ nét chân dung
người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tinh
thần nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm,
phải có niềm tin vào cuộc đời.
6. Đặc sắc nghệ thuật
- Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
- Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân
thực, giàu sức thuyết phục (ngôi kể là nhân vật.
- Ngôn ngữ các nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa
nghĩa.

III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Tình huống khám phá (Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh đẹp):
a. Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh thiên nhiên đẹp:
Phùng xuất thân là bộ đội, hiện là một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, luôn khao khát đi tìm cái
đẹp. Phùng phát hiện ra bức tranh đẹp ở vùng biển miền Trung. Đó là một chiếc thuyền ngoài
xa trong sương sớm “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi
thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa, có pha đôi chút màu hồng
do ánh mặt trời chiếu vào”. Và bức tranh còn đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người“vài
bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum” đang
hướng mũi vào bờ. Như vậy, con người đã làm cho bức tranh có bố cục hài hòa, sinh động từ
đường nét đến ánh sáng.
b.Tâm trạng của Phùng khi phát hiện ra bức tranh đẹp:
Khi phát hiện ra bức tranh đẹp, Phùng cảm thấy bối rối như bị bóp nghẹt trái tim, bởi vì
tâm hồn người nghệ sĩ chân chính ấy đã rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp của bức tranh. Sung
sướng, Phùng bấm liên tục hết một phần tư cuốn phim, để vĩnh cửu hóa cảnh đẹp tuyệt vời đó.
Hạnh phúc của nghệ sĩ Phùng là hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo. Để có được khoảnh
khắc hiếm hoi ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì vượt khó, phải đam mê vì nghệ thuật. Đặc biệt,
cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ một cách bất ngờ nhất.
2.Tình huống tâm trạng (Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh cuộc sống gia đình hàng
chài ):
a. Phùng vô cùng ngỡ ngàng khi tai nghe tiếng quát:
Phùng vô cùng ngỡ ngàng khi chiếc thuyền tiến vào bờ, vì bước xuống từ chiếc thuyền
ngư phủ đẹp như trong mơ ấy là vợ chồng hàng chài với ngoại hình nghèo khổ, lam lũ, mệt
mỏi và kèm theo là một tiếng quát đầy chết chóc “cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày
đi bây giờ”. Tiếng quát đã làm rạn nứt cái hạnh phúc mà Phùng vừa có được, đó là vẻ đẹp của
“chiếc thuyền ngoài xa”.
b.Phùng choáng váng khi nhìn thấy cảnh người đàn ông đánh vợ:
Phùng choáng váng trước sự nghiệt ngả của cuộc sống, bởi vì mắt Phùng nhìn thấy cảnh
người đàn ông hàng chài đánh vợ. Đầu tiên lão ta đang “áp giải” vợ lên bờ, bằng cách để vợ đi
trước, lão đi sau “đôi mắt độc dữ” luôn dán vào lung người đàn bà. Sau đó, họ đi đến bên
chiếc xe rà phá mìn, lập tức người đàn ông dữ dằn, độc ác ấy đánh vợ thật dã man “lão rút
trong người ra chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa” và lập tức “quật tới tấp vào lưng
người đàn bà”. Đặc biệt, vừa đánh lão vừa thở hồng hộc, nghiến răng ken két, cứ một nhát
quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn “mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Bị chồng đánh rất dã man, nhưng người đàn bà chỉ nhẫn
nhục, chịu đựng “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy
trốn”.
c.Phùng kinh ngạc hơn khi chứng kiến cảnh thằng Phác lao tới cứu mẹ:
Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ khi chứng kiến cảnh đứa con trai bé bỏng lao vào cứu mẹ
và cảnh ẩu đả của hai bố con trên bãi cát “thằng con trai giựt cái thắt lưng quật thẳng vào
ngực người đàn ông, còn người đàn ông thì tát thằng bé hai cái dúi mặt xuống cát”, rồi lão
đàn ông lặng lẽ về thuyền, người đàn bà ôm chầm lấy con, buông con ra, lạy con, rồi lại ôm
chầm lấy con mà khóc, sau đó chạy theo người đàn ông.
d.Phùng là người nhân hậu:
Phùng là người nhân hậu nên anh rất bất bình khi vài ngày sau Phùng lại chứng kiến cảnh
lão đàn ông đánh vợ, Phùng lao tới bênh vực, che chở cho người đàn bà không quen biết kia.
Phùng trừng trị gã đàn ông ấy “không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp ảnh, mà bằng
bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng”. Cảm xúc và hành động của Phùng cho thấy
anh là một người nghệ sĩ nhạy cảm, thiết tha gắn bó với cuộc sống. Phùng cũng cay đắng nhận
ra rằng: đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là chân lí hoàn thiện của đạo đức.
3.Tình huống nhận thức (Phùng nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc
sống khi người đàn bà đứng trước tòa):
a. Tâm trạng của Phùng khi người đàn bà hàng chài đứng trước tòa:
Phùng vô cùng xúc động, cảm thông, kính phục và chia sẻ trước tình yêu thương của
người đàn bà hàng chài dành cho chồng con. Sau khi biết được cuộc đời cùng khổ của người
đàn bà, Phùng và Đẩu đã mời chị lên tòa để giúp chị thoát khỏi người chồng tàn bạo kia. Khi
chánh án Đẩu khuyên người đàn bà hãy li dị chồng vì lí do “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
một trận nặng”. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Lí do mà Đẩu đưa ra là
hoàn toàn hợp lí để người đàn bà li hôn, nhưng người đàn bà chắp tay vái lấy vái để “con lạy
quý tòa…quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.Lời van
xin khẩn thiết ấy xuất phát từ trái tim người mẹ thương con, nên chấp nhận nuốt hết nỗi đau
đớn vào lòng, cam chịu sống với người đàn ông vũ phu. Người đàn bà càng trở nên sắc sảo khi
đưa ra ba lí do không thể li dị chồng. Thứ nhất, gã chồng là chổ dựa quan trọng trong cuộc đời
những người đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động “cần phải có một người đàn ông
chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con, nhà nào cũng trên
dưới chục đứa”. Thứ hai, chị quan niệm thật đơn giản, người đàn bà sinh ra là để đẻ con và
nuôi con khôn lớn nên “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Thứ ba, chị trân
trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình có được “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”, vui vẻ nhất là khi chúng tôi nhìn thấy lũ con “chúng nó
được ăn no”.
b.Tâm trạng của Phùng mỗi khi ngắm nhìn bức tranh:
Phùng tự hào mỗi khi ngắm bức tranh vì nó ẩn chứa cái đẹp thực sự của cuộc đời. Phùng
mang những tấm ảnh chụp con thuyền ngoài xa, thơ mộng trong sương sớm ửng hồng về Hà
Nội, để được treo trong những gia đình sành nghệ thuật. Để mỗi lần nhìn ngắm anh lại thấy
“người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm lịch”, với vô vàn những nghịch lí: người đàn bà ngoại
hình xấu xí, nhưng tâm hồn rất đẹp, chồng đánh đập dã man, nhưng người đàn bà cương quyết
không chịu li dị chồng, người đàn bà quê mùa, dốt nát nhưng rất hiểu lẽ đời…
Qua đó, bài học mà Phùng rút ra từ người đàn bà: Nghệ thuật thì ở ngoài xa như chiếc thuyền,
nhưng sự thật cuộc đời thì lại rất gần, đừng vì nghệ thuật mà quên mất sự khắc nghiệt của
cuộc sống, vì nghệ thuật chân chính luôn gắn liền với hiện thực cuộc sống. Hạnh phúc của con
người nhiều khi thật đơn giản mà vẫn ngoài tầm tay. Sự tàn bạo nhiều khi được sinh ra từ đói
nghèo, thất học. Lời giải cho bài toán nghèo đói, thất học rất phức tạp cần có sự chung tay của
mỗi cá nhân và toàn xã hội. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều về con người và cuộc
sống. Khi đánh giá về một vấn đề cần phải có cái nhìn toàn diện về hiện tượng và bản chất.
4.Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài:
a. Người đàn bà hàng chài không có tên:
Người đàn bà hàng chài không có tên, tác giả chỉ gọi chung chung là “người đàn bà hàng
chài, mụ, chị ta…”. Bởi chị là hiện thân cho số phận của những người đàn bà hàng chài ở
vùng biển miền Trung này với cuộc sống nghèo khổ, cam chịu và giàu đức hi sinh.
b.Ngoại hình:
Người đàn bà hàng chài chừng bốn mươi tuổi, thân hình “cao lớn với những đường nét
thô kệch”. Gương mặt “đầy vết rỗ” và “mệt mỏi” vì phải thức đêm để kéo lưới. Ngoài ra,
người đàn bà còn ăn mặc thật rách rưới “áo bạc phếch có miếng vá”. Vậy chỉ cần quan sát bề
ngoài cũng dễ dàng nhận thấy người đàn bà có cuộc sống nghèo khổ vất vả trên con thuyền
mưu sinh kia. Đặc biệt, tác giả còn tập trung miêu tả đôi mắt của chị, bởi đôi mắt ấy thay đổi
theo từng hoàn cảnh, ẩn giấu nhiều điều bí ẩn về cuộc đời chị. Khi chuẩn bị cho chồng đánh
chị “đưa cặp mắt nhìn xuống chân” với vẻ cam chịu. Khi chuẩn bị đối thoại với quý tòa, chị
“đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá”, nơi ấy có người thiếu nữ mặc áo dài tím
(con gái chị đang ngồi chờ mẹ) với cặp mắt buồn bã. Khi đối thoại với Đẩu và Phùng đôi mắt
chị “nhìn thẳng vào chúng tôi”, đôi mắt của sự thật. Khi bắt đầu kể về đời mình “con mắt chị
như đang nhìn suốt cả cuộc đời mình”.
c.Số phận người đàn bà hàng chài:
Người phụ nữ không tên ấy có số phận bất hạnh, cuộc sống đầy tủi nhục, đắng cay. Cái
xấu theo đuổi chị như một định mệnh từ khi còn nhỏ. Vì không ai lấy, lỡ có mang rồi trở thành
vợ chồng với một anh hàng chài. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, bấp bênh, đông con,
thuyền lại chật, họ phải triền miên sống trong nghèo túng, khổ cực. Có lúc biển động hàng
tháng “cả nhà ăn xương rồng luộc chấm muối”. Những lúc khổ quá lão chồng lại lôi chị ra
đánh.
d.Người đàn bà hàng chài sống cam chịu:
Người đàn bà hàng chài sống cam chịu, đau đớn về thể xác trước những trận đòn dã man
của chồng. Khi thuyền vừa cập bờ, lão hàng chài áp giải vợ lên bờ “chị đi trước, lão đàn ông
đi sau mắt luôn dán vào lưng người đàn bà”, họ lẳng lặng đi đến bên chiếc xe rà phá mìn,
người đàn ông lập tức rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, quất tới
tấp vào lưng người đàn bà, nhưng lạ thay người đàn bà thầm lặng chịu đựng “không hề kêu
lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Chị lặng lẽ chịu đau đớn về
thể xác, vì chị hiểu trên chiếc thuyền mưu sinh ngoài biển đầy sóng gió kia, rất cần một người
đàn ông để làm và nuôi con khôn lớn.
Người đàn bà hàng chài còn cam chịu đau đớn về tinh thần: Thứ nhất, chị luôn nơm nớp
lo sợ các con nhìn thấy cảnh cha bạo hành, chúng sẽ bị tổn thương tâm hồn. Vì vậy, khi các
con lớn, chị van xin chồng đưa lên bờ mà đánh. Thứ hai, chị luôn che giấu nỗi đau của mình.
Vì vậy, khi thằng Phác đến cứu chị, chị “vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”, chị
mếu máo gọi “Phác con ơi!”. Thứ ba, người đàn bà đau đớn hoảng loạn khi thấy con đánh
cha, cha đánh con (khi nhìn thấy cha đánh mẹ, thằng Phác lao vào giật chiếc thắt lưng trên tay
người đàn ông rồi quất vào ngực cha, người đàn ông tát vào mặt thằng Phác làm nó chúi mặt
xuống cát). Người đàn bà ôm chầm lấy con, buông con ra, rồi chắp tay vái lấy vái để. Chị lạy
con để xin con đừng vì thương mẹ mà làm điều tội lỗi là đánh cha mình. Chị lạy con còn là lời
xin lỗi con vì “không đem đến cho con một mái ấm hạnh phúc và chị lạy con vì hiểu rằng
mình đã làm tổn thương tâm hồn thơ dại của con”.
Như vậy, sự cam chịu của người đàn bà hàng chài thật đáng thương, đáng để ta cảm
thông, chia sẻ. Bởi nó xuất phát từ tình thương con vô bờ bến.
e.Người đàn bà hiểu biết sâu sắc về thiên chức làm mẹ:
Vì thương con nên chị nuốt hết nỗi đau đớn vào lòng, cam chịu sống với người chồng vũ phu,
nên khi chánh án Đẩu khuyên người đàn bà hãy li dị chồng, vì lí do “ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng, cả nước không có một người chồng nào như hắn”, thì người đàn bà
chắp tay vái lấy vái để “con lạy quý tòa…quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó”. Người đàn bà không chịu li dị chồng, bởi chị ý thức được thiên
chức làm mẹ. Chị chỉ raba lí do để không thể li dị chồng, nghe thật đơn giản nhưng vô cùng
mãnh liệt và giàu đức hi sinh. Thứ nhất, gã chồng là chổ dựa quan trọng trong cuộc đời của
những người đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động “cần phải có một người đàn ông
chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con, nhà nào cũng trên
dưới chục đứa”. Thứ hai, chị quan niệm thật đơn giản “người đàn bà sinh ra là để đẻ con rồi
nuôi con khôn lớn”, nên phải sống vì con chứ không chỉ sống cho riêng mình “phải sống cho
con chứ không thể sống cho mình”. Thứ ba, chị trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi trong
kiếp sống đọa đày trên thuyền “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái chúng tôi sống hòa
thuận, vui vẻ”, vui vẻ nhất là khi chúng tôi nhìn thấy lũ con “chúng nó được ăn no”. Như vậy,
người đàn bà đã trao cả cuộc đời mình trên con thuyền mưu sinh để nuôi con khôn lớn, chị
hiểu rõ thân phận mình giống như biển có lúc êm đềm, có lúc sóng gió, nên chị chấp nhận
cuộc sống đau đớn, tủi nhục để hoàn thành thiên chức làm mẹ.
f.Người đàn bà có lòng vị tha, nhân hậu với chồng:
Đối với chồng, người đàn bà hàng chài có cái nhìn đầy vị tha, nhân hậu và chị rất hiểu lẽ
đời. Trước sự bất bình của Phùng và Đẩu, chị thanh minh rằng, chồng chị trước kia là một anh
thanh niên cục tính, nhưng rất hiền lành và không bao giờ đánh vợ, nay lão ta đánh vợ vì quá
nghèo khổ. Chị bao dung nhận lỗi bạo hành của chồng là do mình “giá tôi đẻ ít đi” hay có
một chiếc thuyền rộng hơn. Cuối cùng chị bênh vực cho chồng một cách tội nghiệp, chị cho
rằng người đàn ông cũng có một tật xấu “những người đàn ông trên thuyền khác uống rượu”,
còn chồng chị có tật “khi nào thấy khổ quá lão lại xách tôi ra đánh”.
g.Người đàn bà luôn biết chắt chiu hạnh phúc:
Người đàn bà hàng chài luôn kiên nhẫn, nhặt những mảnh hạnh phúc nhỏ nhoi lại để tạo
gia đình hạnh phúc. Từ việc van xin chồng đưa chị lên bờ mà đánh để con chị không bị tổn
thương tâm hồn trẻ thơ, đến việc gửi thằng Phác lên bờ ở với ông ngoại để con không phạm
tội đánh cha…và gương mặt chị ửng hồng khi nói về “có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống
vui vẻ, hạnh phúc”. Tất cả đều được nuôi dưỡng từ suy nghĩ bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Vì vậy, người đàn bà chịu nhiều đau khổ ấy là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, dù
trong bất kì hoàn cảnh nào cũng đều tỏa sáng những phẩm chất tốt đẹp: đảm đang, chịu
thương chịu khó và giàu đức hi sinh.
III.TỔNG KẾT:
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện
ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống
và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên
ngoài của hiện tượng. Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ rất linh
hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của tác phẩm.
12.HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT
- Lưu Quang Vũ –
-
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả
- Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), quê Đà Nẵng, sinh ở Phú Thọ. Ông là một tài năng đa dạng :
làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh nhưng đặc sắc nhất là kịch.
- Lưu Quang Vũ được coi là hiện tượng đặc biệt của sân khấu, kịch trường những năm 80 của
thế kỉ XX. Và là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
- Tác phẩm : Nàng Xi-ta, Tôi và chúng ta, Chết cho điều chưa có; Hồn Trương Ba, Da hàng
thịt,…
2. Tác phẩm
- HTB, DHT viết (1981), ra mắt công chúng (1984), dựa theo cốt truyện cổ dân gian cùng tên,
gồm 7 cảnh.
- Cảm hứng sáng tác vở kịch :
+ Tình hình đất nước, xã hội Việt Nam những năm 80 của TK XX và công cuộc đổi mới toàn
diện bắt đầu diễn ra trên đất nước ta.
+ Cảm hứng phê phán những tiêu cực trong xã hội, cuộc sống, con người Việt Nam của tác
giả.
+ Mượn và viết tiếp truyện dân gian HTB, DHT với nhiều sáng tạo mới mẻ, hiện đại, sâu sắc.
- Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của LQV. TP chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ,
có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.
3. Đoạn trích
- Đoạn trích thuộc cảnh VII và là đoạn kết của vở kịch.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Nhan đề:
- Nghĩa thực: Tâm hồn thanh cao, nhân hậu của TB phải sống trong thân xác hàng thịt thô lỗ,
phàm tục.
- Nghĩa liên tưởng:
+ Khi con người sống chung với sự dung tục, thì sẽ bị cái dung tục ngự trị và tàn phá những gì
đẹp đẽ nhất của con người.
+ Được sống làm người thì quý giá thực, nhưng phải sống đúng là mình, sống trọn vẹn những
giá trị mà mình có và phải biết đấu tranh trước những nghịch cảnh của cuộc sống.
+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi sống hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.
- Nhan đề xây dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có ý
nghĩa tương phản giữa thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong.
Chính vì vậy hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng
sâu sắc.
- Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là
biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Đó là sự mâu thuẫn giữa hình
thức và bản chất trong một con người. Nhưng hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp
trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm
thường, cái bản chất thấp kém trong một con người.
 Nhan đề hồn Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật phản ánh một hiện thực
cuộc sống con người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên
trong một nẻo, không được sống đích thực là chính mình. Nhan đề còn gửi gắm một ý nghĩa
sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, không làm chủ
được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao trong sáng, để thể
xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm cho nhân cách lệch lạc,
nhoà mờ khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hoà thống nhất.
=> Nhan đề đã thâu tóm cả giá trị phản ánh hiện thực lẫn nội dung nhân đạo của tác TP.
2. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
- Hồn bắt đầu cuộc đối thoại bằng sự phủ nhận quyết liệt, mạnh mẽ về vai trò, tầm ảnh hưởng
của xác hàng thịt với mình: “Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ
là xác thịt âm u đui mù…”, “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư
tưởng, không có cảm xúc”.
- Xác đáp lại bằng sự khẳng định chắc nịch về sức mạnh ghê gớm cũng như sự sai khiến, chi
phối của nó đối với hồn: “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi,
đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến, chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm
khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!”.
- Trước cái lí lẽ sắc sảo của xác, hồn trở nên bối rối, từ chỗ phủ nhận quyết liệt, hồn đã buộc
phải thừa nhận sự tồn tại của xác nhưng quy nó gắn với nhiều thứ xấu xa, thấp hèn: “Hoặc
nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được”.
- Nhận thấy sự thắng thế của mình, xác bắt đầu lấn lướt bằng việc đưa ra dẫn chứng cụ thể,
xác thực về việc hồn Trương Ba đã rung động, bối rối trước sự trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt
cùng những thói quen tầm thường, dung tục như xác trước đây: “Tôi chỉ trách là sao đêm ấy
ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của!...Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ các thứ
thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”
- Bằng chứng không thể chối cãi đó đã làm cho hồn trở nên xấu hổ. Hồn chỉ còn phủ nhận
được một cách yếu ớt bằng cách đổ lỗi cho xác: “Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi
thở của mày…” rồi ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn…”.
- Lời ngụy biện yếu ớt của hồn đã làm cho xác thấy nực cười, nó đã chế giễu các “nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn” của hồn bằng hành động tàn bạo: tát thằng con tóe máu mồm, máu
mũi, trong đà thắng thế, xác còn tiếp tục lên giọng khẳng định vai trò, tầm quan trọng của
mình: “Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới…Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế
giới này qua những giác quan của tôi”…và nó còn chỉ trích về thói tật của những kẻ lắm sách,
những chữ, đã vịn vào cớ tâm hồn cao quý để bỏ bê, hành hạ thân xác. Nó đã đưa ra một lý lẽ
quan trọng mà hồn không thể chối cãi được: “Mỗi bữa tôi đòi ăn 8 - 9 bát cơm, tôi thèm ăn
thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ 8 – 9 bát cơm cho tôi ăn chứ!”
- Đến đây, hồn Trương Ba đã bế tắc, tuyệt vọng và thất thế hoàn toàn, chỉ còn đáp lại bằng thứ
ngôn ngữ rời rạc, đứt quãng.
- Lấn át hoàn toàn được hồn bằng sự mạnh mẽ, trâng tráo, sau đó xác đã rất khôn ngoan khi hạ
giọng để dụ dỗ, ve vuốt hồn tham gia vào “trò chơi tâm hồn” vô cùng nguy hiểm: “Làm xong
điều gì xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Hà hà, miễn là ông vẫn làm đủ
mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi!”.
- Kết thúc màn đối thoại, xác đã đạt được mục đích đó là thuyết phục hồn nhập trở lại làm một
với mình.
=> Từ diễn biến này, kết quả tất yếu của màn đối thoại là hồn đã thua một cách thảm hại,
buộc phải quy phục, buộc phải quay trở lại thân xác anh hàng thịt.
3. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân
3.1. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với người vợ
- Người vợ không chấp nhận việc chồng mình ngày nào cũng sang nhà hàng thịt để giúp cô vợ
hàng thịt bán hàng, đôi lúc còn bị cái trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt làm cho xao xuyến.
+ Bà đau khổ còn bởi nhận thấy sự thay đổi ở Trương Ba: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là
ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
+ Tâm trạng đau khổ đó càng trở nên nhức nhối khi đi kèm với nỗi tự ti về bản thân mình đã
già, đã yếu.
-> Người vợ đã giải quyết bi kịch đầy vị tha, bao dung và đức hi sinh là chấp nhận, bỏ đi nơi
khác để Trương Ba được thảnh thơi sung sướng.
3.2. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và cái Gái
- Trương Ba đã nhận thái độ gay gắt cùng sự căm ghét của cái Gái – vốn chỉ là một đứa trẻ
ngây thơ, non nớt. Cái Gái chưa thể hiểu được những uẩn khúc, éo le của cuộc đời. Hơn nữa,
với bản chất hồn nhiên, trong sáng, thánh thiện của trẻ thơ, nó không thể chấp nhận được sự
xấu xa, thô lỗ, đê tiện.
- Cái Gái không ngần ngại gọi Trương Bà là “lão đồ tể”, định danh đôi bàn tay của Trương Ba
là “đôi bàn tay giết lợn”, gọi đôi chân của Trương Ba là “to bè như cái xẻng”.
- Trong cái nhìn của cái Gái, Trương Ba là hiện thân của sự thô lỗ: “bàn tay giết lợn của ông
làm gẫy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quy mới
ươm!”.
- Cái Gái còn nhìn thấy ở Trương Ba sự độc ác, xấu xa khi nó nghĩa ông cố tình lách rách cái
diều của cu Tị -> xua đuổi Trương Ba ra khỏi nhà.
-> Trương Ba đã buộc phải thừa nhận sự thay đổi của mình trong đau đớn, tuyệt vọng.
3.3. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với chị con dâu
- Chị con dâu của Trương Ba là người chín chắn, sâu sắc, điềm đạm và cũng là người hiểu và
thương Trương Ba nhất.
- Cô thấu hiểu “Con biết bây giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm, hơn cả hôm thầy mới từ nhà
người hàng thịt trở về”.
- Nhưng dù có thương và hiểu Trương Ba đến đâu, dù đã cố gắng tế nhị thì cô cũng không thể
phủ nhận được thực tế: “Con cảm thấy, đau đớn thấy, …mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất
mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra
thầy nữa…”
- Cô đặt ra cho cha mình câu hỏi đau buốt, nhức nhối: “Làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại,
hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”
-> Sau cuộc đối thoại với người con dâu, nỗi đau khổ vốn đã chất chồng trong tâm trạng
Trương Ba từ hai cuộc đối thoại trước đã bị dồn nén để đẩy lên đến đỉnh điểm.
4. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích
- Ngay mở đầu màn đối thoại Trương Ba đã đề xuất nguyện vọng, mong muốn của mình một
cách rõ ràng với Đế Thích: “Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt
được nữa” -> “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi
toàn vẹn”.
+ TB từ chỗ phủ nhận một cách quyết liệt: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì
hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!”, từ chỗ cực đoan “Cái bên ngoài là không đáng
kể, chỉ có cái bên trong mới là quan trọng” -> TB nhận thức vô cùng sáng rõ “Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.
-> Cuộc sống tốt đẹp của người chỉ có thể được tạo nên từ sự hài hòa giữa hai đời sống của
thể xác và tâm hồn.
+ TB đã không còn chấp nhận chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó sai
khiến mà muốn được trở về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.
+ Tuy nhiên, để được sống là mình lại là một điều không hề dễ dàng, nó đòi hỏi Trương Ba
phải chấp nhận từ bỏ trò chơi tâm hồn, nghĩa là không thể làm điều xấu để thỏa mãn những
dục vọng thấp hèn, rồi sau đó lại đổ lỗi cho xác hàng thịt.
-> Được sống là mình thực sự là một đòi hỏi bức thiết và quan trọng.
- Đế Thích bác bỏ đề nghị, yêu cầu của Trương Ba bằng việc đưa ra một hình tượng mang tính
chất phổ biến đó là: không chỉ mình Trương Ba mà rất nhiều người không được sống là mình,
ngay cả những người ở vị trí tối cao, nắm trong tay mọi quyền lực như Ngọc Hoàng cũng
không được sống là mình.
-> Lời nói của Đế Thích đã chỉ ra một bi kịch mang tính nhân loại về việc số đông người
không được sống là mình.
- Lý lẽ mà Đế Thích đưa ra không thể thuyết phục được Trương Ba bởi tất cả đều là để ngụy
biện cho khát vọng được sống của người, còn điều mà Trương Ba quan tâm không chỉ đơn
giản là được sống mà là sống như thế nào.
+ TB: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái
thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống
như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.
-> Lòng tự trọng cần phải có trong quá trình sống của mỗi người, điều đó sẽ quyết định việc
người không sống nhờ vào tiền bạc, của cải cũng như danh vị, nhân phẩm của người khác.
-> Ý nghĩa của sự sống không do sự dài ngắn quyết định mà quan trọng là sống như thế nào
và sống để làm gì.
- Để tiếp tục thuyết phục Trương Ba, Đế Thích đã phân biệt phần hồn trong sáng, cao quý của
Trương Ba với phần hồn tầm thường, thấp kém của anh hàng thịt -> Lý lẽ này cũng không thể
thuyết phục TB -> thà để phần hồn tầm thường của anh hàng thịt hòa hợp với thân xác thô lỗ,
dung tục của anh ta còn hơn con quái vật mang tên hồn Trương Ba – da hàng thịt.
- Trương Ba đã đi đến hành động dứt khoát quyết liệt: “Nếu ông không giúp tôi, tôi sẽ…tôi
sẽ…nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh
hàng thịt cũng mất…” -> tìm đến cái chết để từ bỏ sự tồn tại vô nghĩa của mình.
- Trương Ba từ chối cơ hội được sống trong thân xác cu Tị, nhận về mình cái chết để đem đến
sự sống và hạnh phúc cho mọi người.
-> TB đã phục sinh những giá trị tốt đẹp của bản thân, trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất
cả những người thân bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý.
- Trương Ba chết nhưng một không khí tươi sáng, ấm áp, tràn ngập tiếng cười, niềm vui và
hạnh phúc: “vườn cây rung rinh ánh sáng”, là tiếng đôi trẻ ríu rít chia cho nhau quả na do
chính Trương Ba trồng và những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại vẫn hiện hữu hàng ngày
trong suy nghĩ, tư tưởng của người thân: “Cho nó mọc thành cây mới, ông nội tớ bảo vậy.
Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi…”
- Hình ảnh của những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng cùng với những mầm non đang nhú mà
LQV dựng lên trong đoạn kết mang đầy ý nghĩa biểu tượng, đó chính là hình ảnh của một
tương lai tươi sáng, của sự hồi sinh, phát triển do chính lòng nhân hậu, đức hi sinh vị tha cao
cả của Trương Ba tạo thành.
* Ý nghĩa:
- Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự
thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.
- Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết
vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh (Hình tượng người
làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của người
khác).
5.Đoạn kết:
Trương Ba trả lại xác anh hàng thịt, rồi hóa thân vào vạn vật, cây cỏ trong vườn, để tồn tại
cùng người thân =>Cái thiện đã chiến thắng.
III. TỔNG KẾT:
Qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới
người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình,
sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có
ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người
phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để
hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Đoạn trích có những đặc sắc
về nghệ thuật: Vở kịch được khai thác từ cốt truyện dân gian. Kịch tính xoay quanh xung đột
bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống
động, giàu triết lí nhân sinh.

TỔNG HỢP ĐỀ THI THPTQG MÔN NGỮ VĂN QUA CÁC NĂM

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2017


I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm. Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng
con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ. Giống như cái lạnh thấu tủy hay cái
đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được
những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự
phán xét. Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một khả năng phát triển ở
những người mẫn cảm. Thấu cảm khiến ta hồi hộp khi quan sát một người đang đi trên dây ở
trên cao, làm chúng ta cùng vui buồn với một nhân vật trong truyện.
Thấu cảm xảy ra trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Một đứa trẻ ba tuổi chìa con
gấu bông của mình cho em bé sơ sinh đang khóc để dỗ nó. Một cô gái nhăn mặt khi theo dõi
bạn mình trên giường bệnh chật vật uống một viên thuốc đắng. Mùa EURO 2016 kết thúc với
một hình ảnh đẹp: một cậu bé Bồ Đào Nha tiến tới an ủi một fan người Pháp cao to gấp rưỡi
mình, đang ôm mặt khóc vì đội Pháp thua trận chung kết. Anh người Pháp cúi xuống ôm cậu
bé mà người vẫn rung lên nức nở. Cậu đợi cho tới khi anh đi khuất hẳn rồi mới tiếp tục phất
cờ mừng chiến thắng.
(Trích Thiện, Ác và Smartphone – Đặng Hoàng Giang, NXB Hội nhà văn,
2017, tr.275)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, thấu cảm là gì?
Câu 3. Nhận xét về hành vi của đứa trẻ ba tuổi, cô gái có bạn bị ốm, cậu bé Bồ Đào Nha được
nhắc đến trong đoạn trích.
Câu 4. Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến: Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1. (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống.
Câu 2. (5.0 điểm)
Đất là nơi anh đến trường…
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
(Trích Đất nước, trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập
một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.118-119)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, bình luận quan niệm về đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm.

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2018


I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm). Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Hãy thức dậy, đất đai!
cho áo em tôi không còn vá vai
cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn...
xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm
rồi thì đi xa hơn - đẹp, và giàu, và sung sướng hơn
Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?
lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?
***
Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...
(Trích “Đánh thức tiềm lực”, Ánh trăng - Cát trắng - Mẹ và em, Nguyễn Duy)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả đã nhắc đến những yếu tố nào thuộc về tiềm lực tự nhiên của
đất nước?
Câu 3. Nêu hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi tu từ trong đoạn trích.
Câu 4. Theo anh/chị, quan điểm của tác giả trong hai dòng thơ: Ta ca hát quá nhiều về tiềm
lực/tiềm lực còn ngủ yên có còn phù hợp với thực tiễn ngày nay không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống
hiện nay.
Câu 2 (3.0 điểm)
Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia
đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu). Từ đó, anh chị hãy liên hệ với
sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch
Lam) để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2019


I. ĐỌC HIỂU(3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Biết nói gì trước biển em ơi
Trước cái xa xanh thanh khiết không lời Bao kiếp vùi trong đáy lạnh mù tăm
Cái hào hiệp ngang tàng của gió Nhưng muôn đời vẫn những cánh buồm
Cái kiên nhẫn nghìn đời sóng vỗ căng
Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời Bay trên biển như bồ câu trên đất
Cái giản đơn sâu sắc như đời Biển dư sức và người không biết mệt
Chân trời kia biển mãi gọi người đi Mũi thuyền lao mặt sóng lại cày bừa
Bao khát vọng nửa chừng tan giữa sóng Những chân trời ta vẫn mãi tìm đi
Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng
(Trước biển – Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Văn học, 1985,
tr.391)
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2: Anh/ Chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào?
Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng
Bao kiếp vùi trong đáy lạnh mù tăm
Câu 3. Hãy cho biết hiệu quả của phép điệp trong các dòng thơ sau:
Cái hào hiệp ngang tàng của gió
Cái kiên nhẫn nghìn đời sóng vỗ
Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời
Cái giản đơn sâu sắc như đời
Câu 4. Hành trình theo đuổi khát vọng của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi cho
anh/chị suy nghĩ gì?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1(2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về
sức mạnh ý chí của con người trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Trong những dòng sông đẹp ở các nước … những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách
nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2020 – ĐỢT 1
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Không cần ngôn ngữ, mọi sự sống nhỏ nhoi trong tự nhiên đều dạy cho loài người
chúng ta biết tầm quan trọng của việc "sống hết mình ở thời khắc này”. Chẳng hạn tại vùng
Tsunoda thuộc Bắc cực, giữa mùa hè ngắn ngủi, các loài thực vật đua nhau nảy mầm, nở thật
nhiều hoa, kết hạt, chen chúc vươn mình trong khoảng không với mảnh đời thật ngắn ngủi. Có
lẽ chúng chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mùa đông dài khắc nghiệt sắp tới và phó thác sinh
mạng mình cho tự nhiên. Rõ ràng là chúng thực sự sống hết mình cho hiện tại, không ảo
tưởng, không phân tâm.
Ngay cả ở vùng sa mạc khô cằn Sahara, nơi mà mỗi năm chỉ có một hai cơn mưa,
nhưng mỗi khi có những giọt nước mưa hiểm hoi trút xuống thì các loài thực vật lại vội vã nảy
mầm và nở hoa. Và trong khoảng thời gian từ một đến hai tuần ngắn ngủi, chúng ra hạt, oằn
mình chịu đựng trong cát, trong cái nóng như thiêu như đốt, tiếp tục sống chờ đến trận mưa
sau để nòi giống của chúng sẽ lại trỗi dậy... Quả thật là muôn loài trong tự nhiên đều sống
hết mình, sống nghiêm túc trong từng khoảnh khắc, trong suốt khoảng thời gian sống được
hạn định.
Sống hết mình cho hiện tại sẽ đưa sự sống, dù nhỏ bé, vươn đến ngày mai. Vậy thì loài người
chúng ta lại càng phải biết trân trọng cuộc sống mỗi ngày để không thua kém cỏ cây muông
thú..
(Trích Cách sống: từ bình thường trở nên phi thường, Inamori Kazuô)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chỉnh được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo đoạn trích, các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực sinh trưởng như thế
nào giữa mùa hè ngắn ngủi?
Câu 3. Chỉ ra những điểm tương đồng về sự sống của các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc
Bắc cực và ở vùng sa mạc Sahara trong đoạn trích.
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với nhận định của tác giả “Sống hết mình cho hiện tại sẽ đưa sự
sống, dù nhỏ bé, vươn đến ngày mai”? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong
đoạn trích sau:
Em ơi em/ Hãy nhìn rất xa… Đất Nước của ca dao thần thoại.
(Trích Đất Nước - trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm)

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2020 – ĐỢT 2
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Chỉ những ai dám tin mình có thể làm được những việc tưởng chừng bất khả thì mới thực
sự cáng đáng được công việc! Trái lại, những người thiếu niềm tin thì chẳng bao giờ đạt được
gì cả. Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi điều du khó khăn nhất.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, niềm tin có thể giúp ta làm được nhiều việc lớn hơn cả
dịch chuyển một ngọn núi. Chẳng hạn như trong thám hiểm vũ trụ, yếu tố quan trọng nhất,
cũng là yếu tố cần thiết nhất, chính là niềm tin vào khả năng nhân loại có thể làm chủ được
khoảng không bao la ấy. Nếu không có niềm tin vững chắc vào khả năng con người du hành
trong không gian, các nhà khoa học đã không thể có đủ lòng dũng cảm, niềm đam mê và sự
nhiệt tình để biến điều đó thành sự thật. Trong việc đối diện với ung thư cũng vậy, niềm tin
vào khả năng chữa khỏi căn bệnh nan y này đã tạo động lực lớn lao giúp con người tìm ra
nhiều phác đồ điều trị. Hoặc vào trước năm 1994, người ta bàn luận xôn xao chung quanh
việc xây dựng đường hầm xuyên biển Manche nối liền nước Anh với lục địa châu Âu, dài trên
50 km, với e ngại đó là một đại dự án viển vông. Quả thực, dự án xuyên biển Manche được
khởi đầu với không ít sai lầm, nhưng cuối cùng đã thành công vào năm 1994, trở thành đường
hầm dưới biển dài nhất thế giới. Chính niềm tin kiên trì là động lực quan trọng dẫn đến sự ra
đời của đường hầm biển Manche, mà Hiệp hội Kỹ sư Dân dụng Mỹ gọi đó là một trong bảy kỳ
quan thế giới hiện đại.
(Trích Dám nghĩ lớn, David J.Schwartz)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo đoạn trích, người ta e ngại điều gì khi xây dựng đường hầm xuyên biển Manche?
Câu 3. Chỉ ra điểm tương đồng về cơ sở làm nên thành công trong thám hiểm vũ trụ và xây
dựng đường hầm xuyên biển Manche được nêu trong đoạn trích.
Câu 4. Anh Chị có đồng tình với ý kiến: “Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi điều dù
khó khăn nhất”? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải có niềm tin vào cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm) Phân tích khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến được nhà
thơ Tố Hữu thể hiện qua đoạn trích sau:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng… đèo De, núi Hồng.
(Trích Việt Bắc, Tố Hữu, Ngữ văn 12, Tập một, tr. 112-113)

KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021 - ĐỢT 1
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Từ những kẽ hở trên mặt đất, nước trào lên, mát lạnh và trong lành. Từ một dòng nước
nhỏ, nước hòa vào với nước tươi mát rơi từ trên trời và nước thấm vào đất để tạo nên một
dòng suối nhỏ cứ chảy mãi xuống cho tới khi, một dòng sông ra đời.
Sóng hình thành lực đẩy và cuốn trôi dần các lớp đất và nền khi dòng chảy từ từ mở rộng
và sâu thêm, giống như một đứa trẻ với đôi mắt sáng ngời vươn mình lớn dậy. Dòng sông trở
nên đủ mạnh mẽ để xuyên qua núi hay thậm chí tạo thành một hẻm núi.[…]
Khi nước gặp con người, nó còn được chứng kiến nhiều chuyện nhiều hơn. Một ông lão
băng qua cây cầu, một cô gái trẻ trên chiếc xe đạp, một đôi tình nhân ngồi ngắm sông trôi.
Cứ mãi chầm chậm và cứ mãi xanh, dòng sông chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong công viên hai
bên bờ và người cha cùng cậu con nhỏ đang chơi bắt bóng.
Dòng sông, giờ đã ở tuổi xế chiều, lại càng trở nên dịu dàng khi nó tiến dần ra phía biển.
Rồi cũng đến lúc nó ra tới biển và dòng chảy của nước cuối cùng cũng đi tới hồi kết.
Tất cả những trầm tích được nước mang theo lúc đó lắng lại ở cửa sông. Kết quả là một
vùng châu thổ được hình thành. Sông Hằng, sông Mississippi và sông Amazon đều đã hình
thành những châu thổ tựa như hình chiếc lược tại nơi chúng gặp gỡ biển cả. Đều có khởi
nguồn như một bờ cát nhỏ cuối cùng đã phát triển thành một vùng đất rộng lớn, tạo nên một
đường bờ biển mới và rộng rãi. Những vùng châu thổ màu mỡ này hình thành nên những
vùng nông nghiệp vĩ đại nhất trên thế giới - món quà cuối cùng mà nước dành tặng cho loài
người, trước khi nó hiến mình cho đại dương vào lúc cuối đời.
(Trích Bí mật của nước, Masaru Emoto, NXB Lao động, 2019, tr. 90-93)
Câu 1: Theo đoạn trích, sự ra đời của một dòng sông diễn ra như thế nào?
Câu 2: Theo đoạn trích, món quà cuối cùng nước dành tặng cho loài người trước khi hòa vào
biển cả là gì?
Câu 3: Những câu văn sau giúp anh/chị hiểu gì về dòng chảy của nước và cuộc sống của con
người?
Một ông lão băng qua cây cầu, một cô gái trẻ trên chiếc xe đạp, một đôi tình nhân ngồi ngắm
sông trôi. Cứ mãi chầm chậm và cứ mãi xanh, dòng sông chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong
công viên hai bên bờ và người cha cùng cậu con nhỏ đang chơi bắt bóng.
Câu 4: Qua hành trình từ sông ra biển của nước trong đoạn trích, anh/chị rút ra những bài học
gì về lẽ sống?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải biết sống cống hiến.
Câu 2. (5,0 điểm) Anh chị hãy phân tích đoạn thơ sau. Từ đó nhận xét về vẻ đẹp nữ tính trong
thơ Xuân Quỳnh: “Trước muôn trùng sóng bể… Cả trong mơ còn thức”. (Sóng – Xuân
Quỳnh).

KỲ THI TỐT NGHIỆP NĂM 2021 - ĐỢT 2


I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Bạn có xem quê hương mình khác với quê hương của người khác, hay mọi xứ sở đều
thiêng liêng đối với bạn?
Thật ra, bạn vẫn luôn ở nhà mình ngay cả khi bạn đứng ở bất kì vị trí nào trên hành
tinh này. Tất cả chúng ta vẫn đang cùng nhau chia sẻ mọi thứ trên Trái Đất, môi trường và cả
bầu không khí chúng ta hít thở. Hãy chăm sóc và giữ gìn hành tinh này vì đó là mái nhà thân
yêu của bạn, để cho các thế hệ mai sau – bất kể màu da, sắc tộc, tôn giáo, quốc tịch – có thể
phát triển một cách trọn vẹn trong tương lai.
Hãy bắt đầu xây dựng lại mái nhà chung từ những điều gần gũi nhất, bằng những việc
đơn giản nhất, như không hút thuốc, trồng thêm cây xanh, không đối xử thô bạo với động
vật… Một khi đã phá dỡ được hàng rào ngăn cách giữa con người với thiên nhiên, vạn vật,
chúng ta mới có thể thụ hưởng một cuộc sống bình yên.
Tôi tin rằng, đến một lúc nào đó, tất cả mọi người sống trên hành tinh này đều nhìn
nhận nhau như những thành viên trong cùng một gia đình, và yêu thương nhau như chính bản
thân. Có lẽ sẽ đến một ngày, chúng ta nhận ra rằng tất cả đều là anh em một nhà, và sẽ luôn
được an toàn khi biết chấp nhận, nương tựa vào nhau.
Không phải ngẫu nhiên mà hai từ “loài” và “người” luôn song hành khăng khít để
hình thành nên gia đình nhân loại. Vậy, chúng ta hãy sống cho đúng với danh xưng của mình.
Tất cả chúng ta chỉ là một bản thể: nhân loại. Đã đến lúc thôi để ý đến những khác biệt bề
ngoài, hãy nhận ra rằng tất cả chúng ta đều chung dòng máu đỏ.
(Trích Món quà cuộc sống, Dr. Bettle S. Siegel)
Câu 1. Theo đoạn trích, mục đích của việc chăm sóc và giữ gìn hành tinh này là gì?
Câu 2. Chỉ ra những điều cần gũi, trong việc đơn giản nên làm để bắt đầu xây dựng mái nhà
chung được nêu trong đoạn trích.
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về nhận định “Thật ra, bạn vẫn luôn ở nhà mình cả khi bạn
đang đang ở bất kỳ vị trí nào trên hành tinh này” trong đoạn trích?
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với ý kiến trong đoạn trích “Đã đến lúc thôi để ý đến những khác
biệt bề ngoài, hãy nhận ra rằng tất cả chúng ta đều chung dòng máu đỏ” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của tinh thần hợp tác trong cuộc sống
Câu 2 (5,0 điểm) Trong bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng viết:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên; từ đó, nhận xét cảm hứng lãng mạn của
Quang Dũng trong đoạn thơ.

ĐỀ MINH HỌA NĂM 2022


I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
một con sông chảy qua thời gian luôn luôn mới đến, luôn luôn ra đi
chảy qua lịch sử luôn già nhất và luôn trẻ nhất
chảy qua triệu triệu cuộc đời sông để lại trước khi về với biển
chảy qua mỗi trái tim người không phải máu đen độc ác của quân thù
khi êm đềm khi hung dữ không phải gươm đao ngàn năm chiến
một con sông rì rào sóng vỗ trận
trong muôn vàn trang thơ không phải nghẹn ngào tiếng nấc
làm nên xóm thôn, hoa trái, những ngôi sau sụp lở hưng vong say thù hận sóng
nhà trào
tạo sắc áo, màu cây, và tiếng Việt là bãi mới của sông xanh ngát
[…] là đất đai lấn dần ra biển
máu ta mang sắc đỏ sông Hồng là tâm hồn đằm thắm phù sa
nỗi khổ và niềm vui bất tận dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ

(Trích Sông Hồng, Lưu Quang Vũ, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2.Theo đoạn trích, sông Hồng đã để lại những gì trước khi về với biển?
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về vai trò của sông Hồng đối với đời sống
con người Việt Nam?
một con sông rì rầm sóng vỗ
trong muôn vàn trang thơ
làm nên xóm thôn, hoa trái, những ngôi nhà
tạo sắc áo, màu cây, và tiếng Việt
Câu 4. Nội dung hai dòng thơ sau có ý nghĩa gì với anh/chị?
máu ta mang sắc đỏ sông Hồng
nỗi khổ và niềm vui bất tận
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1(2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc.
Câu 2 (5.0 điểm)
Bà lão cúi đầu nín lặng… Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
(Trích Vợ nhặt - Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009, tr 28-29)
Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét tư tưởng
nhân đạo của nhà văn Kim Lân đuợc thể hiện trong đoạn trích.

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2022


I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Tuổi trẻ của tôi Tuổi trẻ như sao trời mát mắt
mười tám, hai mươi khi yên bình hạnh phúc ngước nhìn lên
trong và tinh khiết như nước suối đá và cháy bùng như lửa thiêng liêng
khỏe và mơn mởn như mầm lá khi giặc giã đụng vào bờ cõi
rộng và dài như mơ ước, yêu thương dẫu rụng xuống, vẫn chói lên lần cuối
vươn lên và bền vững như con đường gọi dậy những lớp người
gắn vào đất, tạc vào mặt đất dẫu rụng xuống, bầu trời không trống trải
trong mắt người sao vẫn mọc khôn nguôi...
(Trích Con đường của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo)
Câu 1: Xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2: Chỉ ra những tính từ miêu tả vẻ đẹp của tuổi trẻ trong đoạn thơ:
Tuổi trẻ của tôi
mười tám, hai mươi
trong và tinh khiết như nước suối đá
khỏe và mơn mởn như mầm lá
Câu 3: Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh được thể hiện trong đoạn thơ:
Tuổi trẻ như sao trời mát mắt
khi yên bình hạnh phúc ngước nhìn lên
và cháy bùng như lửa thiêng liêng
khi giặc giã đụng vào bờ cõi
Câu 4: Nhận xét những suy ngẫm của tác giả về ý nghĩa sự hi sinh của tuổi trẻ được thể hiện
trong đoạn trích.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của bản thân về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước thế hệ đi
trước.
Câu 2. (5,0 điểm) Anh chị hãy phân tích đoạn trích sau. Từ đó liên hệ hình ảnh chiếc thuyền
trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá được miêu
tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống:
“Lúc bấy giờ trời đầy mù… cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. (Chiếc thuyền
ngoài xa).

ĐỀ MINH HỌA THPTQG 2023


I. Đọc hiểu
Chính mẹ đẻ anh hùng và truyền thuyết
Từ túp lều lợp lá lợp tranh
Cắt cuống nhau bằng lưỡi liềm
Bàn chân thô quanh năm bùn lấm
Chưa một lần ướm qua sử sách
Tập con bước bị vào ca dao tục ngữ
Dù uống nước đâu lòng vẫn nhớ nguồn
Thương từ cái kiến con ong
Tím ruột bầm gan thù bọn ác
Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Là đứng theo dáng mẹ
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Mùa hạ gió Lào quăng quật
Mùa đông sắp se gió bấc
Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Mồ hôi vã một trời sao
Trên đất trời sao nặn hóa thành
Muôn mặt nước chảy âm thầm chảy dọc
thời gian…
Câu 1: Xác định thể thơ của đoạn trích
Câu 2: Chỉ ra những từ diễn tả đời sống nghèo khó vất vả của người mẹ trong đoạn thơ "Chính
mẹ đẻ anh hùng và truyền thuyết/ Từ túp lều lợp lá lợp tranh/ Cắt cuống nhau bằng lưỡi liềm/
Bàn chân thô quanh năm bùn lấm/ Chưa một lần ướm qua sử sách".
Câu 3: Nêu nội dung của hai dòng thơ:
"Tập con bước vịn vào ca dao tục ngữ/ Dù uống nước đâu lòng vẫn nhớ nguồn"
Câu 4: Nhận xét về hình ảnh dân tộc Việt Nam được thể hiện trong đoạn trích
II. LÀM VĂN
Câu 1: Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình
bày suy nghĩ của anh chị về sức mạnh của tinh thần vượt khó trong cuộc sống.
Câu 2: Trong Việt Bắc nhà thơ Tố Hữu viết:
Ta về mình có nhớ ta…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Anh chị hãy phân tích đoạn trích trên, từ đó nhận xét về lẽ sống ân tình được thể hiện trong
đoạn trích.

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2023


I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Khúc nhạc đầu tiên của mùa hè Những giọt mưa nhảy múa trước hiện nhà
Tiếng sấm gõ trên bầu trời thật thấp [...]
Gió từ đất thổi lên rất mặt Không phải của riêng ai
Cát bay, lá bay, đá bay Cái êm ả lọc từ dữ dội
Mưa ròng ròng như triệu ngón tay Mưa ơi mưa cho mặt người trẻ lại
Lùa vào trong cổ Ai cũng đi qua cơn giông của riêng mình
Ngỡ như hành quân trở về tuổi nhỏ Những lạch nước hiên nhà bỗng sống lại mông mênh.
(Trích Đi qua cơn giông, Anh Ngọc)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2. Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh miêu tả cơn giông mùa hè trong những dòng thơ sau:
Tiếng sấm gõ trên bầu trời thật thấp
Gió từ đất thổi lên rất mặt
Cát bay, lá bay, đá bay
Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong những dòng thơ sau:
Mưa rồng rồng như triệu ngón tay
Lúa vào trong cổ
Ngỡ như hành quân trở về tuổi nhỏ
Những giọt mưa nhảy múa trước hiến nhà
Câu 4. Từ suy ngẫm của tác giả trong dòng thơ Ai cũng đi qua cơn giông của riêng mình,
anh/chị hãy rút ra bài học về lẽ sống cho bản thân.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải biết cân bằng cảm xúc trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân viết:
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã….
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 32)
Anh/Chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó, nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim
Lân được thể hiện trong đoạn trích.

BẢNG TỔNG HỢP CHUNG


NĂM ĐỌC HIỂU NLXH NLVH
2017 Văn bản nghị luận Sự thấu - Đoạn Đất Nước là
- PTBĐ cảm gì?
- Ý nghĩa từ “thấu cảm” - Nhận xét quan niệm
- Nhận xét về chi tiết trong VB về Đất Nước của
- Nêu quan niệm Nguyễn Khoa Điềm
2018 Văn bản thơ Sứ mệnh - Liên hệ Chiếc
- Thể thơ đánh thức thuyền ngoài xa và
- Yếu tố trong VB tiềm lực đất Hai đứa trẻ.
- Hiệu quả của câu hỏi tu từ nước của - Nhận xét về cách
- Nêu quan niệm mỗi cá nhìn hiện thực của
nhân hai tác giả

2019 Văn bản thơ Sức mạnh - Sông Hương ở


- Thể thơ của ý chí thượng nguồn
- Hiểu nội dung câu thơ ntn? - NX cách nhìn mang
- Hiệu quả của phép điệp tính phát hiện về
- Nêu suy nghĩ dòng sông của tác
giả.
2020 Văn bản nghị luận Trân trọng - Đoạn Đất Nước là
Đợt 1 - PTBĐ cuộc sống của nhân dân nhìn
- Tìm ý trong VB mỗi ngày từ phương diện lịch
- Suy luận dựa vào VB sử.
- Nêu ý kiến
2020 Văn bản nghị luận Niềm tin - Việt Bắc trong
Đợt 2 - PTBĐ trong cuộc kháng chiến: “Nhớ
- Tìm ý trong VB sống khi giặc đến… đèo
- Suy luận dựa vào VB De, núi Hồng”
- Nêu ý kiến
2021 Văn bản nghị luận Sống cống - Sóng: đoạn lý giải
Đợt 1 - Tìm ý trong văn bản hiến ngọn nguồn và nỗi
- Tìm ý trong VB có tổng hợp nhớ.
- Hiểu gì về câu nói
- Bài học
2021 Văn bản nghị luận Tinh thần - Tây Tiến: đêm liên
Đợt 2 - Tìm ý trong văn bản hợp tác hoan và cảnh thiên
- Tìm ý trong VB có tổng hợp nhiên thơ mộng.
- Hiểu gì về câu nói - NX cảm hứng lãng
- Nêu ý kiến mạn của QD.
2022 Văn bản thơ Trân trọng - Vợ nhặt: tâm trạng
MH - Thể thơ giá trị văn bà cụ Tứ sau khi
- Tìm ý trong VB hóa truyền biết Tràng lấy vợ.
- Hiểu gì về câu thơ thống của - Giá trị nhân đạo của
- Câu thơ có ý nghĩa gì với em dân tộc KL.
2022 Văn bản thơ Trách - Chiếc thuyền ngoài
- Thể thơ nhiệm của xa: bức tranh nghệ
- Tìm từ ngữ trong VB thế hệ trẻ thuật.
- Tác dụng của biện pháp so sánh trong việc - Mối quan hệ giữa
- NX về suy ngẫm của tác giả trong tiếp bước nghệ thuật và cuộc
ý thơ. thế hệ đi đời.
trước
2023 Văn bản thơ Sức mạnh - Việt Bắc: bức tranh
MH - Thể thơ của tinh tứ bình.
- Tìm từ ngữ trong VB thần vượt - NX về lẽ sống ân
- Nội dung 1 số câu thơ khó tình được thể hiện
- NX về ý thơ trong đoạn trích
2023 Văn bản thơ Vai trò của - Vợ nhặt: đoạn cuối
- Thể thơ việc cân - NX cách nhìn cuộc
- Tìm từ ngữ trong VB bằng cảm sống của KL.
- Tác dụng của biện pháp so sánh xúc trong
- Bài học cuộc sống

You might also like