You are on page 1of 20

Câu 1: Lý thuyết cấu trúc – chức năng: 1,2,3, 4

- Thuyết CTCN xem xét xã hội là một chỉnh thể phức tạp bao gồm
nhiều thành tố hợp lại. Mỗi thành tố đều có chức năng riêng biệt
đoàn kết với nhau thúc đẩy sự thống nhất và duy trì ổn định trật tự
xã hội.
Vd: Lý thuyết này xem xã hội giống như 1 chiếc đồng hồ, theo lý
thuyết này thì tất cả mọi người trong xã hội đều có một công việc và vai
trò cụ thể và họ cần phải làm điều để mọi thứ được vận hành và tất cả cá
nhân sống trong xã hội này làm việc cùng nhau cho dù họ có nhận ra
điều đó hay không. Nó tương tự như chiếc đồng hồ, bên trong nó có kim
giờ, phim phút, pin, ốc vít, tất cả chúng đều có vai trò và chức năng
riêng và đều phải làm việc để chiếc đồng hồ hoạt động. Và nếu bạn tháo
rời bất kỳ bộ phận nào ra thì các bộ phận khác cũng không còn làm việc
được nữa.
- Thuyết CTCN cho rằng, xã hội không thể có sự thay đổi nhanh
chóng và nó sẽ làm mọi thứ để ngăn chặn điều đó và khi thay đổi
xảy ra trong xã hội, nó sẽ ở mức tối thiểu. Vì vậy nếu chúng ta có một
kẻ gây rối mới gia nhập xã hội thì phần còn lại của xã hội sẽ chỉ thích
ứng với nó theo những gì họ cần để giữ trạng thái cân bằng và sẽ không
bao giờ thấy những sự điều chỉnh thái quá. Điều này được lý giải bởi vì
mọi người cần phải thực hiện phần việc của mình để xã hội hoạt động
bình thường.
Robert Merlon đưa ra một số khái niệm:
- Chức năng biểu hiện (Things that are put in place intentionally to
keep society moving forward: những thứ được đặt ra có chủ ý nhằm
giữ cho xã hội tiến lên). Ví dụ: Chức năng biểu hiện của trường học:
dạy học cho học sinh
- Chức năng tiềm ẩn (Latent Functions: Unitended consequences from
manifest functions): là những hậu quả không mong muốn xảy ra từ
chức năng biểu hiện. Vd: chức năng biểu hiện của trường học là dạy
học cho học sinh. Song, một chức năng tiềm ẩn của trường học là trong
môi trường học đường, bạn cũng có thể bắt gặp những nhóm bạn có
chung sở thích là làm tình nguyện giúp người vô gia cư vào buổi tối và
bạn dành nhiều thời gian để thực hiện các hoạt động xã hội vào đêm
khuya thay vì ngủ và chuẩn bị cho bài kiểm tra của bạn vào hôm sau.
Một số chức năng tiềm ẩn có thể tốt, một số có thể xấu (vd gặp một
nhóm bạn sử dụng ma tuý). Vì vậy, hãy đảm bảo rằng bạn sẽ hiểu và
nắm vững được điều này vì chúng sẽ luôn xuất hiện trong cuộc sống
- Theo thuyết CTCN xã hội đang hướng tới trạng thái cân bằng. Theo
đó, xã hội được tạo thành từ một loạt các cấu trúc được kết nối với nhau.
Một cấu trúc là các thể chế (Institutions), là những thứ được tạo ra để
giúp đảm bảo rằng xã hội tiến lên và cũng để đảm bảo rằng xã hội đó đã
trải qua sự thay đổi căn bản để mọi thứ luôn tiến bộ. Mỗi thể chế có
những vai trò khác nhau trong xã hội. Vd: hệ thống giáo dục, tổ chức tài
chính, doanh nghiệp, luật pháp, y học, tôn giáo, chính phủ, quân đội, lực
lượng cảnh sát, phương tiện truyền thông đại chúng,… những tổ chức
này đều phục vụ các nhiệm vụ khác nhau trong xã hội và tất cả đều rất
quan trọng để các hoạt động được diễn ra hết công suất nếu chúng ta
muốn có một xã hội thành công và hiệu quả. Hãy nhớ rằng, các chức
năng biểu hiện trong tất cả các thể chế này sẽ khác nhau vì tất cả chúng
đều phục vụ cho các mục tiêu khác nhau và chúng sẽ dẫn đến những
chức năng tiềm ẩn (hậu quả) khác nhau.
- Bên cạnh đó, một cấu trúc khác gọi là sự thật xã hội (Social
Facts): là những thứ độc đáo và chúng ta thường không nghĩ về chúng
nhiều vì chúng không ảnh hưởng đến chúng ta cho đến khi chúng ta thật
sự muốn chống lại chúng. Nói cách khác đây là những thứ ảnh hưởng
đến chúng ta mỗi ngày, xuất hiện xung quanh chúng ta mọi lúc nhưng
bạn thật sự không nhìn thấy chúng và lý do là vì bạn chỉ đang tập trung
làm phần việc mà bạn phải làm, bạn chỉ thật sự thấy những điều này khi
đột nhiên bạn muốn làm một cái gì đó khác với những gì bạn phải làm.
Vd: luật pháp, đạo đức, đức tin tôn giáo, tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử,…)
Vd: Khi bạn nghĩ về luật thuế là khi bạn đang nghiên cứu về thuế hoặc
là khi bạn đang muốn trốn thuế.
Bạn thường không nghĩ đến những điều này mặc dù chúng có ảnh
hưởng lớn đến hầu như chúng ta với tư cách cá nhân và toàn xã hội. Vì
vậy, sự thật xã hội là những lực lượng vô hình tác động đến chúng ta và
có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta mà chúng ta không nhất
thiết phải biết.
Đó là sự khác biệt giữa thể chế (thấy rõ được tác động) và sự thật
xã hội (không thấy rõ được chúng luôn tác động đến bạn) nhưng cả
2 điều này cùng nhau đảm bảo rằng xã hội luôn tiến lên và đó là sự
cân bằng hành động.
* Hạn chế của thuyết CTCN:
- Một trong những hạn chế lớn nhất của thuyết CTCN đó là ít đề cập
đến sự biến đổi xã hội.
Vd: Khi chúng ta nhìn xã hội dưới lăng kín của thuyết CTCN chúng ta
thấy: nhiệm vụ của những người nông dân trong xã hội là làm ruộng và
cung cấp lương thực cho xã hội. Những ng nông dân này thường không
có đủ thời gian để dạy con cái và may quần áo cũng như sản xuất điện
thoại và họ càng không có thời gian quản lý đất nước. Chính vì họ ko có
thời gian như vậy nên họ chỉ cần tập trung vào công việc sản xuất lương
thực, sẽ có những người làm giáo viên có thời gian để dạy học cho con
của người nông dân, chính phủ có thời gian thực hiện công việc quản lý
đất nước và tất cả họ đã trở nên kết nối với nhau, dựa vào người khác để
thực hiện một nhiệm vụ khác mà họ cần và họ không có thời gian để tự
làm việc đó và đây là lý do tại sao thuyết CTCN phải vật lộn với sự thay
đổi nếu tất cả những người nông dân quyết định rằng họ không muốn
làm nông dân nữa, xã hội sẽ bắt đầu sụp đổ, chúng ta cần họ trở thành
nông dân, giống như họ cần chúng ta dạy dỗ con cái họ và họ cần chúng
ta sản xuất quần áo cho họ. Mọi người đều có 1 nhiệm vụ nhất định vì
vậy đây là thách thức lớn đối với thuyết CTCN đó là “Thích nghi và có
thể nhìn thấy những thay đổi xã hội to lớn”. Vì trong thuyết CTCN, một
sự thay đổi đổi với sản xuất phân phối phải buộc những người khác phải
thích nghi để duy trì một xã hội nhà nước ổn định. Biến đổi xã hội gây
khó chịu, đảo lộn trạng thái cân bằng, và đe doạ sự phụ thuộc lẫn nhau
của con người trong xã hội đó. Các thể chế và cấu trúc xã hội chỉ thích
nghi vừa đủ để bù đắp cho sự thay đổi và duy trì sự ổn định của sự phụ
thuộc lẫn nhau.
Hạn chế thứ 2: đó là sự bất bình đẵng . Nhìn vào một kiểu gia đình
cũ “đàn ông là trụ cột kinh tế gia đình, người phụ nữ chăm sóc con cái,
những đứa trẻ im lặng tập trung vào trường học và giúp đỡ xung quanh
nhà”. Mỗi người đều có một nhiệm vụ nhất định và mọi người đều làm
những gì họ cần để gia đình thành công. Điều này khiến cho thuyết
CTCN như xác nhận một số bất bình đẳng, rằng họ thừa nhận một
số người phù hợp để làm một số nhiệm vụ định hơn những người
khác và sự bất bình đẳng đó cần phải xảy ra, ko phải mọi người sẽ
bình đẳng với nhau, mọi người sẽ làm một số nhiệm vụ nhất định để
đảm bảo rằng họ có thể mang lại lợi ích cho gia đình họ, cho xã hội
của họ bất kể nó có thể là gì.
Câu 3: Thuyết xung đột xã hội – C.Mác 1, 2
C.Mác tin rằng, xã hội luôn tồn tại 2 nhóm: nhóm những người bị áp
bức và nhóm những kẻ áp bức và 2 nhóm này luôn mâu thuẫn với nhau
(1 nhóm lên nắm quyền, một nhóm khác sau đó bị mất quyền lực)
C.Mác cũng đưa ra chu kỳ của mâu thuẫn:
1. Nhóm áp bức đàn áp nhóm bị áp bức
2. Nhóm bị áp bức bắt đầu phàn nàn và mâu thuẫn xuất hiện (nhóm
bị áp bức phía dưới sẽ dần dần bắt đầu phàn nàn, bắt đầu trở nên to
tiếng hơn, cuối cùng nổi dậy, ).
3. Xung đột được giải quyết (nhóm áp bức sẽ đạt được một số nguồn
tài nguyên mới hoặc thứ gì đó và quy mô sẽ bắt đầu thay đổi)
4. Xuất hiện 1 nhóm áp bức mới và nhóm bị áp bức mới
5. Lặp lại từ bước 1
Thuyết xung đột tin rằng sẽ không có điểm cân bằng và chu kỳ này sẽ
tiếp tục lặp lại vì chúng ta có sự bất bình đẵng trong xã hội, nó sẽ không
bao giờ được cân bằng.
VD: Trong môi trường trường đại học, giữa 2 nhóm (tầng lớp giàu có
thượng lưu và trung lưu (nhóm áp bức) với tầng lớp thu nhập thấp hoặc
lao động dưới quyền (nhóm bị áp bức)). Lý thuyết xung đột nói rằng môi
trường giáo dục đại học không công bằng, người giàu có nhiều cơ hội
vào đại học hơn so với những người nghèo vì họ không đủ khả năng học
đại học. Lúc này, người giàu sẽ nói rằng, bạn có thể kiếm học bổng,
hoặc nếu làm việc chăm chỉ bạn có thể học đại học được, hoặc nếu bạn
không tham gia các băng đảng, ko sử dụng ma tuý hoặc mang thai sớm
thì bạn có thể học đại học được và đó là những quyết định trong cuộc
sống của bạn và tôi đã làm việc chăm chỉ vì thế tôi xứng đáng với điều
này và việc bạn không đi học đại học không phải do lỗi của tôi. Trong
khi phía bên kia chiếc cân sẽ nói rằng, tôi không có đủ nguồn lực, tôi
không có một ngôi trường chất lượng để chuẩn bị cho tôi vào đại học, tôi
không có một gia đình có tiền để giúp tôi trong vài năm đầu tiên hoặc tôi
không quen biết ai từng học đại học nên một số học bổng không được
trao cho tôi hoặc thậm chí tôi có thể không biết cách tìm những học
bổng này vì tôi không có quyền tiếp cận với những người có thể dạy tôi
cách làm điều đó.
Lý thuyết xung đột sẽ nói rằng, điều này giải thích cho việc chúng ta
bắt đầu thấy trong xh ngày càng có nhiều người thúc đẩy đại học miễn
phí vì họ cho rằng họ có ít hơn cơ hội và không thể vào đại học. Ở phía
bên kia, chúng ta sẽ thấy sự phản đối của những người nói rằng, đại học
miễn phí thật lố bịch vì chẳng có gì trong cuộc sống này là miễn phí cả.
VD khác về sự thay đổi cấu trúc gia đình giữa đàn ông và phụ nữ
- Các trường phái xã hội học thiên về chủ nghĩa duy vật đều thừa nhận
mâu thuẫn lợi ích là nguyên nhân sâu sa và trực tiếp của xung đột. Sự
lệch chuẩn của cá nhân hay sự sai lệch chức năng của 1 bộ phận xã hội
nào đó chưa thể là nguyên nhân của xung đột, nếu nó không đụng chạm,
hay mâu thuẫn, đối lập lợi ích hoặc quan điểm của cá nhân hay bộ phận
khác. Quan sát mâu thuẫn dẫn tới xung đột người ta thường thấy có 2
dạng chính, đó là mâu thuẫn về lợi ích và mâu thuẫn về giá trị, hay quan
điểm.
- Các nhà xhh cho rằng: xung đột xã hội là những tranh chấp giữa 2
hay nhiều cá nhân hay nhóm xã hội (tổ chức, quốc gia,…) và họ đồng ý
nguyên nhân dẫn đến xung đột là do:
+ Xung đột quyền lợi, đó là những đối thủ trong cuộc đấu tranh
giành các nguồn lực hiếm hoi như quyền lực, địa vị,…
+ Xung đột giá trị, (là sự không đồng thuận về tính ưu tiên trong
trật tự thứ hạng các giá trị) cũng như dựa trên cơ sở tính mâu thuẫn
trong các đánh giá của các đối thủ xung đột trong quá trình đánh
giá. Mâu thuẫn này xuất hiện khi các bên khác nhau có sự đối lập
trong việc nhìn nhận, đánh giá và xử lý đối với những giá trị nào đó.
(mâu thuẫn giữa việc bảo vệ, phá bỏ hay kìm hãm một giá trị nào đó
(xung đột tôn giáo, xung đột tộc người).
Nhiều ý kiến cho rằng, so với xung đột lợi ích thì xung đột giá trị,
xung đột bản sắc khó thương lượng và tìm lối thoát hơn nhiều. Bởi vì
quyền lợi vật chất dù sao vẫn có thể điều hoà được, đặc biệt là khi 2
bên nhận thấy nguy cơ đe doạ lợi ích do xung đột mang lại. Khi đó,
người ta có thể thương lượng để đi đến sự thoả thuận về phân chia lợi
ích sao cho 2 bên cùng có lợi. Nếu không, có thể cả 2 bên cùng bị thiệt
hại. Mâu thuẫn về tôn giáo, sắc tộc không thuộc loại này. Người ta
không thể dễ gì từ bỏ các giá trị thiêng liêng của mình, đặc biệt là khi từ
bỏ nó thì họ không còn là họ nữa. Đây là cuộc đấu tranh để chứng tỏ, để
khẳng định mình của các tập đoàn xã hội rộng lớn.
Cuộc đấu tranh xung đột càng kéo dài, càng kéo dài, càng khốc liệt thì
dường như giá trị càng trở nên bền vững hơn. Thực tế, các cuộc chiến
tranh tôn giáo trong lịch sử, hay xung đột sắc tộc ở khu vực Trung Đông
hiện nay đã cho thấy điều đó. Mặt khác trong các kiểu kết cục của xung
đột xã hội, có thể một tập đoàn này đánh đổ tập đoàn khác, giai cấp này
lên cầm quyền thay giai cấp khác. Nhưng, những kết thúc tương tự như
thế không thấy trong các xung đột tôn giáo hay dân tộc. Xung đột chi
góp phần đẻ thêm tôn giáo mới, và cũng ko làm cho dân tộc nào hoàn
toàn bị tiêu vong. Vì vậy, có thể nói, xung đột giá trị là thứ xung đột
thường chứa đựng nguy cơ đẻ thêm xung đột mới, rất khó điều hoà và
giải quyết. Nhưng trong thực tế, hầu hết các cuộc xung đột xã hội đều
hàm chứa trong đó cả 2 dạng mâu thuẫn lợi ích và giá trị.
Một số hình thức xung đột:
- Xung đột vai trò: xảy ra khi các kỳ vọng trái ngược nhau xuất hiện từ
2 hay nhiều địa vị mà một người đồng thời đang nắm giữ. Mà việc thực
hiện các vai trò của địa vị thứ nhất có thể vi phạm đến các vai trò của địa
vị thứ 2. Vd: người cha làm cảnh sát, con của người cảnh sát lại vi phạm
pháp luật. Người cha sẽ thực hiện vai trò như thế nào: bắt con theo luật
hay bỏ qua?
- Xung đột giữa các cặp vợ chồng: xem xét xung đột tâm lý trong quan
hệ vợ chồng cho thấy những cấp độ khác nhau trong sự phát triển xung
đột:
+ Mức độ 1: là mức độ thấp nhất của sự phát triển xung đột. Với sự
không hài lòng, khó chịu nhất thời nảy sinh từ những hiểu lầm,
thiếu thông tin trong đời sống vợ chồng hàng ngày. Biểu hiện: sự
trách cứ, giận dỗi, xích mích,…
+ Mức độ 2: những biểu hiện trên có tính hệ thống, sự không hài
lòng kéo dài, sự cãi cọ, xô xát, va chạm, xuất phát từ sự thiếu tương
hợp trong tính cách vợ chồng, chưa tìm được sự dung hoà.
+ Mức độ 3: sự khó chịu, không hài lòng rõ rệt, bầu không khí tâm
lý nặng nề, căng thẳng giữa 2 vợ chồng, khiến họ hay to tiếng, gây
gỗ, với những phản ứng bộc phát, khó kiềm chế.
+ Mức độ 4: xung đột bùng nổ thật sự, hai vợ chồng hành hạ nhau
cả về thể xác lẫn tinh thần, xúc phạm nhau.
Xung đột giới: giữa nam với nữ
Xung đột môi trường: xhh quan niệm rằng, xung đột môi trường là một
dạng xung đột xã hội liên quan đến sự tranh chấp môi trường giữa các
nhóm xã hội: nhóm gây hại môi trường với nhóm bị hại môi trường, ví
dụ: xí nghiệp/bệnh viện với cộng đồng dân cư hoặc giữa những hộ sản
xuất với cộng đồng dân cư trong các làng nghề. Căn cứ vào nguyên nhân
xung đột, trong nghiên cứu môi trường người ta phân biệt những dạng
xung đột sau:
+ Xung đột nhận thức: là dạng xung đột có căn nguyên từ sự hiểu biết
khác nhau trong hành động của các nhóm, dẫn tới phá hoại môi trường.
+ Xung đột mục tiêu: trong hoạt động của các nhóm dẫn đến xung đột:
người trồng rau phun thuốc sâu dẫn đến xung đột mục tiêu bảo vệ sức
khoẻ của ng tiêu dùng.
+ Xung đột lợi ích: xuất hiện khi các nhóm tranh giành lợi thế sử dụng
tài nguyên: cơ sở sx xả chất thải hoá học vào ruộng lợi ích của nông dân.
+ Xung đột quyền lực: nhóm có quyền lực mạnh hơn, lất át nhóm khác,
chiếm lợi thế của nhóm khác dẫn đến ô nhiễm môi trường.
Trên thực tế, mỗi sự kiện xung đột môi trường có thể chỉ bắt nguồn
từ một hoặc một số loại xung đột, song cuối cùng cái đọng lại lớn
nhất là xung đột lợi ích: Vì lợi ích vị kỷ của một nhóm, môi trường
tự nhiên bị huỷ hoại.
Thuyết xung đột giúp chúng ta nhận diện và giải thích được sự bất ổn
trong quá trình phát triển xã hội, để từ đó điều chỉnh và kiểm soát các
hiện tượng xã hội hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vì con người.
Câu 3: Thuyết tương tác biểu tượng 1, 2 Giair thích cấp độ cá nhân.
1ng 2ng
- Thuyết tương tác biểu tượng nhấn mạnh sự tương tác của con
người qua biểu tượng đó. Biểu tượng là một cái gì đó thay thế cho,
hoặc đại diện cho một cái gì đó. Các biểu tượng có thể mang rất
nhiều hình thức, kể cả lời nói, khái niệm, âm thanh hay những biểu
hiện nét mặt, và điệu bộ cơ thể. Các biểu tượng không được xác
định bằng những sự vật mà chúng thể hiện, chúng được xác định
bởi những người tạo ra và sử dụng chúng.
- Thuyết TTBT có một cái nhìn quy mô nhỏ về xã hội. Nó tập trung
vào góc nhìn quy mô nhỏ về sự tương tác giữa các cá nhân, VD: như khi
bạn đi chơi với một người bạn, thay vì xem xét các cấu trúc quy mô lớn
như giáo dục hoặc luật pháp. Bằng cách nhìn vào quy mô nhỏ, thuyết
TTBT giải thích cá nhân trong một xã hội và sự tương tác của họ với
những người khác. Và thông qua đó nó có thể giải thích trật tự xã hội và
sự thay đổi.
- Thuyết TTBT cho rằng, sự phát triển của cá nhân là một quá trình xã
hội, cũng như ý nghĩa mà cá nhân gán cho sự vật. Mọi người thay đổi
dựa trên sự tương tác của họ với các đối tượng, sự kiện, ý tưởng, người
khác và họ gán ý nghĩa cho mọi thứ để quyết định cách hành động.
Vd: Nếu tôi đã ngồi dưới bóng cây từ nhỏ đến lớn, và hôm nay tôi đang
đi dạo và phát hiện một cái cây lớn, tôi có thể muốn ngồi dưới gốc cây
đó. Tức là, cây đồng nghĩa với bóng mát vào một ngày nóng đối với tôi.
- Về sau, Herbert Bloomer tiếp tục kế thừa công việc của Meet và thật
sự đặt ra thuật ngữ tương tác biểu tượng để mô tả lý thuyết xã hội này.
Ông đưa ra 3 giả định để giải thích thuyết TTBT.
Giả sử hôm nay, tôi quyết định ngồi dưới gốc cây đó trong chuyến đi bộ
của mình, tôi tiến lại gần và ngồi dựa mình vào thân cây. Giả định đầu
tiên được phát biểu rằng: “Chúng ta hành động dựa trên ý nghĩa
mà chúng ta đã đưa ra cho một điều gì đó”. Vì tôi coi cái cây là nơi
nghỉ ngơi, nên tôi sẽ dựa vào nó.
Tiếp theo, khi tôi đang ngồi đó, bổng có một người khác dừng lại và
cảnh báo tôi rằng, tất cả các cây ở đây đều bị bọ phá hoại rồi. Giả định
thứ 2 cho rằng, “Chúng ta mang lại ý nghĩa cho mọi thứ dựa trên
các tương tác xã hội của chúng ta”. Cùng một biểu tượng có thể có
một ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau. Đối với
người đang nói chuyện với tôi, cái cây là nơi sinh sản của những con bọ
đáng sợ và họ sẽ tránh nó. Nhưng tôi khá hài lòng với chổ ngồi của mình
trong bóng râm và tôi không bị con bọ nào làm phiền. Vì thế, tôi lại lòng
khi ngồi ở đó. Chúng ta có những quan điểm khác nhau về cái cây, và vì
vậy chúng ta hành động khác nhau. Khi tôi đang ngồi nói chuyện với
người bạn dễ thương này, tôi cảm thấy có gì đó nhột nhột ở vai, và đột
nhiên tôi nhảy dựng lên vì có thứ gì đó cắn vào lưng tôi. Hoá ra cái cây
bị bọ phá hoại. Bây giờ tôi đã bị cắn dưới gốc cây, tôi sẽ không tiếp tục
ngồi dưới gốc cây vì nó có thể cũng bị bọ phá hoại.
Giả định thứ 3 của Blumer là “Ý nghĩa mà chúng ta gán cho một
thứ gì đó không phải là vĩnh viễn. Nó có thể thay đổi do cuộc sống
hằng ngày”. Ý nghĩa mà tôi đã dành cho cái cây đã thay đổi sau khi tôi
tương tác với cái cây bị nhiễm bọ. Một cái cây lớn bây giờ với tôi có
nghĩa là bóng mát vào một ngày nắng nóng nhưng với khả năng bị bọ
cắn.
Tóm tắt 3 giả định của thuyết TTBT lại đó là:
+ Chúng ta hành động phụ thuộc vào ý nghĩa
+ Những người khác nhau sẽ gán cho sự vật những ý nghĩa khác
nhau
+ Ý nghĩa của một thứ gì đó có thể thay đổi
Thuyết TTBT có khả năng giải thích các khía cạnh của xã hội có thể
thay đổi như thế nào khi chúng được tạo ra và tái tạo bởi các tương tác
xã hội. Nó xem xét xã hội trên quy mô nhỏ và xem cá nhân có cùng tầm
quan trọng như toàn xã hội và là một quan điểm cần thiết khi nghiên cứu
xã hội.
Câu 4: Xã hội hoá 1,2
1. Định nghĩa: Một số nhà xhh đưa ra một số định nghĩa về xã hội hoá
như sau
Neil Smelser định nghĩa “Xã hội hoá là quá trình, mà trong đó cá
nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình để
thực hiện tốt cho các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò
mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình”.
Fichter định nghĩa “Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa
người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận khuôn mẫu
hành động và sự thích nghi với những khuôn mẫu”.
Mỗi chúng ta đều được bao quanh bởi mọi người, và những người đó
trở thành một phần trong cách chúng ta hành động và những gì chúng ta
coi trọng. Điều này được gọi là xh hoá.
Cả 2 định nghĩa này đều xem xã hội hoá là một quá trình, tức là có bắt
đầu, có diễn biến và có kết thúc. Vì vậy, chúng ta có thể định nghĩa rằng
“Xã hội hoá là một quá trình xã hội mà thông qua đó chúng ta phát
triển nhân cách và tiềm năng con người cũng như tìm hiểu về xã hội
và văn hoá của chúng ta”.
* Các gia đoạn của quá trình xã hội hoá: Có 3 giai đoạn chính:
+ Giai đoạn xã hội hoá của đứa trẻ ban đầu trong gia đình.
+ Giai đoạn xã hội hoá diễn ra trong nhà trường.
+ Giai đoạn con người thực sự bước vào đời để đảm nhận vai trò mà
hai giai đoạn trước đã được chuẩn bị đầy đủ.
* Môi trường xã hội hoá: là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các
tương tác xã hội của mình, nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh
nghiệm xã hội. Có 3 môi trường xã hội hoá chính: gia đình, trường học
và xã hội.
Các bạn hình dùng môi trường xh hoá giống như là chúng ta đang
nói về CÁCH mà chúng ta tìm hiểu về thế giới xã hội, thì câu trả lời
dường như đó là chúng ta được xã hội hoá bằng cách tương tác với
những người khác. Nhưng là những người nào, những người nào và
những tổ chức nào đã tạo nên bạn như ngày hôm nay, thì đó chính là:
gia đình, trường học và xã hội.
- Gia đình: Đây là môi trường xh hoá quan trọng bậc nhất của 1 cá
nhân, bởi vì hầu hết cá nhân sinh ra và lớn lên trong gia đình. Xh hoá là
1 quá trình lâu dài và nó bắt đầu trong gia đình chúng ta. Bố mẹ,
ông bà, anh chị em, bất cứ ai mà bạn sống cùng gần như là toàn bộ
thế giới xã hội của bạn khi bạn còn rất nhỏ. Và điều đó rất quan
trọng, bởi vì gia đình của bạn là nguồn gốc của cái được gọi là xã hội
hoá sơ cấp – “Những trải nghiệm đầu tiên của bạn về ngôn ngữ, giá
trị, niềm tin, hành vi và chuẩn mực của xã hội”. Bố mẹ và người
giám hộ là những người thầy đầu tiên của bạn về mọi thứ từ những
điều nhỏ nhặt như cách đánh răng cho đến những điều lớn lao như
giới tính, tôn giáo, luật pháp và chính trị.
VD: Về việc 2 đứa trẻ giàu nghèo đặt câu hỏi cho bsi “sử dụng quyền
lực” – “chịu “ . Vd này cho chúng ta thấy cách trẻ em được nuôi dạy, và
thật sự cách chúng được nuôi dạy ảnh hưởng đến cách chúng tương tác
với người khác, trong trường hợp này là quyền lực. Vì vậy, những đứa
trẻ giàu được khuyến khích sử dụng quyền lực và suy nghĩ độc lập trong
khi những đứa trẻ ít giàu có hơn được dạy phải phục tùng quyền lực.
VD2: Câu chuyện: cái máng gỗ
- Trường học: là nơi trẻ em thu nhận những kiến thức ban đầu về ý
thức trách nhiệm xã hội. Cũng tại đó, qua giao tiếp, chúng dần dần hình
thành các mối quan hệ xã hội. Trường học là nơi các cá nhân thu nhận
các kiến thức khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức
này, sẽ phục vụ đắc lực cho việc thực hiện vai trò mà cá nhân cần phải
đóng trong tương lai (như họ sẽ trở thành giáo viên, bác sĩ,…).
Ngoài ra, các nhà xhh cũng chỉ ra rằng, trường học không chỉ cung cấp
cho các cá nhân các kiến thức tự nhiên và xã hội mà nó còn đi kèm với
cái mà các nhà xhh gọi là chương trình giảng dạy ẩn (không chính thức/
hidden curriculum) – đó là, một nền giáo dục về các chuẩn mực, giá trị
và niềm tin được truyền qua trường học.
VD: Ví dụ: Trường học dạy cho trẻ em đánh vần, mục tiêu của nó là
dạy chữ và khuyến khích trẻ em học cách đánh vần. Nhưng một thứ gì
đó nghĩ là vô hại như học cách đánh vần cũng có thể ẩn chứa nhiều bài
học gắn bó với trẻ em. Chẳng hạn, nó dạy chúng rằng, làm tốt hơn các
bạn cùng trang lứa là điều đáng khen – và nó cũng cố ý tưởng rằng, thế
giới có kẻ thắng người thua. Một chương trình giảng dạy ẩn khác của
trường học nói chung là để trẻ em tiếp xúc với nhiều người khác nhau.
Khi mqh xã hội duy nhất của bạn là gia đình, bạn chỉ có 1 góc nhìn
về chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, chính trị,… Nhưng khi bạn bước ra
ngoài thế giới, bạn sẽ gặp nhiều người từ nhiều nguồn gốc khác
nhau, dạy bạn về chủng tộc, sắc tộc, tầng lớp xã hội, tình trạng
khuyết tật, giới tính và tình dục,… Trường học không chỉ trở thành
lớp học cho các môn học, mà còn là nơi học hỏi về những kiểu người
khác nhau. Thế giới sẽ có nguoiwg thắng và người thua…
- Xã hội: đó là nhóm mà cá nhân là thành viên (nhóm sinh viên, nhóm
cùng sở thích trong nhà máy, tiểu đội trong quân đội, nhóm nghiên cứu,
…) . Phần lớn quá trình xã hội hoá lúc cá nhân trưởng thành là thông
qua các chuẩn mực chính thức và không chính thức, những chuẩn
mực không chính thức này nằm trong nội bộ và nhóm.
Cùng một nhóm có cùng sở thích, thì họ có cách ăn mặc, cách giao
tiếp giống nhau với những chuẩn mực giao tiếp riêng của chúng.
Những thành viên của nhóm, đều mong đợi trong cá nhân tuân thủ
những khuôn mẫu này, chừng nào còn muốn là thành viên của nhóm
đó. Sức ép của nhóm đòi hỏi các khuôn mẫu hành vi thường vượt lên
những giá trị bên ngoài đặt ra.
VD: Trong một nhóm buôn bán hàng lậu, họ phải tuân thủ các quy tắc
chung của nhóm và nếu rủi ro bị công an bắt giữ thì phải giữ bí mật
những việc làm của nhóm và không khai ra đồng bọn của mình. Do vậy,
việc làm của anh ta được nhóm chấp nhận, nhưng luật pháp trừng trị vì
anh ta vi phạm pháp luật.
Câu 5: Nhóm xã hội
“Nếu tất cả bạn bè của con đều nhảy cầu, con có nhảy theo không?”
Đó là lời than thở của nhiều bậc cha mẹ đang bực tức, nhưng đó cũng là
một dạng câu hỏi xã hội học sâu sắc. Bởi vì, khi bạn nói chuyện với cha
mẹ mình, câu trả lời luôn là không. Nhưng, với nhóm bạn phù hợp, bạn
có thể rất vui khi được lặn xuống nước. Vấn đề là, bạn là một người
khác khi bạn là thành viên của một nhóm và bạn là một người khác
trong các nhóm khác nhau. Một gia đình, một nhóm bạn đi chơi, một
cuộc họp kinh doanh và một dàn hợp xướng là các loại nhóm khác nhau.
Và cùng một người có thể là thành viên của tất cả các nhóm đó. Vì vậy,
nếu chúng ta muốn hiểu những nhóm này như thế nào, các nhóm
khác nhau và thậm chí chúng giống nhau như thế nào, chúng ta cần
nói về các nhóm xã hội là gì và tại sao chúng lại quan trọng, đối với
cả những người là một phần của họ và những người không thuộc
nhóm đó.
- Định nghĩa: Nhóm là một tập hợp người, mà trong đó các cá nhân
quan hệ qua lại với nhau theo cơ chế nào đó và trong đó tồn tại một cấu
trúc nào đó, trong đó các thành viên tham gia một cách tự nguyện. Để
thành lập 1 nhóm, phải có ít nhất 2 tiêu chuẩn:
1. Trước hết là một số đông cá nhân
2. Hành động của mỗi cá nhân trong nhóm phải có ý nghĩa với phản
ứng của những người khác. Tức là hành vi của anh ta phải ảnh
hưởng tới những phản ứng trước đó.
Thiếu 1 trong 2 yếu tố thì chỉ được gọi là đám đông, không được gọi là
nhóm. Đám đông là một tập hợp các cá nhân tình cờ ở cùng một nơi vào
cùng một thời điểm.
Vd: Tất cả những người đi qua ga Sài Gòn vào lúc 17h00 chiều ngày
hôm qua được gọi là một đám đông. Họ không phải là 1 nhóm vì họ
không chia sẻ cảm giác thân thuộc.
Nói 1 cách khác “Một nhóm xã hội đơn giản là một tập hợp những người
có những điểm chung và những người tin rằng những điểm chung của họ
là quan trọng”.
- Phân loại nhóm:
1. Nhóm sơ cấp (Primary Groups): Các nhóm sơ cấp nhỏ và có liên
kết chặt chẽ với nhau, được ràng buộc bởi một cảm giác thân thuộc
rất mạnh mẽ. Gia đình và bạn bè là những nhóm chính thuộc nhóm
sơ cấp. Đó là nơi họ hỗ trợ lẫn nhau, nơi các thành viên có thể tìm kiếm
sự giúp đỡ về tình cảm, xã hội và tài chính. Và đối với các thành viên
trong nhóm, bản thân nhóm là mục tiêu cuối cùng. Nó tồn tại để trở
thành một nhóm chứ không vì bất kỳ mục đích nào khác. vd con cái
bố mẹ anh chị em…

2. Nhóm thứ cấp (Secondary Groups): Đây là những nhóm lớn và


không có tính cá nhân, các thành viên trong nhóm bị ràng buộc chủ
yếu bởi một mục tiêu hoặc hoạt động chung, hơn là bởi các mối
quan hệ tình cảm mạnh mẽ.
Vd: Một công ty là một ví dụ điển hình về nhóm thứ cấp: Các nhân
viên thường kết nối với nhau một cách lỏng lẻo hoặc chính thức thông
qua công việc của họ và họ có xu hướng biết rất ít về nhau. Vì vậy, cũng
có một cảm giác thân thuộc ở đó, nhưng nó bị hạn chế hơn nhiều. Nói
vậy, không có nghĩa là đồng nghiệp không bao giờ có quan hệ tình cảm.
Trên thực tế, các nhóm thứ cấp hoàn toàn có thể trở thành các nhóm sơ
cấp theo thời gian, khi một nhóm đồng nghiệp dành thời gian cho nhau
và họ trở thành một nhóm bạn chính.
3. Nhóm tự nguyện: nhóm được hình thành nhờ sự tham gia tự
nguyện, được gọi là nhóm tự nguyện. Các nhóm tự nguyện được chia
làm 2 loại:
+ Nhóm tự nguyện mang tính công cụ: mục đích hành động của nhóm
nhắm vào những mục tiêu cụ thể (tổ chức đảng phái chính trị, các băng
đảng tội phạm,…)
+ Nhóm tự nguyện tình cảm: là những nhóm được thành lập nhằm thoả
mãn nhu cầu tình cảm. Vd: hội những người yêu mèo, clb tình nguyện,

Nhóm không tự nguyện
Vd: các tù nhân trong nhà tù, những người lính nhập ngũ.
Câu 6: Di động xã hội
- Định nghĩa: Di động xã hội là sự dịch chuyển xã hội, là khái niệm
dùng để chỉ sự chuyển đổi của những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội
trong cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội. Thực chất, di động xã hội là
sự thay đổi vị trí trong hệ thống phân tầng xã hội, nó liên quan đến
việc các cá nhân thay đổi vị trí, địa vị xã hội.
- Có 2 dạng di động xã hội chính, đó là: Di chuyển trong thế hệ
(Intragenerational Mobility) và dịch chuyển giữa các thế hệ
(Intergenerational Mobility).
+ Di chuyển trong thế hệ là cách một người di chuyển lên hoặc
xuống bậc thang xã hội trong suốt cuộc đời họ.
Vd: Trong một gia đình gồm 3 người: Bố, mẹ, Long. Hiện tại, Long là
một kế toán, vì vậy anh ấy sẽ được xem là thuộc tầng lớp trung lưu, và
nếu hình tam giác này đại diện cho tầng lớp thượng lưu ở trên cùng, tầng
lớp trung lưu ở giữa, và tầng lớp thấp hơn ở dưới cùng. Long sẽ được
xem là 1 kế toán thuộc tầng lớp trung lưu. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu
trong cuộc đời Long, anh ấy được thăng chức hàng loạt và cuối cùng trở
thành 1 CEO của công ty kế toán quốc tế này. Cuối cùng, kiếm được
một số lượng lớn tiền mỗi tháng và thật sự đã gia nhập vào tầng lớp
thượng lưu. Anh ấy đã thực sự “tiến lên” nếu xét về địa vị xã hội của anh
ấy. Ngược lại nếu anh ấy bị mất việc và thay thế vào đó bằng 1 công
việc lao động chân tay khác. Anh ấy sẽ “đi xuống” và trong cuộc đời
mình, có lẽ Long sẽ tham gia vào tầng lớp lao động hoặc tầng lớp thấp
hơn. Vì vậy, một trong những điều quan trọng cần xem xét ở đây là điều
gì đang xảy ra với Long, nó đang xảy ra với anh ấy, trong cuộc đời của
anh ấy, trong cuộc đời của chính anh ấy. Cho dù anh ấy “đi lên” hay “đi
xuống” thì tính di động xã hội mà anh ấy đang trải qua là một điều đang
ảnh hưởng đến anh ấy trong thế hệ của chính anh ấy, trong thời gian
sống của anh ấy, và đây là thứ mà xã hội học gọi là “Di động trong
thế hệ”.
Vd 2: Điều khác biệt về sự di chuyển giữa các thế hệ là chúng ta
thực sự cần xem xét cha mẹ của Long. Bởi vì tính di động giữa các thế
hệ thực sự xem xét họ ngoài anh ta. Thay vì chỉ nhìn vào những gì đang
xảy ra với anh ấy, chúng ta phải thực sự xem xét vị trí của họ trên nấc
thang xã hội. Vì thế, chúng ta hãy có một cái nhìn với họ, nếu họ là
những người lao động chân tay, những người lao động thuộc tầng lớp
lao động hoặc thấp hơn và rồi Long trở thành CEO chẳng hạn thuộc tầng
lớp thượng lưu. Chúng ta sẽ thấy rằng qua các thế hệ đã có sự thay
đổi trong nhóm xã hội của họ, từ tầng lớp thấp sang tầng lớp thượng
lưu. Vì vậy, thực sự một trong những khái niệm then chốt giữa cả
hai điều này là khi chúng ta xem xét tính di động trong thế hệ,
chúng ta đang xem xét sự thay đổi tính di động xã hội trong thời
gian sống của chính một người. Trong khi xem xét tính di động giữa
các thế hệ, chúng ta đang xem xét tính di động xã hội thay đổi qua
các thế hệ
- Di động xã hội được xác định như sự vận động của các cá nhân hay
một nhóm xã hội từ vị trí, địa vị xã hội này sang vị trí, địa vị xã hội
khác. Có một hình thức di động khác: di động theo chiều ngang và di
động theo chiều dọc.
+ Di động theo chiều ngang chỉ sự vận động của các cá nhân giữa
các nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới một vị trí ngang bằng về mặt xã
hội. vd chuyển tuef cv này sang một cv khác. Mặc dù có hữn sự thay
đổi về công việc nhưng nó vẫn ngang bằng nhau
+ Di động theo chiều dọc chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các
nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới vị trí xã hội có giá trị cao hơn hoặc
thấp hơn. vd Đó là sự thăng tiến, đề bạt, miễn nhiệm, rút lui.
Câu 7: Lệch chuẩn và kiểm soát xã hội
- Định nghĩa lệch chuẩn: Trong xã hội, các chuẩn mực xã hội định vị
hành vi của các cá nhân. Nếu hành vi nào đi ngược lại với các chuẩn
mực văn hoá sẽ được gọi là sự lệch chuẩn. Sự khác biệt hay không
mong đợi thường được mô tả là sự lệch chuẩn theo cách nhìn của xã
hội học. Lệch chuẩn là những hành vi đi chệch với sự mong đợi của
số đông, hay vi phạm các chuẩn mực xã hội. vd ng vn tóc đen nhưng
bạn lại nhộm bảy sắc cầu vồng, bị đánh giá là khác biệt so với số
dông, và bạn sẽ bị đánh giá là lệch chuẩn
- Hệ quả của lệch chuẩn:
1. Lệch chuẩn góp phẩn củng cố, tăng cường giá trị, chuẩn mực xã
hội.
Vd: Hành vi ăn mặc hở hang, không đứng đắn khi lên chùa của 1
người nổi tiếng là 1 hành vi lệch chuẩn, vi phạm thuần phong mỹ tục,
điều này khiến cộng đồng bàn tán và khiến cho họ ý thức hơn về vấn đề
thuần phong mỹ tục cũng như cách ănmặc nơi đông người.
- Khi 1 quy tắc bị vi phạm, nó được gọi là sự lệch chuẩn và mặc dù
từ lệch chuẩn nghe có vẻ tiêu cực, nhưng không phải vậy. Nó đơn
giản có nghĩa là hành vi của một cá nhân khác với những gì xã hội
cho là hành vi bình thường. Nếu một người đi chệch khỏi các chuẩn
mực, điều đó không nhất thiết có nghĩa là họ đang làm điều gì đó
xấu xa hoặc vô đạo đức.
Vd: Hầu hết người Mỹ đều ăn thịt thường xuyên và họ cảm thấy rằng
làm như vậy là hành vi bình thường. Người không ăn thịt, người ăn
chay, đều bị cho là không bình thường. Hành vi của họ khác với những
gì mà đa số coi là chấp nhận được và bình thường. Và cũng như các
chuẩn mực tương đối, sự sai lệch cũng là tương đối. Nó phụ thuộc vào
bối cảnh, nhóm cá nhân hoặc vị trí địa lý trên thế giới.
2. Lệch chuẩn giúp tăng cường tính đoàn kết hay tinh thần tập thể
- Lệch chuẩn xã hội giúp các thành viên trong một nhóm nhất
định nhận thức rõ hơn sự giống nhaugiữa họ và sự khác biệt của
nhóm mình so với những nhóm khác, qua đó làm tăng cường sự gắn
kết giữa các thành viên trong nhóm.
Vd: Một nhóm thanh niên hư, bụi đời hành động trái với những quy
tắc, giá trị văn hóa chung, họ còn hành đông theo một giá trị riêng và lập
ra những văn hóa nhóm được mọi thành viên trong nhóm tán thành. Các
quy tắc này của nhóm không phù hợp với các tiêu chuẩn chung của xã
hội tuy nhiên nó lại giúp tất cả các thành viên cảm thấy gắn kết hơn khi
có chung một niềm tin.
3. Lệch chuẩn là dấu hiệu và là nguồn gốc của sự biến đổi xã hội
- Các hành vi lệch chuẩn thường bị cộng đồng lên án, thậm chí
trừng phạt. Tuy nhiên một số lệch chuẩn lại có thể đem lại cho xã
hội những thay đổi tích cực, cần thiết cho sự phát triển.
VD: Những năm 1960, chính sách “Khoán Mười” của Bí thư Kim
Ngọc tại tỉnh Vĩnh Phúccó thể được xem như một lệch chuẩn nhưng
chính sách này lại là tiền đề cho cuộc Đổi mới trong nông nghiệp ở Việt
Nam sau này.
- Định nghĩa kiểm soát xã hội: là một phương thức nhằm điều chỉnh
hành vi của các cá nhân trong một xã hội nhất định thông qua những giá
trị, chuẩn mực đã được thừa nhận, được xem là phương tiện của nhóm
xã hội nhằm thúc đẩy việc thực thi các chuẩn mực của nhóm. Kiểm soát
được thể hiện bởi các thiết chế xã hội: gia đình, nhà trường, tôn giáo,
chính trị, pháp luật...
- Một cách dễ hiểu, kiểm soát xã hội là những nổ lực của xã hội nhằm
điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của mọi người theo những cách hạn
chế hoặc trừng phạt những hành vi lệch lạc.
- Phân loại chế tài: 2 loại chính, đó là: chế tài chính thức và chế tài
phi chính thức.
+ Chế tài phi chính thức: chủ yếu dựa vào áp lực nhóm: phê phán, bàn
tán, lạnh lùng, xa lánh,…
Vd: Những người khác chế giễu sở thích ăn uống của bạn. Hoặc ai đó
bàn tán ầm ỹ về mái tóc 7 màu của bạn
+ Chế tài chính thức: xảy ra khi các quy tắc được hệ thống hoá thành
luật và vi phạm hầu như luôn dẫn đến các biện pháp trừng phạt tiêu cực
từ hệ thống tư pháp hình sự. Vd: cảnh sát, toà án, hệ thống nhà tù, phạt
tiền, tra tấn,…

You might also like