Professional Documents
Culture Documents
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Khái niệm văn minh:
Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài
người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hoá.
Văn minh thường được thể hiện qua những thành tựu thể hiện sự tiến bộ (nhân
bản) của con người và xã hội loài người kể từ khi nhà nước xuất hiện cho tới hiện
nay: Những thành tựu này lại được thể hiện qua CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG CỦA XÃ HỘI
Ví dụ: Văn minh phương Tây, văn minh phương Đông, văn minh Trung Hoa,…
Văn minh có tính siêu dân tộc (quốc tế). Những thành tựu văn minh xuất hiện ở xã hội Phương
Tây đô thị. Văn hóa có trước văn minh (loài người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện). Tuy
nhiên, có những thành tựu văn hóa có giá trị nhưng không tiến bộ, còn các giá trị văn minh đều
mang tính chất tiến bộ ở đỉnh cao. Văn minh có nghĩa hẹp nhưng mang tính chất đỉnh cao.
Lịch sử văn minh là sử dụng phương pháp khoa học lịch sử, hệ tư tưởng quan điểm khoa học lịch
sử, nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển của các hiện tượng văn minh, các nền văn minh
và các thời đại văn minh. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng phương pháp luận
của trường phái sử học Mác - Lênin là lý thuyết kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong
nhận thức đời sống xã hội và toàn bộ lịch sử nhân loại.
Phương pháp lịch đại: Cho phép nghiên cứu quá khứ lần theo các giai đoạn phát triển trước kia
của nó. Dựa vào quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về sự thống nhất giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai, dựa vào quan niệm biện chứng cho rằng trong một quá trình phát triển mỗi giai đoạn
tiếp sau đều mang trong mình nó những đặc điểm và những yếu tố của giai đoạn trước.
Phương pháp liên ngành: Do Lịch sử văn minh đề cập đến các lĩnh vực của rất nhiều ngành khoa
học khác (ngôn ngữ học, triết học, tôn giáo,...), phải nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo
các tri thức khoa học liên ngành để nghiên cứu lịch sử văn minh.
Ngoài ra còn cần sử dụng nhiều phương pháp khác như phương pháp khảo sát, nghiên cứu thực
địa, phân kỳ, ...
Vai trò của Lịch sử văn minh thế giới
Động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, giúp nhân loại đạt đến những thành tựu phát triển
đỉnh cao, góp phần ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người,…
Văn minh có tính siêu dân tộc (quốc tế). Những thành tựu văn minh xuất hiện ở xã hội Phương
Tây đô thị. Văn hóa có trước văn minh (loài người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện). Tuy
nhiên, có những thành tựu văn hóa có giá trị nhưng không tiến bộ, còn các giá trị văn minh đều
mang tính chất tiến bộ ở đỉnh cao. Văn minh có nghĩa hẹp nhưng mang tính chất đỉnh cao.
So sánh văn hoá với văn minh
Văn hoá dùng để chỉ những giá trị về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để góp phần
vào sự ổn định, tô điểm, làm đẹp cho cuộc sống của con người và xã hội.
Đặc trưng của văn hoá: Là cái để phân biệt con người với động vật, là đặc trưng riêng của xã hội
loài người. Không được kế thừa về mặt sinh học (di truyền) mà phải học tập, giao lưu. Là cách
ứng xử đã được mẫu thức hoá.
Lịch sử văn minh là một phân ngành của khoa học lịch sử, có đối tượng nghiên cứu là những
thành tựu đỉnh cao thể hiện sự tiến bộ của con người và xã hội loài người kể từ khi nhà nước xuất
hiện đến nay. Những thành tựu đó được biểu hiện cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
Là một phân ngành của khoa học lịch sử, phương pháp nghiên cứu của lịch sử văn minh dựa trên
phương pháp luận Mác-xít, mà nền tảng là quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngòai ra, còn phải tiếp cận với phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, như phương pháp
lịch sử, phương pháp logic, phương pháp lịch đại, phương pháp đồng đại, phương pháp so sánh,..
Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện
tượng theo đúng trình tự thời gian và không gian như nó đã từng diễn ra (quá trình ra đời, phát
Ví dụ như khi nghiên cứu về sự phát triển và truyền bá của Phật giáo ở Ấn Độ cổ đại, bằng
phương pháp lịch sử, nhà nghiên cứu sẽ tìm kiếm nguồn tư liệu một cách chính xác và đầy đủ
nhất có thể để mô tả quá trình ra đời, quá trình truyền bá ở Ấn Độ cho đến lúc phát triển rộng rãi
như ngày nay với đầy đủ các chi tiết cụ thể và phức tạp, gồm cả những sự kiện tất nhiên lẫn ngẫu
nhiên, theo đúng thứ tự thời gian như nó đã từng diễn ra.
Phương pháp logic chỉ rõ sự kiện, hiện tượng lịch sử tiêu biểu; chỉ rõ vai trò của từng yếu tố
trong một hệ thống chỉnh thể – thực tế lịch sử đã diễn ra - để đến chân lý. Phương pháp này chủ
yếu để phát hiện quy luật (xu hướng, bản chất) của các sự kiện, hiện tượng được nghiên cứu. Như
vậy, phương pháp logic chủ yếu không phải để quan sát, mô tả mà là phân tích các hiện tượng, sự
Năm cơ sở hình thành bao gồm yếu tố khách quan: điều kiện tự nhiên (cho ta biết
không gian sáng định), tiến trình lịch sử (cho ta biết buổi bình minh rực rỡ và sự suy
tàn của nền văn minh đó), yếu tố chủ quan: thành phần dân cư (cho ta biết chủ nhân
nền văn minh đó), trình độ kinh tế (là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự xuất hiện, phát
triển của nền văn minh), trình độ tổ chức và quản lí xã hội (Tức là tìm hiểu về cấu trúc
xã hội, ý thức hệ chính trị thúc đẩy sự ra đời, định hướng sự phát triển của một nền văn
minh cũng như sự suy tàn, sự suy vong và sự phục hưng của một nền văn minh).
Từ các cơ sở hình thành văn minh trên chúng ta đi sâu vào bản chất của một nền văn
minh thông qua các thành tựu căn bản như thành tựu khoa học xã hội và nhân văn:
chữ viết, văn học, sử học, nghệ thuật, thành tựu khoa học tự nhiên và hệ tư tưởng:
khoa học tự nhiên, tôn giáo, triết học, luật pháp. Không phải nền văn minh nào cũng có
tất cả các thành tựu trên, tuy nhiên dù, đối với một số nền văn minh điển hình như Ai
Cập chỉ với các thành tựu: chữ viết, văn học, khoa học tự nhiên cũng đủ để khởi đầu
một nền văn minh được mệnh danh là cái nôi văn minh nhân loại, vĩ đại và rực rỡ,
trường tồn cùng thời gian.
1. NHẬP MÔN
Phân tích và minh họa bằng các ví dụ, các khái niệm văn hóa, văn minh, nền văn minh
Các phương pháp tiếp cận/ các phương pháp nghiên cứu lịch sử vmtg (có 4 phương pháp – và phải đi
theo từng cặp) – đưa các ví dụ minh họa vào
Có 2 tôn giáo: quá trình hình thành và truyền bá phật giáo ở Âns Độ để thấy rằng
Phật giáo từ một tôn giáo địa phương phát triển thành tôn giáo thế giới
HOÀN CẢNH RA ĐỜI, QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ, PHÁT TRIỂN CỦA
ĐẠO PHẬT Ở ẤN ĐỘ
Mở bài:
“Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy
khỏi chỗ này” là lời thề nổi tiếng của Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập ra Phật
giáo. Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của
nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm
tìm ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới gốc cây Bồ đề, Thái tử đã đạt
được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca
Mâu Ni.
Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước
trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao
giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến
năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình
cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.
Bối cảnh ra đời của đạo Phật
Thứ nhất, về tiền đề xã hội: Vào khoảng giữa thiên niên kỷ I Trước công nguyên,
Ấn Độ xưa đã hình thành hàng loạt tiểu quốc. Các vương quốc hai bên bờ sông
Hằng (miền Bắc Ấn Độ có khoảng 23 tiểu quốc). Các vương quốc có điều kiện tự
nhiên khác nhau, kinh tế, xã hội, chính trị phát triển không đều nhau. Do vậy, các
vương quốc luôn mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính nhau làm tình hình chính trị
bất ổn, tâm lý dân chúng bất an.
Mâu thuẫn đẳng cấp tăng lữ, quý tộc và sự phân hoá giai cấp mạnh mẽ, trở thành
nỗi bức xúc lớn trong xã hội bấy giờ.
Tăng lữ thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân
chúng nộp thuế cao và nghĩa vụ khác.
Quý tộc bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò quyết định trong
chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp tăng lữ.
Dân thường có cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa nhưng thuế
không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng.
Nô lệ là kẻ thấp hèn, có một số dân thường bị phá sản trở thành nô lệ, một số phải
đi ăn xin. Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lí chán nản, tuyệt vọng.
Thứ hai, về tiền đề kinh tế: Công cụ bằng kim loại đã làm thay đổi bản chất của
sản xuất. Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng, làm xuất hiện tầng
lớp mới, trong đó có thương nhân. Thương nhân là tầng lớp có tiềm lực về kinh tế,
nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp. Tầng lớp này lúc đầu không
được xếp vào đẳng cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp nô lệ, đẳng cấp
thấp hèn nhất.
Thứ ba, tiền đề tư tưởng - chính trị: Cuộc sống khổ cực càng làm cho nhân dân
lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp, không
còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền
toái, giáo lí ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giáo này.
Trong bối cảnh đó vào thế kỷ VI Trước công nguyên ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều
trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại, khổ hạnh, ép xác,
tiêu cực, tự kỉ nhưng có 1 điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo
Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và
được xem là một phản đề của đạo Bàlamôn. Đạo Bà La Môn đã xác lập được vai
trò vững chắc ở Ấn Độ, chi phối đời sống tư tưởng chính trị của các đẳng cấp
khác trong xã hội Ấn Độ .
Quá trình truyền bá và phát triển: Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên
niên kỷ I Trước công nguyên, vào thời điểm rất hưng thịnh của đạo Bàlamôn và
chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của con người với đồng loại, chống
lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh phục được
đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động nên sau
khi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ.
Từ thế kỷ V trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên là quá trình truyền
bá và phát triển đạo Phật, từ khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không
còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết tập:
- Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, một số tăng sỹ bắt đầu có những biểu
hiện sống tự do vượt ra ngoài những giới luật ràng buộc. Trước tình hình đó, Ca
Diếp - đệ tử tối cao của Đức Phật đã triệu tập một đại hội kết tập lại giáo pháp
Phật tổ dạy một cách thống nhất để mọi người tuân theo. Hội nghị kết tập lần này
diễn ra ở thành Vương Xá, kinh đô nước Ma Kiệt Đà, kéo dài bảy tháng. Thành
phần hội nghị gồm 500 vị đã chứng quả A La Hán. - Cuộc kết tập này có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu trong lịch sử Phật giáo. Bước đầu hình thành nên cơ cấu tổ
chức giáo hội, Luật và Pháp được phân chia rõ ràng: Pháp gồm những lời thuyết
giáo của Phật được nhớ lại theo ký ức của các đệ tử lúc bấy giờ; Luật là quy chế
của hội Phật giáo do Đại hội thảo ra.
Sau đại hội Phật giáo lần thứ tư, các nhà sư được khuyến khích ra nước ngoài
truyền đạo; do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung
Quốc. Những thế kỉ tiếp sau đó, đạo Phật suy dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát
triển ở phần lớn Châu Á và đã trở thành quốc giáo của một số nước như Xri Lanca,
Mianma, Lào, Thái Lan và Campuchia.
Nguyên nhân Phật giáo được chấp nhận ở Ấn Độ:
Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng
thời cũng không hài lòng với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên
họ ủng hộ đạo Phật.
Học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên
được quần chúng hoan nghênh.
Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ: Sau những thế kỉ rất thịnh đạt trong
khoảng 1000 năm, từ triều đại GUPTA (TK 5 sau TC) đạo Phật có biểu hiện suy
thoái, đó là không thống nhất về học thuyết và tổ chức. Chỉ phát triển trong thành
phố, những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi đó Hindu đã có từ
rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu
hẳn.
Trong 3 thế kỷ, Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi
xã hội.
Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của
Phật giáo nên dần thu hút dân chúng. Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo
nhưng mang tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí.
Giáo lý ngày càng trở nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên
khi đã suy yếu thì không còn cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần.
Nội dung tư tưởng của Phật Giáo
Nội dung 1: Chỉ ra con đường ở giữa 2 cực đoạn (đam mê và khổ hạnh) là con
đường trung đạo. Con đường làm cho thân trí sáng suốt, giác ngộ, buông bỏ được
dục vọng đạt cảnh giới Niết Bàn.
Nội dung 2: Tứ Diệu Đế - Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điền
suy xét kì diệu):
Khổ đế: Suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo của chúng sinh.
Nhân đế -Tập đế: Nguyên nhân của sự khổ là dục tức lòng ham muốn, nguyên
nhân nỗi khổ từ nỗi khổ vật chất đến nỗi khổ tinh thần, đây là luận đề mang tính
chất lý luận, chứa đựng hầu hết những luận thuyết cơ bản của Đức Phật. Nỗi khổ
của con người do 10 nguyên nhân: tham, sân, si, mạn, nghi, kiến…
Diệt đế: Con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo, cách diệt trừ tận gốc nỗ
khổ của con người, loại bỏ vô minh, đạt tới sự hiểu biết, sáng suốt, nhận ra chân
lý và đi tới giác ngộ. Chế ngự bản năng của con người, từ bỏ 10 nguyên nhân nỗi
khổ, Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng, tránh vòng luân hồi, tránh nghiệp
nhân quả.
Đạo đế: Con đường, cách thức để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo, con
đường trung đạo, Quy y Phật, Pháp, Tăng.
Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành - Bát chánh đạo:
(nếu còn thời gian thì học)
1. Chánh kiến: là sự nhìn thấy đúng đắn về bản chất của tất cả các sự vật hiện
tượng đang hiện hữu như chính nó đang là.
2. Chánh tư duy: Sự nhìn thấy đúng đắn từ chánh kiến đưa người Phật tử đến sự
suy nghĩ đúng, từ sự nhìn thấy đúng và suy nghĩ đúng sẽ dẫn đến sự hiểu biết
đúng, từ sự hiểu biết đúng sẽ giúp cho người Phật tử có cuộc sống đúng. Theo lời
Phật dạy, để có một đời sống đúng đắn và tốt đẹp cho mình, cộng đồng và xã hội,
người Phật tử cần phải có:
3. Chánh ngữ: tức là lời nói chân thật và thương yêu, có lợi cho mình và tất cả
mọi người, không gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
4. Chánh nghiệp: Là nghề nghiệp, việc làm của mỗi người phải lương thiện, đúng
lẽ phải, không phạm pháp, không làm việc gì trái với đạo đức, trái với lương tâm.
5. Chánh mạng: vì lòng từ bi vô hạn nên người Phật tử phải quý sinh mạng chúng
sanh như sinh mạng của mình, nên không được sát sanh hại vật, lấy máu thịt các
loài động vật cấp thấp để nuôi sống huyễn thân. làm như thế sẽ tạo thêm ác
nghiệp, nghiệp ác sẽ theo nhau lưu chuyển không ngừng, làm cho oán thù ngày
càng chồng chất không làm sao xóa bỏ được.
6. Chánh tinh tấn: muốn thực hành theo lời Phật dạy một cách có hiệu quả, người
Phật tử phải nỗ lực tinh tấn không ngừng mới mong đạt được kết quả tốt đẹp.
7.Chánh Niệm: là luôn nhớ và nghĩ đến những điều hay lẽ phải được xem là đúng
đắn và cố gắng sống sao cho phù hợp với những gì đã nghĩ.
8. Chánh Định: là tập trung tư tưởng để tư duy, quán chiếu thật sâu sắc về một
vấn đề mà bản thân chưa thật sự hiểu biết rõ ràng, nhằm có được một cách nhìn
tổng thể, một ý nghĩ chân thực, một quan điểm khách quan và phù hợp với chân
lý.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do
quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô
ngã, Vô thường:
Vô tạo giả Quan niệm thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra,
tự nhiên mà có và vô cùng vô tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng
tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như các tôn giáo khác.
Vô ngã Không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con
người cũng chỉ là tập hợp của Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chứ không
phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Vô thường Vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là
vĩnh cửu cả.
Qua những giáo lí ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo
Phật chỉ là một triết lí về nhân sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không
thời bất cứ một vị thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Thích Ca Mâu Ni cũng
không tự coi mình là thần thánh. Tuy Phật tổ Thích Ca Mâu Ni có tổ chức
các tăng đoàn Tỳ Kheo (đoàn thể những tăng lữ khất thực) để đi truyền bá
đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một tổ chức tôn giáo có hệ
thống chùa tháp như ngày nay.
Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo
Phật lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người
(từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự công bằng,
lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
Ngày nay Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, giữ gìn nếp
sống tốt đẹp, nhân ái, thương yêu của nhân loại, tổng số tín đồ Phật Giáo trên thế
giới ước tính 487.540.000 người chiếm 7,1% dân số thế giới. Tại Việt Nam ước
tính có hơn 14 triệu tín đồ Phật Giáo chiếm 16,4 % dân số….
Liên hệ Việt Nam:
Còn đối với Việt Nam, gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua
nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ
bi để giáo hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây
dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Với bản
chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà bình, tôn trọng sự sống, GHPGVN hôm nay với
phương châm hoạt động “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” luôn tích cực
trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ cộng đồng, góp phần xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã hội bình đẳng và văn
minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc - An dân”./. Người Việt theo Phật giáo
vì quan niệm hướng về cái thiện phù hợp với giá trị đạo đức truyền thống từ xa
xưa, Phật Giáo không chỉ tồn tại giá trị tôn giáo mà còn trở thành nét văn hóa
không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Việt ta.
Phải thấy nguyên nhân của sự hình thành tôn giáo: Đó là sự mâu thuẫn giữa mâu
thuẫn xã hội gay gắt trong lòng ấn độ, mâu thuẫn về chính trị về kinh tế về xã hội
Về chính trị: chế độ phong kiến đàn áp nhân dân
Về xã hội: tôn giáo ủng hộ sự hình thành của 4 giai cấp, sự đàn áp của người giàu
đối với người nghèo
Về kinh tế: Bất bình đẳng giàu nghèo nên phật giáo ra đời để giải quyết các mâu
thuẫn đấy
Phải đề cập một ít về nội dung của Phật giáo
4 lần đại hội phật giáo, lần 1 dưới sự bảo hộ của vua Asoka, nhưng sau này bị
chia rẽ nên chia thành đại thừa tiểu thừa
Phân tích thêm tiểu đế và thập nhị nhân sinh
Sau đó được các quốc gia dân tộc tiếp thu và phát triển và lan tỏa ra nhiều nơi trở
thành một tôn giáo thế giới
Qúa trình hình thành và truyền bá thiên bá thiên chúa giáo ở la mã thời kỳ cổ đại
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ THIÊN CHÚA GIÁO (THU HÀ)
Mở bài
Được hình thành tại vùng đất Palestine (lúc bấy giờ nằm trong lãnh thổ của đế
quốc La Mã), do Chúa Giêsu Kitô là người sáng lập ra. Trải qua hơn 2 nghìn năm
lịch sử hình thành và phát triển, có thể nói Ki - tô giáo là một trong những tôn giáo
lớn nhất của thế giới khi có đến gần 2 tỷ người theo đạo, chiếm 1/3 số người số
người sống trên Trái Đất.
Bối cảnh ra đời
Cơ sở kinh tế - xã hội: Năm 63 Trước công nguyên, tại Palestin nơi người Do
Thái sống xảy ra một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện
La Mã. Pompei - một trong ba nhân vật trong chế độ tam hùng lần thứ nhất trong
lịch sử La Mã đem quân chinh phục vùng đất này, trực tiếp cai trị hoặc chỉ định
hoàng tử Palestin cai trị theo chủ trương, quyền lợi của người La Mã.
Nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều phải gánh chịu cuộc sống cực khổ, bất công, bị
áp bức, cuộc sống không lối thoát.
Vì thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị, bóc lột của nhà nước
- chủ nô La Mã đặc biệt là người Zealot, nhưng đều bị đàn áp hết sức dã man. Khối
quần chúng nhất là nô lệ, dân nghèo nảy sinh tâm lý bi quan, chán nản, tuyệt vọng,
mất niềm tin vào tự do, hạnh phúc trong cuộc sống hiện thực. Họ tìm lối thoát
trong ảo tưởng về tôn giáo, trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu
nhiên có thể giúp họ thoát khỏi ách thống trị, xây dựng một vương quốc công
bằng, bình đẳng. Do vậy, Kitô giáo trở thành tôn giáo của những người bị áp bức,
như nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công,...
Cơ sở tư tưởng, tôn giáo:
Hình thành dựa trên thần thoại của các tôn giáo cổ phương Đông. Vùng đất
Palestin là vùng đất sinh sống chủ yếu của người Do Thái phải chịu nhiều bất hạnh
trong lịch sử của mình. Tổ tiên của họ là người Hebre, một tộc người sống du mục
nay đây mai đó. Khoảng giữa thế kỷ XIII Trước công nguyên, dưới sự dẫn dắt của
Moises, người Do Thái đã từ Ai Cập trở về Palestin và lập nên quốc gia Do Thái
vào khoảng cuối thiên niên kỷ II Trước công nguyên. Cũng kề từ đó, người Do
Thái đã tin và đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ vị thần duy nhất đó là Chúa
Giêhôva, với sự truyền giáo của Moises. Họ tin rằng dân tộc Do thái là dân được
Chúa trọn, Chúa chỉ nói chuyện với người Do Thái thông qua Sứ giả của Người là
Moises. Năm 586, quốc gia Do thái bị Tân Babilon cai trị, nền độc lập của quốc
gia này đã không còn tồn tại trong một thời gian dài sau đó. Trong bối cảnh như
vậy, các nhà tiên tri Do Thái giáo đã dự đoán và tuyên truyền rằng sẽ có một vị
Chúa Cứu Thế sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu diệt kẻ xấu, giải
thoát những đau khổ của con người, giải cứu khỏi kiếp nô lệ trầm luân.
Về tư tưởng triết học: Từ giữa thế kỷ I Trước công nguyên trở đi, nhà nước La
Mã chuyển dần từ hưng thịnh sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn
giáo để duy trì trật tự xã hội. Do vậy triết học La Mã chuyển dần sang duy tâm
luận, quay về với trường phái triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy
Lạp khoảng cuối thế kỷ IV Trước công nguyên. Tiêu biểu cho trường phái này ở
La Mã là các tư tưởng của Seneque và Philo.
Seneque: Ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm
nhường và nhẫn nhục.
Philo: thế giới vật chất, trong đó có cả con người là can nguyên của tội lỗi, thể
xác là ngục thất của linh hồn.
Quá trình truyền bá và phát triển
Giai đoạn 1 (từ thế kỷ I đến thế kỷ IV Sau công nguyên): Đây là giai đoạn
Kitô giáo bị đàn áp rất khốc liệt, chỉ có một bộ phận tín đồ ở Palestine tham gia.
Sau cái chết của Chúa Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo lý của ngài truyền bá
ra ngoài Palestine. Năm 62, thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở đây đã
có nhiều tín đồ Kitô giáo.
Ban đầu giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng
Chúa Jesus cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng
lớp giàu có, thống trị và đế quốc La Mã sẽ sớm bị diệt vong", tín đồ Kitô giáo sẽ
được sống trong vương quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ nhận
sự tồn tại của chế độ và nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm
quyền và quý tộc căm ghét Kito giáo, cho rằng tín đồ Kitô là lũ phiến loạn và tiến
hành đàn áp khốc liệt, đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế
Nêrông. Nhưng cho dù càng đàn áp thì Kitô giáo vẫn càng phát triển.
Nguyên nhân: Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hoá giai cấp
trong xã hội càng sâu sắc, sự bần cùng hoá, áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên.
Do đó, Kitô là tôn giáo duy nhất mà giới lao động và những người nghèo khổ có
thể tìm thấy được con đường giải phóng.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang
tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Họ giúp người lao động,
người nghèo tìm công ăn việc làm. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển
thành Giáo hội. Cuộc vận động Kito giáo trong buổi đầu mang một ý nghĩa xả hội
rất tích cực: Đó là cuộc vận động của dân nghèo chống chế độ áp bức.
Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả
cho Chúa trời” tức không dính dáng đến chính trị. Sau hơn 200 năm truyền bá,
Kitô giáo đã tạo được một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ yếu tại các thành phố lớn.
Trước sự phát triển này và đàn áp mãi không được, giới cầm quyền La Mã quyết
định “sống chung”, thay đổi chính sách đối với Kito giáo.
Giai đoạn 2 (trong thế kỷ IV sau Công nguyên): Năm 311, Hoàng đế Galerius
đình chỉ việc sát hại các tín đồ Kitô giáo. Năm 313, Hoàng đế Constantin xác định
địa vị hợp pháp của giáo hội Kitô, nâng Kitô giáo lên địa vị quốc giáo.
Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh triệu tập Đại hội Kitô giáo lần thứ nhất tại
Nicée. Đại hội đã giải quyết được 2 vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh: Chọn ra 4 phần tương đối
trùng khớp, ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất rồi đưa vào
Tân ước
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.
Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy của giai cấp thống
trị La Mã
Năm 337, Constantin là hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Các quan lại cũng
đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ.
Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp ra các tầng lớp xã hội quanh Địa Trung Hải.
Đến giai đoạn này, tính chất tiến bộ ban đầu của Kito giáo không còn nữa, các giáo
sĩ dần dần trở thành các quan lại của nhà nước, giáo hội trở thành công cụ trong tay
giai cấp thống trị. Do bất đồng trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả
việc đụng chạm nhau về khu vực truyền đạo nên đến năm 1054, giáo hội Kitô ở La
Mã đã bị chia làm hai : giáo hội Thiên chúa (giáo hội ở phương Tây, giáo hội La
Mã) và giáo hội Chính thống ( giáo hội ở phương Đông, giáo hội Hy Lạp).
Về ý nghĩa lịch sử, Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông
đảo quần chúng bị áp búc sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải
qua bao thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo,
chống lại chính quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất
của chính quyền Rôma và là một bộ phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito
giáo ra đời là một sự kiện lịch sử rất lớn lao vì sau này nó đã tác động mạnh mẽ
đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng của người Châu Âu.
Quá trình hình thành và phát triển đạo Ki tô ở nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm,
biến cố. Từ một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với Việt Nam, đến nay Ki tô giáo là một
trong những tôn giáo có số người tin theo lớn thứ hai (với hơn 7 triệu triệu tín đồ)
trong các tôn giáo có mặt tại Việt Nam. Đồng thời khi đạo Ki tô vào Việt Nam
cũng đã mang theo nhiều yếu tố văn hóa phương Tây du nhập vào, làm cho văn
hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, phát triển thêm nhiều loại hình văn hóa nghệ
thuật mới, trong đó đặc biệt nhất phải kể đến sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Cho đến
nay đạo Ki tô đã có được một nền móng tương đối vững chắc nhờ từng bước hội
nhập vào trong văn hoá Việt Nam theo đánh giá của các nhà khoa học về tôn giáo
này./.
Kết luận:
Kitô giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa phương Tây. Trải qua hơn 20 thế
kỷ, tuy có những giai đoạn thăng trầm, những biến thiên theo thời gian và thời
cuộc, có lúc tưởng chừng như diệt vong, nhưng cuối cùng thì Kitô giáo đã chiếm
một vị trí khá vững vàng trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù Kitô giáo
có thể đang xuống dốc ở châu Âu và ổn định ở Mỹ, tôn giáo ấy vẫn là một trong
những tôn giáo phát triển nhanh nhất ở mọi nơi trên thế giới. Hầu hết sự phát triển
này có vẻ không do sự truyền giáo từ những người Kitô giáo phương Tây mà do
một phong trào có tính cơ sở.
Kito giáo được công nhận là quốc giáo của La Mã là một sự kiện lịch sử rất lớn lao
vì nó
có tác động tới mọi mặt của xã hội La Mã nói riêng và Châu Âu nói chung.
Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, Kito giáo đã có những đóng góp rất lớn cho
lịch sử
văn minh nhân loại về các mặt giáo dục, tư tưởng, văn học, nghệ thuật, khoa học.
Cũng trong quá trình đó, Kito giáo bị giai cấp thống trị La Mã can thiệp và sử dụng
như
một công cụ trong guồng máy cai trị, dẫn tới việc một số giá trị tiến bộ của nó bị
xói
mòn.
Trong suốt thời kỳ trung đại, giáo hội Kito giáo đã trở thành chỗ dựa vững chắc
cho chế
độ phong kiến ở Châu Âu
Archimede. Niềm say mê khoa học cùng với kiến thức uyên bác, ông đã để lại cho nhân loại
những tri thức khoa học vô giá về lý luận, thực tiễn trong toán học và cơ học.
Về toán học: Tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và sớm nhất trong lịch sử phương Tây. Ông
đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón, hình cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện tích toàn
phần và thể tích hình cầu nội tiếp trong hình trụ.
Về vật lý: Ông là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng của nó vào việc giải phóng
sức lao động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, chân vịt (dùng để hút nước). Ông phát minh
ra nguyên lý đòn bẩy và nguyên lý về thủy lực, định luật về vật nổi. Ông được coi là người phát
minh ra ròng rọc, đòn bẩy, máy bơm nước, máy bắn đá, bánh xe răng cưa, đường xoáy trôn ốc,
nguyên lý hội tụ ánh sáng của gương cầu lồi,…
4. Y học
Y học Hy Lạp cổ đại đã có những thành tựu rất to lớn về lý luận và thực hành trong việc chăm
sóc sức khỏe và chữa bệnh. Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra những danh y và địa điểm hành nghề
của họ được coi là thủy tổ của y khoa phương Tây sau này, đồng thời là 1 tiền đề quan trọng của
sự phát triển nền tríêt học của Hy Lạp.
Danh y đầu tiên có thể kể đến là Etculatét, người đã đề xuất những phương pháp trị bệnh đơn
giản nhưng hiệu nghiệm.
Đặc biệt Hypôcrát + Là người đầu tiên đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển của y học phương Tây
và được tôn vinh là ông tổ của ngành y học phương Tây. Ông đã phát biểu những luận điểm quan
trọng như: nguyên nhân của bệnh tật xuất phát từ giới tự nhiên, khi đau thì người ta phải uống
thuốc và hết sức lưu ý đến vấn đề vệ sinh ăn uống, khi cần thiết thì phải dùng đến thuật mổ xẻ để
trị bệnh.
+ Ông là người đầu tiên ở Châu Âu phát biểu về vấn đề y đức “Nghề thầy thuốc là một nghề hết
sức quan trọng, hết sức đặc biệt vì nó liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người. Do đó,
không được dùng nghề nghiệp chuyên môn của mình để trục lợi”. Do đó, không được dùng nghề
nghiệp chuyên môn của mình để trục lợi, tác động của môi trường đối với cơ thể, về dịch thể,
điều trị bệnh nhi khoa và phụ nữ, bệnh gãy xương… cho đến ngày nay vẫn còn giá trị. Bộ sách
giáo khoa mười tập do ông để lại cho hậu thế là kho tàng vô giá về kiến thức y học đã được
Littre – nhà ngôn ngữ học người Pháp, dịch xong năm 1861. Để tôn vinh những cống hiến của
ông, ở phương Tây, các bác sỹ khi ra trường đều phải đọc “Lời thề Hypôcrát”.
Ngoài ra, nền y học Hy Lạp cổ đại còn có Hêracơlít – nổi tiếng trong việc phẫu thuật ở Hy Lạp.
Đầu TK III Trước công nguyên nhà giải phẫu học Hêcrôpin đã chứng minh rằng não là khí quan
tư duy, cảm giác do hệ thần kinh truyền đạt, xem mạch mạnh yếu nhanh chậm có thể biết được
tình hình sức khỏe. Ông là người đầu tiên nêu lên vấn đề dùng thuốc mê trong phẫu thuật. Ý
tưởng này của ông mãi đến năm 1840 người ta mới dùng ete gây mê, năm 1861 dùng morphine
giảm đau.
Có thể nói, nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra một đội ngũ các nhà bác học kiệt
xuất, cống hiến cho nhân loại những tài sản khoa học vô giá mà giá trị của nó vẫn trường tồn
trong xã hội hiện đại.
Cơ sở hình thành: Nền văn minh Ai Cập cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi và được xem là
một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Địa lý là một trong những điều kiện
thuận lợi góp phần hình thành nên nền văn minh sớm nhất thế giới. Bầu trời Ai Cập quanh
năm trời quang mây tạnh do vậy dễ quan sát. Nhu cầu về nông nghiệp, xây dựng các công trình
kiến trúc, đo đạc ruộng đất, tính toán thuế khoá. Nhu cầu về tôn giáo, những người phục vụ cho
tôn giáo thường quan sát bầu trời để đưa ra lễ, luật cúng tế. Trải qua nhiều đời pharaon với
những biến động lịch sử, nền văn minh Ai Cập cổ đã tạo ra được vô số thành tựu rực rỡ, trong đó
không thể không kể đến những thành tựu về khoa học tự nhiên.
Toán học : Toán học Ai Cập ra đời từ rất sớm, bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và thực tế cuộc
sống của người Ai Cập, phát triển khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực số học, đại số và hình học. Do
nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, tính toán vật liệu xây dựng các công trình
kiến trúc, đo đạc,… là những nguyên nhân thúc đẩy toán học ra đời.
Thiên niên kỷ III trước Công nguyên xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về các con số.
Thiên niên kỷ II trước Công nguyên: phát triển thành công hệ đếm, nhưng vẫn chưa sáng tạo ra
số 0, cho nên khi đếm đến 10, họ đã lấy một đoạn dây thừng để ghi nhớ, đến 1000 thì vẽ cái cây
Hệ số thập phân: cơ số 10, chưa có số 0, biết làm các phép cộng và trừ, còn nhân và chia thì thực
hiện bằng cách cộng và trừ liên tiếp.
Đại số: giải phương trình bậc nhất, tìm ra cấp số cộng và cấp số nhân
Hình học: Tính diện tích hình vuông, chữ nhật, hình thang, tam giác, tứ giác, diện tích hình
cầu,... Tính được số π = 3,16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng Biết tính thể tích của
hình lăng trụ, lập phương…
Số học: Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ tượng
hình để biểu thị và chưa tìm ra con số 0. Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểu
là công trừ liên tiếp Biết căn cứ khả năng nhân đôi của một số. Căn cứ khả năng lấy 2/3 của một
số.
Thiên văn học:
Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh tác
nông nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp. Với những dụng cụ hết sức thô
sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời cả ngày
lẫn đêm, theo dõi sự lên xuống của mực nước sông Nile.
Thông qua đó họ cũng xác định được bản đồ của 12 cung hoàng đạo, vẽ được chòm sao Bắc cực
và biết đến hành tinh trong Thái Dương hệ. Đặc biệt để có thể xác định thời gian ban ngày, người
Ai Cập đã sáng tạo được cái để đo thời gian ban ngày gọi là Nhật Khuê, giúp người Ai Cập biết
được thời gian chính xác hơn. Họ biết được các hành tinh khác như Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Sớm phát hiện ra các chòm sao, soạn ra bản đồ các thiên thể, nó được vẽ lên trần của các đền đài
cổ. Để đo thời gian, từ thời cổ vương quốc người Ai Cập đã phát minh ra các nhật khuê (đồng hồ
mặt trời). Tuy nhiên, dụng cụ này chỉ xem được thời gian ban ngày và chỉ khi có nắng. Đến thời
Vương triều XVII, người Ai Cập phát minh ra đồng hồ nước. Loại đồng hồ này đã khắc phục
được nhược điểm của loại nhật khuê nói trên.
Lịch pháp (sự ra đời của hệ thống lịch Ai Cập):
Là kết quả từ quá trình quan sát thiên văn qua quá trình quan sát bầu trời và mực nước sông Nile
họ phát hiện ra một mối quan hệ giữa mực nước sông Nile và sao Thiên Lang. Một buổi sáng
sớm một ngày mùa hè khi ngôi sao Thiên Lang xuất hiện ở đường chân trời đó là thời điểm nước
sông Nile lên cao, chu kỳ này của sao Thiên Lang là khoảng 365 lần mặt trời mọc xuất hiện. Từ
mối quan hệ trên người Ai Cập đã lấy 365 ngày tính làm thời gian cho 01 năm. Dựa vào 12 tháng
hoàng đạo, 1 năm được chia thành 12 tháng, mỗi tháng 60 ngày, còn dư 5 ngày xếp vào cuối năm
làm ngày lễ. Năm mới của Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông Nile bắt đầu dâng, họ chia 1 năm
thành 3 mùa: Mùa nước lên, mùa ngũ cốc, mùa thu hoạch, mỗi mùa bốn tháng.
Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của người Ai Cập cổ đại là việc làm ra lịch.
Lịch Ai Cập tương đối chính xác. Tuy nhiên, lịch Ai Cập cổ đại so với lịch mặt trời còn thiếu
mất 1⁄4 ngày, nhưng lúc bấy giờ, họ chưa biết đặt ra năm nhuận.
Y học
Do tục ướp xác thịnh hành nên người Ai Cập cổ đại hiểu biết khá sớm về cấu tạo cơ thể
người, điều đó đã tạo điều kiện cho y học phát triển và khá nổi tiếng với các nước láng giềng. Họ
có trình độ chuyên môn cao về răng, đầu, mắt, bụng và các bệnh nội thương. Người Ai Cập nhận
thức được rằng nguyên nhân của bệnh tật không phải do ma quỷ hay phù thủy gây ra mà do sự
không bình thường của mạch máu. Nhận thức được óc và tim là hai bộ phận quan trọng của cơ
thể con người, tay nghề và sự tài giỏi của thầy thuốc được đánh giá bằng sự hiểu biết về trái tim.
Các tài liệu để lại còn mô tả nhiều loại bệnh như bệnh đường ruột và dạ dày, bệnh đường hô hấp,
bệnh ngoài da... Các tài liệu cũng ghi lại nhiều bài thuốc và phương pháp chữa trị. Ví dụ, để chữa
bệnh đường ruột, người ta dùng phương pháp rửa ruột hay cho nôn mửa. Các thầy thuốc Ai Cập
còn biết dùng phẫu thuật để chữa một số bệnh.
Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lý học, hóa học... cũng có những hiểu biết đáng kể.
Không thể tưởng tượng được rằng trong việc thiết kế và xây dựng các Kim Tự Tháp mà cho đến
nay vẫn rất vững bền lại thiếu những kiến thức về vật lý học nhất là về lực học.
Có thể nói rằng văn minh Ai Cập là một trong những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất của
thế giới cổ đại. Bên cạnh thành tựu về khoa học tự nhiên, người dân Ai Cập còn có những thành
tựu vô cùng to lớn trên các lĩnh vực khác của đời sống như: chữ viết, văn hoá, tôn giáo, kiến trúc,
điêu khắc... mà ngày nay nhân loại không thể phủ nhận được. Cho đến nay, những thành tựu ấy
vẫn làm cho chúng ta thán phục và ngạc nhiên trước sức sáng tạo kì diệu của Ai Cập thời cổ đại.
ẤN ĐỘ
Vật lí Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông
thái ở Ấn Độ đã viết “Trái đất do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
Y học Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp
ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách
là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”.
TRUNG QUỐC
Tri thức khoa học Trung Hoa
Toán học
Là nước biết sử dụng phép ghi số tính 10 bậc sớm nhất Thế Giới.
Thời nhà Chu, việc giáo dục toán học rất được coi trọng.
Thời Tây Hán có sách “Chu bể toán kinh”. Nhà toán học Tổ Xung Chi tính số pi
chính xác tới con số thập phân thứ 10, đi trước Thế Giới 1000 năm.
Thiên văn học và lịch
Để phục vụ nông nghiệp, thiên văn học ra đời rất sớm. Là người đầu tiên ghi chép
hiện tượng Nhật thực 22/10/2137 TCN, khám phá vệt đen trên mặt trăng (140
TCN), tìm thấy 90 tinh tú.
Bộ sách “Cam Thạch Kim Tinh” thời chiến quốc ghi chép về các hành tinh sớm
nhất Thế Giới.
Họ chế ra “Thổ khuê” để đo bóng mặt trời để tính lịch và “Hồn Thiên Nghi” để đo
động đất.
Người Trung Quốc biết làm lịch từ rất sớm. Lịch của họ dựa trên sự vận hành của
mặt trăng.
Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên và những người khác soạn “Lịch Thái Sơ” chỉ ra chu
kì Nhật Thực là 135 tháng, 1 năm có 24 tiết…có ý nghĩa quan trọng với sản xuất
nông nghiệp.
Quách Thủ Kính thời Nguyên soạn “Thụ Thời lịch” chia 1 năm ra 365 ngày đã đi
trước nhân loại rất xa về cách tính lịch.
Y dược học
Trung Quốc là nước đầu tiên phát minh ra thuật châm cứu. Từ thời Đông Chu đã
dùng kim bằng bạc, sắt và vàng để chữa bệnh.
Sách “Bổn thảo cương mục” của Lý Thời Trần thời Minh gồm 52 cuốn, chép 1892
loại dược liệu, 11.090 thứ thuốc.
Bốn phát minh quan trọng của người Trung Quốc
Thuốc súng (Hỏa dược) do các nhà luyện đan cổ đại phát hiện ra. Đến đầu thế kỉ X
thì dùng thuốc súng và được truyền sang phương Tây sau này.
Kim chỉ nam: Do biết được từ tính và hướng của nam châm, người ta đã làm ra
kim chỉ nam gọi là “tư nam”. Đến thời Bắc Tống thì tạo ra La bàn và người Ả Rập
đã học được nó và truyền sang phương Tây.
Nghề làm giấy: năm 105, Thái Luân đã làm giấy từ những nguyên liệu như vỏ cây,
giẻ rách.
Nghề in: vào thời Tùy, nghề in khắc bản ra đời và ngày 1 cải tiến: từ đất sét nung,
gỗ, thiếc, đồng, chì…
Những thành tựu về văn học và chữ viết của ai cập, ấn độ, trung quốc
Chữ viết và văn học của Ai Cập
Câu 5: Chữ viết Ai Cập
Ai Cập là một trong những dân tộc đầu tiên trên thế giới sáng tạo ra chữ viết. Chữ viết là
một hình thức ký hiệu đặc biệt ra đời nhằm ghi lại tiếng nói của con người, lưu giữ những
gì con người muốn biểu hiện, truyền đạt,…
- Được phát hiện trên các bức phù điêu, tường vách của những lăng mộ, đền đài,… và
qua các tài liệu viết bằng giấy Papyrus. Năm 1822, người đầu tiên trên thế giới - nhà
nghiên cứu người Anh Chăm-pô-liông đã giải mã thành công chữ viết của người Ai Cập
cổ đại.
- Chữ tượng hình:một hình thức chữ viết đơn giản - sử dụng những hình vẽ ghi chép
ngoại hình để miêu tả nội dung của từ. =>còn bộc lộ nhiều hạn chế, chỉ biểu thị được
những từ mang tính cụ thể, không biểu hiện được những từ mang tính trừu tượng.
- Chữ tượng ý:được phát triển từ chữ tượng hình - song đơn giản hóa, kết hợp nhiều hình
với nhau =>cũng không thể biểu đạt hết những ý phức tạp, thiếu chính xác, trong một số
trường hợp có thể gây hiểu sai…
- Sự kết hợp giữa tượng ý và ghi âm: tượng ý liên kết các hình vẽ, sử dụng hệ thống biểu
tượng để diễn đạt từ. Ghi âm sử dụng những ký hiệu đặc biệt ghi lại cách phát âm từ của
con người.
=> Chữ viết đã giúp cho người Ai Cập cổ đại ghi chép, lưu trữ lại nhiều thông tin quý giá
về chính trị, tôn giáo, lịch sử, văn học,… Tuy nhiên, chữ viết Ai Cập cổ còn rất nhiều hạn
chế, khó học, khó diễn giải nên trước kia chỉ có giai cấp quý tộc và hệ thống thư lại là có
thể sử dụng được loại chữ này.
Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đặc biệt để ghi lại tiếng nói của con người, 1
phương pháp để truyền tải thông tin qua thời gian và không gian.
Thời Tảo vương quốc, người Ai Cập đã sáng tạo ra chữ viết. Lúc đầu chữ viết bắt
đầu từ những hình vẽ mang tính thông báo tin tức rất giống với các sinh vật mà người ta
muốn miêu tả gọi là chữ tượng hình.
Đối với các khái niệm trừu tượng hoặc phức tạp thì phải dùng phương pháp mượn ý.
Ví dụ như muốn viết chữ “khát” thì vẽ hình con bò đứng bên cạnh chữ nước. chữ
chính nghĩa thì vẽ lông Đà Điểu, vì lông Đà Điểu hầu như dài bằng nhau.
Tuy nhiên, chữ tượng hình không thể diễn đạt được những khái niệm phức tạp, trừu
tượng. Do vây, chỉ có giới quý tộc mới học được loại chữ này.
Chữ tượng hình được tìm thấy trong các đền đài, cung điện, hầm mộ và trên giấy
Papyrus-1 loại giấy làm từ cây Papynus với độ bền rất cao.
Tuy nhiên,2 phương pháp ấy chưa đủ để ghi mọi khái niệm, vì vậy dần dần xuất
hiện những hình vẽ biểu thị âm tiết. Những hình vẽ biểu thị âm tiết này vốn là những
chữ biểu thị 1 từ nhưng đồng âm với âm tiết mà người ta muốn sử dụng.
Về sau, người ta đã cải tiến chữ viết theo hướng giản đơn hơn, nghĩa là sẽ lấy 1 phần
điển hình nào đó của vật thể để biểu đạt, rồi dần dần phát triển tới hình thức kết hợp cả
kí hiệu tượng hình và dấu hiệu chỉ âm.
Sau khi Ai Cập bị sáp nhập vào đế quốc La Mã, loại chữ này dần dần trở thành tử
ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ tìm cách giải mã nhưng không thành công.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đoàn quân chinh phục Ai Cập của Napoléon đã phát hiện
phiến đá ROSETTA trên đó chia làm 3 phần chữ ghi khác nhau: chữ tượng hình, chữ
Cope và chữ Hy Lạp cổ.
ăn học Ai Cập
Nội dung văn học Ai Cập giai doạn này có 3 điểm chính cần lưu ý:
Ở giai đoạn đầu, văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu tả nghi
lễ thờ cúng và tang lễ.
Đến giai đoạn Trung và Tân vương quốc, văn học bắt đầu phản ánh những mâu
thuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói những người lao động.
Ví dụ: Một số tác phẩm phê phán tầng lớp quan lại: Chuyện kể của Ipouer, truyện
Sinouhé, tập truyện người nông phu biết nói những điều hay…
Thơ ca trữ tình: Các bài thơ ngắn ca ngợi tình yêu và sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên được tập hợp chủ yếu trong cuốn Papynus Hais 500
Văn học mang tính chất triết lí: trong cuốn “Đối thoại 1 người thất vọng với linh
hồn” nói đến sự suy sụp của người Ai Cập trước sự đổ vỡ các giá trị truyền thống với
tâm trạng chán đời.
Trung Quốc
Câu 4: Văn học Trung Hoa
Văn học Trung Quốc ra đời trước khi thống nhất các vương triều thường được gọi
là giai đoạn văn học tiền Tần mà mốc khởi đầu là kinh thi.
Kinh thi là tập thơ cổ nhất do nhiều tác giả sáng táct ừ đầu tời Xuân Thu đến giữa
Tây Chu
Kinh Thi hiện còn khoảng 305 bài được phân làm 3 loại: Phong, Nhã, Tụng, trong
đó Phong chiếm số lượng nhiều nhất và có giá trị nhất.
Kinh thi phản ánh 1 cách chân thực và sinh động đời sống xã hội Trung Quocowr
thời đại đó.
Ngoài kinh thi còn có phú thời Hán, thơ Đường, kịch thời Nguyên và tiểu thuyết
thời Minh Thanh.
Câu 7: Chữ viết Trung Quốc
Chữ Hán bắt nguồn từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ
thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa.
Đến thời Ân-Thương, người ta viết chữ trên mai rùa, xương thú gọi là giáp cốt
văn. Hình thức này thường gắn với thuật bói toán để hỏi thần linh hay thượng đế.
Muốn hỏi ý kiến người ta thương khoan lỗ hay đem nung cho rạn ra rồi xem vết
rạn đó mà đoán ý của thần.
Thời Tây Chu, chữ còn được khắc trên đồ vật(Ân khư thư khế), khắc trên đá(thạch
cổ văn), chữ khắc hay đúc trên đồng(Chung đỉnh văn).
Về bản chất thì vẫn là chữ tượng hình nhưng số lượng chữ viết ngày
càng nhiều hơn, cách viết đơn giản và gọn gàng hơn. Các loại chữ này
được gọi chung là chữ Đại triện.
Đến thời Xuân Thu-chiến quốc chữ viết ngày càng phát triển, cách viết cũng đơn
giản, gọn gàng hơn. Tuy nhiên thời kì này do đất nước loạn lạc nên chữ viết không
có sự thống nhất. cho nên đến nhà Tần đã cải cách thành chữ Tiểu triện( chữ giới
hạn thành 1 hình vuông).
Đến thời Hán trở đi chữ Trung Quốc đã ổn định và phát triển theo các loại chữ: lệ
thư, Khải thư,Thảo thư, Hành thư, giản thể…
Chữ Trung Quốc không trở thành tử ngữ bởi vì nó tự điều chỉnh trên 2 chức năng
chỉ âm và chỉ ý để phù hợp với cuộc sống.
Âns Độ
Câu 6: Chữ viết Ấn Độ
Khoảng 3500 năm TCN, ở nền văn minh sông Ấn đã có chữ viết riêng của mình,
người ta thường gọi đó là chữ hình dấu( hình chữ nhật, vuông, tam giác, thoi).
Chữ viết đầu tiên ở Ấn được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ thuộc
nền văn minh sông Ấn đã phát hiện hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa.
Đến nay, chữ hình dấu vẫn chưa được giải mã. Mãi đến cách đây vài chục năm, một
nhà khảo cổ học Ấn là tiến sĩ S.R.Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này. Theo
ông, đây là loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần, trong số 3.000 con dấu đó có 22
dấu cơ bản, chủ yếu viết từ phải sang trái.
Ở phía Bắc của nền văn minh sông Hằng, khoảng năm 500 TCN đã có chữ viết là
chữ Kharosthi và chữ Brathmi( các văn bia của Asoka đều viết bằng loại chữ này).
Cả hai chữ viết đều có nguồn gốc từ chữ viết của người Lưỡng Hà cổ đại, được
dùng trong triều đình với các bản báo cáo về thuế khóa, tình hình đất nước hoặc sự kiện
trọng đại trong mỗi vương triều.
Khi đạo Hinđu phát triển cực thịnh với thời kì Bàlamôn, tôn giáo này đã sáng tạo 1
thể loại chữ viết mới( chữ Sanscrit-chữ Phạn) có hệ thống ngữ pháp phức tạp thường ko
có quy tắc, vì vậy nó đã được cải tiến và chỉnh sửa rất nhiều lần.
Chữ Phạn Là chữ viết rất quan trọng của nền văn minh sông Ấn, nó lưu giữ toàn bộ
các bộ kinh Vêđa, bộ luật kinh Upanisad…kể cả 2 tác phẩm văn học rất nổi tiếng của
Ấn.
Đạo Phật ra đời đã sử dụng chữ Pali để ghi lại kinh kệ nhà Phật.
Ấn Độ là 1 trong những quốc gia có hệ thống chữ viết phức tạp nhất trên Thế
Giới( Ấn Độ có 5 chữ viết được coi là chữ quốc gia trong đó có tiếng Anh).
Câu 3:Văn học Ấn Độ
Văn học Ấn Độ có 3 điểm cần lưu ý như sau:
Tôn giáo: Tập trung trong kinh Vêda ( sau thành bộ kinh của đạo Bà la môn),tam
tạng kinh điển(Phật giáo).
Sử thi:
Sử thi Mahabharata là bản trường ca gần110.000 khổ thơ (220.000 câu) nói ivy
cuộc đấu tranh trong nội bộ của một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ.
Được coi là 1 bộ “bách khoa toàn thư” của Ấn Độ, Ramayana dài 48.000 câu thơ,
là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử Rama tuấn tú và conga chúa kiều diếm
Sita
Thơ:
Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta(thế kỉ V). Tác phẩm tiêu
biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla. Là một nhà soạn nhạc cung đìnhanhr
hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư
tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối lừa gạt, không
chung thủy của giai cấp thống trị và trên chừng mực nhất định đã chống lại quan
niệm về đẳng cấp.
Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ.
Văn học - hai thành tựu rực rỡ nhất: Vêđa và Sử thi
- Kinh Vêđa:
Hình thức: các bài ca và các bài cầu nguyện
Nội dung: phản ánh bối cảnh xã hội Ấn Độ thời kì tan rã của chế độ công xã thị
tộc, hình thành một xã hội có giai cấp và nhà nước; cuộc sống của nhân dân Ấn
Độ tại thời điểm đó; chế độ đẳng cấp, việc hành quân hay một số mặt của đời sống
xã hội
Bộ kinh Vêđa bao gồm 4 tập Rig Veda, Sama Veda, Yajur Veda, Artharva Veda
- Sử thi: Hai bộ sử thi rất nổi tiếng là Mahabharata và Ramayana được truyền miệng từ
đầu thiên niên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ
Mahabharata: là bộ sử thi dài nhất thế gới với 220.000 câu, phản ánh cuộc đấu
tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ.
Ramayana: là bộ sử thi dài 48.000 câu kể về câu chuyện của hoàng tử Rama (một
hóa thân của vị thần Vishnu) và người vợ chung thủy Sita.
Ngoài ra, còn có nhiều thành tựu nổi bật như các tác phẩm của Caliđaxa (tiêu biểu là vở
kịch Sơcuntla) và các tác phẩm văn học khác viết bằng các phương ngữ,…
6.2 NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN MINH TRUNG HOA
Trung Hoa là một trong những cái nôi của lịch sử nhân loại. Văn minh Trung Hoa qua
các thời kỳ đã có sự phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến các nước trong khu vực
nói riêng và thế giới nói chung với nhiều thành tựu rực rỡ.
6.2.1 Chữ viết
- Từ thời nhà Thương, đã có chữ viết được viết trên mai rùa, xương thú được gọi là Giáp
cốt văn. Chữ giáp cốt là loại chữ tượng hình. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đời
sống, do nhu cầu cần ghi chép các khái niệm trừu tượng mà đã phát triển thêm các loại
chữ tượng ý và tượng thanh. Qua quá trình biến đổi từ chữ Giáp cốt đã hình thành nên hệ
thống chữ Chung đỉnh văn, Thạch cổ văn. Các loại chữ viết đầu tiên này còn được gọi
là chữ Đại triện hay cổ văn. Do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không
thống nhất
- Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc đã đặt ra chính sách thống
nhất chữ Trung Quốc đặt trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện. Đặc điểm:
giảm bớt tính hình họa, hướng đến ký hiệu hóa văn tự, xóa bỏ một loạt chữ dị thể. Chữ
Tiểu triện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển chữ Hán, bước từ chữ
tượng hình sang văn tự biểu ý.
- Cuối thời Tần Thủy Hoàng (221 – 206 TCN) đến thời Hán Tuyên Đế (73 – 49 SCN) đã
xuất hiện chữ Lệ với đặc điểm: chữ viết theo nét rõ ràng, thoát ra khỏi tính hình tượng,
nghiêng hẳn về ký hiệu hóa, tăng cường giản hóa nét bút.
=> Đây là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ Chân tức chữ Hán ngày nay và là ranh
giới giữa cổ kim văn tự.
6.2.2 Văn học
Văn học Trung Quốc thời kì này phát triển rực rỡ và vô cùng phong phú với nhiều
hình thức, thể loại, trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến Kinh Thi, thơ Đường, tiểu thuyết
Minh – Thanh.
Kinh Thi:
Xuất xứ:
Là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên ở Trung Quốc,
được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa
thời Xuân Thu.
Những bài thơ sưu tầm lại tập hợp thành tác phẩm gọi là Thi. Trên cơ sở đó,
Khổng Tử đã biên soạn lại, chỉnh lý một lần nữa. Đến thời Hán, khi Nho giáo
được đề cao, tập tác phẩm được gọi là Kinh Thi.
Nội dung: Gồm 305 bài chia làm ba phần: Phong, Nhã, Tụng
Phong là dân ca của các nước hay còn gọi là Quốc phong. Đây là phần có giá tị
tư tưởng và nghệ thuật cao nhất trong toàn bộ Kinh Thi.
Nhã gồm 2 phần là Tiểu nhã và Đại nhã.
Tụng bao gồm Chu tụng, Lỗ tụng và Thương tụng là những bài thơ do các
quan phụ trách tế lễ, bói toán sáng tác dùng để hát khi cúng lễ.
Bằng lời thơ gọn gàng, thanh thoát, mộc mạc nhưng đầy hình tượng, các tác phẩm
này đã nói lên sự áp bức bóc lột, nỗi thống khố của nhân dân và cảnh giàu sang
của giai cấp thống trị trong xã hội Trung Quốc cổ đại.
Thơ Đường:thời kỳ đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc
- 3 thể: Từ, Cổ phong và Đường luật
Từ: một thể thơ đặc biệt ra đời giữa thời Đường, kết hợp chặt chẽ với âm nhạc
Cổ phong: một thể thơ tương đối tự do, không bị ràng buộc về niêm luật, gieo vần,
…
Đường luật: lại bao gồm 3 dạng chính là bát cú, tuyệt cú và bài luật
- Các nhà thơ Đường tiêu biểu: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,…
Tiểu thuyết Minh – Thanh: loại hình mới phát triển từ thời Minh – Thanh.
- Nội dung: Dựa vào các câu chuyện lưu truyền trong dân gian, các nhà văn đã viết thành
các tiểu thuyết chương hồi phong phú cả về nội dung và hình thức.
- Các tác giả - tác phẩm tiêu biểu: La Quán Trung (Tam quốc diễn nghĩa), Ngô Thừa Ân
(Tây du ký), Thi Nại Am (Thủy hử), Tào Tuyết Cần (Hồng lâu mộng), Bồ Tùng Linh
(Liêu trai chí dị), Ngô Kinh Tử (Nho Lâm ngoại sử),…
=> Những tác phẩm thời kỳ này đã trở thành di sản quý báu trong nền văn học Trung
Quốc nói riêng và thế giới nói chung.
3. Sử học
Trung Quốc là một nước rất coi trọng lịch sử, bởi vậy, sử học ở Trung Quốc phát triển rất
sớm với một kho tàng sử sách rất phong phú:
Thời Xuân Thu: nhiều nước đã đặt các quan chép sử, có ý thức về biên soạn sử.
Trên cơ sở lịch sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra Kinh Xuân Thu.
Thời Hán: Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác phẩm Sử ký ghi chép
lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế (gần 3000 năm).
Thời Đông Hán: có các tác phẩm như Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của
Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp.
Thời Minh – Thanh: có các bộ Minh sử, Tứ khố toàn thư đều là những di sản đồ
sộ của Trung Quốc.