You are on page 1of 30

Câu 1: So sánh sự giống, khác nhau giữa vụ án dân sự và việc dân sự?

Điểm giống nhau giữa vụ án dân sự và việc dân sự


– Điểm giống nhau giữa vụ án dân sự và việc dân sự đều là việc cá nhân, tổ
chức hoàn thiện và gửi hồ sơ đề nghị tòa án tiến hành xem xét, giải quyết một hoặc
nhiều vấn đề dân sự theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
– Kết quả giải quyết được tuyên bằng một văn bản của tòa.
Phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự
Tiêu chí
Vụ án dân sự Việc dân sự

Bản chất Có tranh chấp xảy ra. Không có tranh chấp xảy ra.
Định nghĩa Là việc giải quyết tranh chấp về các Là việc riêng của cá nhân, tổ
vấn đề dân sự giữa cá nhân, tổ chức, không có nguyên đơn, bị
chức này với cá nhân, tổ chức khác; đơn mà chỉ có người yêu cầu Tòa
có nguyên đơn và bị đơn; Tòa án án giải quyết, từ yêu cầu của
giải quyết trên cở bảo vệ quyền lợi đương sự, Tòa án công nhận
của người có quyền và buộc người quyền và nghĩa vụ cho họ.
có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.
Hình thức giải Yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
quyết của chủ không công nhận một sự kiện
thể Khởi kiện tại tòa. pháp lý nào đó là căn cứ phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự.
Cách thức giải Có thể trải qua các giai đoạn: Xác minh, ra quyết định, tuyên bố
quyết của Tòa án theo yêu cầu của cá nhân, tổ
- Sơ thẩm chức.

- Phúc thẩm

- Thủ tục xét lại bản án, quyết định


đã có hiệu lực pháp luật.

Trình tự, thời - Trình tự, thủ tục nhiều, chặt chẽ - Trình tự giải quyết gọn gàng, đơn
gian giải quyết hơn giải quyết việc dân sự. giản, thời gian giải quyết nhanh.

- Giải quyết vụ án dân sự phải mở - Giải quyết việc dân sự bằng việc
phiên tòa. mở phiên họp công khai để xét
đơn yêu cầu.

Thành phần giải Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán (có thể 1 hoặc 3 thẩm
quyết Viện Kiểm sát. phán tùy từng vụ việc dân sự),
Viện Kiểm sát, Trọng tài Thương
mại (nếu yêu cầu liên quan đến
việc Trọng tài Thương mại Việt
Nam giải quyết tranh chấp theo
quy định của pháp luật về trọng tài
thương mại) theo khoản 2 Điều 31
của BLTTDS 2015.
Đương sự Nguyên đơn, bị đơn, người có Người yêu cầu và người có quyền
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. lợi nghĩa vụ liên quan.
Thời hạn kháng Dài hơn so với quyết định giải quyết Ngắn hơn so với kháng cáo,
cáo, kháng nghị việc dân sự. kháng nghị bản án.
Phí, lệ phí Án phí theo giá ngạch (tính theo %) Lệ phí cố định (được quy định cụ
và án phí không theo giá ngạch (cố thể tại Nghị quyết 326/2016).
định).
Kết quả giải Tuyên bằng bản án. Tuyên bằng quyết định.
quyết
Ví dụ - Tranh chấp thừa kế; - Yêu cầu tuyên bố một người đã
mất tích;
- Tranh chấp hợp đồng dân sự;
- Yêu cầu hủy kết hôn trái pháp
- Tranh chấp đất đai. luật;

- Tranh chấp về chia tài sản chung - Yêu cầu công nhận bản án nước
của vợ chồng trong thời kỳ hôn ngoài tại Việt Nam;
nhân.
- Yêu cầu một người mất năng lực
.... hành vi dân sự.

....

Câu 2: Khoản 2 Điều 4 Bộ luật TTDS có quy định “ Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Vậy có
phải là Tòa án bắt buộc phải thụ lý mọi yêu cầu khởi kiện của các cá nhân, tổ
chức hay không? Tại sao?
1. Cơ sở pháp lý
Điều 2 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013, theo đó, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền
dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng.
Đồng thời, khoản 2 Điều 14 BLDS năm 2015 quy định: “Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường
hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”.
Để bảo đảm sự tương thích với quy định nêu trên, Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) năm 2015 cũng quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ việc dân
sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng tại Mục 3 Chương III gồm 3 điều
(từ Điều 43 đến Điều 45). Theo đó, thẩm quyền của Tòa án thụ lý, giải quyết vụ
việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng được thực hiện theo quy
định tại các điều từ Điều 35 đến Điều 41 BLTTDS năm 2015; trình tự, thủ tục thụ
lý, giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng theo thủ
tục chung. Khi giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp
dụng, Tòa án phải căn cứ vào tập quán, áp dụng tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ
bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng.
Để đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều
luật áp dụng được thực hiện khách quan, công bằng, quyền và lợi ích chính đáng
của Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và công dân được bảo vệ kịp thời và hiệu quả,
đồng thời tránh sự tùy tiện, lạm quyền của Tòa án trong quá trình tố tụng, Điều 21
BLTTDS năm 2015 quy định: Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên họp, phiên
tòa sơ thẩm đối với những vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của
Bộ luật.
Như vậy, BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 đã quy định đối với các vụ, việc
dân sự, những tranh chấp phát sinh nhưng chưa có điều luật để áp dụng thì Tòa án
được áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự pháp luật và các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết. Theo đó, trường hợp các
bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán
nhưng tập quán đó không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
quy định tại Điều 3 BLDS năm 2015; trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không
quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp
luật theo quy định tại khoản 1 Điều 6 BLDS năm 2015 thì áp dụng các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 BLDS năm 2015, án lệ, lẽ công
bằng.
Câu 3. Để yêu cầu khời kiện của cá nhân, tổ chức được Tòa án thụ lý, giải
quyết phải đáp ứng những nội dung cơ bản nào?

Câu 5. Đương sự trong vụ án dân sự là ai? Nếu một số quyền, nghĩa vụ cơ bản
của những người này?
1. Đương sự trong vụ việc dân sự gồm những ai?
Theo Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về đương sự trong vụ việc dân
sự như sau:
- Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu
giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác do Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị
xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định khởi kiện vụ án dân sự
để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực
mình phụ trách cũng là nguyên đơn.
- Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác do Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định khởi kiện để yêu cầu
Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn bị người đó xâm phạm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không
khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác
đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người tuy không yêu
cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc
dân sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một
người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự.
Quyền và nghĩa vụ của đương sự
Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.
Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền và nghĩa vụ sau:
Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố
tụng, đương sự có quyền, nghĩa vụ sau đây:
1. Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa.
2. Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác
theo quy định của pháp luật.
3. Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình; trong quá trình
Tòa án giải quyết vụ việc nếu có thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông
báo kịp thời cho đương sự khác và Tòa án.
4. Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này.
5. Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình.
7. Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình
không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài
liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ
đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc
định giá tài sản.
8. Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình
hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của
Bộ luật này.
9. Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản
sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã
có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu,
chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ.
10. Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
11. Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án
tiến hành.
12. Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
13. Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
14. Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định
của Bộ luật này.
15. Tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định của Bộ luật này.
16. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án
trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc.
17. Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.
18. Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật này.
19. Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với
Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người
làm chứng.
20. Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp
dụng.
21. Được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Tòa án.
22. Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật
này.
23. Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
24. Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.
25. Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện chí, không được lạm dụng để gây
cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không thực hiện
nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định.
26. Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Trường hợp đương sự là nguyên đơn thì có thêm các quyền và nghĩa vụ sau:
1. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
2. Thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi
kiện.
3. Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị
coi là từ bỏ việc khởi kiện.
Trường hợp đương sự là bị đơn thì có thêm các quyền và nghĩa vụ sau:
1. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
2. Được Tòa án thông báo về việc bị khởi kiện.
3. Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
4. Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của
nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu
phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ
luật này.
5. Đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu
cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đối với yêu cầu độc lập thì
bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.
6. Trường hợp yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận
để giải quyết trong cùng vụ án thì bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác.
Câu 6. Nêu những trường hợp bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện?
Thứ nhất: Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng
lực hành vi tố tụng dân sự;
Người khởi kiện có quyền khởi kiện vụ án dân sự được quy định tại Điều 186 và
Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện
khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a, Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều
186, Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều
186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp;
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều
187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không
thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
b, Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập
chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của
họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Ví dụ: Cụ A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và
không có thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo
Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015).
Trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B
không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ A theo pháp luật.
Thứ hai: chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
– Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp
luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích
của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một
trong các điều kiện đó.
– Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa
giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định
tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi
kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ ba: Đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật.
Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi
nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi
người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc
vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất
cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy
định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
Thứ tư: Hết thời hạn quy định mà không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí
cho Tòa án
Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện
không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi
kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách
quan, sự kiện bất khả kháng;
Thứ 5: Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy
định của pháp luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc
đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Thứ 6: Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu
của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi
cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không
có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo
địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư
trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn
tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện
mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa
chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc
ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả
lại đơn khởi kiện;
Thứ 7: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.
Nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và các
tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm
phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện
kiểm sát cùng cấp.
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải
được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có
yêu cầu.
Câu 7. Khi trả lại đơn khởi kiện thì Tòa án có phải trả lại đơn khởi kiện và cả
các tài liệu, chứng cứ kèm theo không?

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 123 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về việc trả
lại đơn khởi kiện vụ án hành chính như sau:
Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm
phán phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi
kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải
được sao lại và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có
yêu cầu.
Như vậy, theo quy định trên, thì đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ sẽ được Tòa
án trả lại cho người khởi kiện, tuy nhiên các chứng cứ, tài liệu trên sẽ được sao
lại và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
8. Nêu các thủ tục, giấy tờ cần thiết của luật sư khi đăng ký với Tòa án để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ?
. Thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
- Khi đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố phải xuất
trình các giấy tờ:
+ Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy nhờ Luật
sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố;
+ Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước
công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
+ Người đại diện của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có
chứng thực và giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của
họ với bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
- Trực ban hình sự của Cơ quan điều tra hoặc trực ban hình sự của từng đơn vị điều
tra (trong trường hợp không tổ chức trực ban hình sự chung), trực ban các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm tiếp nhận
hồ sơ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Khi nhận được hồ sơ đăng ký, đối với Cơ quan điều tra tổ chức trực ban hình sự
chung thì cán bộ trực ban hình sự có trách nhiệm ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm nhận
vào sổ trực ban hình sự, chuyển ngay cho đơn vị thụ lý vụ việc, vụ án để đóng dấu
văn bản đến và giao ngay cho Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án, vụ
việc.
- Đối với đơn vị điều tra tổ chức trực ban hình sự riêng, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cán bộ trực ban hình sự có trách nhiệm
đóng dấu văn bản đến, ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm nhận và chuyển ngay cho Điều
tra viên, Cán bộ điều tra được phân công giải quyết vụ án, vụ việc.
- Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ. Trường
hợp hồ sơ bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư 46/2019/TT-
BCA thì trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận, Điều tra viên, Cán bộ
điều tra có trách nhiệm trình Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (khi
được Thủ trưởng phân công hoặc ủy quyền), Cấp trưởng, Cấp phó cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ký Thông báo về việc đăng ký
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và vào sổ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp.
- Trường hợp hồ sơ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chưa bảo đảm theo
quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư 46/2019/TT-BCA thì Điều tra viên, Cán bộ
điều tra thông báo cho người đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp biết để bổ
sung hồ sơ.
- Trường hợp có căn cứ từ chối việc đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, cơ quan đang thụ lý
vụ án, vụ việc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối cho
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố.
(Điều 9 Thông tư 46/2019/TT-BCA)

10. Nêu những công việc cần chuẩn bị để viết Luận cứ ( quan điểm bảo vệ )
cho khách hàng?
1- Thu thập, nghiên cứu các thông tin cần thiết
Luận cứ bảo vệ nhằm mục đích bảo vệ cho yêu cầu khởi kiện hoặc đối đáp lại với
các yêu cầu được ghi nhận trong đơn của người khởi kiện, hoặc trong bản luận cứ
của Luật sư bên người khởi kiện. Vì vậy, thông tin về yêu cầu khởi kiện có ý nghĩa
quan trọng cho việc xác định các thông tin, tài liệu cần thu thập, nghiên cứu và cấu
trúc của bản luận cứ.

Thu thập thông tin là thao tác đầu tiên của quá trình hình thành một bản luận cứ
bảo vệ cho khách hàng trong vụ án hành chính. Các thông tin có ích cho phần nội
dung, đặc biệt là các luận cứ bảo vệ được Luật sư chọn lọc từ việc nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và do Luật sư tìm kiếm, thu thập được trong
quá trình tham gia giải quyết vụ án.

Để có thể nhanh chóng tìm được các thông tin phục vụ cho các luận cứ bảo vệ,
Luật sư cần phải có phương pháp khai thác, sử dụng các tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Luật sư phải biết lựa chọn nghiên cứu những tài liệu quan trọng của hồ sơ vụ án,
những tài liệu có thể cung cấp cho mình nhiều thông tin nhất. Các tài liệu này có
thể trong các tập tài liệu khác nhau của hồ sơ vụ án. Các tài liệu quan trọng mà
Luật sư cần khai thác trong vụ án hành chính là đơn khởi kiện, Quyết định hành
chính và các tài liệu trực tiếp phản ảnh trình tự, thủ tục ban hành và thực hiện
Quyết định hành chính (nếu đối tượng khởi kiện là Quyết định hành chính), tài liệu
về hành vi hành chính (nếu đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính), ý kiến của
người bị kiện trả lời cho Tòa án sau khi nhận được thông báo thụ lý vụ án, biên bản
lấy lời khai do Tòa án xác lập, kêt quả xác minh, kết luận giám định... (nếu có).
Trong trường hợp phát hiện thấy mâu thuẫn trong các thông tin đã có trong hồ sơ,
thấy những vấn đề còn chưa được làm sáng tỏ, Luật sư phải biết tìm nguồn thông
tin để kiểm chứng, để xác minh đâu là sự thật khách quan của vụ án. Những thông
tin đó cần được Luật sư ghi chép một cách chính xác, cùng nguồn viện dẫn, số bút
lục trong hồ sơ...

Luật sư cũng cần lưu ý trường hợp người khởi kiện thay đổi yêu cầu khởi kiện,
hoặc người bị kiện sửa đổi Quyết định hành chính bị kiện. Theo nguyên tắc tự định
đoạt, những người tham gia tố tụng của vụ án hành chính như người khởi kiện,
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liện quan có quyền quyết định về đối
tượng của yêu cầu khởi kiện, các giải pháp để thực hiện yêu cầu khởi kiện; người
bị kiện có quyền sửa đổi, hủy bỏ Quyết định hành chính bị kiện. Những sự thay đổi
đó sẽ làm thay đổi về phạm vi xét xử của Tòa án và nghĩa vụ chứng minh của các
bên đương sự đối với yêu cầu khởi kiện. Vì vậy, nội dung của bản luận cứ sẽ phải
thay đổi, nên trước khi soạn thảo, Luật sư cần chú ý thu thập đầy đủ các tài liệu thể
hiện về việc bổ sung, rút, thay đổi về yêu cầu khởi kiện, việc sửa đổi, hủy bỏ Quyết
định hành chính bị kiện.

2 - Chọn văn bản pháp luật


Đồng thời với việc tìm kiếm, lựa chọn các thông tin cần thiết cho nội dung của bản
luận cứ, Luật sư cũng phải lựa chọn các văn bản pháp luật, các quy định pháp luật
tương ứng, phù hợp làm căn cứ pháp lý cho các luận cứ bảo vệ của mình.

Các văn bản pháp luật Luật sư cần sử dụng gồm các văn bản pháp luật về tố tụng
và các văn bản pháp luật về nội dung.

Tuỳ theo từng lĩnh vục cụ thể của tranh chấp hành chính, tuỳ theo thời điểm diễn ra
sự việc, Luật sư lựa chọn các vãn bản pháp luật phù hợp. Do đặc thù của lĩnh vực
hành chính là vụ việc thường diễn ra trong một khoảng thời gian kéo dài, với nhiều
tình tiết, sự kiện xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, trong khi đó các văn bản pháp
luật trong lĩnh vực hành chính thường thay đổi nhanh hơn so với các lĩnh vực pháp
luật khác nên Luật sư cần đặc biệt lưu ý đối với việc lựa chọn các văn bản pháp
luật vê nội dung, tuân thủ nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật quy
định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3 - Định hướng bảo vệ cho khách hàng


Sau khi thu thập, lựa chọn các thông tin và văn bản pháp luật, tuỳ thuộc Luật sư
bảo vệ cho phía đương sự nào và trên cơ sở đánh giá tính hợp pháp, tính có căn cứ
của yêu cầu khởi kiện, Luật sư cần đưa ra định hướng bảo vệ cho khách hàng.

Nếu là Luật sư bảo vệ cho người khởi kiện, tuỳ theo tình tiết của vụ án, Luật sư có
thể dự kiến phương án bảo vệ một, một số hoặc toàn bộ yêu cầu của khách hàng,
như hủy một số nội dung của Quyết định hành chính hoặc hủy toàn bộ Quyết định
hành chính; hoặc hủy Quyết định hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong trường họp có những tài liệu, chứng cứ, tình tiết tác động đến tính hợp pháp
của đối tượng khởi kiện (ví dụ: người bị kiện sửa đổi, hủy bỏ Quyết định hành
chính bị kiện), Luật sư cần dự kiến phương án hướng dần khách hàng chọn cách xử
lý phù hợp như: thay đổi yêu cầu khởi kiện, rút yêu cầu khởi kiện...

Nếu là Luật sư bảo vệ cho người bị kiện, tuỳ theo tình tiết của vụ án, Luật sư có
thể dự kiến bảo vệ cho khách hàng bằng các lập luận nhằm thuyết phục Tòa án bác
toàn bộ hoặc một số yêu cầu của người khởi kiện. Trong trường họp qua phân tích,
đánh giá thấy yêu cầu khởi kiện là có căn cứ, Quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị kiện là trái pháp luật, Luật sư cần dự kiến phương án tư vấn cho khách
hàng đưa ra cách xử lý phù họp, như: hủy bỏ hoặc sửa đổi Quyết định hành chính,
chấm dứt hành vi hành chính, chủ động khắc phục hậu quả đã xảy ra do các Quyết
định hành chính, hành vi hành chính đó.

Tuyệt đối không để rơi vào tình huống Luật sư không tìm ra lý do, căn cứ để bảo
vệ cho khách hàng, không đưa ra được giải pháp hợp lý trong trường hợp cụ thể
của khách hàng.

4 - Soạn thảo đề cương bản luận cứ


Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, Luật sư phải định
hướng và xác định các luận cứ trong bản luận cứ bảo vệ của mình và tìm ra các căn
cứ pháp lý, căn cứ thực tế cho những luận cứ đó. Luật sư cần vạch ra một đề cương
chi tiết với một hệ thống các luận cứ và lựa chọn các thông tin cần thiết dự kiến sử
dụng cho từng luận cứ trong đề cương đó. Chuẩn bị đề cương chu đáo, thu thập
đầy đủ các thông tin cân thiết sẽ giúp cho Luật sư viết bản luận cứ một cách thuận
lợi. Đề cương cho phần nội dung của bản luận cứ là phần mà Luật sư cần chi tiết
nhất.

Cơ cấu chung của bản luận cứ bảo vệ trong vụ án hành chính gồm ba phần: phần
mở đâu, phần nội dung, phần kết luận và đề xuất. Đề cương luận cứ bảo vệ gồm ba
phần chính theo như cơ cấu của bản luận cứ.

- Phần mở đầu của bản luận cứ là phần để Luật sư tự giới thiệu mình và nêu lý do
tham gia phiên tòa hành chính.

- Phần nội dung của bản luận cứ thông thường gồm các vấn đề sau: Nêu tóm tắt
diễn biến vụ án hành chính; Phân tích tính hợp pháp hoặc bất họp pháp trong việc
Tòa án thụ lý vụ án hành chính (bằng việc phân tích, đánh giá một cách ngắn gọn
về thẩm quyền thụ lý vụ án, tư cách đương sự trong vụ án, thời hiệu khởi kiện, các
thủ tục tố tụng được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến thời điểm
Tòa án xét xử vụ án); Khẳng định Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử hay hoãn, tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu có căn cứ; Xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp; Những vấn đề cân làm sáng tỏ trong vụ án hành chính để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ (là người khởi kiện, người bị kiện hay
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan).

Tuỳ từng trường hợp cụ thể, bản luận cứ bảo vệ có thế trình bày đầy đủ hoặc chỉ
một số trong các nội dung trên, nhưng những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án
hành chính để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ luôn luôn là nội
dung chính, không thể thiếu của mỗi bản luận cứ. Trong phần này, Luật sư xác
định cơ cấu các lập luận tương ứng với các yêu cầu khởi kiện (yêu cầu hành chính,
yêu cầu bồi thường thiệt hại, yêu cầu khác).

Đề cương luận cứ bảo vệ cho các bên đương sự khác nhau sẽ có các nội dung cụ
thể khác nhau. Luận cứ bảo vệ người khởi kiện tập trung lựa chọn các vấn đề để
lập luận là những điểm bất hợp pháp của đôi tượng khởi kiện - Quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính hoặc một số đối tượng khởi kiện khác; các khoản
thiệt hại do việc ban hành Quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính
gây ra cho người khởi kiện. Luận cứ bảo vệ người bị kiện lựa chọn các vấn
đề để lập luận là những điểm hợp pháp của đối tượng khởi kiện, tính bất hợp pháp
của yêu cầu khởi kiện, có thể lập luận về tố tụng như việc Tòa án thụ lý là thiếu
căn cứ, người khởi kiện không bảo đảm điều kiện khởi kiện... với mục đích để
không phải tiếp tục xem xét vụ kiện về mặt nội dung.
Các lập luận về tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng khởi kiện thể hiện
trong bản luận cứ bảo vệ cần dựa trên các tiêu chí: Tính hợp pháp và có căn cứ về
hình thức, nội dung của Quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành
chính bị khởi kiện; Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành Quyết
định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính; Thời hiệu, thời hạn ban
hành Quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính.

Đây cũng chính là các tiêu chí mà Tòa án sử dụng để đánh giá và phán quyết về
yêu cầu khởi kiện, đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính.

- Phần kết luận và đề xuất: Luật sư khẳng định lại các kết luận của mình và đề xuất
các yêu cầu cụ thể đối với Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của
khách hàng là đương sự trong vụ án hành chín

Câu 15. Tại sao khi Chủ tọa phiên tòa tiến hành kiểm tra căn cước sự có mặt,
vắng mặt những người được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa thì Luật sư
phải tập trung chú ý lắng nghe?

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư thì “Luật sư
được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa …khi xuất
trình đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ
chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư
đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật
sư;

b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của
Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp luật sư hành nghề với
tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức nơi luật sư
hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó;

c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của
chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với luật sư hành
nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc Thẻ luật sư và văn bản phân công của
Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân để tham gia tố tụng
trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng...”
Như vậy, dù hành nghề với hình thức nào thì Thẻ Luật sư (hiện do Liên đoàn
Luật sư Việt Nam cấp, có ghi rõ họ, tên, ngày tháng năm sinh, số CCHNLS, Đoàn
Luật sư … và dán ảnh của người được cấp thẻ) là tài liệu đủ thông tin để “xác nhận
căn cước” của Luật sư. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc yêu cầu Luật sư phải xuất
trình thêm CCHNLS khi đến làm thủ tục đề nghị cấp GCNNBC cũng là việc làm
thừa và không phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành

22. Nêu ( dạng đề cương ) của một Đơn kháng cáo bản án sơ thẩm?

Căn cứ quy định khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về
đơn kháng cáo như sau:

Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây:

- Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;

- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người
kháng cáo;

- Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;

- Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;

- Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

……, ngày….. tháng …… năm……

ĐƠN KHÁNG CÁO

Kính gửi: Tòa án nhân dân (1)

Người kháng cáo: (2)

Địa chỉ: (3)


Số điện thoại:

Địa chỉ thư điện tử .(nếu có)

Là:(4)

Kháng cáo: (5)

Lý do của việc kháng cáo:(6)

Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết những việc sau đây:(7)

Những tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm theo đơn kháng cáo gồm có:(8)

NGƯỜI KHÁNG CÁO(9)

23. Trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước năm 1987 mà hiện nay
Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu khởi kiện di sản thừa kế là
bất động sản được xác định như thế nào?

Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, ngày 05/01/2018 Tòa án nhân dân
tối cao đã ban hành Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC hướng dẫn giải quyết như sau:

Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số
02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số
104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng
hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân
sự năm 2015về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về
thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm
đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện
chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của
Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-
10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày
10-9-1990.

Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa
kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến
ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế
không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01-7-
1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp
thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.

24. Trường hợp vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản là nhà, đất mà các bên
không thỏa thuận được giá trị di sản, mặc dù đã được Tòa án giải thích nhưng
nguyên đơn và bị đơn đều khẳng định không yêu cầu đo đạc, định giá tài sản thì
Tòa án sẽ giải quyết thế nào?

Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC hướng dẫn giải quyết trường hợp vụ án tranh
chấp về thừa kế tài sản là nhà, đất mà các bên không thỏa thuận được giá trị di sản,
mặc dù đã được Tòa án giải thích nhưng nguyên đơn và bị đơn đều khẳng định
không yêu cầu đo đạc, định giá tài sản. Theo đó:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 101 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp
xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ với sự có
mặt của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc
xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết, chứng kiến việc xem xét, thẩm định
đó. Trường hợp này, nguyên đơn, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải
nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy định tại khoản 2 Điều
156 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
trường hợp các đương sự không thỏa thuận được giá tài sản thì Tòa án ra quyết
định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá. Trường hợp này, nguyên đơn,
người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản theo quy định tại
khoản 3 Điều 164 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
25. Khoản 1 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Hết thời
hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào
thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một
Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự”.

Vậy đến ngày thứ 09, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có
đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự thì có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng do chậm ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không?

Trả lời

Khoản 3 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: "Trong thời
hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Thẩm
phán ra một trong các quyết định sau đây: a) Công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự; b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; c) Đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự; d) Đưa vụ án ra xét xử”.

Như vậy, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải được
ban hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Để đảm bảo nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời theo
quy định tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Thẩm phán phải ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ngay sau khi kết thúc thời
hạn 07 kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi
ý kiến.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 147 và khoản 5 Điều 148 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày
đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được
xác định; khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ
thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.

Như vậy, nếu đến ngày thứ 09, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà
không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán mới ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự là có vi phạm thời hạn ra quyết định nhưng không
coi đó là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
26. Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, sau khi hòa giải vợ chồng thống
nhất đoàn tụ nhưng không rút đơn khởi kiện thì Tòa án ra quyết định hòa giải thành
hay ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án?

Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, nếu sau khi hòa giải, vợ chồng
thống nhất đoàn tụ thì cần xác định đây là trường hợp nguyên đơn rút lại yêu cầu
khởi kiện. Tòa án căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

27. Trường hợp, vụ án dân sự đang tạm đình chỉ, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án để
đình chỉ đối với yêu cầu đã rút hay chờ đến khi lý do tạm đình chỉ vụ án không còn
mới giải quyết trong cùng vụ án?

Điều 216 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

“Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết
vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết
định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan,
tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban
hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án
kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự”.

Theo quy định nêu trên thì việc rút yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập sẽ được Tòa án xem xét giải quyết khi Tòa án tiếp tục
giải quyết vụ án vì lý do tạm đình chỉ vụ án không còn. Việc xem xét giải quyết rút
yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải được
ghi rõ trong bản án, quyết định giải quyết vụ án.

28. Trong vụ án ly hôn, vợ, chồng có con từ đủ 07 tuổi trở lên nhưng không
biết địa chỉ cư trú của con ở đâu nên Tòa án không lấy được lời khai của con.
Trường hợp vợ, chồng đều muốn nuôi con thì phải giải quyết thế nào? Tòa án có
quyền giao con cho một bên đương sự nuôi mà không cần hỏi ý kiến của con được
không?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014 thì: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của
mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án
quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt
của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con".

Theo quy định nêu trên thì nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên chỉ là
một trong những yếu tố Tòa án phải xem xét trong quá trình giải quyết vụ án, việc
quyết định giao con cho bên nào trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con. Mặt khác, theo quy định tại Điều 214, Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 thì việc không lấy được lời khai của các con không phải là căn cứ để
đình chỉ hay tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Do vậy, Tòa án giải quyết theo
thủ tục chung và căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để xem xét, quyết định
người trực tiếp nuôi dưỡng con.

29. Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định; “ Con
dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi….”. Vậy có phải trong mọi
trường hợp tranh chấp quyền nuôi con, nếu có con dưới 36 tháng tuổi thì đương
nhiên người mẹ được nuôi không? Tại sao?

Căn cứ tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

...

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Như vậy, người mẹ có quyền nuôi con, ưu tiên trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con dưới 36 tháng sau khi ly hôn.

Trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con thì sẽ được Tòa án quyết định hoặc cha mẹ có thỏa thuận
khác phù hợp với lợi ích của con để giành quyền nuôi con.

=) Như vậy vẫn sẽ có trường hợp tranh chấp nuôi con , nếu có con dưới 36
tháng tuôi thì người mẹ sẽ không được nuôi con nều người mẹ không đủ điều kiện
để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì sẽ được Tòa án
quyết định hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con để giành
quyền nuôi con.
30. Tòa án giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu có được
không? Trường hợp này Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?

Khi giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng
đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án phải giải
thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án. Trường hợp
Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả
hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết
hậu quả hợp đồng vô hiệu; trừ trường hợp đương sự không yêu cầu giải quyết hậu
quả hợp đồng vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.

31. Khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp về quyền sử dụng đất mà Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho Hộ gia đình và tại thời điểm giải
quyết tranh chấp, thành viên hộ gia đình đã có sự thay đổi so với thời điểm cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này những thành viên nào của
Hộ gia đình có quyền sử dụng đất đó? Những thành viên nào của Hộ gia đình có
quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng?

Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất
là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất
chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Như vậy, khi giải quyết vụ án dân sự
mà cần xác định thành viên của hộ gia đình có quyền sử dụng đất cần lưu ý:

- Thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử
dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

- Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu Ủy
ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác định
thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm
căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên hộ gia đình
có quyền sử dụng đất, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất
của hộ gia đình, người có công sức đóng góp làm tăng giá trị quyền sử dụng đất
hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.

32. Trong vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà
nguyên đơn và bị đơn đều cư trú ở hai nơi khác nhau, tài sản là bất động sản lại ở
nơi khác thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết?

Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà có tranh
chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định theo quy
định tại điểm a, b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; cụ thể là Tòa
án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau bằng
văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn thì Tòa án nơi cư trú,
làm việc của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết.

33. Trường hợp xin ly hôn với người mất tích, Tòa án đã ra thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với người chồng/vợ thì bao lâu sau khi có
thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú đối với người chồng/vợ thì Tòa án
có thể giải quyết yêu cầu ly hôn của người chồng/vợ?

Khoản 1, 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Khi một người biệt
tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm
kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác
thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền,
lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó;
nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ
ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định
được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên
của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Theo
khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trong trường hợp vợ hoặc
chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn.
Như vậy, đối với trường hợp nêu trên, phải sau khi quyết định của Tòa án
tuyên bố người vợ/chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì Tòa án mới xem xét,
giải quyết cho người chồng/vợ ly hôn.

34. Trong vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến con chưa thành niên
mà đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án. Tòa án có phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc
phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án
không?

Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ
án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các
đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu
thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi
xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình,
nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan
đến vụ án”. Quy định này thể hiện tính chất đặc thù của vụ án hôn nhân và gia
đình, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con. Do vậy, đối với vụ án
hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên, việc thu thập tài liệu,
chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp là bắt buộc.

35. Đối với các vụ án hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 208 Bộ
luật TTDS năm 2015 thì Thẩm phán phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định
nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp tại cơ quan quản lý Nhà nước về gia
đình, cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em? Vậy cơ quan quản lý Nhà nước về gia
đình, trẻ em là cơ quan nào?

Khoản 3 Điều 3 của Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03-01-2013 của


Chính phủ về công tác gia đình quy định: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện
quản lý nhà nước về công tác gia đình tại địa phương”.

Các khoản 11, khoản 12 Điều 8 của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04-
4-2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương1 và các khoản 5, khoản 6 Điều 7 Nghị
định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05-5-2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh2 thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về gia đình, về bảo vệ
và chăm sóc trẻ em, Phòng Lao động - Thương binh và xã hội, Phòng Văn hóa và
Thông tin tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về gia đình, về bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì
Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu,
chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Như vậy, khi giải
quyết vụ án hôn nhân và gia đình, Thẩm phán, Thẩm tra viên có thể thu thập tài
liệu, chứng cứ và tham khảo ý kiến cơ quan quản lý nhà nước về công tác gia đình
tại địa phương theo quy định tại các Nghị định nêu trên. Ngoài ra, để xác định
nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, Tòa án có thể tham khảo ý kiến của Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi vợ, chồng chung sống, nơi con chưa thành niên cư trú.

36. Trong vụ án hôn nhân và gia đình, trước khi mở phiên tòa xét xử, đương
sự tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung.
Do đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên
Tòa án phải đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Trường hợp này, Tòa án sẽ
quyết định phần án phí như thế nào?

Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Trong vụ án ly hôn
thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp
nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình
ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm”.

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy


định: “Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ
thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí”.

Căn cứ các quy định nêu trên, trong vụ án ly hôn, nguyên đơn phải chịu toàn
bộ án phí dân sự sơ thẩm, trường hợp thuận tình ly hôn thì các bên đương sự phải
chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định).

Trong trường hợp này, các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ
thẩm. Do các đương sự đã thỏa thuận tự nguyện ly hôn nên các đương sự chỉ phải
chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25%
mức án phí quy định); về quan hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu dựa trên
giá trị tài sản mà mỗi bên được chia theo quy định của pháp luật về án phí.
37. Trường hợp nào sẽ dẫn đến việc thay đổi trực tiếp nuôi con sau ly hôn?

Tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định thay đổi quyền
nuôi con sau khi ly hôn như sau:

Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy
định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong
các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp
với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con
từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp
nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ
luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này
thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay
đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.


Như vậy, được thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn trong trường
hợp:

- Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy
định, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp
với lợi ích của con;

- Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên, việc thay đổi người trực tiếp nuôi
con phải xem xét nguyện vọng.

- Trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi
con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ.

38. Nêu hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa
thành niên?

Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành
niên theo Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

- Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa
thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con.

- Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con
chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân
sự và Luật Hôn nhân và gia đình 2014 trong các trường hợp sau đây:

+ Cha và mẹ đều bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên;

+ Một bên cha, mẹ không bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
nhưng không đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với con;

+ Một bên cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và chưa
xác định được bên cha, mẹ còn lại của con chưa thành niên.
- Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

39. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp
lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và việc tiến hành phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ảnh hưởng đến quyền
và nghĩa vụ của họ thì Tòa án có tiến hành hòa giải vắng mặt họ không?

Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định những vụ án dân sự
không tiến hành hòa giải được, trong đó có trường hợp: Bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình
vắng mặt. Do vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và
nghĩa vụ của họ thì căn cứ khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ mà không tiến hành hòa giải.

40. Đối với các loại hợp đồng dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản,
hợp đồng vay tài sản của cá nhân, tập thể với nhau ( không phải là hợp đồng tín
dụng ) thì có áp dụng thời hiệu khởi kiện như quy định tại Điều 429 của Bộ luật
dân sự 2015 không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 155 Bộ luật Dân sự
2015 thì: "Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:

...2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.

3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai....”

Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015 thì: "Thời hiệu khởi kiện
để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có
quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tòa án chỉ
áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các
bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra
bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.

Do vậy, đối với các tranh chấp về quyền sở hữu, đòi lại tài sản thì Tòa án
không áp dụng thời hiệu không phụ thuộc vào việc một bên hoặc các bên có hay
không có yêu cầu áp dụng thời hiệu.

Đối với các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự như hợp đồng thuê nhà,
thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là
hợp đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 Bộ
luật Dân sự 2015 và Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự.

You might also like