You are on page 1of 2

Test 4: bài đọc

Bí quyết của sự trẻ hóa.


Pheidole dentata, một loài kiến bản địa ở Đông Nam nước Mỹ, không bất tử (immortal /ɪ
ˈmɔːtl/). Nhưng những nhà khoa học đã phát hiện rằng nó dường như không thể hiện sự
lõa hóa (show any signs of aging). Những con kiến thợ già có thể làm mọi thứ cũng như
con kiến thợ trẻ, và bộ não của chúng thì rất nhạy bén (appear just as sharp). “Chúng tôi
lấy một bức tranh cái bộ não của những con kiến này thì thật sự không suy giảm
(decline), nói bới Ysabel Giraldo, người nghiên cứu những con kiến cho luận văn tiến sĩ
(doctoral thesis) at ĐH Boston.
Những kỳ tích về bất chấp tuổi tác (age-defying feat) thì hiếm ở trong vương quốc động
vật (the animal kingdom). Những con chuột chũi trần (naked mole rats) có thêr sống hầu
hết 30 năm và khỏe mạnh gần như cả cuộc đời của chúng (for nearly their entire lives).
Chúng thậm chí có thể vẫn tái sản xuất (reproduce) khi già và chúng không bao giờ bị
ung thư (get cancer). Nhưng phần lớn động vật (the vast majority of animals) phá hủy
(deteriorate) độ tuổi như con người (just like people do). Như loài chuột chũi, loài kiến
(social creature) thường xuyên sống trong bầy đàn có tính tổ chức cao (highly organised
colonies). “ Chính sự phức hợp xã hội điều đó làm cho P.Dentata hữu ích cho việc nghiên
cứu tuổi tác ở con người.” nói bởi Giraldo, bây giờ tại Viện CN Cali. Loài người cũng có
tính xã hội cao, một trạng thái (a trait) cái liên kết với tuổi trẻ hơn. Trái lại (by contrast),
hầu hết loài động vật sử dụng cho việc nghiên cứu tuổi tác là chuột, sâu hoặc ruồi giấm
(fruit flies), những điều đó dẫn tới đời sống cô lập hơn (lead much more isolated lives).
Trong phòng thí nghiệm, P.dentata – loài kiến thợ sống tiêu biểu khoảng 140 ngày
(typically live for around …days). Giraldo tập trung tập trung loài kiến thành 4 nhóm. 20-
22 ngày, 45-47 ngày, 95-97 ngày, 120-122 ngày. Không giống tất cả các nghiên cứu
trước, cái mà chỉ đo lường loiaf kiến sống trong bao lâu, công trình của cô ấy đã theo dõi
loài kiế (track the ants) từ cái lúc là nhộng (the pupae) phát triển trưởng thành, vì vậy cô
ấy biết chính xác tuổi của chúng. Sau đó, cô đặt chúng vào một bài kiểm tra (put them
through a range of tests).
Giraldo đã xem làm thê nào mà những con kiến chăm sóc bầy đàn con của chúng, ghi
chép tần suất những con kiến tham gia khuân vác và cho ăn. Cô ấy đã so sánh những con
kiến 20 ngày tuổi và 95 ngày tuổi, lần theo mùi lộ ra (the telltale scent) những con côn
trùng thường xuyên để lạ dấu vết con đười đường tới đồ ăn (leave to mark a trail to food).
Cô ấy đã kiểm tra làm cách nào mà con kiến ấy phẩn hồi với ánh sáng và cũng đo lường
cách tích cực bằng cách đếm tần suất những con kiến trong dĩa đồ ăn nhỏ băng qua
đường. Và cô ấy thí nghiệm làm như thế nào loài kiến phản ứng với con mồi (grey): một
con ruồi giấm bị buộc (a tethered fruit fly). Giraldo kỳ vọng những con kiến già thể hiện
thua trong tất cả nhiệm vụ của chúng. Nhưng côn trùng già là những người chỉ đường và
chăm sóc tuyệt vời – con 95 ngày tuổi theo mùi thậm chí dài hơn con trẻ. Chúng đều
phản ứng tốt với ánh sáng, cũng tích cực hơn. Và khi tiếp xúc với con mồi (when it came
to reacting to grey), những con kiến già tấn công những con kiến già một cách hung bạo
(aggressively), tấn công vào cawmg hoặc kéo chân con ruồi (flaring their mandibles or
pulling at the fly’s legs).
Sau đó, Giraldo so sánh bộ não của những con kiến 20 ngày tuổi và 95 ngày tuổi, xác
định bất kỳ tế bào nào sắp chết (close to death). Cô không thấy có sự khác biệt lớn nào
theo tuổi tác (saw no major differences with age) cũng như không có sự khác biệt nào về
vị trí của các tế bào sắp chết, cho thấy tuổi tác dường như không ảnh hưởng đến các chức
năng cụ thể của não. Kiến và các loài côn trùng khác có cấu trúc trong não gọi là cơ thể
nấm, rất quan trọng đối với xử lý thông tin, học tập và trí nhớ (processing information,
learning and memory) . Cô cũng muốn xem liệu lão hóa có ảnh hưởng đến mật độ của
các phức hợp khớp thần kinh (the density of synaptic complexes) trong các cấu trúc này
hay không - những vùng nơi các tế bào thần kinh kết hợp với nhau. Một lần nữa, câu trả
lời là không. Hơn nữa, những con kiến già không hề trải qua bất kỳ sự sụt giảm nào về
mức độ serotonin hoặc các chất hóa học dopamine trong não (experience any drop in the
levels of either serotonin or dopamine-brain chemicals) mà sự suy giảm thường trùng hợp
(coincides with) với quá trình lão hóa. Ví dụ, ở người, sự giảm serotonin có liên quan đến
bệnh Alzheimer.
Giraldo, người gần đây đã công bố phát hiện này trên tạp chí Kỷ yếu của Hiệp hội Hoàng
gia B, cho biết: “Đây là lần đầu tiên có người xem xét kỹ lưỡng cả những thay đổi về
hành vi và thần kinh ở những con kiến này”. Kết quả của các nghiên cứu về ong gần đây
là trái ngược nhau (the results of recent bee studies were mixed), một số nghiên cứu cho
thấy sự suy giảm liên quan đến tuổi tác, điều mà các nhà sinh vật học gọi là lão hóa
(senescence), còn những nghiên cứu khác thì không”
Ngoài ra, nếu kiến không già đi thì tại sao chúng lại chết? Ở ngoài tự nhiên (out in the
wild), loài kiến có lẽ không thể sống đủ 140 ngày do bị săn mồi (predator), bệnh tật và ở
trong môi trường khắc nghiệt hơn nhiều so với những tiện nghi trong phòng thí nghiệm.
Giraldo nói: “Những con kiến may mắn sống đến tuổi già có thể bị suy giảm nghiêm
trọng (suffer a steep decline) ngay trước khi chết”, nhưng cô không thể nói chắc chắn vì
nghiên cứu của cô không được thiết kế để theo dõi những khoảnh khắc cuối cùng của một
con kiến. Gene E. Robinson, nhà côn trùng học tại Đại học Illinois ở Urbana-Champaign,
cho biết: “Điều quan trọng là phải mở rộng những phát hiện này sang các loài côn trùng
có bầy đàn khác”. Con kiến này có thể là duy nhất, hoặc nó có thể đại diện cho một mô
hình rộng hơn trong số các loài côn trùng xã hội khác với những manh mối khả dĩ về
khoa học về lão hóa ở động vật lớn hơn. Dù sao đi nữa(either way), có vẻ như đối với
những con kiến này, tuổi tác thực sự không quan trọng (age really doesn’t matter).

You might also like