Professional Documents
Culture Documents
Tôi đã từng nghe người ta kể nhiều về phép thuật nèm, chài (bùa mê, ngải lú) thần
bí của những ông thầy mo Mán, Mường trên rừng xanh núi đỏ. Rằng chỉ với một
dúm muối, một đôi đũa, một nhành cây…, họ có thể “bó” cho đôi vợ chồng nọ
đang đứng trước nguy cơ tan vỡ trở nên quấn quyện, khăng khít như thuở ban đầu.
Có thể chia rẽ cặp tình nhân đang say nhau như điếu đổ kia bỗng chốc trở nên hờ
hững, lạnh lùng để rồi … chia ly đôi ngả. Thậm chí, chỉ với một chiếc kim, một
mảnh sắt quấn sợi chỉ ngũ sắc, họ có thể giết chết kẻ thù địch bằng những lời chú
bí hiểm… Để “bảo lãnh” cho tính xác thực của những câu chuyện rùng rợn ấy, có
người còn lôi ra những lời thề rất độc địa khiến kẻ tò mò, đa nghi Tào Tháo là tôi
cứ nhấp nhổm không yên. Và rồi, mặc cho cơn áp thấp nhiệt đới hoành hành, tôi
vẫn xé gió, đội mưa lên xứ Mường Thanh Sơn (Phú Thọ) quyết vén bức màn tâm
linh kỳ bí này.
Buổi trưa hôm ấy, tôi và nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đẫm mình mấy mươi
năm trong nền văn hoá xứ Mường Phú Thọ, dùng cơm trưa ở nhà khách UBND
huyện Thanh Sơn. Anh Tạ Văn Ngọ, trưởng phòng văn hoá huyện tay rót rượu mời
khách, miệng xởi lởi: “Chuyện bùa mê ngải lú tôi cũng nghe nhiều rồi, thực hư thế
nào, tôi chưa dám kết luận. Riêng chuyện nèm chữa bệnh cho người và gia súc,
nhất là nèm chữa bệnh trâu bò bị dòi bọ, nèm chữa hóc, nèm trừ sâu hại hoa màu…
thì tôi tin”. Rồi anh kể: cách đây vài năm, một gia đình cùng xóm với anh có con
trâu bị bệnh dòi, chữa bao nhiêu thuốc cũng không khỏi. Chị vợ bèn đến nhà ông
thầy mo trong làng nhờ chữa bằng bùa chú. Ông thầy mo ngồi xếp bằng, thủng
thẳng hỏi: trâu bị bệnh lâu chưa? loét chỗ nào? rồi bảo “khổ chủ” về đi, về mà nhặt
dòi bọ. Chị nọ bán tin bán nghi, chân thấp chân cao chạy. Về đến nhà thì eo ôi, dòi
từ vết loét ở cổ trâu nhung nhúc chui ra hàng vốc. Vài ngày sau, lành tịt. Hai vợ
chồng sướng rơn, vội vàng sắm sanh chút lễ mọn đến tạ ơn thầy. Chuyện nữa: anh
Hoàng Bá Tân, con của “nhà bùa chú” nổi tiếng Hoàng Bá Huân ở xã Tân Phú có
những bài nèm chữa một số bệnh hiểm nghèo. Đứt tay chảy máu, nhọt sưng mưng
mủ, anh chỉ cầm con dao cùn hà hơi niệm chú rồi chí chí vào đó, vài ngày nhọt to
như cái chén xẹp ngay. Mới đây, anh niệm thần chú chữa khỏi bệnh viêm gan nặng
cho một người ở làng Hoàng Xá. Nhờ đó, anh được mời đi báo cáo điển hình về
cách chữa bệnh bằng phương pháp dân gian ở Hội nghị y học dân tộc tỉnh Phú
Thọ.
Nhà văn gầy gò Nguyễn Hữu Nhàn thì nhỏ nhẻ góp một chuyện khá rùng rợn.
Chuyện rằng: ông có một người bạn đồng hương quê Tứ Xã (Lâm Thao) dạy học
nhiều năm ở xã Lai Đồng (cách Tân Phú 30 km). Một lần chứng kiến một anh
Mường có vợ lâm bệnh trọng chết. Thay vì lo ma chay, anh này cứ dí mũi xuống
xác vợ… hít lấy hít để. Hỏi dân làng mới biết, anh này vì xấu xí, lại nghèo nên
phải nhờ người nèm mới lấy được vợ. Do bỏ bùa mê thuốc lú để lấy cưỡng bức nên
khi một người chết thì người kia sẽ phải chết theo do chưa biết hoặc chưa kịp đón
thầy đến “ké nèm” (giải bùa chú). Sau này, ông được cụ Hoàng Đức Sin, 80 tuổi,
người Mường xã Tân Minh giảng giải thêm rằng: Nếu nèm để lấy vợ mà sống yêu
thương nhau thì không sao. Còn nếu nèm để cưỡng bức nhau sẽ bị quả báo tức thì.
Vì vậy, khi một người đột tử thì người kia phải hít hơi tử thi cho đến khi thầy đến
cởi cho mới thoát.
Cuộc đời cụ Sin là cả một pho huyền sử về phép thuật nèm chài. Cụ vốn là thầy
cúng nổi tiếng cả vùng, đã từng được cấp sắc chánh thượng thừa, cấp bậc cao nhất
trong nghề thầy cúng. Muốn lên được cấp bậc này phải qua các sắc tiểu thừa, trung
thừa, đại thượng thừa và trung thượng thừa. Là người ăn to nói lớn, cụ cứ choang
choang kể: “Ngày xưa, bác là cán bộ xã, làm chủ nhiệm HTX nhiều năm đấy. Vì
làm cán bộ, không được đi cúng, không được nói đến chài, nèm nên có lão giở trò
ma nèm vợ bác, khiến bà ấy bỏ chồng, bỏ con đi theo hắn. Giận quá, bác gọi hắn
đến nhà vãi (bố mẹ vợ) vỗ ngực, chỉ mặt hắn: “14 tuổi tao đã là thầy cúng. Mọi
pháp thuật người Mường tao không lạ. Nếu ngươi không đón người ké nèm để tao
phải ra tay thì chớ có trách…” Kẻ cướp vợ mặt xanh đít nhái quỳ sụp xuống, lạy cụ
như tế sao. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn hỏi: “Thế cụ có giận cụ bà không?” Cụ Sin
xua tay cười hớ hớ: “Ô không! Đấy là nó nèm cho mê mẩn mà theo nó thôi. Khi bà
ấy về, khóc lóc xin tha thứ, bác không mắng nửa lời, vẫn sống tốt với nhau đến tận
bây giờ đấy”. Nhà văn lại hỏi: “Người Mường xưa có thể nèm cho trai gái yêu
nhau. Vậy có thể nèm cho nhân tình nhân ngãi, bồ bịch bất chính chán nhau không
hả cụ?”. “Được chứ!”. Cụ Sin nói rồi vỗ vỗ vào vai nhà văn: “Hôm nào đến đây
bác dạy cho bài ké nèm mà về xuôi cứu nhân độ thế cho vợ chồng không bỏ nhau”.
Tôi ngồi nghe chuyện mà người cứ mê đi. Càng nghe ruột càng nóng như lửa đốt,
những muốn có phép thần để bay ngay lên xứ Mường. Bữa rượu vừa tan, tôi vội vã
lên xe phóng thẳng. Chặng đường từ thị trấn Thanh Sơn (Phố Vàng) lên Thu Cúc
dài chừng 30 km bóng nhoáng, phẳng lỳ. Tay vít ga, mông uốn lượn theo những
đường cong mềm mại, tôi cứ mắt tròn mắt dẹt. Sao đường miền núi lại “ngon” thế?
Sao tiếng là vùng sâu vùng xa nhất của huyện Thanh Sơn tưởng là xác xơ, tiêu điều
mà lắm nhà lô cốt bê tông thế, trên nóc lại còn chềnh ễnh con ăng-ten chảo pa-ra-
bôn giá đến vài triệu đồng. Các quán cà phê giải khát mọc san sát. Thi thoảng lại
bắt gặp biển hiệu “karaoke” to đoành. Thế mới oách! Thì ra cái “anh” văn minh đã
tràn cả lên rừng xanh núi đỏ rồi.
Đến địa phận xã Tân Phú, tôi tạt vào một quán bia hơi bên đường. Cô chủ quán
ngực thây lẩy, mông ưỡn ẹo đon đả chạy ra. Trong quán, một tốp thanh niên
Mường chừng chục cô cậu đang tíu tít cụng ly, đùa cười rôm rả. Chỉ mất vài câu
đưa đẩy, tôi đã trở thành khách quý của họ. Biết tôi có ý định tìm hiểu phép thuật
nèm chài, Thuỷ, cô gái Mường có nước da đen giòn với nụ cười hoa tươi tắn lúng
liếng bảo: “Anh đến đúng ổ bùa ngải của người Mường chúng em rồi đấy. Đẹp giai
thế này, không sợ bọn em bỏ bùa mê cho mất đường về quê mẹ sao anh?”. Tiếng
cười ré lên. Cậu thanh niên Mường tên Khoẻ, xã Mỹ Thuận, phô hàm răng bàn
cuốc gắt gỏng: “Chúng mày có im đi không! Cứ đùa để anh ấy sợ”. Quay lại phía
tôi, Khoẻ trùng giọng: “Nèm chài của người Mường chúng em là có thật, lưu
truyền từ đời xửa đời xưa. Mẹ em cũng biết nèm đấy, nhưng cụ chẳng làm bao giờ
cả. Cụ bảo, làm cái đó thất đức lắm. Bữa trước, có mấy anh nhà báo dưới Hà Nội
lên đây tìm hiểu viết bài. Hỏi han linh tinh vài câu rồi về phịa cả một trang báo dài.
Toàn bịa đặt, xuyên tạc cả. Lại còn riết róng tố cáo người Mường chúng em loè
bịp, chặt chém khách moi tiền, rồi thì mê tín dị đoan khiến dân tình bất bình lắm.
Nếu anh thực sự muốn tìm hiểu phép thuật thần bí này, em sẽ đưa anh đi”. Thấy tôi
còn bán tin bán nghi, Khoẻ căn vặn: “Anh chưa tin phải không? Thế em hỏi anh
nhớ, đôi vợ chồng nọ vừa chiều qua đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Vợ tru tréo chửi
chồng, chồng vác dao rượt đuổi vợ, tưởng chém giết nhau đến nơi. Đùng một cái,
sáng hôm sau, lại thấy cô vợ hớn hở quay về, ríu rít anh anh, em em như chưa từng
có chuyện đánh đấm. Thế không nèm thì là gì? Hay như cô S. Thị Nở ở cầu Mịn
kia kìa. Xấu người, lại xấu cả nết. Lấy chồng, đẻ được 2 đứa con gái, chồng chán,
nó bỏ. Thế mà anh Tuấn, chủ thầu xây dựng dưới Hà Nội, đẹp trai, lắm tiền, vợ
đẹp như tiên, lại chết mê chết mệt S. Hai đứa ăn ở với nhau như vợ chồng. Năm
ngoái, lại còn bỏ tiền xây dựng cho S. một ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh ở mặt
đường. Chuyện này, cả huyện Thanh Sơn biết. Em hỏi anh, thế không phải nèm thì
là gì?”. Tôi gật gù lia lịa. Khoẻ hứng chí bảo: “Kể tên những người biết nèm ở đây
thì đầy dẫy. Này nhé: Bà Nhàn ở xóm Bưng (xã Minh Đài), thầy mo Thục, thầy
Cửu, thầy Thắng, bà Phúc, bà Chối, bà Miến ở Mỹ Thuận, thầy Hà Văn Bày ở thôn
Mai Thịnh (xã Địch Quả), ông Hà Văn Bằng, ông Hoàng Bá Huân ở Tân Phú… Ôi
dào! Nhiều lắm! Nhưng theo em, nổi tiếng nhất vẫn là thầy mo Thục. Thầy cao tay
lắm. Ngày nào cũng có người đón thầy đi cúng giải hạn, cúng đàn chay phá ngục
cho những nhà chết trùng tang, làm bùa ghét, bùa yêu… Đùi gà gia chủ lễ tạ, cả
nhà thầy ăn chẳng hết. Hôm nọ, vợ chồng anh Tân ở Mỹ Thuận có đôi lợn nái xổ
chuồng, táo tác đi tìm cả ngày chẳng thấy. Bí quá mới đến nhờ thầy Thục. Ông
Thục nhận lời, thắp hương, khấn vái rồi đi bộ lên trên dãy núi Cụt trước mặt anh
kia kìa. Ông ấy lầm rầm đọc thần chú rồi hú lên mấy tiếng. Ngay chiều hôm ấy, đôi
lợn ở đâu ủn ỉn mò về. Chuyện này, cả làng đồn rầm rĩ, em không nói sai”. Tôi sốt
sắng hỏi đường đến nhà ông Thục để xin lá bùa yêu. Khoẻ bảo: “Anh là người lạ,
đến nhà, thầy không làm đâu. Để em dẫn đường cho”. Tôi sướng rơn, luýnh quýnh
thế nào bỏ quên cả mũ bảo hiểm ở quán.
Nhà thầy mo Thục nằm chon von trên lưng chừng đồi. Trời mưa, đường trơn nhầy
nhụa, xe cài số 1, ì ạch mãi mới lên đến nơi. Căn nhà gỗ, lợp mái gianh, rộng thênh
thếnh như cái đình, ồn ào tiếng nói cười. Ngày mai, cậu con út của thầy vào Nam
lập nghiệp, gia đình làm bữa liên hoan. Thầy không có nhà. Vợ thầy bảo: Thầy ra
chợ thị trấn mua “canh” (thức ăn). Tôi ngồi chờ. Anh con trai cả tủm tỉm: “Chú
đến đây là đúng địa chỉ rồi. Yên tâm đi. Bất cứ chuyện gì cần, thầy cũng có thể
giúp chú được”. Rồi anh kể, có một cậu thanh niên ở tận Sơn Tây, vợ bỏ đi theo
giai, lên khóc lóc van vỉ nhờ thầy cứu giúp. Thầy nhận lời, làm cho một lá bùa. Ba
ngày sau, cô vợ trở về. Anh chàng mừng rơn. Cảm tạ tấm lòng của thầy, anh đã
biếu thầy 3 triệu. Tháng nào anh ta cũng lên đây một lần để thầy yểm bùa cho tình
cảm vợ chồng thêm bền chặt. Mới đây, có một bà tận Gia Lai – KonTum lặn lội ra
đây. Chồng làm giám đốc, bồ bịch lăng nhăng. Bà vợ đánh ghen, chửi bới, rồi khóc
lóc, nỉ non… đủ hình đủ kiểu mà anh chồng vẫn chứng nào tật ấy. Nhờ bùa của
thầy tôi, cô ấy đã giành lại được chồng. Hôm kia, cô ấy gửi biếu thầy tôi 5 triệu
nhưng thầy chỉ nhận 3 triệu thôi. Cụ cao tay lắm”.
Khoảng 5 giờ chiều, thầy Thục mới về. áo trắng, quần âu, trông thầy phong độ lắm
so với cái tuổi thất thập. Bắn một điếu thuốc lào, lim dim nhả khói, thầy hất hàm:
“Anh từ đâu tới? Có việc gì?”. Tôi liền giả bộ rầu rĩ: “Con là thầy giáo dạy văn
dưới Hà Nội. Vợ con đang lăng nhăng với người khác. Con muốn xin thầy một lá
bùa để kéo vợ con về”. Thầy cười khùng khục: “Anh nói thế nào ấy chứ. Trông
anh đẹp giai lồng lộng, lại hào hoa thế kia, vợ bỏ theo giai sao được”. Tôi rơm rớm
nước mắt, van vỉ: “Bẩm thầy! Con đâu dám nói dối. Xin thầy mau ra tay giúp con,
thầy cứu con không thì con chết mất”. Miệng nói, tay rút tờ năm chục, tôi dúi vào
tuí thầy. Bộ mặt tôi lúc đó trông chắc thảm thương lắm nên thầy hạ giọng: “Thôi
được rồi, thầy sẽ giúp. Bây giờ, anh ghi tên tuổi của anh và vợ anh vào tờ giấy này.
Nhớ phải ghi thật chính xác, nếu không bùa sẽ mất linh”. Ngừng lời, chiêu một
ngụm nước, thầy chép miệng: “Gớm! Các cô cậu dưới ấy bây giờ no lưng ấm cật
nên giậm giựt chân tay. Ngoại tình, bồ bịch khiếp quá. Chẳng riêng gì anh đâu. ối
người làm giám đốc, vụ trưởng mà vẫn cứ bị vợ cắm sừng cho như chơi ấy chứ.
Đấy, vừa chiều qua, một cô sồn sồn tô son trát phấn, người núc nỉu những nhẫn,
dây chuyền đến cầu xin tôi làm nèm cho… 4 ông bồ không ông nào được rời ra.
Dâm đãng đến thế là cùng”. Đang cặm cụi viết, tôi cũng phải bật cười cùng tiếng ồ
lên của mấy chục con mắt đang tò mò nhìn tôi từ nãy đến giờ.
Đón nhận tờ giấy trên tay tôi, thầy Thục khẽ khàng đặt lên ban thờ. Rót đầy ba
chén nước, thắp ba nén nhang, thầy phủ phục xuống phản lầm rầm khấn. Gieo quẻ
xong, thầy sai bà Thục ra vườn hái mấy cái lá và xúc bát muối lên cho thầy. Quay
mặt về phía ban thờ, thầy bắt đầu niệm chú. Cả nhà im phăng phắc. Tôi cố tập
trung cũng không nghe được gì, chỉ thấy môi thầy mấp máy như máy khâu. Khuôn
mặt thầy đỏ bừng như lên đồng. Niệm xong, thầy đưa nhúm lá và bát muối lên sát
miệng, hà hơi 3 lần vào đó. Đưa tôi “bùa yêu” đã được gói ghém cẩn thận, thầy
dặn: “Nhúm lá này anh về chia làm đôi. Một để trong gối anh, một để gối vợ. Còn
gói muối, hàng ngày nấu canh, anh cứ cho vào, cả nhà cùng ăn. Đảm bảo chỉ một
tuần sau, vợ anh sẽ hết tơ tưởng lăng nhăng đến người khác”. Tôi cúi đầu cảm tạ và
cáo từ ra về. Trời nhập nhoạng tối. Biết tôi lên xóm Dùng, xã Thạch Kiệt, cách Mỹ
Thuận chừng 7km, anh con cả thầy Thục gàn: “Chú đừng đi đến đấy. Đường xá xa
xôi, cách trở. Chú cứ nghỉ lại đây với anh, sáng mai đi cũng chưa muộn”. Cả nhà
thầy Thục xúm lại mời nhưng tôi vẫn kiên quyết đi. Bởi ở Thạch Kiệt, có một
người mà như nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã căn dặn tôi hồi trưa: “Muốn biết
tường tận về nèm chài, anh phải gặp cho được ông Hoàng Văn Nhẽo, xóm Dùng,
xã Thạch Kiệt. Chỉ có ông ấy mới có thể giúp anh vén bức màn tâm linh kỳ bí
này”.
KỲ II: DIỆN KIẾN “NHÀ BÙA CHÚ” CÓ … IO VỢ VÀ NHỮNG KHÁM PHÁ
THÚ VỊ VỀ THUẬT NÉM CHÀI
Quả thật, chỉ đến khi rung đùi ngồi uống rượu nghe “nhà bùa chú” Hoàng Văn
Nhẽo kể chuyện bùa mê ngải lú, tôi mới hoàn hồn. Chả là đường đến xóm Dùng
phải qua một con suối. Mùa mưa, nước đầy, suối sâu. Xe vừa lao xuống đã kêu
đánh “ục”. Máy tắt ngỏm. Trời tối bịt bùng. Sương giăng tứ phía. Một mình giữa
núi đồi heo hút. Tôi sởn da gà. Nghiến răng, oằn lưng đẩy xe vượt suối. Một nỗi sợ
hãi mơ hồ. Nhỡ ông Nhẽo không có nhà, lại đất khách quê người, biết ở đâu? Mò
mẫm mãi cũng đến được nơi cần đến. Cất tiếng gọi lạc giọng, mới nghe lời vọng ra
ồm ồm: “Ai hỏi gì tôi đấy?”. Tôi thở phào, chợt thấy thấm thía đến thế câu nói của
cổ nhân: “Mừng như chết đuối vớ được cọc”.
Nghe tôi giới thiệu là người thân của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, ông Nhẽo vui
lắm. Tay rót rượu mời khách, ông nói cười rổn rảng: “Anh cứ ở đây với bác vài
hôm, không ngại gì đâu. Bác ở có một mình thôi mà”. Tôi đưa mắt nhìn. Căn nhà
sàn rộng thênh thếnh, lạnh lẽo như cái đình bỏ hoang. Đồ đạc chẳng có gì. Tài sản
đáng giá nhất chỉ là cái tủ buýp-phê mốc lở và chiếc đài cát-xét Trung Quốc bị mất
nắp. Tôi hỏi: “Thế bác gái cháu đâu ạ?”. Ông Nhẽo cười buồn: “Chết hết, bỏ hết đi
cả rồi. Ngày xưa, bác nèm cho nhiều người đàn bà đẹp mê mình. Nèm cả vợ người
ta bỏ chồng theo mình. Vì thế, về già, trời quả báo, phải ở một mình thế này đấy”.
Được biết, ông Nhẽo đã dùng thuật nèm chài để lấy những… 10 vợ. Sau này,
người thì chết, người thì bỏ ông mà đi. Ông bảo: “Dù có tài nèm đến đâu cũng
không tránh khỏi cái hoạ cô đơn về già”. Vì thế, giờ đây, ông chỉ làm phúc nèm
cho các cặp vợ chồng yêu thương nhau. Nèm cho đàn ông bỏ gái, đàn bà bỏ giai
mà về đoàn tụ với vợ với chồng. Lụi cụi mở nắp chiếc hòm cũ kỹ để ở góc nhà,
ông Nhẽo đưa cho tôi xem một tập vở dày cộm ghi chi chít tên tuổi, địa chỉ những
người vợ bị phụ bạc, những ông chồng bị cắm sừng đến nhờ ông nèm giúp. Tôi lần
giở từng trang. Dễ có đến cả nghìn địa chỉ. Thôi thì đủ cả “4 phương trời mười
phương đất”. Gần thì Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội. Xa thì Hà Tây, Hà Giang, Thanh
Hoá, Nghệ An… Có người ở tận tít tắp trong Bảo Lộc, Lâm Đồng… Xa quá thì
đành gửi ảnh “một nửa của mình” và cả ảnh của kẻ tranh vợ cướp chồng để ông
Nhẽo làm nèm chia cắt.
Ông Nhẽo bảo: “Phép thuật nèm chài của người Mường có từ ngàn năm nay rồi
nên phong phú lắm. Bản thân bác, tu luyện gần trọn một đời, cũng chỉ biết làm có
mấy chục bài. Phép tắc, lề lối thì vô cùng chặt chẽ. Khi nèm, phải đọc thần chú liền
một hơi cho hết bài. Nếu bị đứt đoạn thì phải nghỉ lấy hơi đọc lại. Đọc thầm, tuyệt
đối không cho ai nghe thấy, không cho lưỡi va vào răng. Niệm đủ 3 lần mới hà hơi
vào gạo, muối rồi bí mật bỏ vào nồi cơm, canh để ăn vào, tự khắc sẽ yêu thương
nhau. Nếu muốn bồ bịch bỏ nhau thì niệm thần chú vào một số hạt thóc rồi quải
cho gà nhà người ấy ăn, tự khắc hai người sẽ chán nhau”. Trò chuyện với ông, tôi
mới biết, phép nèm vô cùng thần bí, thần bí đến mức có nhiều chi tiết không thể lý
giải bằng tư duy lô gíc thông thường. Ví như: Vì sao phép màu muốn truyền dạy
người khác phải chọn đúng ngày giờ? Mỗi năm chỉ có vài ngày truyền dạy được?
Có những bài nèm chỉ làm được vào lúc chập tối. Nèm xong phải quay mặt ra
hướng Tây mà thở. Vì sao khi vào mùa ếch nhái kêu thì có truyền dạy đúng bài bản
cũng không thể “khất” (không thực hiện nổi)? Rồi ông say sưa kể về cách nèm cho
chó vẫy đuôi để đến nơi có chó dữ, chúng sẽ mừng như mừng chủ. Rồi cách nèm
nương bùa, nèm để không một người ngoài nào có thể lấy hoa màu nông sản mình
trồng trên nương. Tôi mỉm cười. Thảo nào, lúc ngồi uống rượu, thấy tôi nhấp nhổm
ngó nghiêng con Wave để dưới gầm nhà sàn, ông Nhẽo tủm tỉm: “Anh cứ yên tâm,
cứ ngồi uống cho thoả sức. Đố ai dám sờ mó con xe của anh. Nếu mất, mai bác
đền”.
Nhà bùa chú Hoàng Văn Nhẽo đã đồng ý cho tôi ghi 5 bài thần chú nèm yêu của
ông với điều kiện, tôi không được bật máy ghi âm. Đó là bài: Nèm vào khăn mặt
cho vợ chồng thương yêu nhau. Nèm dò lá thương yêu (Niệm thần chú vào cành lá
rồi thả ra đường. Người mình yêu dẫm phải sẽ tự nguyện theo mình). Nèm phô
nống (Niệm thần chú vào bàn tay rồi vỗ vào vai đối phương, tự khắc người ấy sẽ
mê mình). Nèm lá phai nhạt chán ghét (Dùng cành lá nèm vào làm cho tình nhân,
bồ bịch bỏ nhau). Và bài liếc mắt tìm hiểu (Đọc thần chú xong, liếc mắt đưa tình
làm cho đối phương mê mẩn).
Hỏi về phép thuật chài, ông Nhẽo giãy nảy: “Thất đức! Thất đức! Không nên
truyền cho nhau cái thứ hại người ấy. Vì chài nó nguy hiểm lắm. Mấy làng mới có
một ma chài. Dân Mường có câu: “Trong chài ngoài mõ”. Người Kinh xa lánh mõ
thế nào thì người Mường xa lánh chài thế ấy. Người ta hay dùng sắt để chài. Niệm
thần chú vào sắt rồi quệt vào cây mía, quả cam, vại nước. Người bị hại ăn uống
những thức ấy, tự khắc trong bụng có sắt thôi”. Về chuyện chài, tôi đã được nghe
ông Vũ Đình Hiền, nguyên cán bộ Sở văn hoá thông tin tỉnh Vĩnh Phú (cũ) kể:
Năm 1963, ông được dự một lớp học “Chống mê tín dị đoan để đưa miền núi tiến
kịp miền xuôi” do huyện uỷ Thanh Sơn tổ chức, ông Cao Đức Chính, thường vụ
huyện uỷ phụ trách. Đợt ấy, huyện phát động phong trào nhân dân tố giác những
người biết chài, nèm để bắt đến lớp học tập, cải tạo. Có một người đàn bà ở xóm
Đồng Cỏ, xã Thục Luyện đã chài, hại một anh thanh niên Mường làng Cự Thắng,
lấy vợ ở Thục Luyện. Khi bị phát hiện, người đàn bà độc ác ấy bỏ trốn về xã Giáp
Lai. Công an huyện do ông Đinh Liên Đàm chỉ huy đã truy tìm bắt về huyện.
Trước công an điều tra, mụ đã thú nhận làm chài sắt hại anh thanh niên nọ. Song
mụ chỉ biết chài theo gia truyền chứ không biết cách giải, trong khi bệnh tình của
anh thanh niên Mường ngày càng nguy kịch. Một ông già Mường ở Cự Thắng,
thấy vậy, yêu cầu lãnh đạo huyện và xã viết cam kết không bắt ông đi cải tạo, ông
sẽ chữa chài trước mắt mọi người. Ông Hiền kể: “Tôi thấy ông già bưng ra một
chậu thau nước lã, một cái chày, một dùi gỗ. Viết bùa, thắp hương, đọc thần chú
xong, ông dán bùa vào chày gỗ rồi để vào bụng anh thanh niên nọ, vung dùi đập
đánh “bốp” một cái. Anh kia kêu hét lên, hai tay ôm ngực. Ông già lại để chày lên
ngực, đập tiếp một phát. Anh kia lại hét, giơ tay ôm cổ. Khi ông già đập vào cổ,
anh thanh niên ngã vật xuống. Một cái đinh mười phân bọc trong mảnh vải váy đàn
bà, cuộn bên ngoài bằng chỉ ngũ sắc, bật ra khỏi mồm. Vài hôm sau, lại đi nương
đi rẫy.
Đêm ấy, mãi 12 giờ đêm, tôi mới đi ngủ. Phần vì mệt, phần vì khuya, tôi thiếp đi
lúc nào không biết. Bỗng nghe tiếng “phì, phì” như tiếng rắn hổ mang phun ở ngay
trên đầu, tôi choàng tỉnh giấc, he hé mắt nhìn. Trong ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy
bóng hai người đàn ông chụm đầu vào nhau. Tiếng Mường lầm rầm như từ cõi âm
ty vọng đến. Căng mắt nhìn, tôi nhận ra ông Nhẽo và một người đàn ông lạ mặt.
Anh kia đến xin nèm. Tiễn khách ra cửa, ông Nhẽo trở vào. Tần ngần một lát, ông
cúi xuống thu gọn túi xách, giấy bút, máy ảnh, máy ghi âm… tôi vứt tanh bành lúc
tối. Cả bộ quần áo ướt sũng mồ hôi và nước suối tôi lội hồi chiều. Tay vuốt vuốt
vào ống quần tôi, ông khẽ khàng treo lên mắc. Tôi nằm im, nín thở. Một ý nghĩ
kinh hoàng chợt đến: ông Nhẽo đang nèm tôi. Thì vừa nãy, ông chẳng khoe có
những 10 vợ, 18 người con, gần 40 đứa cháu là gì? Lại khen tôi đẹp giai, đức độ,
ăn nói có duyên… Cớ gì ông không nèm tôi cho một cô cháu gái nào đó? Tóc tôi
dựng ngược. Tim tôi nghẹn lại. Mắt tôi thao láo. Sáng hôm sau, ngồi bỏm bẻm
nhai bánh rán, uống nước chè tươi với ông, tôi mới bật cười. Đúng là “thần hồn nát
thần tính”.
Trên đường trở lại thị trấn Thanh Sơn, tôi rẽ vào Tân Phú thăm anh Hoàng Bá Tân
để hỏi về phép thuật nèm chữa bệnh mà anh đã đi báo cáo ở Hội nghị y học dân tộc
tỉnh Phú Thọ. Rất tiếc, anh Tân đi vắng. Song bù lại, tôi lại được tiếp kiến ông cụ
thân sinh ra anh, ông Hoàng Bá Huân, nổi tiếng về làm nèm. Ông Huân năm nay
bước sang tuổi 76 nhưng còn tráng kiện, sung sức lắm. Vợ ông ít hơn vài ba tuổi,
trông dáng người, nước da, chắc xưa cũng phải là cô gái Mường xinh đẹp. Tôi hỏi
ông Huân: “Bác gái đẹp thế, ngày xưa, bác có phải dùng nèm mới lấy được
không?”. Ông Huân cười xua tay: “Không! Làng Mường có nhiều người biết nèm
thì khó dùng trò ma ấy. Lộ chuyện ra sẽ bị nhà cô gái đánh cho vỡ mặt”. Bà Huân
xởi lởi: “Tôi thích ông ấy thì lấy làm chồng thôi chứ chẳng phải ai chài nèm gì
đâu”. Rồi bà kể chuyện hồi trước, nhiều đoàn công nhân đến ở đây bị người
Mường nèm trêu nấu cơm không chín, nấu nước không sôi. Mọi bài nèm đều đọc
bằng tiếng Mường. Riêng bài nèm này lại nói bằng tiếng Kinh. Nguyên văn như
sau: “Mày làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày không lên hơi. Mày
lên hơi thì tao chém. úm ta ha khất”. Muốn cho cơm chín thì niệm thần chú: “Mày
làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày lên hơi. Mày không lên hơi thì
tao chém. úm ta ha khất”. Bà Huân giảng giải: “Người ta nín hơi đọc thần chú rồi
phì hơi ra mảnh đóm, vờ vào bếp xin lửa nhưng khua khoắng mảnh đóm quanh nồi
và dưới chôn nồi. Lửa dẫu có đốt đùng đùng cơm cũng chẳng chín được”. Tôi ngỏ
ý muốn xem ông bà biểu diễn. Ông Huân cười: “Thôi, để hôm nào bác biểu diễn
cho anh xem bài nèm ráo ướt. Khi ở trên bờ niệm thần chú thì người chống bè, bơi
thuyền chốc chốc lại ngã ùm xuống sông, làm cho quần áo vừa ráo lại ướt ngay”.
Rồi ông hào hứng kể chuyện làm nèm để bó lại một số cặp vợ chồng khỏi bị tan
vỡ. Ông kể chi tiết chuyện anh Khê ở Tân Phú đã có với vợ những 4 mặt con. Tí
tởn thế nào lại cưới thêm cô vợ lẽ, suốt ngày òm ọp đánh chửi vợ con. Cụ Bằng ở
xóm thấy thế đến nhờ ông Huân “bó” lại cho gia đình họ đoàn tụ. Hẹn một ngày
anh em nhà ấy ăn uống họp gia đình để lựa lời khuyên nhủ, chị dâu anh Khê kín
đáo giấu 3 đôi đũa của vợ cả, vợ hai và của anh Khê vừa ăn xong không rửa đưa
cho ông đem về bó nèm. Ông còn kể chuyện bó nèm cho vợ chồng anh Dũng ở
xóm Mịn. Nghe xong, tôi hỏi: “Cháu sẽ viết báo nêu tên thật của họ, liệu có bị kiện
không?” Ông Huân cười xoà: “Cả làng biết đấy, kiện gì. Hơn nữa, bác làm phúc
đức cho gia đình họ. Bây giờ trong ấm ngoài êm, hiểu ra, họ chỉ biết ơn bác thôi”.
Bà Huân vội nói chen vào, giọng lo lắng: “à! Suýt nữa thì quên. Hôm trước đến
đám ma nhà anh Thọ. Bà Xuân gọi tôi ra nói nhỏ là về nhờ ông, nếu “nèm tơm
thăm” hay “nèm bó đũa” thì làm ơn cởi giúp kẻo một người chết thì cả nhà chết
theo”. Ông Huân bảo: “Không sao. Nhà bà Xuân, mẹ anh Huy ở xóm Quyết Tiến,
tôi nèm bằng muối không sợ nguy hiểm như bó đũa, tơm thăm nên không phải
cởi”. Nói đoạn, ông liền bảo Thuỷ, cậu con út vào buồng mở hòm lấy ra bó đũa
cho tôi xem. Đây là 2 đôi của vợ chồng anh Dũng nhờ ông nèm hồi năm ngoái.
Bốn cái đũa được bó bằng hai mối buộc chỉ đỏ và chỉ trắng. Ông Huân giải thích:
“Muốn nèm bó đũa phải dùng hai loại chỉ khác màu bó chặt đôi đũa ăn cơm của
những người đang “ông chẳng bà chuộc”. Bó đũa ấy phải đem về nhà mình cất kỹ.
Sau 3 năm khi vợ chồng đã khăng khít, phải đem bó đũa đó ra niệm thần chú bài
“ké nèm” (giải) rồi tháo chỉ cho đũa rời ra. Có như thế thì một người chết, người
kia sẽ không hề hấn gì”. Còn “nèm tơm thăm” là lấy được mảnh áo hoặc quần của
2 người đã mặc, niệm thần chú vào rồi cất kỹ. Đây là cách nèm khá bền chặt nhưng
cũng khá nguy hiểm. Lời bài chú rất dài, người khoẻ, đọc một hơi mới hết. Khi vợ
chồng đã gắn bó, để tránh nguy hiểm, phải nèm cởi ra. Đọc lời chú bài ké nèm, hà
hơi vào 2 mảnh vải, đem ra sông, suối, chỗ nước quẩn, rồi thả một mảnh ở dòng
nước chảy xuôi, một mảnh ở dòng nước chảy ngược. Hai mảnh vải cuốn đi hai nơi
sẽ không còn nguy hiểm cho người bị nèm.
Cần sự lý giải về một hiện tượng tâm linh của văn hoá Mường
Trở lại với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đã có hàng chục công trình nghiên
cứu về văn hoá Mường Thanh Sơn. Trao đổi với chúng tôi tại tư thất ở Khu tập thể
Di Lâu, thành phố Việt Trì về vấn đề: có hay không sự linh nghiệm của phép thuật
nèm chài, nhà văn khẳng định: “Chài nèm là có thật”. Theo “Cổ sử Việt Nam” của
Đào Duy Anh thì Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều phép thuật, quyền
năng, phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương. Xứ Mường
Thanh Sơn, đất bản bộ của Vua Hùng còn in đậm phong tục tập quán, lễ nghi tín
ngưỡng, chế độ thổ tù lang đạo, ruộng đất nhà lang…, đặc biệt, những truyền
thuyết dân gian về vua Hùng, về Thánh Tản Viên còn rất nhiều. Pháp thuật thần bí
của người Lạc Việt mà sử sách thời Trang Vương bên Tàu gọi là phương thuật hay
Việt phương nay còn sót lại ở xứ Mường chính là nèm chài, bùa mê ngải lú…
Cách đây bốn năm, trong hội nghị giữa nhóm các nhà khoa học của Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia với Sở văn hoá Phú Thọ bàn về vấn đề
“nghiên cứu văn hoá Mường Phú Thọ”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã tha thiết đề
nghị cần nghiên cứu sớm phương thuật của người Mường để làm sáng tỏ bức màn
tâm linh kỳ bí này song rất tiếc, cho đến nay, vẫn chưa ai đoái hoài tới. Riêng tôi,
lặn ngụp mấy ngày ở xứ Mường Thanh Sơn để viết phóng sự này, không có ý
tuyên truyền về những điều nhảm nhí, mê tín dị đoan… mà đơn giản chỉ là kể một
cách trung thực những điều mắt thấy tai nghe đang lưu truyền trong dân gian để
các nhà khoa học và bạn đọc tham khảo. Chuyện thuật nèm chài linh nghiệm đến
đâu, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đối chứng, tìm hiểu trong thực tế…
Nếu không có cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt người anh thân yêu của giám đốc
công ty S-fone Phạm Văn Mẫn thì có lẽ mãi mãi, người đời sẽ chẳng biết gì về trận
đánh khốc liệt vào trường biệt kích của địch ở K’Nác năm xưa. Và chắc chắn, thịt
xương của ngót năm trăm chiến sĩ sẽ vĩnh viễn chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy
ao chuôm, chuồng trại, nhà cửa. Bởi lẽ, trong hầu hết các trang sử của những đơn
vị bộ đội, chẳng có một dòng ghi chép nào nhắc đến trận đánh K’Nác tối ngày
mồng 7 rạng ngày 8 tháng 3 năm 1965 buồn thảm ấy. Bộ đội ta hy sinh quá nhiều.
Máu của các chiến sĩ đã nhuốm đỏ dòng suối Đắc – lốp. Xác các anh phơi trắng
chân đồi. Theo thượng tướng Nguyễn Nam Khánh thì sở dĩ người ta cố tình quên
đi vì sợ bị quy trách nhiệm. Cách hành xử ấy không những có lỗi với các chiến sĩ
đã hy sinh mà còn có lỗi với thân nhân các gia đình liệt sĩ vì sẽ gây rất nhiều khó
khăn cho họ trong việc tìm kiếm hài cốt chồng con mình sau này.
Anh Mẫn thắp hương tại đền tưởng niệm các LS ở K’Nack
Trở lại câu chuyện đi tìm mộ liệt sĩ của anh Phạm Văn Mẫn. Mẫn có người anh trai
tên Phạm Văn Thành, quê ở Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định, lên đường
nhập ngũ năm 1964. Năm ấy, cậu bé Mẫn mới tròn 10 tuổi. Lúc lên xe, anh Thành
đã dúi vào tay Mẫn nắm cơm, khẩu phần ăn duy nhất của anh trước lúc lên đường.
Thương anh, mắt nhoè lệ, lòng quặn đau như kim châm, dao cứa.
Chiến trường ác liệt. Anh đi biền biệt không về. Chẳng một lá thư, một dòng nhắn
gửi. Mẹ đỏ mắt ngóng chờ. Năm 1972, tin sét đánh ngang tai. Anh Thành đã hy
sinh. Cả nhà chết lặng.
Hoà bình lập lại. Nhớ thương anh, Mẫn quyết chí đi tìm. Nhưng biết tìm ở đâu?
Giấy báo tử chỉ vỏn vẹn ghi: “Hy sinh ở mặt trận phía Nam”. Kệ, Mẫn cứ đi. Lúc
bắt xe khách, khi cuốc bộ ngược đường Trường Sơn. Cứ thấy nghĩa trang liệt sĩ là
anh vào. Lần tìm từng tấm bia trên mộ nhưng cái tên Phạm Văn Thành, quê Nam
Định vẫn biệt vô âm tín. Thấm thoắt đã ngót 30 năm. Từ lúc tóc Mẫn còn xanh đến
khi điểm bạc mà thông tin về phần mộ người anh vẫn biền biệt phương trời.
Đúng lúc tưởng như vô vọng nhất thì tình cờ anh gặp được đồng chí Trần Văn
Thức, đồng đội cũ của anh Thành cùng trực tiếp tham gia trận đánh K’Nak. Anh
Thức kể: “Tôi thuộc đơn vị bộ đội chủ lực tham gia hỗ trợ bộ đội Quân khu 5 đánh
Trường biệt kích Tây Nguyên. Súng nổ mở màn lúc 23h 30′ thì chừng vài phút sau,
tôi bị thương cùng với anh Thành. Nhưng mãi đến sáng mới được đưa ra Trạm xá
Trung phẫu, cách K’Nác khoảng 8 -10 km. Tại đây, tôi có nhìn thấy dân công hoả
tuyến đưa đồng chí Thành đi mai táng cạnh trạm Trung phẫu. Vị trí chôn cất thì
không rõ lắm vì lúc đó tôi bị thương nặng, lúc tỉnh, lúc mê”. Thông tin ấy khiến
cho anh Mẫn khấp khởi hy vọng và càng quyết chí đi tìm anh.
Từ đồng chí Thức, anh Mẫn đã gặp gỡ được nhiều nhân chứng vốn từng tham gia
trận đánh K’Nak xưa. Gặp đồng chí Trần Duy Trung thuộc Trung đoàn 95 A, sư
đoàn 325 bộ đội chủ lực, nay đang ở Xuân Trường, Nam Định. Gặp Trung tá Trần
Tấn Ước, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn 409, hiện ở thị trấn Bình Sơn, Bình
Định. Gặp trung tá, anh hùng Nguyên Ngọc Bình nguyên là đại đội trưởng đại đội
1 của tiểu đoàn 409, người được phong anh hùng trong trận đánh K’Nak. Gặp
trung tá Nguyễn Văn ẩm, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn, phụ trách việc chôn
cất các liệt sĩ cùng một số nhân chứng khác. Cả một trận đánh khốc liệt năm xưa
chợt hiện về qua hồi ức của những người một thời vào sinh ra tử ấy.
Vén bức màn bí mật về trận đánh khốc liệt K’Nak
Căn cứ biệt kích K’Nak nằm trên 3 quả đồi chạy dọc Bắc Nam, có nhiều lợi thế
quân sự. Nơi đây đồi núi lô nhô, thuận lợi cho việc xây dựng phòng thủ và bố trí
binh lực, hoả lực, xuất phát tiến công. Lại có nhiều thung lũng sình lầy, có sông Ba
và khe suối bao bọc, cản trở khi bị đối phương tiến công. Mỹ nguỵ đã xây dựng ở
đây một cụm cứ điểm bao gồm đồn luỹ bảo vệ, sân bay dã chiến và trại pháo nhằm
chặn cắt đường giao liên giữa Bình Định và Gia Lai. Quân ta đã nhiều lần tập kích
căn cứ này nhưng đều không thành công. Mùa xuân năm 1963, Đảng uỷ, Bộ tư
lệnh quân khu 5 và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định tập trung lực lượng
trên quy mô lớn tấn công căn cứ này. Lực lượng ta gấp 3 số lượng địch, gồm: Tiểu
đoàn đặc công 409 quân khu 5, một đơn vị đặc công của tỉnh Bình Định, trung
đoàn số 10 và Bộ phận chỉ huy tiền phương quân khu 5. Tổng quân số lên tới gần
750 người.
14h ngày 7 tháng 3 năm 1965, bộ đội ta xuất quân từ Kông-Hà-Nừng, cách K’Nak
hơn 20 km. 18h, cách suối khô 500m. 19h, bắt đầu tiếp cận. Đến 23h, quân ta đã
chiếm lĩnh xong các vị trí quy định. Theo kế hoạch, đặc công mở cửa diệt các vị trí
trọng yếu. Sau đó, bộ binh dùng xung lực mạnh giảI quyết trận địa. Song do quá
trình trinh sát địa hình chuẩn bị trận đánh trước đó một tháng đã để lộ dấu vết nên
địch biết trước kế hoạch tấn công của ta. 23h 30′, bộ đội ta vấp phải mìn nổ, mìn
sáng. Địch lập tức nổ súng trùm lên toàn bộ đội hình của ta. Pháo sáng chúng bắn
sáng rực như ban ngày. Ta tiến công cưỡng hành. Bộ đội ta chiến đấu cực kỳ dũng
cảm, đã đánh chiếm được điểm cao phía Bắc và phía Nam nhưng hướng chủ yếu ở
giữa chỉ chiếm được “đầu cầu”. Lô cốt cố thủ của địch bắn chặn quyết liệt. Đến 0h
30′ ngày 8 tháng 3, quân ta thương vong gần hết. Xác của các chiến sĩ nằm la liệt
trắng cả ven suối và chân đồi K’Nak. Lực lượng còn lại buộc phải rút lui. Địch vẫn
bắn truy kích dữ dội. Gần 500 thương binh và tử sĩ của ta không mang theo được.
Một phần địch gom lại, đổ xăng đốt. Số còn lại, dùng xe ủi đào từng hố hất các liệt
sĩ xuống rồi san phẳng.
Đồng chí Nguyễn Văn ẩm, chính trị viên phó Tiểu đoàn 409, phụ trách công tác
thương binh ở trạm trung phẫu (cách vị trí địch khoảng 8km) cho đào sẵn 50 huyệt
mai táng. Mỗi hàng 10 huyệt, cách nhau 60 – 80cm nhưng duy nhất chỉ mai táng
được 8 đồng chí, trong đó có tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi và liệt sĩ Phạm Văn
Thành. 8 đồng chí này bị thương ngay từ đầu trận đánh nên mới đưa ra được phía
sau. Lực lượng cứu thương và dân công hoả tuyến (đều là người dân tộc) cũng hy
sinh hết cả nên không còn người cấp cứu và tải thương ra cứ được. Nếu tính cả lực
lượng này, hơn 1.000 người đã để lại xương thịt ở trận địa K’Nak.
Cuộc điện đàm… huyền hoặc
Chuyện tìm hài cốt liệt sĩ Phạm Văn Thành giờ tưởng chừng dễ dàng như trong
lòng bàn tay. Nhưng khi đưa các nhân chứng vào K’Nak, anh Mẫn đã bật khóc nức
nở. Ngót 37 năm trời dằng dặc, cảnh vật thay đổi quá nhiều. Trạm trung phẫu trước
kia có 4 cây đa cổ thụ to lắm, che chắn cho trạm xá, nay chỉ còn một cây. Suối
Đắc-lốp giờ đã ngăn dòng làm đập thuỷ điện. Đồng đội cũ của anh Thành giờ đều
tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút nên việc xác định vị trí ngôi mộ rất khó khăn.
Nhiều lần, anh Mẫn phải cầu viện đến các nhà ngoại cảm. 9 nhà ngoại cảm nổi
tiếng từ Bắc chí Nam anh đều đã vời vào nhưng không hiểu sao, người ra đến sân
bay thì cáo ốm xin về, người bước đến cửa rừng thì kêu: “khu rừng này thiêng lắm,
sợ lắm, không tìm được đâu” rồi hớt hải bỏ về. Có nhà ngoại cảm vừa đào đào bới
bới bỗng lăn đùng ra đất, tay ôm chặt đầu lăn lộn, miệng kêu gào: “Ôi! đau đầu
quá! Đau quá”. Lần cuối cùng, ngày 26 tháng 12 năm 2001, nhà ngoại cảm
Nguyễn Khắc Bảy cùng anh Mẫn đi Tây Nguyên. Trước khi đi, nhà ngoại cảm
bằng khả năng đặc biệt đã cung cấp những thông tin ban đầu khá chính xác:
– Nơi liệt sĩ Thành nằm còn có 7 người nữa.
– Khu mộ cách con suối từ 20 – 50m, có nhiều bụi rậm, trong đó có một cây
cụt.
– Anh Thành nằm hàng thứ 2, ngôi thứ 2 từ phải qua trái. Ngôi đầu, hàng
đầu là một người chỉ huy.
Nhưng vào làm việc tại thực địa, nhà ngoại cảm cho khai quật một số điểm đều
không thấy. Tranh luận nổ ra. Một số người trong đoàn giảm niềm tin và chán nản.
Lúc đó, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy mới gọi điện thoại di động trao đổi với
thiếu tướng Nguyễn Chu Phác – chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên
cứu tiềm năng con người), rồi chuyển điện thoại cho anh Mẫn trực tiếp nói chuyện.
Từ Hà Nội, thiếu tướng Chu Phác hỏi: “ở đấy ai là Thành?”. Anh Mẫn đáp: “Thưa
chú! Thành là anh ruột cháu. Anh ấy là liệt sĩ. Chúng cháu đang tìm nhưng không
thấy”. Thiếu tướng lại hỏi: “ở đấy có ông chỉ huy tên Ngô Trọng Đãi đeo súng
ngắn hy sinh không?”. “Thưa chú! Chú Ngô Trọng Đãi là tiểu đoàn trưởng, hy sinh
cùng anh cháu”. Thiếu tướng bảo: “Ông ấy đeo súng lục, tay cầm cái gậy, đuổi các
cậu về và nói: ở đây có hàng trăm liệt sĩ, chúng nó không tìm mà chỉ nhăm nhăm đi
tìm một người là Thành – anh nó thì không cho tìm”. Thiếu tướng trùng giọng:
“Thôi! Các cậu về đi. Về ngay để nghiên cứu, tổ chức lại cuộc tìm mộ này”.
Ngày 20 tháng 2 năm 2002, anh Phạm Văn Mẫn đã làm một lá đơn gửi Bộ môn
cận tâm lý và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người nhờ giúp đỡ tìm mộ anh
trai và đồng đội ở K’Nak. Hơn một tháng sau, Bộ môn đã cử một đoàn công tác
đặc biệt gồm 3 nhà ngoại cảm nổi tiếng: Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thuý Hoàn,
Nguyễn Khắc Bảy do Đại tá Hàn Thuỵ Vũ phụ trách trở lại Tây Nguyên. Anh
Phạm Văn Mẫn đã trực tiếp mời Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó
tư lệnh quân khu 5 cùng nhiều nhân chứng khác tham gia đoàn. Trước khi lên
đường trở lại chiến trường xưa, Đoàn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng
khả năng đặc biệt đã mời vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng và
vong linh liệt sĩ Phạm Văn Thành về nhà riêng ở Khu tập thể Kim Liên để xin ý
kiến. Cuộc trò chuyện kéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ trong bảng lảng hương khói và
nước mắt với rất nhiều thông tin của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi đã mở ra hướng đi mới
cho việc tìm mộ tập thể liệt sĩ ở Tây Nguyên.
Kỳ 2: Bí mật dưới dòng Đắc-lốp
“Tìm liệt sĩ tiếng lòng vẫy gọi
Đánh thức lương tri của mỗi con người
Ai đem hạnh phúc cho đời
Nhớ người chiến sĩ quên mình năm xưa”
Trò chuyện với…vong linh liệt sĩ
Nhà ngoại cảm Bích Hằng đang “trò chuyện” cùng các LS tại K’Nack
Cuộc “gặp gỡ” kỳ lạ đượm chất “liêu trai” giữa nhà ngoại cảm Phan Thị Bích
Hằng và vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, Phạm Văn Thành đã diễn ra vào hồi 16h
ngày 26 tháng 3 năm 2002 tại căn phòng nhỏ của chị ở khu tập thể Kim Liên, Hà
Nội. Tham gia cuộc gặp gỡ có thiếu tướng Chu Phác, chủ nhiệm bộ môn cận tâm
lý, thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, Đại tá Hàn Thụy Vũ và anh
Phạm Văn Mẫn. Trong không khí tĩnh lặng, thiêng liêng phảng phất hương trầm,
trước di ảnh của hai liệt sĩ, nhà ngoại cảm tay chắp trước ngực thành kính, giọng
đầy xúc động: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Phạm Văn Thành! Hôm nay là
ngày 26 tháng 3 năm 2002, cháu Phan Thị Bích Hằng cùng anh Phạm Văn Mẫn là
em của liệt sĩ Phạm Văn Thành, Thiếu tướng Chu Phác, Đại tá Hàn Thuỵ Vũ muốn
được mời bác và anh Thành về. Xin hỏi bác những thông tin có liên quan đến trận
đánh căn cứ biệt kích K’Nak và đặc biệt là nơi mai táng cũng như tình trạng hiện
nay của các liệt sĩ tại K’Bang”. Ngừng lời như kìm nén niềm xúc động, mắt vẫn
dõi nhìn vào tấm ảnh đã ố vàng của liệt sĩ Đãi, chị đằng hắng giọng rồi nói tiếp,
giọng run run: “Thưa bác Đãi! Nhiều năm qua, anh Mẫn đã bỏ ra rất nhiều công
sức, tiền của để đi tìm mộ anh Thành tại khu rừng mà mọi người chỉ dẫn là nơi đặt
trạm trung phẫu 37 năm về trước mà không đạt kết quả. Hôm nay, xin phép bác và
anh Thành cho anh Mẫn được thưa chuyện. Mong được hai người chỉ dẫn”.
Anh Mẫn: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Thành! Nhiều năm qua, đã mấy chục
lần cháu đi tìm anh cháu và các bác ở K’Bang. Lần gần đây nhất là tháng 12 năm
2001. Mặc dầu đã được các nhân chứng chỉ chỗ chôn cất các bác, cháu đã khai
quật nhiều lần mà vẫn không thấy. Lần này, trời run rủi cho cháu được gặp nhiều
đồng đội cũ của Bác, những người trực tiếp chỉ huy trận đánh, trực tiếp chiến đấu
và mai táng như bác Nguyễn Văn ẩm, bác Trần Duy Trung, bác Nguyễn Trọng
Bình, Châu Khải Địch, Nguyễn Văn Cán, Nguyễn Minh Sang, Trần Tấn Ước…
Đặc biệt chuyến đi tới còn có Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh cùng nhiều
thành viên khác. Cháu mong bác và anh linh thiêng hướng dẫn thêm để chuyến đi
này đạt kết quả như mong muốn”. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sau một
hồi chăm chú nhìn bức ảnh liệt sĩ Đãi và lắng nghe, miệng “dạ, vâng” liên tục như
thể hai người trần đang trò chuyện với nhau, đã quay sang anh Mẫn để truyền đạt
lại lời của liệt sĩ (từ đây xin ghi là liệt sĩ Đãi – tác giả). “Tôi không nỡ bỏ anh em ở
lại núi rừng để về quê hương dù rất thương em trai tôi. Cả Thành cũng vậy, dù rất
thương cậu xong cũng không thể về một mình mà để lại đồng đội đâu Mẫn ạ. Lần
nào cậu vào đào bới chúng tôi đều biết hết. Sự hiện diện của cậu ở K’Bang bao
nhiêu năm nay ở núi rừng K’Bang là nguồn động viên an ủi vô cùng lớn đối với
linh hồn các liệt sĩ. Như vậy là vẫn có người nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi vẫn còn
có cơ hội về quê. Nhưng cậu chỉ đi tìm anh cậu còn để bỏ mặc đồng đội của tôi,
của anh cậu thì làm sao tìm được”. Anh Mẫn: “Thưa bác, những lần đi tìm trước,
cháu có đào đúng chỗ các bác nằm không ạ?”. Liệt sĩ Đãi: “Toạ độ cậu xác định là
đúng nhưng địa điểm cụ thể thì chưa. Phải lùi về phía con suối nữa, nơi có nhiều
cây song le gần sát nước. Trước đây chỗ mai táng chỉ cách suối khoảng 25m thôi.
Đấy là lúc suối cạn. Còn bây giờ suối đã ngập nhiều rồi. Chỗ hồ nước mênh mông
ấy, hài cốt chúng mình ở dưới ấy. Cậu có đủ can đảm lặn xuống đáy không?”. Anh
Mẫn: “Thưa bác, như vậy có nghĩa là các bác nằm ở dưới con suối ạ? Vì ở đó bây
giờ là đập thuỷ điện”. Liệt sĩ Đãi: “Cũng gần như vậy. Duy chỉ có một điều tôi
không muốn nói ra vì nếu nói, sẽ chẳng ai vào đây với chúng tôi nữa. Thôi, dù sao
cũng cố gắng vào với chúng tôi đi. Tôi muốn gặp lại những đồng đội cũ của tôi còn
may mắn sống sót sau trận đánh ấy và cũng để cho họ được một lần trở lại chiến
trường xưa”. Anh Mẫn: “Vậy có cách nào để xả con suối đó không ạ?”. Liệt sĩ
Đãi: “Thế tôi mới hỏi cậu”. Anh Mẫn: “Bác Đãi ơi! Bác hãy giúp cháu. Cháu sẽ
xin xả đập nước. Nhưng nếu chính quyền họ bắt cháu thì sao. Xin bác và các liệt sĩ
giúp cháu”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu làm vì việc nghĩa thì không ai dám hại cậu đâu, miễn
là hợp lý, hợp tình. Nhưng có một điều tôi muốn nói với cậu. Tôi sợ cậu lực bất
tòng tâm. Tìm các liệt sĩ còn muôn vàn gian khó đấy. Nhiệt tình không chưa đủ. à,
mà cậu đã qua Vĩnh Thạnh bao giờ chưa?”. Anh Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Thưa bác,
sao lại phải qua Vĩnh Thạnh xa xôi thế ạ?”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu dốt lắm. Không qua
Vĩnh Thạnh thì chuyến đi của cậu còn có ý nghĩa gì. Kiểu gì cũng phải qua đó thắp
hương. Các liệt sĩ quê ở đó nhiều lắm và còn nhiều lý do khác nữa, sau này mới
hiểu”.
Anh Mẫn còn đang vân vi về lời dặn của liệt sĩ Đãi thì vong linh của liệt sĩ Thành
về, nói qua nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Anh không biết nói gì thêm với
em cả, chỉ mong sớm được cùng em về với quê hương, cha mẹ. Khi đi em nhớ thắp
hương xin phép tổ tiên để các cụ phù hộ cho em nhé. Nhà mình còn một ông chú
chết trẻ nữa đấy. Chú trách là không bao giờ nói gì đến chú cả. Lần này em phải
nhớ. Anh và bác Đãi sẽ phù hộ cho em”.
Chị Hằng tay vẫn chắp trước ngực, nói: “Thưa bác Đãi! Thưa anh Thành. Lần này,
anh Mẫn tổ chức đoàn đi tìm kiếm các liệt sĩ tương đối quy mô. Có sự tham gia
của nhiều nhân chứng, sự giúp đỡ của quân khu 5, của địa phương tỉnh Gia Lai và
các nhà ngoại cảm thuộc Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con
người. Thành phần này rất đầy đủ và chuẩn bị rất công phu. Cháu mong các bác
hãy phù hộ giúp đỡ cho đoàn đi tìm kiếm đợt này đạt được như ý muốn. Cháu cảm
ơn bác Đãi, anh Thành và cảm ơn các liệt sĩ”.
Cuộc nói chuyện kết thúc vào hồi 17h nhưng mọi người còn bịn rịn chưa muốn về.
Ai cũng băn khoăn trước những câu nói khó hiểu của liệt sĩ Đãi: “Nếu tôi nói ra sẽ
chẳng ai vào đây nữa”. “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi của cậu sẽ chẳng
còn ý nghĩa gì” và “Cậu có đủ can đảm mò xuống dưới suối không?”. Có gì ẩn
chứa trong những lời nói ấy? Câu trả lời vẫn còn ở phía trước, tận núi rừng Tây
Nguyên xa xôi, hùng vĩ khiến tất cả mọi người cứ khắc khoải như chính linh hồn
các liệt sĩ đã từng khắc khoải đợi chờ suốt 37 năm dằng dặc.
Nước mắt giữa rừng sâu
Trở lại chiến trường xưa tìm đồng đội
Ngày 27 tháng 3 năm 2002, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trên đường đến K’Nak,
đoàn rẽ vào Nghệ An, Đà Nẵng đón thêm một số nhân chứng, trong đó có bác Ngô
Trọng Quang là em ruột của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tổng cộng khoảng hơn 40
người, do Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh làm trưởng đoàn. Ba ngày sau, tại
núi rừng K’Bang âm u, trùng điệp, tại chính mảnh đất đã thấm đẫm máu của ngót
500 chiến sĩ đặc công anh hùng, những người lính đã một thời vào sinh ra tử trong
trận đánh khốc liệt K’Nak, sau 37 năm trời đằng đẵng, nay tóc bạc da mồi, bồi hồi
xúc động kể lại kỷ niệm xưa. Nước mắt lăn dài, khói hương nghi ngút, những tiếng
nấc nghẹn ngào cứ bật ra. Trung tá Nguyễn Văn Cán, 70 tuổi, sụt sùi kể: “Lúc đó
trận đánh rát quá, quân ta thương vong quá nhiều nên tôi phải liên lạc và báo cáo
cấp trên bằng bộ đàm. Đang báo cáo thì anh Ngô Trọng Đãi giật lấy máy từ tay tôi
để xin ý kiến chỉ đạo. Đúng lúc đó, một quả pháo cối của địch bắn trúng anh.
Bụng anh bị vỡ, máu chảy ồ ạt, ruột gan tòi hết cả ra ngoài. Tôi phải xé quần áo
buộc chặt. Dân quân hoả tuyến vội vàng đưa anh về trạm trung phẫu cấp cứu
nhưng không kịp. Đau xót và thương lắm các đồng chí ạ!”. Nói đoạn, trung tá Cán
bật khóc nức nở như thể đang đứng trước trận chiến năm nào, đầy xác và máu
đồng đội.
Các nhân chứng đang xem lại sơ đồ trận đánh để xác định vị trí trạm trung
phẫu
Trung tá Nguyễn Văn ẩm, 74 tuổi, nhân vật trung tâm của chuyến đi vì ông là
người trực tiếp chôn cất liệt sĩ Đãi, Thành và 6 đồng chí khác nhớ lại: “Tôi đào sẵn
50 hố. Mặc dù số lượng hy sinh quá nhiều so với dự kiến nhưng cuối cùng cũng
chỉ đưa về mai táng được 8 đồng chí thôi. Sợ địch phát hiện nên chôn cất xong
chúng tôi phải san phẳng ngay. Kể lại thì xót xa lắm. Lúc đó vì khó khăn nên mai
táng các đồng chí ấy chẳng có quan tài, áo mưa hay tăng võng gì sất. Chỉ vỏn vẹn
có 4m vải xô trắng quấn qua loa. Nếu tìm thấy bây giờ thì xương cốt chắc cũng
chẳng còn gì nữa”.
Trung tá Nguyễn Minh Sang, người trực tiếp tham gia trận đánh, sau này đã từng
bám trụ chống lại bọn lâm tặc phá rừng, nơi đồng đội của bác đã đổ xương máu,
hiện đang sống tại K’Bang thì vừa khóc tu tu, vừa nói: “Phải tìm bằng được các
liệt sĩ rồi sau này có chết đi cũng không có gì phải áy náy. Chừng nào chưa tìm
được các anh thì rừng này vẫn phải giữ nguyên không ai được chặt phá. Trong khi
chúng ta còn sống thì bằng mọi cách, phải đưa các anh trở về với quê cha đất mẹ”.
Bí mật dưới hồ Đắc-lốp
Suối Đắc Lốp
13h ngày 30 tháng 3 năm 2002, bắt đầu cuộc tìm kiếm hài cốt 8 liệt sĩ tại khu vực
trạm trung phẫu. Trung tá Nguyễn Văn ẩm, do tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút,
cộng với địa hình thay đổi quá nhiều qua 37 năm mưa nắng nên không thể nhớ
được chính xác vị trí trạm trung phẫu cũng như nơi chôn cất 8 liệt sĩ. Cả ba nhà
ngoại cảm là Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy và Thẩm Thuý Hoàn thì đều
kêu ở đây nhiễu quá, mất hết thông tin, không ai gặp được vong. Lực lượng bộ đội
và dân quân đào một số đoạn hào nhưng không phát hiện được dấu vết gì. Một số
dân địa phương, người Ba Na lớn tuổi, chỉ một số điểm khác cũng không trúng.
Bích Hằng đang ngồi trò chuyện với các vong linh LS
Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên
quan tới khu vực trạm trung phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ
đợt trước. Về vị trí mộ cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4
ngày đào bới cật lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang
mang. Anh Mẫn cũng nản lòng.
Đầu giờ chiều, vừa ăn cơm trưa xong, đoàn đang chuẩn bị đào bới một lần nữa thì
mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Cả khu rừng tối sầm. Bầu trời đen kịt. Anh Mẫn
quỳ sụp xuống lạy bốn phương, vừa lạy, vừa khóc. Lần đầu tiên anh khấn trách:
“Cháu vào đây làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các
bác. Vậy mà các bác không thương cháu. Lần này cháu lại phải về không rồi”.
Đang tuyệt vọng than vãn như vậy thì bất ngờ, một tiếng reo to như thức tỉnh cả
núi rừng: “Chú Mẫn ơi! Tìm thấy rồi”. Người cất tiếng reo vui ấy là Quang, một
tân binh vừa tròn 20 tuổi. Cả đoàn hăm hở đào liên tục trong hai tiếng đồng hồ. Và
đây rồi, các anh đã hiện ra. 8 bộ hài cốt nằm thành hai hàng, cách nhau 0,5m đều
tăm tắp. Tiếng khóc xen lẫn tiếng cười cứ hoang hoải buông trong buổi chiều tàn
giữa rừng sâu thăm thẳm.
37 năm vùi sâu dưới lòng nước bạc, hài cốt các anh còn ít quá!
Khi đoàn làm lễ đưa các liệt sĩ lên xe về huyện đội K’Bang, trời giăng mưa trắng
xoá. Thế là, sau 37 năm nằm lạnh lẽo dưới lòng nước bạc, không một nén hương
tàn, không một lời thăm viếng, các anh lại trở về trong vòng tay đồng đội, trong
niềm xúc động nghẹn ngào của người thân, gia đình.
Ngày đưa anh Thành về nghĩa trang quê nhà (xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường,
tỉnh Nam Định) trong không khí long trọng và trang nghiêm cũng là ngày nước
mắt mặn mòi của người mẹ 84 tuổi đổ thật nhiều. 37 năm vò võ đợi tin con. 9 lần
phấp phỏng chờ Mẫn vào Tây Nguyên đưa Thành về là 9 lần mẹ mừng huỵt, 9 lần
mẹ khóc oà tức tưởi. Tưởng vĩnh viễn đời này, kiếp này mẹ mãi mãi mất Thành.
Nên lần này, mặc dầu Mẫn điện về thông báo đã tìm được hài cốt anh Thành, chính
quyền và nhân dân huyện Xuân Trường đang khẩn trương chuẩn bị đèn, hoa, kèn,
trống để tổ chức đón nhận và làm lễ truy điệu cho anh, mẹ vẫn hồi hộp, thấp thỏm
không yên. Mẹ sợ trái tim già nua không đủ sức chịu đựng trước trò đùa của tạo
hoá lần nữa. Đầu giờ chiều, mẹ đã ra gốc đa đầu làng ngồi chờ. Đêm xuống, sương
giăng lạnh, mẹ vẫn lặng câm ngồi như hoá đá. 37 năm, gần 14 nghìn đêm thâu mẹ
đã chờ đã đợi. Giờ chờ thêm một đêm nữa có sao. Cho đến 1h sáng, khi chiếc xe
trở Thành vừa đỗ, mẹ cuống cuồng lao đến, giang vòng tay gầy guộc ôm trùm lên
chiếc tiểu sành phủ lá cờ tổ quốc. Mẹ khóc nấc lên. Ôi! Đứa con yêu của mẹ! Da
thịt của mẹ! Máu xương của mẹ! Ngày tiễn con đi mẹ lén lau dòng nước mắt. Giờ
đón con về nước mắt mẹ lại tuôn rơi. Có điều, nước mặt mẹ bây giờ mặn chát, chất
chứa cả một đời thương đau.
Mẹ LS Thành: “Ôi! đứa con yêu của mẹ!”
Nỗi băn khoăn được giải toả
Có một niềm băn khoăn, day dứt kể từ buổi trò chuyện với liệt sĩ Ngô Trọng Đãi
trong buổi chiều ngày 26 tháng 3 năm 2002: “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi
của cậu sẽ chẳng còn ý nghĩa gì”. Mãi sau này, anh Phạm Văn Mẫn mới giải toả
được. Chuyện là, được tin anh Mẫn tìm được nhiều hài cốt liệt sĩ ở trận đánh
K’Nak, gia đình ông Phạm Văn Minh (cùng quê Nam Định) đã tìm gặp anh Mẫn,
đề nghị giúp đỡ tìm mộ em trai là liệt sĩ Phạm Xuân Ninh cũng hy sinh trong trận
đánh đó. Anh Mẫn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vui vẻ nhận lời.
Ngày 18 tháng 1 năm 2003, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trời cuối đông rét cắt da,
cắt thịt, cộng với mưa rừng khiến cuộc tìm kiếm vô cùng gian nan. Cuối cùng,
Bích Hằng cũng tìm được hài cốt liệt sĩ Phạm Xuân Ninh gần rừng le phía bờ suối
cạn. Hài cốt liệt sĩ còn đủ với các đặc điểm được gia đình ông Phạm Xuân Minh
công nhận. Trên đường trở ra Hà Nội, anh Mẫn đề nghị đoàn đi vòng đường Vĩnh
Thạnh, cách K’Nak khoảng hơn 60km. Đến nghĩa trang huyện Vĩnh Thạnh, anh
Mẫn dẫn mọi người tới một ngôi mộ có bia đề tên: Liệt sĩ Phạm Văn Thành (Miền
Bắc). Anh Mẫn kể: Từ năm 1995, ông đã đến đây nhiều lần thắp hương và khóc
thương người anh của mình nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ. Nay lại tìm thấy hài
cốt anh Thành ở suối Đắc-lốp. Vậy ngôi mộ này là thế nào?
Bích Hằng làm lễ và thực hiện cuộc trò chuyện với người dưới mộ. Liệt sĩ cho biết
đúng tên là Phạm Văn Thành nhưng hy sinh tháng 6 năm 1966 tại trạm xá 210.
Quê ở Aí Mộ, Bồ Đề, Gia Lâm (Hà Nội). Nay liệt sĩ còn người anh là Phạm Văn ất
khoảng 80 tuổi. Anh Mẫn lập tức điện thoại ra Hà Nội nhờ người đến Aí Mộ để
xác minh. Và thật bất ngờ, những thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông Phạm
Văn ất hiện vẫn còn nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không có điều kiện
vào thăm và đưa hài cốt em mình về quê được. Đến đây, nỗi băn khoăn, vướng
mắc bao ngày, anh Mẫn mới giải toả hoàn toàn. Điều đó, càng khiến ông biết ơn
vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi.
Hành trình tìm kiếm còn dài
Anh Mẫn: “Chừng nào còn sức, còn tiền là tôi còn đi tìm kiếm hài cốt các LS”
Tìm được hài cốt anh Thành, hơn thế, đưa được anh trở về quê hương, ước nguyện
một đời của anh Mẫn đã hoàn thành. Nhưng đêm đêm, anh vẫn thảng thốt giật
mình khi chợt nhớ, ở núi rừng K’Bang heo hút, giá lạnh, vẫn còn đó những đồng
đội của anh Thành thân xác đang nằm dưới chuồng lợn, nhà xí, dưới hồ sâu, cỏ
hoang. Không! Anh phải đi, phải tiếp tục đi tìm cho tới khi tất cả các liệt sĩ được
về yên nghỉ tại nghĩa trang. Không thể để cho các anh hy sinh thêm một lần nữa.
Và thế là, cứ một năm vài lần, tạm gác lại khối công việc đồ sộ của giám đốc
S.phone Hà Nội, anh cùng nhiều cựu chiến binh một thời vào sinh ra tử, lại khoác
ba lô đưa các nhà ngoại cảm vào K’Bang tìm kiếm hài cốt. Thành quả của những
chuyến đi ngược ngàn ấy là hơn hài trăm hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy và quy tập
tại nghĩa trang huyện K’Bang. Điều ấy, khiến anh Mẫn vui lắm. Anh bảo: “Chừng
nào còn sức, còn tiền là tôi còn đi”.
Để kết thúc bài viết bày, chúng tôi xin được mượn những vần thơ đong đầy nước
mắt mà nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã đọc trong buổi chiều mưa rừng mịt
mù tiễn đưa linh hồn liệt sĩ Ngô Trọng Đãi về quê hương. Đây được xem như
những nén tâm nhang chứa chan lòng biết ơn và cả niềm tiếc thương vô hạn đối
với những chiến sĩ đã hy sinh thân mình vì nước mà xác thân còn vùi sâu dưới
nước lạnh, cỏ hoang, trong sự thờ ơ, lãng quên vô cảm của người đời.
Cầu xin cho linh hồn các anh được siêu thoát.
Lời ru ngọn cỏ
Cỏ xanh bên mộ khẽ ru
à ơi! Rừng đã vào thu lá vàng
Người ơi dù có muộn màng
Dẫu chưa về được nghĩa trang quê nhà
Nơi đây nhiều cỏ, ít hoa
Hãy say giấc ngủ như là tuổi xanh
Mặc ai xây mộng viễn hành
Mặc ai ngắt lá, bẻ cành, rung hoa
Đất này dù đất miền xa.
Thân thương như đất quê nhà người ơi!
Lá vàng lại lá vàng rơi
Lẻ loi lại vắng xa nơi đất rừng
Ru người giữa chốn mông lung
Giọt sương cũng muốn đọng ngưng nỗi niềm
Dấu chân đã trải trăm miền
Về đây ấm với Tây Nguyên nghĩa tình
Người hy sinh, đất hồi sinh
Máu người hoá ngọc lung linh giữa đời
Thương đau ru đến muôn đời
Và xanh xanh mãi những lời ru êm
à ơi! Ai nhớ ai quên
Thì đây cỏ biếc vẫn bên mộ người.
K’Bang ngày 2 tháng 4 năm 2002
Phan Thị Bích Hằng
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh:
Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh và tác giả
“Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chưa có trận đánh
nào chúng ta bị tổn thất nặng nề như trận đánh căn cứ biệt kích của địch ở K’Nak
năm 1965. Việc tổ chức tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở đó là rất tốt, góp phần thực hiện
chính sách của Đảng, đồng thời sẽ có thêm kinh nghiệm để chỉ đạo việc tìm kiếm
hài cốt liệt sĩ trên phạm vi cả nước. ở riêng Quân khu 5, có khoảng 10 trận đánh
tổn thất như thế này”.
Thiếu tướng Châu Khải Địch: “Số lượng anh em hy sinh quá lớn. Nếu tính cả
dân quân du kích địa phương, số hy sinh trong trận này lên tới hơn 1.000 người.
Lại bị chôn tập thể. Nhiều chiến sĩ bị địch chất đống đổ xăng đốt mất xác nên dẫu
tìm kiếm hết sức cũng không thể nào hết được. Cần xây dựng đài tưởng niệmi để
chính quyền, nhân dân địa phương, gia đình thân nhân liệt sĩ đến viếng thăm”.
Ông Phan Minh Túc – chủ tịch huyện K’Bang:
Với sự giúp đỡ tận tình, đầy trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Bộ quốc
phòng, Bộ môn cận tâm lý – Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, đồng đội
và thân nhân liệt sĩ, đặc biệt là nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và gia đình
ông Phạm Văn Mẫn đã giúp cho huyện K’Bang tìm kiếm, cất bốc, quy tập và đưa
vào an táng tại nghĩa trang huyện hơn 200 hài cốt liệt sĩ. Hiện nay, nghĩa trang
liệt sĩ K’Bang đã bị quá tải. Việc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Chúng tôi đang chuẩn bị
mở rộng nghĩa tranh để thời gian tới, có thể quy tập thêm nhiều hài cốt liệt sĩ.
Chúng tôi cũng tha thiết đề nghị Bộ lao động thương binh và xã hội sớm có kế
hoạch và kinh phí đầu tư cho địa phương triển khai xây dựng Đài tưởng niệm các
liệt sĩ trong trận đánh đồn K’Nak trong năm 2006 và đầu năm 2007, kịp khánh
thành vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sĩ 27 tháng 2 năm 2007.
* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu của Bộ môn cận tâm
lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người.
Kỳ 4: Vượt ngàn trùng sóng … tìm cha
Cho đến tận bây giờ, khi nấm mồ của người cha thân yêu đã xanh rì cỏ mọc và câu
chuyện đầy ly kỳ, huyền hoặc về hành trình vượt muôn trùng sóng nước tìm cha ở
đảo Hòn Mê (Thanh Hoá) của ông Trần Văn Mắc đã bớt xôn xao trên những con
phố nhỏ, ông vẫn không thể tin nổi rằng, có một ngày, ông lại có thể tìm thấy hài
cốt của người cha bị mất tích trong cơn bão biển sau 17 năm sống trong vô vọng.
Càng không thể tin nổi, người vẽ đường và giúp ông tìm cha là một người hoàn
toàn xa lạ, chẳng có máu mủ hay quan hệ thân tình gì với gia đình ông, chẳng biết
gì về trận bão khủng khiếp năm ấy và cũng chưa một lần đặt chân ra đảo Hòn Mê.
Ngồi tít tận Hà Nội vẽ sơ đồ chỉ dẫn chi tiết, lạ kỳ thay, hành trình tìm kiếm đều
diễn ra đúng như có sự sắp đặt của bàn tay tạo hoá. Một ngày cuối tháng 8 năm
2006, ngồi kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện ly kỳ ấy tại nhà riêng ở ngõ 33 Kỳ
Đồng, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, ông Trần Văn Mắc miệng không
ngớt xuýt xoa: “Thần bí lắm! Huyền hoặc lắm! Đến mức nhiều khi không thể tin
nổi. Cứ y như trong Liêu trai chí dị ấy”. Rồi giơ cánh tay chắc lẳn ra trước mặt
tôi, ông thì thào: “Đấy, cứ nhắc đến chuyện ấy là tôi lại nổi hết da gà lên đây
này”.
Cơn bão tang thương năm 1985 và cuộc gặp gỡ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc
Bảy
Viết xong, Bảy đưa cho tôi, bảo: “Anh cứ dựa vào sơ đồ này, thể nào cũng tìm thấy
bác và anh Dũng”. Thú thực, lúc đó đầu tôi cứ mụ đi. Người cứ như nửa tỉnh nửa
mê. Nhưng tiễn Bảy về rồi mà lòng vẫn cứ bán tín bán nghi. Tôi bèn nhờ các anh
công nhân bên Bảo hiểm hàng hải và Nhà Đèn xác minh hộ. Thông tin nhận được
thật bất ngờ: Phía Đông Bắc đảo Hòn Mê đúng là có 6 ngôi mộ của dân, trong đó
có những người chết trong trận bão tháng 10 năm 1985 được bộ đội vớt lên an
táng”.
Thông tin phản hồi ấy như ánh nắng mặt trời xoá tan đám mây nghi ngờ u ám vốn
bao phủ trong đầu vợ chồng ông Mặc bấy lâu. Gia đình ông vội vàng chuẩn bị và
làm các thủ tục xin ra đảo Hòn Mê vì đây là hòn đảo quân sự, không có dân cư ở.
Lần thứ nhất ra đảo: Đào mộ nhầm và 2 cuộc báo mộng kỳ lạ
Tối ngày 5 tháng 11 năm 2002, gia đình ông Mắc gồm 7 người cùng nhà ngoại
cảm Nguyễn Khắc Bảy và bà Quan Lệ Lan, cán bộ nghiên cứu của Bộ môn cận
tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) rời Hà Nội trên chiếc xe
Toyota 14 chỗ tiến thẳng về huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá). Mất một ngày để lo các
thủ tục. Sáng sớm hôm sau, đoàn thuê một chiếc tàu đánh cá ra đảo Hòn Mê. Được
anh em chiến sĩ trên đảo đón tiếp nhiệt tình, ông Mắc cũng cảm thấy yên tâm phần
nào. Tới phía Đông Bắc của đảo, cả đoàn sững người. Trong mờ mịt sương giăng,
6 ngôi mộ lần lượt hiện ra. Hai bên là khe nước và lối đi. Ông Mắc vội vàng lấy
thước dây ra đo. Từ mép nước đến ngôi mộ thứ nhất đúng gần 38m. Ông giật
mình, chân tay cứ run bắn lên. Những thông tin anh Bảy đưa ra đã trùng khớp với
địa hình, địa vật ở đây.
Từ trái qua phải: Ông Lương Cơ, Lương Quân, cô Lương Phấn
Sau khi gạt thêm một vài lớp đất mỏng, Bích Hằng reo khẽ: “Cốt cụ đây rồi”. Trăm
con mắt đều nhìn xuống hố, thấy rõ hình hài một bộ xương người trong tư thế nằm
nghiêng, chân co lại. Xương ống đùi, cẳng chân với các đầu xương phình to hằn rõ
trên nền đất. Phần ngực có rất nhiều bột trăng trắng, trong khi xung quanh là đất
đen pha đá dăm. Bích Hằng dặn: “Cốt cụ vì chôn quá lâu, lại chẳng có hòm ván gì
cả nên tan ra hết. Cụ dặn các chú nhớ bốc những đất lẫn cốt đem về để táng”.
Xương cốt cụ Quyến lẫn vào trong đất cát
Trong khi ông Quân, ông Cơ đang cặm cụi nhặt từng mẩu xương cùng đất vụn cho
vào bọc vải đỏ thì trong sân, ông chủ nhà mắt tái xanh, hốt hoảng chạy vào nhà
thắp hương lạy như tế sao. Thấy lạ, chị Phấn mới kéo bà vợ ra hỏi nhỏ. Chị vợ
cười, bảo: “Nhà em từ xưa đến nay không bao giờ tin vào chuyện vong hồn, thần
thánh. Ngày hôm kia, khi bác Quân lên đây, có một đàn chim về rất đông, hót ríu
ran trên bụi tre. Đêm qua, đột nhiên nhà em nằm mơ, thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn
có một vật đen tròn. Nhà em bèn vác cuốc ra cuốc hối hả chỗ ấy, rồi nghe thấy
tiếng người bảo: ngày mai, con cháu tôi sẽ lên đón tôi về. Choàng tỉnh giấc, nhà
em liền kể ngay với em song lại bảo: Chắc là tại ngày tôi nghĩ nhiều nên đêm mới
mơ như vậy. Định bụng, cứ để mọi người xem thế nào. Nay, thấy mọi việc diễn ra
đúng như trong mơ nên ông ấy mới sợ, vội vã thắp hương để tạ lỗi với cụ. Chứ từ
ngày lấy nhà em, có bao giờ thấy ông ấy cúng vái bao giờ đâu”.
Sau khi công việc đã hoàn tất, nhìn sang quả đồi bên cạnh, cách chỗ vừa khai quật
vài thửa ruộng, ông Quân thấy một tốp thợ đang đục đẽo gỗ để dựng nhà. Hỏi vợ
anh Bân, được biết, thôn Thống Nhất đang dựng lại ngôi chùa trên nền cũ. Ông
Quân cầm thẻ hương sang thì nhận ra, đó chính là ngôi chùa ông đã từng lên thắp
hương, bát hương ngày ấy được đặt tạm lên cây ngái giữa bạt ngàn nương sắn. Ông
chợt giật mình, nhớ lại cách đây 8 năm, Bích Hằng đã cho thông tin mộ cụ được
đặt gần một ngôi chùa và băn khoăn không hiểu vì sao, trước khi mất, cha ông
cũng dặn chắc như đinh đóng cột như thế?
Chi tiết cái cùm ở chân cụ Quyến, Bích Hằng nói “có thể còn” nhưng lúc đào lên
không thấy. Tuy nhiên, tại khu vực phía chân cụ, mọi người thấy một vết đất vàng
vàng như rỉ sắt. Có thể, trải qua hơn 80 năm mưa nắng, chiếc cùm sắt đã rỉ tiêu hết
cả rồi?
Chiều ngày 23 tháng 12 năm 2001, tức mồng 9 tháng 11 năm Tân Tỵ, tại xã Nhị
Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, lễ truy điệu và an táng nhà yêu nước Lương
Ngọc Quyến đã được Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc và nhân dân xã
cùng các thế hệ con cháu nội ngoại của ông long trọng tiến hành. Trên bia mộ ông,
trân trọng đề dòng chữ: “Cụ ông Lương Ngọc Quyến (1885 – 1917), lãnh tụ khởi
nghĩa Thái Nguyên”. Bên cạnh là bia mộ của bà Nguyễn Thị Hồng Đính. Phía trên,
giữa hai bia là phù điêu tạo hình lá quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam
quang phục quân.
Như vậy, trải qua 84 năm đằng đẵng, cả hai thế hệ con, cháu cất công tìm kiếm, di
hài của người anh hùng Lương Ngọc Quyến đã được an nghỉ tại quê nhà. Người
hạnh phúc nhất có lẽ là ông Lương Quân. Bởi việc tìm được phần mộ ông nội
Lương Ngọc Quyến vừa là việc hiếu đễ với tổ tiên, vừa trút được nỗi canh cánh
nặng trĩu trong lòng người cha thân yêu suốt một đời đau đáu. Duy có một điều
làm ông còn day dứt, khiến niềm vui kia của ông chưa trọn vẹn. Đó là phần mộ của
người anh hùng Đội Cấn, vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm xưa,
người bạn chiến đấu của cụ Lương Ngọc Quyến vẫn còn vùi lấp đâu đó trên những
đồi núi điệp trùng Thái Nguyên. Hôm lên Vô Tranh đưa hài cốt cụ Quyến về quê
nhà, qua Bích Hằng, được biết cụ Đội Cấn có đến chia vui và tiễn biệt người bạn.
Lúc đó, cụ Đội Cấn có nhắn qua Bích Hằng vị trí nơi chôn cất. Sau này, khi đài
báo đưa tin đã tìm được mộ cụ Lương Ngọc Quyến, có một vị cao niên nhận là
cháu cụ Đội Cấn, tìm về Nhị Khê thắp hương. Song rất tiếc, gia đình ông Lương
Quân không được gặp và vị khách ấy cũng không để lại địa chỉ. Nay, qua Thế giới
mới, anh em ông Lương Quân xin nhắn nhủ: nếu con cháu cụ Đội Cấn đọc được
những thông tin này và muốn tìm hài cốt cụ, xin vui lòng liên lạc với ông theo địa
chỉ: Lương Quân, số 9 Núi Trúc, quận Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 04.8464679.
* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu trong cuốn “Lương
Văn Can và phong trào Duy Tân – Đông Du” của nhà nghiên cứu Lý Tùng
Hiếu.
Kỳ 9: Tìm mộ vị lãnh tụ nông dân Hoàng Công Chất
và sự chắp nối kỳ diệu gia phả dòng họ Hoàng Văn
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng
Trong suốt hành trình 15 năm phát tâm nguyện đi tìm những ngôi mộ bị thất lạc
giúp đời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt, đã tìm
được khoảng 7.000 hài cốt, trong đó phần lớn là hài cốt liệt sĩ. Đó thực sự là một
kỳ tích, đem lại niềm hạnh phúc nghẹn ngào cho hàng vạn người sau nhiều năm
đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông. Với chị, mỗi chuyến đi là một kỷ niệm. Mỗi cuộc tìm
kiếm hài cốt là cả ngàn những tình tiết ly kỳ, xúc động, huyền bí không thể nào
quên. Nhưng, hành trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất
đợt đầu năm 2005 có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự
linh ứng đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn
là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai trăm năm
dâu bể.
Từ lời sấm truyền trong dòng họ
Một buổi chiều đầu tháng giêng năm 2005, có hai người khách lạ tìm đến nhà Phan
Thị Bích Hằng. Người đàn ông mặc bộ Veston chừng 45 tuổi, mặt mũi khôi ngô,
tuấn tú. Người phụ nữ đi cùng trạc 40, mặt trái xoan, dáng người thanh mảnh,
quyền quý. Người đàn ông tự giới thiệu, anh là Hoàng Văn Khánh, chủ tịch Hội
đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc công ty Placo và em gái Hoàng Thị Sáu, quê
Hải Phòng. Sau một chút bối rối, anh trình bày những uẩn khúc, trăn trở bao năm
đè nén trong lòng khiến tâm bất an. Anh kể: Từ hồi còn nhỏ, anh đã từng nghe cha
chú, trong nhịp dịp chén thù chén tạc, rung đùi vuốt râu tự hào về dòng dõi, tổ tiên.
Nghe đâu, cụ tổ anh là thủ lĩnh nghĩa quân chống lại triều đình Lê – Trịnh. Năm
1770, linh cảm về một ngày đen tối đang đến gần, cụ cho người đưa 3 cháu nội về
tổng Cổ Trà Nghi Dương (nay là thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thuỵ,
Hải Phòng) những mong bảo tồn nòi dống. Có một câu sấm truyền từ đời nọ đến
đời kia trong dòng họ Hoàng: “Bao giờ phát phú phát vương. Tầm lại cố hương.
Bái tạ tiên đường. Nơi đó có chữ Hoàng gia đại tộc”. Sau này, trước lúc lâm chung,
cha anh, rồi người chú ruột, cứ níu chặt tay anh mà dặn dò: “Con gắng tìm cội
nguồn tiên tổ”. Lời trăn trối ấy cứ ám ảnh anh Khánh. Có uẩn khúc gì trong lời nói,
tự sâu thẳm ánh mắt của cha?
Anh Hoàng Văn Khánh đang thắp hương trước tượng cụ Hoàng Công Chất
Khi trở thành một doanh nhân thành đạt ở Hải Phòng, ngẫm về lời sấm truyền tụng
bao đời: “Bao giờ phát phú phát vương”, nhớ đến ánh mắt như van vỉ của cha
trước lúc đi xa, anh Khánh quyết chí đi tìm tổ tiên dòng họ. Anh đi khắp nơi, ở đâu
có đền thờ họ Hoàng là tìm đến nhưng mãi vẫn không thấy chữ “Hoàng gia đại
tộc”, thấy cội nguồn tổ tiên. Một lần về Nam Định công tác, gặp một nhà nghiên
cứu văn hóa lão thành, anh trải nỗi lòng mình. Nghe xong, nhà nghiên cứu cười
khà: “Có lẽ, cụ tổ họ Hoàng đã run rủi ta làm sứ giả cho anh đây. Anh hãy về thôn
Hoàng Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xem. ở đó, có nhà thờ
dòng họ Hoàng Văn to lắm”. Vâng lời, anh Khánh tìm đường về Nguyên Xá, xin
được vào thắp hương nhà thờ họ Hoàng. Anh chợt run bắn người khi nhìn thấy bức
hoành phi treo chính giữa ban thờ với bốn chữ đại tự viết bằng chữ thảo: “Hoàng
gia đại tộc”. Và oà khóc nức nở khi lật giở cuốn gia phả đã ố màu thời gian, thấy
ghi chi tộc họ Hoàng Văn ở Hải Phòng. Té ra, cụ tổ của anh chính là người anh
hùng nông dân Hoàng Công Chất. Cụ sinh ra tại Thủ Trì, Sơn Nam, nay là Hoàng
Xá, Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình. Cụ là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân
nổ ra năm 1739 cùng hai cuộc khởi nghĩa lớn khác của cụ Nguyễn Hữu Cầu (tức
Quận He) và cụ Lê Duy Mật.
Nhưng mộ phần cụ Hoàng Công Chất ở đâu? Các con cháu cụ lưu lạc nơi nào? Đã
rất nhiều năm anh Khánh cất công đi tìm kiếm di hài của cụ Hoàng Công Chất và
mong muốn dựng lại hoàn chỉnh sơ đồ phả tộc mà không thành. Tình cờ, một lần,
anh được đọc một tập tài liệu viết về hành trình đi tìm người em gái, vốn là một nữ
du kích gan dạ của đội Hoàng Ngân năm xưa, của nguyên Phó thủ tướng chính phủ
Trần Phương, dưới sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, đặc biệt là khả
năng gọi hồn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng (Chuyện sẽ kể chi tiết ở phần
sau – PV) với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí. Điều đó, thôi thúc anh tìm gặp
Bích Hằng, nhờ chị tìm hộ di hài tiên tổ và các chi tộc bị thất lạc.
Ba ngày sau. Vào một đêm mưa dầm sùi sụt, rét cắt da cắt thịt, vừa chợp mắt được
một lát, Bích Hằng chợt nghe thấy tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua. Chaỵ ra sân
mở. Chị giật mình khi thấy trước mặt là một người đàn ông quắc thước, da nâu,
trống gươm đứng nhìn chị. Quan sát kỹ, thấy trang phục, tướng mạo đúng là một
võ tướng. Xung quanh, có rất nhiều binh lính. Võ tướng cười, bảo: “Cháu đừng sợ.
Ta là võ tướng họ Hoàng. Còn đây là quan quân của ta. Cháu đi về với ta đi. Con
cháu ta đang mong đợi cháu từng ngày”. Nói đoạn, ông lên ngựa đi. Hình bóng
khuất xa rồi mà tiếng cười hiền hậu còn vang mãi.
Bích Hằng choàng tỉnh. Chị sực nhớ đến chiếc các-vi-dít mà hai người khách họ
Hoàng ở Hải Phòng để lại chiều hôm nọ. Đọc kỹ, thấy ghi: Hoàng Văn Khánh.
Tổng giám đốc Công ty Placo. Trụ sở: Km5, đường Phạm Văn Đồng, Anh Dũng,
Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Điện thoại: 0913.24004. Bên tai chị lại văng vẳng lời nhờ
cậy thiết tha của vị võ tướng họ Hoàng. Sáng sớm hôm sau, chị chủ động điện
thoại cho anh Khánh, hẹn ngày 16 tháng giêng (âm lịch), chị sẽ xuống Hải Phòng
tìm giúp.
Đến những tín hiệu cho trước
Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng giêng, Bích Hằng có mặt tại nhà thờ họ Hoàng ở xã
Tân Thành, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Đi cùng chị hôm đó, còn có nhà nghiên
cứu Quan Lệ Lan, thư ký của Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng
con người). Trước sự chứng kiến, thành tâm của đông đảo con cháu họ Hoàng,
Bích Hằng đã vời vong linh của cụ Hoàng Công Chất về trò chuyện. Qua Bích
Hằng, cụ bảo: “Những người đi theo triều đình thì coi ta là giặc cỏ. Nhưng nhân
dân lại coi ta là anh hùng. Ta vẫn thích sống trong lòng dân hơn. Còn với các con
các cháu, ta là giặc cỏ hay anh hùng, điều đó ta không cần quan tâm nữa. Chỉ biết
rằng ta là cụ tổ của các con. Trước kia, ta đã cùng các tù trưởng Lò Ngải, Lò
Khanh, Lò Thang đánh giặc giữ biên thuỳ. Nay ta đang ở đất châu Điện Biên.
Đáng khen các con đã làm được những việc khiến ta thấy được an ủi nơi chín suối,
mát mặt với tướng sĩ ba quân”. Anh Khánh chắp tay thành kính, giọng run run:
“Thưa tổ! Xin tổ cho chúng con biết, hiện giờ mộ tổ ở đâu”. Cụ Hoàng Công Chất
nói (qua Bích Hằng): “Các con cứ lên Thành Bản Phủ. Cứ nơi nào trồng cây đa là
có nghĩa quân của ta. Trước kia, nhà Lê Trịnh đã cho quân khai quật mộ ta rồi chặt
làm 3 khúc. (Chuyện này, chính sử cũng có nhắc đến). Chân ta, chúng ném xuống
sông Nậm Rốn. Đầu, thân thì vứt lăn lóc. Đêm, nghĩa quân của ta lén đi lấy. Thân
thì chôn ở gần sông Nậm Rốn nhưng cách đây ít năm, người ta đã ủi đi rồi. Đầu thì
vác về gần Thành Bản Phủ, chôn dưới một gốc cây đa. ở đó có một cây thuốc. Khi
các con đi tìm ta, sẽ có một người răng vổ gốc Thái Bình ra dẫn đường”.
Đang “thông dịch” cho mọi người nghe, bất chợt, Bích Hằng nhìn thấy một thiếu
phụ trẻ người Thái, đứng cạnh cụ Hoàng Công Chất bưng mặt khóc. Lấy làm lạ,
Bích Hằng hỏi, cụ Chất bảo: “Đây là liệt nữ Lò Thị Nương, con một vị tù trưởng ở
Điện Biên”. Xưa, nàng đi theo cha đánh giặc, cảm phục tài đức của tướng Hoàng
Công Chất, nàng tình nguyện làm vợ thứ 4. Sở dĩ cụ Chất gọi bà là liệt nữ vì bà đã
hy sinh cho nghĩa quân. Chuyện rằng: trong một lần bị giặc Phẻ truy kích, bà cùng
con trai là Hoàng Công Trực đã đánh lạc hướng cho nghĩa quân rút lui. Bắt được
hai mẹ con, giặc đã đem bà ra làm mồi nhử. Chúng trói hai người vào chiệc cột gỗ
chôn giữa đồng Tông Khao, xung quanh chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng
Công Chất muốn chuộc vợ, con thì phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ
thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”.
Lửa cháy ngùn ngụt. Hai mẹ con bà bị thiêu chết. Xót thương người vợ hiền, cụ
Chất cho trồng một cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở. Hoa vàng và
hoa đỏ. Cụ bảo: “Đó là những tín hiệu ta cho để các con đi tìm mộ. Khi đi, sẽ có
một phụ nữ dân tộc Thái dẫn đường”.
Đi tìm di hài tổ tiên: sự linh ứng đến kỳ lạ
Một tháng sau ngày chiêu hồn cụ Hoàng Công Chất tại nhà thờ họ Hoàng ở Hải
Phòng, sáng ngày 29 tháng 3 năm 2005, khoảng 50 người, già trẻ, gái trai đủ các
chi ngành cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng lên Điện Biên tìm mộ. Thành
Bản Phủ là nơi đoàn đặt chân đầu tiên. Những nghi lễ trang trọng nhất đã được cử
hành tại đây. Ông trưởng chi Hoàng Văn Nhương thành kính dâng sớ, cầu xin tổ
tiên linh hiển, báo cho con cháu biết nơi tổ yên nghỉ để con cháu được tu sửa, thờ
vọng. Lời khấn vừa dứt, sớ chưa kịp hoá bỗng một cơn gió lớn từ đâu ào đến. Và
những thanh âm nghe “lách cách, lách cách” như hàng ngàn tiếng gươm khua
khiến cả đoàn, đang thành kính chắp tay làm lễ đồng loạt quay lưng lại phía sau.
Lại một cơn cuồng phong cuốn bụi mịt mù. Mọi người hốt hoảng chạy ra sân. Một
cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến khiến tất cả đứng chết lặng: nền sân gạch đỏ
giờ ngập tràn lá xanh. Có những chiếc lá còn non tơ. Tịnh không có một chiếc lá
vàng nào. (Giữa xuân, kiếm đâu ra lá vàng?!). Đó là lá của ba cây đa, si, xanh quấn
quýt trước đền trút xuống, tương truyền, do chính tay cụ Hoàng Công Chất trồng,
như một lời nguyền với non sông giữ tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược,
thề đòi lại và giữ yên biên cương đất nước. Cây đa là cụ. Cây đề là trời đất. Còn
cây si loà xoà gốc rễ là dân tộc Thái. Qua Bích Hằng, cụ bảo, đấy là cụ khóc mừng
khi thầy tề tựu đầy đủ con cháu trai gái, dâu rể… lên với tổ. Cụ bảo: Cụ có 4 anh
em là Hoàng Văn Phiệt, Hoàng Văn Phí, Hoàng Công Chất và Hoàng Công Tại.
Cụ có 3 vợ và có nhiều con. Hoàng Công Toản là con cả. Kế tiếp là Chính, Châu,
Thao, Tần, Toản, Túc, Lựu (Trùng khớp với gia phả – PV). Năm 1768, nghĩa quân
của cụ bị quân của triều đình nhà Lê – Trịnh đánh tan tác. Con cháu cụ phải chạy
ra bản Loong Luống. Hiện vẫn còn ở đấy. Tiên lượng về một ngày đen tối sẽ đến,
để bảo tồn nòi giống, cụ cho người em gái là Hoàng Thị Chiên dẫn 3 đứa cháu nội
là Cao, Tháo, Thọ về quê, cầu cứu nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận
He). Trong 3 đứa cháu, Tháo là người có chí nhất. Tháo lúc ấy còn bé lắm. Cụ trao
cho Tháo một áo bào tía, một thanh gươm rồi bảo: “Con hãy giữ làm vật tin để
dâng lên tướng Nguyễn Hữu Cầu”. Tháo cầm lấy thanh gươm từ tay ông nội.
Thanh gươm cao hơn đầu, ôm lấy túi áo bào, vừa khóc vừa nói: “Ông ơi! Cháu sẽ
khôi phục lại sự nghiệp của ông”. Nói đến đây, cả nhà anh Khánh khóc ầm lên.
Cháu Tháo bé bỏng mà đầy chí khí ngày ấy chính là hậu tổ của anh Khánh. Trong
gia phả ghi rõ: Cụ hậu tổ là Hoàng Quí Công, tự Công Tháo”. Anh Khánh vừa
khóc vừa kể: Lúc còn sống, cha anh lúc nào cũng giữ khư khư một cái bọc, trong
có chiếc áo bào tía và một thanh gươm. Một lần hoả hoạn, chiếc áo bào cháy mất.
Cha anh khóc ròng mấy tháng trời vì tiếc. Đó là đồ gia bảo. Cha còn quý hơn cả
tính mạng mình.
Sau một hồi làm con cháu trấn tĩnh, cụ Chất bảo: “Thôi! Giờ để ta hướng dẫn các
con đến những nơi tổ yên nghỉ”. Cả đoàn bước ra khỏi đền. Từ trên cao phóng tầm
mắt ra bốn hướng, anh Khánh reo to: “Cây đa cổ thụ kia rồi”. Nhìn theo phía tay
anh chỉ, cách chỗ đứng chừng 500m, thấy một cây đa cổ thụ xoè bóng mát giữa
trưa nắng vàng.
“Chúng ta phải rà soát lại toàn bộ phong thuỷ của Việt Nam. Đó là đất đai, sông
núi. Chúng ta phải xem tất cả những đại huyệt ấy, đại huyệt nào tắc, huyệt nào
bị yểm, huyệt nào chưa thông, bị phá, chỗ nào phải phục long, đảo long, khai
long…”
Tôi gọi bà là nhà văn hoá tâm linh không chỉ bởi bề dày 25 năm hoạt động, cống
hiến cho đời sống tâm linh nước nhà mà còn bởi những chiêm nghiệm, đúc kết,
kiến giải đầy sức thuyết phục của bà về thế giới tâm linh đầy huyền bí. Nguyên là
giáo viên dạy triết học ở Hà Nội, có khả năng ngoại cảm sau một cơn đột biến, bà
là một trong những nhà tâm linh đầu tiên hoạt động ở Hà Nội. Cuộc trò chuyện
với bà kéo dài gần 5 tiếng đồng hồ trong một buổi chiều mùa hạ mưa dầm sùi sụt
về hiện tượng “bùng nổ” các nhà ngoại cảm, về nhu cầu bức xúc thời hậu chiến:
đi tìm hài cốt liệt sĩ, về “cơn sốt” lễ bái cầu cúng đền chùa hiện nay và cả chữ
“Đạo” mà người đời đang hiểu sai lệch đã gây cho chúng tôi rất nhiều bất ngờ và
hứng thú. Tính thuyết phục trong cách nhìn, cách kiến giải của bà có lẽ lấp lánh
bởi cái nhìn sâu sắc của một người thấm nhuần triết học, sự trải nghiệm của một
người đã bước qua tuổi “tri thiên mệnh” và trên hết bởi chính những nếm trải của
người trong cuộc đã… 25 năm làm tâm linh..
P.V: 25 năm hoạt động trong lĩnh vực tâm linh, có bao giờ bà dừng nhịp để ngẫm
về những điều mình đang làm?
Bà Phan Oanh: Có chứ. Ngay từ những ngày đầu bùng nổ về khả năng ngoại cảm,
tôi đã ngộ ra một điều: Khó nhất ở trên đời là sống ở dương phải làm việc
âm. Không biết lấy cái gì để mà đo. Những người làm việc âm tìm ra được một cái
thước chuẩn để đo là một công việc không dễ chút nào. Tìm hoài, tìm mãi, tìm ở
đâu? Cuối cùng, tìm ngay trong ta chứ không phải ở đâu xa lạ. Bởi nó chứa đựng
tất cả. Những cái gì tinh tuý nhất, ô trọc nhất, quỷ quái nhất đều tồn tại trong con
người ta. Cho nên khi thực hành tâm linh, điều quan trọng nhất là tâm pháp. Và cái
cao nhất cũng là tâm pháp. Ví như Bùa ngải xứ Mường mà tôi đã có dịp đọc trên
Tạp chí Thế Giới Mới mà anh là tác giả. Bùa ngải không có tội, chỉ có người thực
hành phương pháp này sinh công hay sinh tội mà thôi. Bản thân nó rất vô ngã. Và
nếu như cái nghiệp nhà anh mà nó hợp với cái pháp này thì cái duyên pháp ấy nó
hợp nhau để tạo nên một sự lợi lạc. Và chính cái bùa ngải này là hóa giải, là
chuyển nghiệp. Vậy thì muốn chuyển nghiệp có ngàn vạn cách. Nhà Phật có tám
vạn bốn ngàn pháp môn cơ mà. Nhưng tại sao anh chọn một pháp tu, anh lại bảo
chỉ pháp tu anh mới đúng còn pháp kia là sai, là xấu, là lệch. Cái đó là do nhận
thức của chúng ta quá chật hẹp.
PV: Bà quan niệm thế nào về chữ Đạo? Và những người làm tâm linh như bà có
cần có Đạo không?
Bà Phan Oanh: Tôi có một quan niệm thế này: Đạo xếp đường tròn. Và nếu trên
hành tinh chúng ta có 7 – 8 tỷ người thì cái hành tinh tưởng là to, vĩ đại nhưng so
trong thiên hà nó mảnh mai, bé xíu, chứa đựng 7 – 8 tỷ người sẽ có một đường tròn
khổng lồ cho 8 tỷ chỗ đứng. Và mỗi người chỉ được đứng một vị thế trên cái
đường tròn khổng lồ ấy, không ai tranh của ai. Vì vậy, tôi rất muốn mọi người khi
có nhân duyên để làm công việc tâm linh thì phải xích lại gần nhau. Hội được cái
tâm, chụm đầu vào nhau mà phát huy hết sức mạnh. Tôi cho đó là những quà tặng
mà hồn thiêng của trời đất, của sông núi, của liệt tổ liệt tông trao tặng. Và ai đó có
duyên lành từ kiếp trước và ngàn vạn những mối nhân duyên nữa được tiếp nhận
cái này thì phải làm cho cái duyên đó toả sáng, làm lợi lạc cho chúng sinh. Có lần
tôi đã nói với nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Hằng ạ! Trời đất và liệt tổ liệt
tông ban cho Hằng một bảo bối để Hằng đi tìm mộ. Và cái bảo bối này sẽ giải
quyết được một nhu cầu bức xúc vô cùng sau chiến tranh. Hằng phải sử dụng bảo
bối này với cái tâm phải sáng, đức phải rộng. Nếu như tâm mà mỏng, đức mà sơ,
không may thiên nhiên trời đất thu lại, cô cháu mình sẽ trở thành… “ông lão đánh
cá”. Cái lẽ hiển nhiên ấy, không phải ai làm tâm linh cũng hiểu được đâu. Họ cho
rằng khả năng ấy là của họ, cho nên cái tôi của họ đã lấn lướt.
Khi thành lập Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người (năm 1997), 3 buổi
chiều, ông Ngô Đạt Tam, giám đốc Trung tâm lên nhà tôi trao đổi, đàm đạo. Tôi
bảo với ông ấy rằng: “Anh Tam ạ! Cái mừng nhất là Trung tâm này ra đời, có
nghĩa là thông tin của tôi bắt được cách đây 15 năm (1982) là đúng. Rằng nó phải
là một ngành khoa học. Và nhà nước sẽ quan tâm đến. Bây giờ nhân danh một nhà
khoa học, tập hợp các nhà ngoại cảm, nếu như các anh không vững vàng về lý của
trời đất thì cái trung tâm ấy sẽ trở thành nơi các nhà ngoại cảm… tỷ thí tài năng.
Bởi vì tôi biết, trong cái môn này thì chả có ông nào bé cả. Thầy nào cũng là số
một.
P.V: Có một thực tế là dân ta hiện nay đổ xô đi lễ. Có lẽ chưa bao giờ, các đình,
chùa, miếu mạo lại đông con nhang đệ tử đến xì xụp khấn vái nhiều như bây giờ?
Đó phải chăng vì dân ta mộ Đạo? Đạo ở Việt Nam đang thịnh?
Bà Phan Oanh: Ngày 14 tháng 2 năm 1982, tôi bùng nổ hiện tượng này. Tôi nhận
được một thông tin: “Con ơi! Dân sính lễ là điềm suy xã tắc. Bao giờ dân giác ngộ
đạo mới là điềm thịnh của quốc gia. Ta báo cho con biết trước, từ 1985 trở đi,
những thành phố lớn, những người có học sẽ đua nhau đi lễ”. Càng ngẫm tôi càng
thấy đúng. Song lúc ấy, tôi cứ tự hỏi: “Tại sao sính lễ là điềm suy?. Mãi sau này tôi
mới hiểu được.
Ngạn ngữ dân tộc ta có câu: “Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu
chùa”. Có nghĩa: Thứ nhất tu tại gia không phải là lễ tại nhà. Đó là mối quan hệ
giữa người với người trong huyết tộc. Ví như cha mẹ tôi sinh hạ được 5 người con.
Nhưng bố mẹ nói: chỉ thích ở với cô Oanh thôi. Thì tôi nuôi mẹ, đó là nhân duyên,
cái lý của nhà Phật. Lúc khỏe cụ trông nhà cho tôi là duyên. Lúc ốm thì là nợ. Cụ ở
với tôi thì dứt khoát nhân tài, vật lực, công hạnh, bản thân tôi phải cống hiến 70%
còn bốn vị kia chỉ có 30% thôi. Nếu tôi ngộ đạo thì tôi làm bằng sự tự nguyện, tôi
được công đức. Đấy mới là tu. Còn nếu vô đạo, tôi sẽ bảo: Cụ đẻ ra được 5 người
chứ không phải mình tôi, các ông bà chia nhau đến để mà hầu cụ. Một ví dụ nữa.
Có một người bạn rất giỏi về mảng dự báo bảo: “Oanh ơi! Cẩn thận không năm
nay nhà Oanh mất xe đấy”. Và nếu như người dự báo ấy giỏi, tháng 10 tôi bị mất
xe thật. Nếu ngộ đạo, tôi sẽ nói với chồng: “Chắc nó vào chương trình rồi anh ạ!”
thì xe mất nhưng vợ chồng tôi không cãi nhau, tinh thần nhà tôi không nát. Và
tuyệt vời hơn nữa khi tôi nhận được một câu: “Thôi em ạ. Năm ngoái các cụ cho
mình 10 cái xe, năm nay mất 1 cái, yên tâm đi”. Đấy mới là tu. Chứ không phải
rằm, mồng một, con không đến chùa, con lễ ở nhà là tu tại gia.
Thứ hai tu chợ. Đó là mối quan hệ ngoài huyết tộc nhưng diễn ra sắc tục. Chị tử tế
chị đi chợ đoan trang. Bà nhẹ nhàng đi chợ ý nhị. Tôi tham, tôi mua một cái cải
bắp, bằng được tay nem tay chanh thêm cho bác củ hành. Qua hành vi mua bán bộc
lộ hết tính nết, bao nhiêu nọc độc có cơ lộ rõ. Đi đến công đường không nghĩ
chuyện làm chỉ nghĩ chuyện lật đổ. Trong khi đó, trong số mệnh mình, nếu mình
hiểu mình chỉ là quân xe thì làm sao mình lên tướng được. Vốn của mình nó thế,
nó phải thế. Phật nói rất rõ ràng, nó là nhân quả. Còn nếu hiểu, kiếp này mình rất
giỏi nhưng chỉ làm trợ lý, làm quân xe thì mình làm hoàn thành công việc của xe,
mình đã đắc đạo.
Thứ ba tu chùa. Có nghĩa là tu ở nhà cho tâm sáng, ứng xử ở ngoài cho đức rộng
thì anh đến chùa là báo công với người Mẹ thiên nhiên. Mà một là công, hai là
tội.
ở Việt Nam bây giờ, người hư đi lễ nhiều. Tôi cam đoan đánh đề ngày nào cũng đi
lễ. Cà phê bóng đá ngày nào cũng đi lễ. Chạy trốn pháp luật, buôn gian bán lận đi
lễ. Còn những người đổ mồ hôi sôi nước mắt, đầu tắt mặt tối làm quần quật thì
thời gian đâu mà đi lễ. Cho nên dân sính lễ là điềm suy xã tắc. Cho nên phải tốt từ
nhà, tốt đến xã hội con ơi mới đi lễ. Một câu đơn giản vô cùng mà tôi thấm thía.
Càng ngẫm càng hay, càng đúng.
Cho nên chữ đạo là một vòng tròn khép kín không đầu. Dân tộc Việt Nam có
câu “thứ ba tu chùa” nhưng lại có câu “Tiên học lễ”. Đấy là khởi đầu. Khởi đầu
chính là nó và kết thúc cũng chính là nó.
P.V: Nói như bà thì ở Việt Nam, dân ta đang thiếu Đạo?
Bà Phan Oanh: Đúng! Việt Nam thiếu Đạo. Đức, bây giờ chúng ta dạy đức quá
nhiều. Thế hệ chúng tôi trước đi học cũng vậy. Những tiết luân lý nhiều lắm.
Nhưng người ta dạy Đức mà không dạy Đạo. Cho nên lớn bé, già trẻ, đạo đức
cứ xuống cấp. Và cái buồn da diết là hễ khi nhắc đến chữ Đạo, người ta lại có
một khái niệm là: cậu này có đạo là nghĩ cậu hay đi lễ. Tệ hơn, người hay đi lễ
là xếp vào dạng kém hiểu biết. Theo tôi, nếu nói người ấy có Đạo, có nghĩa là:
Người ấy có văn hoá. Và hiện nay, chúng ta đang nhầm lẫn giữa tri thức với
văn hoá. Người tri thức bây giờ hơi đông nhưng người có văn hoá bây giờ hơi
hiếm.
Từ cái chữ Đạo, thước Đạo này, tôi mới giật mình, ông trời chỉ cho tôi cái thước
này, tôi mới đem mọi việc âm, dương soi vào đây, thấy sai nhiều quá. Cũng phải
sau 7 năm tôi tiếp nhận, thể hiện, 7 năm tôi tu, học, rèn, và đến năm thứ 7, tôi mới
đủ trí tuệ thắp một nén nhang thưa với trời đất rằng: Con lạy ngài, con xin khước
từ tất cả công danh sự nghiệp đời thường để con đổi lấy hai chữ… học trò. Vì sao?
Vì trong 7 năm ấy tôi thấm thía cái thước đo vô hình, đó là thước Đạo. 7 năm ấy
tôi thấm thía cái chúng ta bị thiếu hụt, đó là thiếu Đạo. Lạy Phật, đạo cao nhất và
đạo cần thiết nhất, đó là Đạo làm người. Làm người chưa xong thì làm sao
thành thánh, thành Phật, thành tiên được.
Tôi luôn nói với những người đến với tôi rằng, nếu như ai thích hiểu thì đến với
tôi, còn nếu ai thích biết (muốn biết mình sướng hay khổ?) thì mời đi nơi khác.
Đến với tôi mà muốn hiểu trong đời sống tâm linh có bao gồm những nội dung gì
thì xin mời lưu lại ở đây, tôi hết lòng hết dạ đàm đạo. Vì sao? Vì trong đời sống
tâm linh có đời sống vật chất, đời sống tinh thần. Cho nên con số 1 là con số vũ trụ,
con số 2 là con số biến và con số 3 là con số hoá. Hiện nay chúng ta đang bị nhầm
đời sống tâm linh với hiện tượng tâm linh mà ta qưen gọi là các nhà ngoại cảm.
Bây giờ có rất nhiều nhà ngoại cảm lấy vợ bé, họ không tu đức, họ chẳng tu tâm.
Họ cho rằng: giời cho tôi lộc, tôi được hưởng. Họ quên mất rằng, giời cho họ cái
lộc ấy để họ là tấm gương sáng cho trăm họ soi. Họ quên mất rằng: Trời cho họ cái
lộc này để họ làm phúc chứ không phải để họ lấy phần. Vì lộc có hai thứ: giá trị
tinh thần là phúc âm. Giá trị cụ thể là phần. Mà lấy phần thì hết phúc. Lấy phúc
phải nhẹ phần. Vì thế, bây giờ, có những cửa điện cửa đền người ta gọi là cái máy
chém tiền. Một ngày họ thu vài chục triệu là chuyện thường. Và tôi sợ những
người này, thương những người này, lo cho họ. Tôi không hiểu họ cần nhiều tiền
thế để làm gì vì tôi cam đoan, họ có ăn yến đi chăng nữa, ngày họ cũng chỉ ăn đến
ba bữa. Một bữa cơm ngon ăn quá thành bội thực. Trời cho lộc, làm việc âm phải
lấy lộc âm là phúc. Chứ làm việc âm mà lấy lộc trần là phần thì xin lỗi, “lộc phật
có gai”. Con cháu nay mai tha hồ trả không biết bao nhiêu cho kể.
P.V: Có phải vì thế mà người đời thường nói: “Làm việc âm bạc phúc lắm” phải
không, thưa bà?!
Bà Phan Oanh: Anh nghĩ như vậy hay anh trăn trở?
P.V: Tôi nghĩ như vậy và chiêm nghiệm như vậy.
Bà Phan Oanh: Đạo học phương Đông giống như cái tam giác cân. Tôi dùng từ
đạo học phương đông chứ không dùng từ triết học phương đông. Nó có 3 đỉnh.
Người được gọi là ngoại cảm phải học đủ 3 thứ này. Nếu không sẽ sai phạm. Thứ
nhất, giới pháp luật, tức là anh phải hiểu. Hiểu rồi thì anh hãy biết. Biết rồi anh
phải dạy cho trăm họ tu. Nhưng bây giờ tất cả thầy đồng, thầy bói, thầy cúng.. làm
mỗi cái đỉnh biết này thôi. Chẳng hạn một ông thầy số bảo: năm nay anh năm tuổi
phải làm lễ giải hạn đi. Thế là hì hà hì hụp lễ như tế sao. Không ai hỏi: “Tại sao
phải lễ giải hạn?”. Hỏi sợ phạm thượng, sợ ông thầy đuổi thẳng cổ về: “Vớ vẩn,
năm nay sao La hầu, Kế đô, không lễ chết. Bỏ tiền đây lễ”. Người lễ hoàn toàn
không hiểu nhưng cứ phải lễ. Tức là lễ này không có nghĩa. Lễ phải đạt đến cái
nghĩa cơ. Cho nên hiểu rồi hãy nên biết. Biết rồi thì phải tu. Còn lễ chỉ là một
phương pháp cực kỳ nhỏ: một là báo công, hai là kêu cứu, ba là chắp tay trước
ngực nói: “Mẹ ơi! Phúc nhà con thì mỏng, đức nhà con thì sơ nhưng kiếp này con
đã thay cả nhà giác ngộ được Đạo rồi. Con nguyện từ nay cho con khoẻ để con lập
công chuộc tội, con làm nhiều việc thiện”. Cái tu này, nói như dân gian là “đức
năng thắng số” hay ý thức tác động trở lại. Và người làm ngoại cảm phải học đủ 3
cái này. Cái hiểu là lý, là ánh sáng để rọi đường. Cái biết là anh thực hành. Cái dạy
cho trăm họ tu là anh tạo ra pháp có để anh lấy một chút công đức. Nếu anh làm đủ
3 cái này, không lo bạc phước.
“Mãi mãi tôi chỉ là một con tốt vô danh làmcông việc dẫn đường”
P.V: Như tôi được biết, có lẽ không có một quốc gia nào trên thế giới này lại sản
sinh ra nhiều nhà ngoại cảm như ở Việt Nam. Bà lý giải gì về điều này?
Bà Phan Oanh: Ngay từ những ngày đầu có khả năng ngoại cảm, tôi đã nhận được
thông tin: “Con ơi! Cuối thế kỷ 20 các nhà ngoại cảm Việt Nam sẽ nổi lên như
mưa rào. Và những người tìm mộ sẽ rất đông để thoả mãn một nhu cầu bức thiết
sau chiến tranh. Ngẫm đến bây giờ thấy hoàn toàn đúng. Như lúc đầu tôi đã nói, đó
là những quà tặng mà hồn thiêng của trời đất, của sông núi, của liệt tổ liệt tông trao
tặng. Và các nhà ngoại cảm là những người có duyên lành từ kiếp trước và ngàn
vạn những mối nhân duyên nữa được tiếp nhận cái này.
P.V: Hiện nay, chúng ta chưa có một con số thống kê chính xác về số hài cốt liệt sĩ
chưa tìm thấy sau chiến tranh nhưng ước chừng còn khoảng 300.000 hài cốt còn
vùi xác thân trong rừng sâu, núi thẳm. Ngày ngày, vẫn còn hàng ngàn người mẹ,
người vợ, người con đau đáu, khắc khoải, để rồi bằng mọi cách đi tìm hài cốt của
chồng, con mình. Những cuộc đi tìm ấy vô cùng gian nan và tốn kém. Là người
trong cuộc, bà nghĩ gì về điều này? Có cách nào giải quyết bằng tâm linh không?
Bà Phan Oanh: Có lẽ việc tìm mộ này sẽ diễn ra trong một thời kỳ lịch sử kéo dài
từ 50 năm đến 70 năm. Sau 70 năm, chúng ta nên lập các đàn, không chỉ có cầu
siêu mà xin cho các liệt sĩ đầu thai, chuyển nghiệp để đừng có lấn quấn với cái thân
tứ đại làm gì. Bởi vì cái này nên rời bỏ, nên về các cảnh giới khác dù rằng cõi
trung giới hay thượng giới mà làm cái công việc nó ân nghĩa hơn là cứ luẩn quẩn
trong rừng sâu, khe đá cũng chỉ là ma mường, ma xó mà thôi. Và ước gì, dân tộc
chúng ta, có một ngày 27 tháng 7 nào đó, chùa chùa, nhà nhà, cùng một lúc làm
được việc này để cho cái sự rung động được cộng hưởng, nhân lên gấp nhiều lần.
Trong đó, những người là nhân chứng lịch sử còn lại được hưởng những đặc ân, họ
khởi được tâm, họ làm được. Và những chùa lớn đánh cùng một lúc tiếng chuông,
chuông hiệu triệu, chuông cầu siêu, chuông hoá giải tất cả mọi nghiệp ai oán, ân
oán, hờn oán, hận oán trong chiến tranh và xin với trời đất, xin Phật độ để cho
những vị có công với quốc gia sớm được chuyển nghiệp đầu thai, làm những công
việc lợi ích. Năm 2000, năm chuyển giao thế kỷ, ngày mở đạo của tôi, tôi đã viết
những câu thơ thế này:
“Canh Thìn tiếng trống âm vang
Mẹ ơi! trống dậy thế gian chuyển mình
Lẽ trời sự biến sự sinh
Qua cầu binh lửa hiểu mình, hiểu ta
Chúng con kết một đàn hoa
Tạ ơn vũ trụ ông bà, tổ tiên
Tạ ơn triệu triệu người hiền
Đã dâng đã hiến đã yên lặng rồi.
Đã thành nhựa sống cho đời
Để cho cây đạo đâm chòi nảy hoa
Vinh quang bách họ tạo ra
Người còn tưởng nhớ người xa ân tình”
Tôi ước ao đội quân binh hùng tướng mạnh ấy vẫn là binh hùng, ngọn lửa chiến
tranh ấy vẫn là lửa thiêng. Cho nên đi đâu tôi cũng chỉ cầu xin Việt Nam sáng đạo.
Và trong dân có đạo để dân tộc chúng ta hưng đạo. Và tôi vô cùng thấm thía những
khi tiếp nhận được những thông tin từ cụ Trần Hưng Đạo. Cụ nói: “Con ơi! Ta yêu
cái dân tộc này. Cho nên ngay cả khi ta về với gió, với mây, ta vẫn để lại một cái
hiệu mà không biết bao nhiêu người hiểu được lòng ta: là Trần – Hưng – Đạo. Một
nguyện ước thật là chân chính, giản đơn mà trong sáng vô cùng. Một con người
bằng xương bằng thịt. Một vị thánh nhân và ngài đã thành bật tử.
Cho nên sẽ phải có cách hoá giải. Tôi cho rằng, những người dễ tính khi thác, họ
về luôn với gió núi mây trời. Chỉ những người khó tính khi mất mới đòi tìm mộ.
Người ta chấp, hận thì bắt phải tìm. Cho nên xin các ngài đại xá cho, cụ nào thiêng
thì xếp vào loại khó tính. Có những gia đình đến đây, tôi có thể dự báo, không nên
đi tìm. Vì người trong gia đình đó đã hết duyên, chẳng nợ, đừng đi tìm nữa. Nhưng
có người ốp hẳn vào anh chị em, con cháu trong nhà, dẫn đi tìm bằng được.
P.V: Là một trong những người có khả năng ngoại cảm đầu tiên ở Việt Nam, tại
sao khi Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thành lập, bà lại không tham
gia?
Bà Phan Oanh: Trước khi thành lập Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người,
các anh trong Ban giám đốc có đến mời tôi tham gia. Tôi nói với các anh ấy là:
“Tôi luôn là người bạn tốt của các anh. Còn các nhà ngoại cảm, họ là những bậc
thầy, xin các anh cứ rước họ vào. Tôi chỉ là bạn của các anh và lúc nào cũng xin
sẵn lòng chia sẻ và đàm đạo”.
Có lần, tôi nói với anh Chu Phác (Thiếu tướng Chu Phác, chủ nhiệm Bộ môn cận
tâm lý) rằng : “Anh Phác ơi! Trời sinh anh làm tướng, trời lại khai mở cho ông
tướng có duyên tâm linh thì anh phải làm các việc lớn hơn những công việc đi tìm
hiểu “mấy con ma”. Vì xin lỗi! Gọi hồn có hàng ngàn năm nay rồi, trong khi chúng
ta còn quá nhiều những việc lớn phải làm. Ngay từ ngày đầu, tôi đã nói với anh
Ngô Đạt Tam (Giám đốc Trung tâm): “Khi các anh thành lập một trung tâm nghiên
cứu tiềm năng lớn như thế này, thì việc số một các anh có thể giúp được dân tộc
này là nhân danh làm khoa học, các anh tìm hiểu và hiệu triệu đủ cho tôi 10 nhà
phong thuỷ. 5 người giỏi bằng sách, 5 người giỏi bằng duyên trời để giúp dân tộc
này bước vào thời kỳ phục hưng dựng nước. Chúng ta phải rà soát lại toàn bộ
phong thuỷ của Việt Nam. Đó là đất đai, sông núi. Chúng ta phải xem tất cả những
đại huyệt ấy, đại huyệt nào tắc, huyệt nào bị yểm, huyệt nào chưa thông, bị phá,
chỗ nào phải phục long, đảo long, khai long… Nhưng họ đã không làm được. Toàn
mất thời gian đi xem gọi hồn gọi cốt, tìm mộ tìm mung. Tôi còn dặn thêm: Anh ơi!
Mời các ông này để phục vụ sơn hà xã tắc nhưng phải mở ngoặc đơn, nói với các
ông bà ấy đứng trong hậu trường. Chứ đừng đòi ngồi vào ghế Bộ chính trị. Có
nhiều người lầm tưởng, tôi được nhà nước trọng dụng, nay mai được ngồi vào ghế
này, ghế kia, thế là tự nhiên họ thành ra mặc cả. Đã âm thì phải ẩn, đã dương thì
được hiện. Đó là luật. Tiếc rằng, bây giờ không ai hiểu luật. Họ quay sang pháp
quyền. Đạo có 2 phần luật và pháp. Bây giờ người ta thiên về pháp, thích quyền
năng. Còn luật chính là ánh đuốc để soi đường thì người ta lãng quên. Ngay cả tu
phật cũng vậy. Người ta cũng thích pháp quyền hơn. Chứ còn cái giáo lý để giúp
cái tâm đạt đến thông giác ngộ thì lại quá ít.
P.V: Không tham gia Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, vậy bà đứng ở
vị trí nào trên bàn cờ tâm linh Việt Nam?
Bà Phan Oanh: Chức năng của tôi mà tôi thu nhận từ người Mẹ thiên nhiên là:
Mãi mãi con chỉ là một con tốt vô danh làm công việc dẫn đường, một công việc
thật tầm thường nhưng rất khó. Người dẫn đường phải hiểu rõ trước mặt mình là
vực thẳm hay núi cao, bên cạnh mình là hổ phục hay rắn leo. Con dẫn đường lạc
đạo cho bách gia trăm họ, con đắc tội với trời. Con dẫn đúng đường, con được
công được đức. Con khắc cốt ghi xương điều này. Sống, tu cho ra trò. Chết hãy ra
thầy. Ngần ấy từ là toàn bộ ván cờ của tôi. Các ngài đã bày cờ rồi. Đã tiểu tốt lại vô
danh thì có nghĩa trên bàn cờ tôi không có chỗ nào đứng cả. Có một nhà ngoại cảm
trong Sài Gòn 3 lần hỏi tôi: Chị Oanh ơi! Chị có sứ mệnh bày cờ không?”. Tôi bảo:
“Không”. “Chị có chỗ đứng trên bàn cờ không?”. Tôi bảo: “Càng không có”. Các
bạn đi trên đường đạo, có thể đến ngã 3, ngã 5, có thể đến lối rẽ, các bạn có thể
dừng một nhịp. Nếu Oanh có duyên thì chúng ta gặp nhau. Và chức năng của Oanh
là chỉ đường. Và khi Oanh chỉ đường, mời các bạn cứ việc đi. Và nếu như đến cái
chỗ bày cờ, các bạn ngồi vào vị thế, Oanh không có chỗ ngồi trên bàn cờ. Và
không có trên bàn cờ thì người chỉ đường mới có một chút giá trị. Chứ tôi vừa chỉ
đường xong, rồi bảo bây giờ các anh ngồi vào đây nhớ, còn chỗ này là của tôi nhớ
thì chả còn là Oanh nữa rồi.
P.V: 25 năm làm tâm linh, điều gì khiến bà đau đáu, trăn trở nhiều nhất?
Bà Phan Oanh: Điều khiến tôi xót xa là nhà nước Việt Nam thả nổi mảng này. Chả
có ai hướng dẫn. Biết bao người có duyên vì không có người hướng dẫn mà họ đi
lạc đạo, biến luôn Phật thánh thành hàng hoá. Có một chị làm công việc tôn giáo
của sở văn hoá Hà Nội đến gặp tôi để đàm đạo. Tôi có hỏi một câu: “Hỏi thật em
nhé. Nhân danh em làm văn hoá, phụ trách tôn giáo của thủ đô, đã bao giờ em tập
hợp tất cả những bà đồng cao thủ của Hà Nội để nghe người ta nói về đaọ thánh
chưa em?”. Cô ấy đáp: “Em chưa làm”. Tôi bảo: “Thế bây giờ bản thân em quản lý
về tôn giáo mà không nghe người ta nói thì làm sao hiểu được. Không hiểu mà lại
đề ra phương án, hướng dẫn người ta thì càng thật là vô duyên. Cứ mời người ta
đến theo tinh thần học hỏi. Các ông bà cứ nói thoả mái những cảm nhận của mình
về đạo mẫu, đạo bản địa của Việt Nam. Và chúng tôi, nhân danh những người quản
lý của nhà nước, xin chân thành cầu thị học hỏi để xem, để thấy sức mạnh của
đạo Mẫu. Và các vị có thể hiến kế làm thế nào để đưa đạo Mẫu thật trật tự. Và cuối
cùng là giữ được cái cốt cách thanh cao, những giá trị rất quý của đạo Mẫu”. Thế
nhưng cô quản lý tôn giáo ấy đã không làm. Chỉ làm một việc này: “Xem ông này
có khả năng tâm linh, ngoại cảm, có đơn vị, cá nhân nào tài trợ không? Có làm gì
ảnh hưởng đến chính trị, an ninh của sơn hà xã tắc không? Có tổ chức phản động
nào núp sau không? Nếu không thì thôi. Chấm hết. Tôi cũng từng được người ta
xem như vậy.
Nếu nhìn đủ một vòng tròn, chúng ta sẽ nhìn được giá trị của các bậc thầy đó. Họ
là con tốt, con mã, con xe, pháo trên bàn cờ thì ta vẫn trân trọng. Nếu tôi là nhà
nước, tôi phải xếp như thế nào để họ có chỗ đứng. Và phải hướng dẫn như thế nào
để trăm họ đừng lạc đường, cứ chớm một tý lại đến thầy bói để hỏi. Khi chơi cờ
mà anh không đủ trí tuệ đánh là anh bí cờ. Bí cờ mà đi hỏi là đánh cờ rất dốt. Cho
nên cái việc đạo, nó chứa đựng những công việc như thế. Chứ việc đạo không phải
là việc xem tướng, xem số, gọi hồn, cầu cúng, tế lễ, giải hạn, ngồi đồng Đó chỉ là
phương pháp thôi. Mà trong cái bầu hồ lô này có hàng tỷ pháp. Lúc nào cần, am
hiểu, anh sẽ nhờ pháp ấy, đó là kẻ thông minh. Chứ nếu không nó nhiễu loạn sẽ vô
cùng khó cho mọi người.
P.V: Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện thú vị này!