You are on page 1of 128

BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG – KỲ I: HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LÁ BÙA YÊU

Tháng Hai 24, 2009 bởi hasuong


BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG

Phóng sự của Hoàng Anh Sướng

Tôi đã từng nghe người ta kể nhiều về phép thuật nèm, chài (bùa mê, ngải lú) thần
bí của những ông thầy mo Mán, Mường trên rừng xanh núi đỏ. Rằng chỉ với một
dúm muối, một đôi đũa, một nhành cây…, họ có thể “bó” cho đôi vợ chồng nọ
đang đứng trước nguy cơ tan vỡ trở nên quấn quyện, khăng khít như thuở ban đầu.
Có thể chia rẽ cặp tình nhân đang say nhau như điếu đổ kia bỗng chốc trở nên hờ
hững, lạnh lùng để rồi … chia ly đôi ngả. Thậm chí, chỉ với một chiếc kim, một
mảnh sắt quấn sợi chỉ ngũ sắc, họ có thể giết chết kẻ thù địch bằng những lời chú
bí hiểm… Để “bảo lãnh” cho tính xác thực của những câu chuyện rùng rợn ấy, có
người còn lôi ra những lời thề rất độc địa khiến kẻ tò mò, đa nghi Tào Tháo là tôi
cứ nhấp nhổm không yên. Và rồi, mặc cho cơn áp thấp nhiệt đới hoành hành, tôi
vẫn xé gió, đội mưa lên xứ Mường Thanh Sơn (Phú Thọ) quyết vén bức màn tâm
linh kỳ bí này.

KỲ I: NHỮNG CÂU CHUYỆN HUYỀN HOẶC VÀ HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LÁ


BÙA YÊU

Buổi trưa hôm ấy, tôi và nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đẫm mình mấy mươi
năm trong nền văn hoá xứ Mường Phú Thọ, dùng cơm trưa ở nhà khách UBND
huyện Thanh Sơn. Anh Tạ Văn Ngọ, trưởng phòng văn hoá huyện tay rót rượu mời
khách, miệng xởi lởi: “Chuyện bùa mê ngải lú tôi cũng nghe nhiều rồi, thực hư thế
nào, tôi chưa dám kết luận. Riêng chuyện nèm chữa bệnh cho người và gia súc,
nhất là nèm chữa bệnh trâu bò bị dòi bọ, nèm chữa hóc, nèm trừ sâu hại hoa màu…
thì tôi tin”. Rồi anh kể: cách đây vài năm, một gia đình cùng xóm với anh có con
trâu bị bệnh dòi, chữa bao nhiêu thuốc cũng không khỏi. Chị vợ bèn đến nhà ông
thầy mo trong làng nhờ chữa bằng bùa chú. Ông thầy mo ngồi xếp bằng, thủng
thẳng hỏi: trâu bị bệnh lâu chưa? loét chỗ nào? rồi bảo “khổ chủ” về đi, về mà nhặt
dòi bọ. Chị nọ bán tin bán nghi, chân thấp chân cao chạy. Về đến nhà thì eo ôi, dòi
từ vết loét ở cổ trâu nhung nhúc chui ra hàng vốc. Vài ngày sau, lành tịt. Hai vợ
chồng sướng rơn, vội vàng sắm sanh chút lễ mọn đến tạ ơn thầy. Chuyện nữa: anh
Hoàng Bá Tân, con của “nhà bùa chú” nổi tiếng Hoàng Bá Huân ở xã Tân Phú có
những bài nèm chữa một số bệnh hiểm nghèo. Đứt tay chảy máu, nhọt sưng mưng
mủ, anh chỉ cầm con dao cùn hà hơi niệm chú rồi chí chí vào đó, vài ngày nhọt to
như cái chén xẹp ngay. Mới đây, anh niệm thần chú chữa khỏi bệnh viêm gan nặng
cho một người ở làng Hoàng Xá. Nhờ đó, anh được mời đi báo cáo điển hình về
cách chữa bệnh bằng phương pháp dân gian ở Hội nghị y học dân tộc tỉnh Phú
Thọ.

Nhà văn gầy gò Nguyễn Hữu Nhàn thì nhỏ nhẻ góp một chuyện khá rùng rợn.
Chuyện rằng: ông có một người bạn đồng hương quê Tứ Xã (Lâm Thao) dạy học
nhiều năm ở xã Lai Đồng (cách Tân Phú 30 km). Một lần chứng kiến một anh
Mường có vợ lâm bệnh trọng chết. Thay vì lo ma chay, anh này cứ dí mũi xuống
xác vợ… hít lấy hít để. Hỏi dân làng mới biết, anh này vì xấu xí, lại nghèo nên
phải nhờ người nèm mới lấy được vợ. Do bỏ bùa mê thuốc lú để lấy cưỡng bức nên
khi một người chết thì người kia sẽ phải chết theo do chưa biết hoặc chưa kịp đón
thầy đến “ké nèm” (giải bùa chú). Sau này, ông được cụ Hoàng Đức Sin, 80 tuổi,
người Mường xã Tân Minh giảng giải thêm rằng: Nếu nèm để lấy vợ mà sống yêu
thương nhau thì không sao. Còn nếu nèm để cưỡng bức nhau sẽ bị quả báo tức thì.
Vì vậy, khi một người đột tử thì người kia phải hít hơi tử thi cho đến khi thầy đến
cởi cho mới thoát.

Cuộc đời cụ Sin là cả một pho huyền sử về phép thuật nèm chài. Cụ vốn là thầy
cúng nổi tiếng cả vùng, đã từng được cấp sắc chánh thượng thừa, cấp bậc cao nhất
trong nghề thầy cúng. Muốn lên được cấp bậc này phải qua các sắc tiểu thừa, trung
thừa, đại thượng thừa và trung thượng thừa. Là người ăn to nói lớn, cụ cứ choang
choang kể: “Ngày xưa, bác là cán bộ xã, làm chủ nhiệm HTX nhiều năm đấy. Vì
làm cán bộ, không được đi cúng, không được nói đến chài, nèm nên có lão giở trò
ma nèm vợ bác, khiến bà ấy bỏ chồng, bỏ con đi theo hắn. Giận quá, bác gọi hắn
đến nhà vãi (bố mẹ vợ) vỗ ngực, chỉ mặt hắn: “14 tuổi tao đã là thầy cúng. Mọi
pháp thuật người Mường tao không lạ. Nếu ngươi không đón người ké nèm để tao
phải ra tay thì chớ có trách…” Kẻ cướp vợ mặt xanh đít nhái quỳ sụp xuống, lạy cụ
như tế sao. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn hỏi: “Thế cụ có giận cụ bà không?” Cụ Sin
xua tay cười hớ hớ: “Ô không! Đấy là nó nèm cho mê mẩn mà theo nó thôi. Khi bà
ấy về, khóc lóc xin tha thứ, bác không mắng nửa lời, vẫn sống tốt với nhau đến tận
bây giờ đấy”. Nhà văn lại hỏi: “Người Mường xưa có thể nèm cho trai gái yêu
nhau. Vậy có thể nèm cho nhân tình nhân ngãi, bồ bịch bất chính chán nhau không
hả cụ?”. “Được chứ!”. Cụ Sin nói rồi vỗ vỗ vào vai nhà văn: “Hôm nào đến đây
bác dạy cho bài ké nèm mà về xuôi cứu nhân độ thế cho vợ chồng không bỏ nhau”.

Tôi ngồi nghe chuyện mà người cứ mê đi. Càng nghe ruột càng nóng như lửa đốt,
những muốn có phép thần để bay ngay lên xứ Mường. Bữa rượu vừa tan, tôi vội vã
lên xe phóng thẳng. Chặng đường từ thị trấn Thanh Sơn (Phố Vàng) lên Thu Cúc
dài chừng 30 km bóng nhoáng, phẳng lỳ. Tay vít ga, mông uốn lượn theo những
đường cong mềm mại, tôi cứ mắt tròn mắt dẹt. Sao đường miền núi lại “ngon” thế?
Sao tiếng là vùng sâu vùng xa nhất của huyện Thanh Sơn tưởng là xác xơ, tiêu điều
mà lắm nhà lô cốt bê tông thế, trên nóc lại còn chềnh ễnh con ăng-ten chảo pa-ra-
bôn giá đến vài triệu đồng. Các quán cà phê giải khát mọc san sát. Thi thoảng lại
bắt gặp biển hiệu “karaoke” to đoành. Thế mới oách! Thì ra cái “anh” văn minh đã
tràn cả lên rừng xanh núi đỏ rồi.

Đến địa phận xã Tân Phú, tôi tạt vào một quán bia hơi bên đường. Cô chủ quán
ngực thây lẩy, mông ưỡn ẹo đon đả chạy ra. Trong quán, một tốp thanh niên
Mường chừng chục cô cậu đang tíu tít cụng ly, đùa cười rôm rả. Chỉ mất vài câu
đưa đẩy, tôi đã trở thành khách quý của họ. Biết tôi có ý định tìm hiểu phép thuật
nèm chài, Thuỷ, cô gái Mường có nước da đen giòn với nụ cười hoa tươi tắn lúng
liếng bảo: “Anh đến đúng ổ bùa ngải của người Mường chúng em rồi đấy. Đẹp giai
thế này, không sợ bọn em bỏ bùa mê cho mất đường về quê mẹ sao anh?”. Tiếng
cười ré lên. Cậu thanh niên Mường tên Khoẻ, xã Mỹ Thuận, phô hàm răng bàn
cuốc gắt gỏng: “Chúng mày có im đi không! Cứ đùa để anh ấy sợ”. Quay lại phía
tôi, Khoẻ trùng giọng: “Nèm chài của người Mường chúng em là có thật, lưu
truyền từ đời xửa đời xưa. Mẹ em cũng biết nèm đấy, nhưng cụ chẳng làm bao giờ
cả. Cụ bảo, làm cái đó thất đức lắm. Bữa trước, có mấy anh nhà báo dưới Hà Nội
lên đây tìm hiểu viết bài. Hỏi han linh tinh vài câu rồi về phịa cả một trang báo dài.
Toàn bịa đặt, xuyên tạc cả. Lại còn riết róng tố cáo người Mường chúng em loè
bịp, chặt chém khách moi tiền, rồi thì mê tín dị đoan khiến dân tình bất bình lắm.
Nếu anh thực sự muốn tìm hiểu phép thuật thần bí này, em sẽ đưa anh đi”. Thấy tôi
còn bán tin bán nghi, Khoẻ căn vặn: “Anh chưa tin phải không? Thế em hỏi anh
nhớ, đôi vợ chồng nọ vừa chiều qua đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Vợ tru tréo chửi
chồng, chồng vác dao rượt đuổi vợ, tưởng chém giết nhau đến nơi. Đùng một cái,
sáng hôm sau, lại thấy cô vợ hớn hở quay về, ríu rít anh anh, em em như chưa từng
có chuyện đánh đấm. Thế không nèm thì là gì? Hay như cô S. Thị Nở ở cầu Mịn
kia kìa. Xấu người, lại xấu cả nết. Lấy chồng, đẻ được 2 đứa con gái, chồng chán,
nó bỏ. Thế mà anh Tuấn, chủ thầu xây dựng dưới Hà Nội, đẹp trai, lắm tiền, vợ
đẹp như tiên, lại chết mê chết mệt S. Hai đứa ăn ở với nhau như vợ chồng. Năm
ngoái, lại còn bỏ tiền xây dựng cho S. một ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh ở mặt
đường. Chuyện này, cả huyện Thanh Sơn biết. Em hỏi anh, thế không phải nèm thì
là gì?”. Tôi gật gù lia lịa. Khoẻ hứng chí bảo: “Kể tên những người biết nèm ở đây
thì đầy dẫy. Này nhé: Bà Nhàn ở xóm Bưng (xã Minh Đài), thầy mo Thục, thầy
Cửu, thầy Thắng, bà Phúc, bà Chối, bà Miến ở Mỹ Thuận, thầy Hà Văn Bày ở thôn
Mai Thịnh (xã Địch Quả), ông Hà Văn Bằng, ông Hoàng Bá Huân ở Tân Phú… Ôi
dào! Nhiều lắm! Nhưng theo em, nổi tiếng nhất vẫn là thầy mo Thục. Thầy cao tay
lắm. Ngày nào cũng có người đón thầy đi cúng giải hạn, cúng đàn chay phá ngục
cho những nhà chết trùng tang, làm bùa ghét, bùa yêu… Đùi gà gia chủ lễ tạ, cả
nhà thầy ăn chẳng hết. Hôm nọ, vợ chồng anh Tân ở Mỹ Thuận có đôi lợn nái xổ
chuồng, táo tác đi tìm cả ngày chẳng thấy. Bí quá mới đến nhờ thầy Thục. Ông
Thục nhận lời, thắp hương, khấn vái rồi đi bộ lên trên dãy núi Cụt trước mặt anh
kia kìa. Ông ấy lầm rầm đọc thần chú rồi hú lên mấy tiếng. Ngay chiều hôm ấy, đôi
lợn ở đâu ủn ỉn mò về. Chuyện này, cả làng đồn rầm rĩ, em không nói sai”. Tôi sốt
sắng hỏi đường đến nhà ông Thục để xin lá bùa yêu. Khoẻ bảo: “Anh là người lạ,
đến nhà, thầy không làm đâu. Để em dẫn đường cho”. Tôi sướng rơn, luýnh quýnh
thế nào bỏ quên cả mũ bảo hiểm ở quán.

Nhà thầy mo Thục nằm chon von trên lưng chừng đồi. Trời mưa, đường trơn nhầy
nhụa, xe cài số 1, ì ạch mãi mới lên đến nơi. Căn nhà gỗ, lợp mái gianh, rộng thênh
thếnh như cái đình, ồn ào tiếng nói cười. Ngày mai, cậu con út của thầy vào Nam
lập nghiệp, gia đình làm bữa liên hoan. Thầy không có nhà. Vợ thầy bảo: Thầy ra
chợ thị trấn mua “canh” (thức ăn). Tôi ngồi chờ. Anh con trai cả tủm tỉm: “Chú
đến đây là đúng địa chỉ rồi. Yên tâm đi. Bất cứ chuyện gì cần, thầy cũng có thể
giúp chú được”. Rồi anh kể, có một cậu thanh niên ở tận Sơn Tây, vợ bỏ đi theo
giai, lên khóc lóc van vỉ nhờ thầy cứu giúp. Thầy nhận lời, làm cho một lá bùa. Ba
ngày sau, cô vợ trở về. Anh chàng mừng rơn. Cảm tạ tấm lòng của thầy, anh đã
biếu thầy 3 triệu. Tháng nào anh ta cũng lên đây một lần để thầy yểm bùa cho tình
cảm vợ chồng thêm bền chặt. Mới đây, có một bà tận Gia Lai – KonTum lặn lội ra
đây. Chồng làm giám đốc, bồ bịch lăng nhăng. Bà vợ đánh ghen, chửi bới, rồi khóc
lóc, nỉ non… đủ hình đủ kiểu mà anh chồng vẫn chứng nào tật ấy. Nhờ bùa của
thầy tôi, cô ấy đã giành lại được chồng. Hôm kia, cô ấy gửi biếu thầy tôi 5 triệu
nhưng thầy chỉ nhận 3 triệu thôi. Cụ cao tay lắm”.

Khoảng 5 giờ chiều, thầy Thục mới về. áo trắng, quần âu, trông thầy phong độ lắm
so với cái tuổi thất thập. Bắn một điếu thuốc lào, lim dim nhả khói, thầy hất hàm:
“Anh từ đâu tới? Có việc gì?”. Tôi liền giả bộ rầu rĩ: “Con là thầy giáo dạy văn
dưới Hà Nội. Vợ con đang lăng nhăng với người khác. Con muốn xin thầy một lá
bùa để kéo vợ con về”. Thầy cười khùng khục: “Anh nói thế nào ấy chứ. Trông
anh đẹp giai lồng lộng, lại hào hoa thế kia, vợ bỏ theo giai sao được”. Tôi rơm rớm
nước mắt, van vỉ: “Bẩm thầy! Con đâu dám nói dối. Xin thầy mau ra tay giúp con,
thầy cứu con không thì con chết mất”. Miệng nói, tay rút tờ năm chục, tôi dúi vào
tuí thầy. Bộ mặt tôi lúc đó trông chắc thảm thương lắm nên thầy hạ giọng: “Thôi
được rồi, thầy sẽ giúp. Bây giờ, anh ghi tên tuổi của anh và vợ anh vào tờ giấy này.
Nhớ phải ghi thật chính xác, nếu không bùa sẽ mất linh”. Ngừng lời, chiêu một
ngụm nước, thầy chép miệng: “Gớm! Các cô cậu dưới ấy bây giờ no lưng ấm cật
nên giậm giựt chân tay. Ngoại tình, bồ bịch khiếp quá. Chẳng riêng gì anh đâu. ối
người làm giám đốc, vụ trưởng mà vẫn cứ bị vợ cắm sừng cho như chơi ấy chứ.
Đấy, vừa chiều qua, một cô sồn sồn tô son trát phấn, người núc nỉu những nhẫn,
dây chuyền đến cầu xin tôi làm nèm cho… 4 ông bồ không ông nào được rời ra.
Dâm đãng đến thế là cùng”. Đang cặm cụi viết, tôi cũng phải bật cười cùng tiếng ồ
lên của mấy chục con mắt đang tò mò nhìn tôi từ nãy đến giờ.

Đón nhận tờ giấy trên tay tôi, thầy Thục khẽ khàng đặt lên ban thờ. Rót đầy ba
chén nước, thắp ba nén nhang, thầy phủ phục xuống phản lầm rầm khấn. Gieo quẻ
xong, thầy sai bà Thục ra vườn hái mấy cái lá và xúc bát muối lên cho thầy. Quay
mặt về phía ban thờ, thầy bắt đầu niệm chú. Cả nhà im phăng phắc. Tôi cố tập
trung cũng không nghe được gì, chỉ thấy môi thầy mấp máy như máy khâu. Khuôn
mặt thầy đỏ bừng như lên đồng. Niệm xong, thầy đưa nhúm lá và bát muối lên sát
miệng, hà hơi 3 lần vào đó. Đưa tôi “bùa yêu” đã được gói ghém cẩn thận, thầy
dặn: “Nhúm lá này anh về chia làm đôi. Một để trong gối anh, một để gối vợ. Còn
gói muối, hàng ngày nấu canh, anh cứ cho vào, cả nhà cùng ăn. Đảm bảo chỉ một
tuần sau, vợ anh sẽ hết tơ tưởng lăng nhăng đến người khác”. Tôi cúi đầu cảm tạ và
cáo từ ra về. Trời nhập nhoạng tối. Biết tôi lên xóm Dùng, xã Thạch Kiệt, cách Mỹ
Thuận chừng 7km, anh con cả thầy Thục gàn: “Chú đừng đi đến đấy. Đường xá xa
xôi, cách trở. Chú cứ nghỉ lại đây với anh, sáng mai đi cũng chưa muộn”. Cả nhà
thầy Thục xúm lại mời nhưng tôi vẫn kiên quyết đi. Bởi ở Thạch Kiệt, có một
người mà như nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã căn dặn tôi hồi trưa: “Muốn biết
tường tận về nèm chài, anh phải gặp cho được ông Hoàng Văn Nhẽo, xóm Dùng,
xã Thạch Kiệt. Chỉ có ông ấy mới có thể giúp anh vén bức màn tâm linh kỳ bí
này”.
KỲ II: DIỆN KIẾN “NHÀ BÙA CHÚ” CÓ … IO VỢ VÀ NHỮNG KHÁM PHÁ
THÚ VỊ VỀ THUẬT NÉM CHÀI
Quả thật, chỉ đến khi rung đùi ngồi uống rượu nghe “nhà bùa chú” Hoàng Văn
Nhẽo kể chuyện bùa mê ngải lú, tôi mới hoàn hồn. Chả là đường đến xóm Dùng
phải qua một con suối. Mùa mưa, nước đầy, suối sâu. Xe vừa lao xuống đã kêu
đánh “ục”. Máy tắt ngỏm. Trời tối bịt bùng. Sương giăng tứ phía. Một mình giữa
núi đồi heo hút. Tôi sởn da gà. Nghiến răng, oằn lưng đẩy xe vượt suối. Một nỗi sợ
hãi mơ hồ. Nhỡ ông Nhẽo không có nhà, lại đất khách quê người, biết ở đâu? Mò
mẫm mãi cũng đến được nơi cần đến. Cất tiếng gọi lạc giọng, mới nghe lời vọng ra
ồm ồm: “Ai hỏi gì tôi đấy?”. Tôi thở phào, chợt thấy thấm thía đến thế câu nói của
cổ nhân: “Mừng như chết đuối vớ được cọc”.

Nghe tôi giới thiệu là người thân của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, ông Nhẽo vui
lắm. Tay rót rượu mời khách, ông nói cười rổn rảng: “Anh cứ ở đây với bác vài
hôm, không ngại gì đâu. Bác ở có một mình thôi mà”. Tôi đưa mắt nhìn. Căn nhà
sàn rộng thênh thếnh, lạnh lẽo như cái đình bỏ hoang. Đồ đạc chẳng có gì. Tài sản
đáng giá nhất chỉ là cái tủ buýp-phê mốc lở và chiếc đài cát-xét Trung Quốc bị mất
nắp. Tôi hỏi: “Thế bác gái cháu đâu ạ?”. Ông Nhẽo cười buồn: “Chết hết, bỏ hết đi
cả rồi. Ngày xưa, bác nèm cho nhiều người đàn bà đẹp mê mình. Nèm cả vợ người
ta bỏ chồng theo mình. Vì thế, về già, trời quả báo, phải ở một mình thế này đấy”.
Được biết, ông Nhẽo đã dùng thuật nèm chài để lấy những… 10 vợ. Sau này,
người thì chết, người thì bỏ ông mà đi. Ông bảo: “Dù có tài nèm đến đâu cũng
không tránh khỏi cái hoạ cô đơn về già”. Vì thế, giờ đây, ông chỉ làm phúc nèm
cho các cặp vợ chồng yêu thương nhau. Nèm cho đàn ông bỏ gái, đàn bà bỏ giai
mà về đoàn tụ với vợ với chồng. Lụi cụi mở nắp chiếc hòm cũ kỹ để ở góc nhà,
ông Nhẽo đưa cho tôi xem một tập vở dày cộm ghi chi chít tên tuổi, địa chỉ những
người vợ bị phụ bạc, những ông chồng bị cắm sừng đến nhờ ông nèm giúp. Tôi lần
giở từng trang. Dễ có đến cả nghìn địa chỉ. Thôi thì đủ cả “4 phương trời mười
phương đất”. Gần thì Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội. Xa thì Hà Tây, Hà Giang, Thanh
Hoá, Nghệ An… Có người ở tận tít tắp trong Bảo Lộc, Lâm Đồng… Xa quá thì
đành gửi ảnh “một nửa của mình” và cả ảnh của kẻ tranh vợ cướp chồng để ông
Nhẽo làm nèm chia cắt.

Ông Nhẽo bảo: “Phép thuật nèm chài của người Mường có từ ngàn năm nay rồi
nên phong phú lắm. Bản thân bác, tu luyện gần trọn một đời, cũng chỉ biết làm có
mấy chục bài. Phép tắc, lề lối thì vô cùng chặt chẽ. Khi nèm, phải đọc thần chú liền
một hơi cho hết bài. Nếu bị đứt đoạn thì phải nghỉ lấy hơi đọc lại. Đọc thầm, tuyệt
đối không cho ai nghe thấy, không cho lưỡi va vào răng. Niệm đủ 3 lần mới hà hơi
vào gạo, muối rồi bí mật bỏ vào nồi cơm, canh để ăn vào, tự khắc sẽ yêu thương
nhau. Nếu muốn bồ bịch bỏ nhau thì niệm thần chú vào một số hạt thóc rồi quải
cho gà nhà người ấy ăn, tự khắc hai người sẽ chán nhau”. Trò chuyện với ông, tôi
mới biết, phép nèm vô cùng thần bí, thần bí đến mức có nhiều chi tiết không thể lý
giải bằng tư duy lô gíc thông thường. Ví như: Vì sao phép màu muốn truyền dạy
người khác phải chọn đúng ngày giờ? Mỗi năm chỉ có vài ngày truyền dạy được?
Có những bài nèm chỉ làm được vào lúc chập tối. Nèm xong phải quay mặt ra
hướng Tây mà thở. Vì sao khi vào mùa ếch nhái kêu thì có truyền dạy đúng bài bản
cũng không thể “khất” (không thực hiện nổi)? Rồi ông say sưa kể về cách nèm cho
chó vẫy đuôi để đến nơi có chó dữ, chúng sẽ mừng như mừng chủ. Rồi cách nèm
nương bùa, nèm để không một người ngoài nào có thể lấy hoa màu nông sản mình
trồng trên nương. Tôi mỉm cười. Thảo nào, lúc ngồi uống rượu, thấy tôi nhấp nhổm
ngó nghiêng con Wave để dưới gầm nhà sàn, ông Nhẽo tủm tỉm: “Anh cứ yên tâm,
cứ ngồi uống cho thoả sức. Đố ai dám sờ mó con xe của anh. Nếu mất, mai bác
đền”.

Nhà bùa chú Hoàng Văn Nhẽo đã đồng ý cho tôi ghi 5 bài thần chú nèm yêu của
ông với điều kiện, tôi không được bật máy ghi âm. Đó là bài: Nèm vào khăn mặt
cho vợ chồng thương yêu nhau. Nèm dò lá thương yêu (Niệm thần chú vào cành lá
rồi thả ra đường. Người mình yêu dẫm phải sẽ tự nguyện theo mình). Nèm phô
nống (Niệm thần chú vào bàn tay rồi vỗ vào vai đối phương, tự khắc người ấy sẽ
mê mình). Nèm lá phai nhạt chán ghét (Dùng cành lá nèm vào làm cho tình nhân,
bồ bịch bỏ nhau). Và bài liếc mắt tìm hiểu (Đọc thần chú xong, liếc mắt đưa tình
làm cho đối phương mê mẩn).

Hỏi về phép thuật chài, ông Nhẽo giãy nảy: “Thất đức! Thất đức! Không nên
truyền cho nhau cái thứ hại người ấy. Vì chài nó nguy hiểm lắm. Mấy làng mới có
một ma chài. Dân Mường có câu: “Trong chài ngoài mõ”. Người Kinh xa lánh mõ
thế nào thì người Mường xa lánh chài thế ấy. Người ta hay dùng sắt để chài. Niệm
thần chú vào sắt rồi quệt vào cây mía, quả cam, vại nước. Người bị hại ăn uống
những thức ấy, tự khắc trong bụng có sắt thôi”. Về chuyện chài, tôi đã được nghe
ông Vũ Đình Hiền, nguyên cán bộ Sở văn hoá thông tin tỉnh Vĩnh Phú (cũ) kể:
Năm 1963, ông được dự một lớp học “Chống mê tín dị đoan để đưa miền núi tiến
kịp miền xuôi” do huyện uỷ Thanh Sơn tổ chức, ông Cao Đức Chính, thường vụ
huyện uỷ phụ trách. Đợt ấy, huyện phát động phong trào nhân dân tố giác những
người biết chài, nèm để bắt đến lớp học tập, cải tạo. Có một người đàn bà ở xóm
Đồng Cỏ, xã Thục Luyện đã chài, hại một anh thanh niên Mường làng Cự Thắng,
lấy vợ ở Thục Luyện. Khi bị phát hiện, người đàn bà độc ác ấy bỏ trốn về xã Giáp
Lai. Công an huyện do ông Đinh Liên Đàm chỉ huy đã truy tìm bắt về huyện.
Trước công an điều tra, mụ đã thú nhận làm chài sắt hại anh thanh niên nọ. Song
mụ chỉ biết chài theo gia truyền chứ không biết cách giải, trong khi bệnh tình của
anh thanh niên Mường ngày càng nguy kịch. Một ông già Mường ở Cự Thắng,
thấy vậy, yêu cầu lãnh đạo huyện và xã viết cam kết không bắt ông đi cải tạo, ông
sẽ chữa chài trước mắt mọi người. Ông Hiền kể: “Tôi thấy ông già bưng ra một
chậu thau nước lã, một cái chày, một dùi gỗ. Viết bùa, thắp hương, đọc thần chú
xong, ông dán bùa vào chày gỗ rồi để vào bụng anh thanh niên nọ, vung dùi đập
đánh “bốp” một cái. Anh kia kêu hét lên, hai tay ôm ngực. Ông già lại để chày lên
ngực, đập tiếp một phát. Anh kia lại hét, giơ tay ôm cổ. Khi ông già đập vào cổ,
anh thanh niên ngã vật xuống. Một cái đinh mười phân bọc trong mảnh vải váy đàn
bà, cuộn bên ngoài bằng chỉ ngũ sắc, bật ra khỏi mồm. Vài hôm sau, lại đi nương
đi rẫy.

Đêm ấy, mãi 12 giờ đêm, tôi mới đi ngủ. Phần vì mệt, phần vì khuya, tôi thiếp đi
lúc nào không biết. Bỗng nghe tiếng “phì, phì” như tiếng rắn hổ mang phun ở ngay
trên đầu, tôi choàng tỉnh giấc, he hé mắt nhìn. Trong ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy
bóng hai người đàn ông chụm đầu vào nhau. Tiếng Mường lầm rầm như từ cõi âm
ty vọng đến. Căng mắt nhìn, tôi nhận ra ông Nhẽo và một người đàn ông lạ mặt.
Anh kia đến xin nèm. Tiễn khách ra cửa, ông Nhẽo trở vào. Tần ngần một lát, ông
cúi xuống thu gọn túi xách, giấy bút, máy ảnh, máy ghi âm… tôi vứt tanh bành lúc
tối. Cả bộ quần áo ướt sũng mồ hôi và nước suối tôi lội hồi chiều. Tay vuốt vuốt
vào ống quần tôi, ông khẽ khàng treo lên mắc. Tôi nằm im, nín thở. Một ý nghĩ
kinh hoàng chợt đến: ông Nhẽo đang nèm tôi. Thì vừa nãy, ông chẳng khoe có
những 10 vợ, 18 người con, gần 40 đứa cháu là gì? Lại khen tôi đẹp giai, đức độ,
ăn nói có duyên… Cớ gì ông không nèm tôi cho một cô cháu gái nào đó? Tóc tôi
dựng ngược. Tim tôi nghẹn lại. Mắt tôi thao láo. Sáng hôm sau, ngồi bỏm bẻm
nhai bánh rán, uống nước chè tươi với ông, tôi mới bật cười. Đúng là “thần hồn nát
thần tính”.

Trên đường trở lại thị trấn Thanh Sơn, tôi rẽ vào Tân Phú thăm anh Hoàng Bá Tân
để hỏi về phép thuật nèm chữa bệnh mà anh đã đi báo cáo ở Hội nghị y học dân tộc
tỉnh Phú Thọ. Rất tiếc, anh Tân đi vắng. Song bù lại, tôi lại được tiếp kiến ông cụ
thân sinh ra anh, ông Hoàng Bá Huân, nổi tiếng về làm nèm. Ông Huân năm nay
bước sang tuổi 76 nhưng còn tráng kiện, sung sức lắm. Vợ ông ít hơn vài ba tuổi,
trông dáng người, nước da, chắc xưa cũng phải là cô gái Mường xinh đẹp. Tôi hỏi
ông Huân: “Bác gái đẹp thế, ngày xưa, bác có phải dùng nèm mới lấy được
không?”. Ông Huân cười xua tay: “Không! Làng Mường có nhiều người biết nèm
thì khó dùng trò ma ấy. Lộ chuyện ra sẽ bị nhà cô gái đánh cho vỡ mặt”. Bà Huân
xởi lởi: “Tôi thích ông ấy thì lấy làm chồng thôi chứ chẳng phải ai chài nèm gì
đâu”. Rồi bà kể chuyện hồi trước, nhiều đoàn công nhân đến ở đây bị người
Mường nèm trêu nấu cơm không chín, nấu nước không sôi. Mọi bài nèm đều đọc
bằng tiếng Mường. Riêng bài nèm này lại nói bằng tiếng Kinh. Nguyên văn như
sau: “Mày làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày không lên hơi. Mày
lên hơi thì tao chém. úm ta ha khất”. Muốn cho cơm chín thì niệm thần chú: “Mày
làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày lên hơi. Mày không lên hơi thì
tao chém. úm ta ha khất”. Bà Huân giảng giải: “Người ta nín hơi đọc thần chú rồi
phì hơi ra mảnh đóm, vờ vào bếp xin lửa nhưng khua khoắng mảnh đóm quanh nồi
và dưới chôn nồi. Lửa dẫu có đốt đùng đùng cơm cũng chẳng chín được”. Tôi ngỏ
ý muốn xem ông bà biểu diễn. Ông Huân cười: “Thôi, để hôm nào bác biểu diễn
cho anh xem bài nèm ráo ướt. Khi ở trên bờ niệm thần chú thì người chống bè, bơi
thuyền chốc chốc lại ngã ùm xuống sông, làm cho quần áo vừa ráo lại ướt ngay”.
Rồi ông hào hứng kể chuyện làm nèm để bó lại một số cặp vợ chồng khỏi bị tan
vỡ. Ông kể chi tiết chuyện anh Khê ở Tân Phú đã có với vợ những 4 mặt con. Tí
tởn thế nào lại cưới thêm cô vợ lẽ, suốt ngày òm ọp đánh chửi vợ con. Cụ Bằng ở
xóm thấy thế đến nhờ ông Huân “bó” lại cho gia đình họ đoàn tụ. Hẹn một ngày
anh em nhà ấy ăn uống họp gia đình để lựa lời khuyên nhủ, chị dâu anh Khê kín
đáo giấu 3 đôi đũa của vợ cả, vợ hai và của anh Khê vừa ăn xong không rửa đưa
cho ông đem về bó nèm. Ông còn kể chuyện bó nèm cho vợ chồng anh Dũng ở
xóm Mịn. Nghe xong, tôi hỏi: “Cháu sẽ viết báo nêu tên thật của họ, liệu có bị kiện
không?” Ông Huân cười xoà: “Cả làng biết đấy, kiện gì. Hơn nữa, bác làm phúc
đức cho gia đình họ. Bây giờ trong ấm ngoài êm, hiểu ra, họ chỉ biết ơn bác thôi”.
Bà Huân vội nói chen vào, giọng lo lắng: “à! Suýt nữa thì quên. Hôm trước đến
đám ma nhà anh Thọ. Bà Xuân gọi tôi ra nói nhỏ là về nhờ ông, nếu “nèm tơm
thăm” hay “nèm bó đũa” thì làm ơn cởi giúp kẻo một người chết thì cả nhà chết
theo”. Ông Huân bảo: “Không sao. Nhà bà Xuân, mẹ anh Huy ở xóm Quyết Tiến,
tôi nèm bằng muối không sợ nguy hiểm như bó đũa, tơm thăm nên không phải
cởi”. Nói đoạn, ông liền bảo Thuỷ, cậu con út vào buồng mở hòm lấy ra bó đũa
cho tôi xem. Đây là 2 đôi của vợ chồng anh Dũng nhờ ông nèm hồi năm ngoái.
Bốn cái đũa được bó bằng hai mối buộc chỉ đỏ và chỉ trắng. Ông Huân giải thích:
“Muốn nèm bó đũa phải dùng hai loại chỉ khác màu bó chặt đôi đũa ăn cơm của
những người đang “ông chẳng bà chuộc”. Bó đũa ấy phải đem về nhà mình cất kỹ.
Sau 3 năm khi vợ chồng đã khăng khít, phải đem bó đũa đó ra niệm thần chú bài
“ké nèm” (giải) rồi tháo chỉ cho đũa rời ra. Có như thế thì một người chết, người
kia sẽ không hề hấn gì”. Còn “nèm tơm thăm” là lấy được mảnh áo hoặc quần của
2 người đã mặc, niệm thần chú vào rồi cất kỹ. Đây là cách nèm khá bền chặt nhưng
cũng khá nguy hiểm. Lời bài chú rất dài, người khoẻ, đọc một hơi mới hết. Khi vợ
chồng đã gắn bó, để tránh nguy hiểm, phải nèm cởi ra. Đọc lời chú bài ké nèm, hà
hơi vào 2 mảnh vải, đem ra sông, suối, chỗ nước quẩn, rồi thả một mảnh ở dòng
nước chảy xuôi, một mảnh ở dòng nước chảy ngược. Hai mảnh vải cuốn đi hai nơi
sẽ không còn nguy hiểm cho người bị nèm.

Cần sự lý giải về một hiện tượng tâm linh của văn hoá Mường

Trở lại với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đã có hàng chục công trình nghiên
cứu về văn hoá Mường Thanh Sơn. Trao đổi với chúng tôi tại tư thất ở Khu tập thể
Di Lâu, thành phố Việt Trì về vấn đề: có hay không sự linh nghiệm của phép thuật
nèm chài, nhà văn khẳng định: “Chài nèm là có thật”. Theo “Cổ sử Việt Nam” của
Đào Duy Anh thì Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều phép thuật, quyền
năng, phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương. Xứ Mường
Thanh Sơn, đất bản bộ của Vua Hùng còn in đậm phong tục tập quán, lễ nghi tín
ngưỡng, chế độ thổ tù lang đạo, ruộng đất nhà lang…, đặc biệt, những truyền
thuyết dân gian về vua Hùng, về Thánh Tản Viên còn rất nhiều. Pháp thuật thần bí
của người Lạc Việt mà sử sách thời Trang Vương bên Tàu gọi là phương thuật hay
Việt phương nay còn sót lại ở xứ Mường chính là nèm chài, bùa mê ngải lú…
Cách đây bốn năm, trong hội nghị giữa nhóm các nhà khoa học của Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia với Sở văn hoá Phú Thọ bàn về vấn đề
“nghiên cứu văn hoá Mường Phú Thọ”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã tha thiết đề
nghị cần nghiên cứu sớm phương thuật của người Mường để làm sáng tỏ bức màn
tâm linh kỳ bí này song rất tiếc, cho đến nay, vẫn chưa ai đoái hoài tới. Riêng tôi,
lặn ngụp mấy ngày ở xứ Mường Thanh Sơn để viết phóng sự này, không có ý
tuyên truyền về những điều nhảm nhí, mê tín dị đoan… mà đơn giản chỉ là kể một
cách trung thực những điều mắt thấy tai nghe đang lưu truyền trong dân gian để
các nhà khoa học và bạn đọc tham khảo. Chuyện thuật nèm chài linh nghiệm đến
đâu, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đối chứng, tìm hiểu trong thực tế…

Những chuyện kỳ bí về thế giới tâm linh – Kỳ 1


Tháng Sáu 28, 2008 bởi hasuong
Thiên phóng sự đặc sắc của Hoàng Anh Sướng

Nhà báo Hoàng Anh Sướng


Những năm gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, bạn đọc đã biết đến
khả năng đặc biệt: tìm mộ từ xa của các nhà ngoại cảm Việt Nam. Những cái tên
như Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thuý Hoàn, Dương Mạnh
Hùng, Nguyễn Văn Nhã đã ít nhiều trở nên quen thuộc đối với chúng ta. Theo số
liệu thống kê chưa đầy đủ, số hài cốt mà các nhà ngoại cảm tìm thấy trong thời
gian vừa qua đã lên tới vài trăm ngàn. Địa bàn hoạt động của các nhà ngoại cảm
không chỉ dừng ở 61 tỉnh thành mà còn vượt cả biên giới quốc gia, sang tận Lào,
Căm-pu-chia, Trung Quốc. Việc tìm kiếm hài cốt, khi hội đủ duyên may thì ly kỳ,
huyền hoặc như những thiên cổ tích. Song nếu chưa đủ duyên thì khó khăn như tìm
bóng câu, tăm cá, khổ chủ sinh ra bất mãn, ngán ngẩm, chán chường. Chính vì thế
đã xuất hiện những luồng dư luận trái chiều: người được chứng kiến việc tìm thấy
mộ thì hết lời ngợi ca các nhà ngoại cảm, thậm chí còn thần thánh hoá khả năng
đặc biệt của họ, người không tìm được mộ người thân hoặc cố tình không tin thì
phủ nhận sạch trơn, thậm chí còn riết róng tố cáo họ là những kẻ đại bịp, lừa đảo.
Mong muốn có một cái nhìn chân xác về thế giới huyền bí này, suốt nửa năm trời
đằng đẵng, tôi đã theo chân các nhà ngoại cảm lên rừng, xuống biển, đến những
vùng thậm xa xôi để chứng kiến, ghi hình, tìm hiểu công việc làm đặc biệt của họ –
tìm hài cốt. Tôi cũng đã gặp hàng trăm nhân chứng, hàng chục các nhà khoa học
đã và đang nghiên cứu về lĩnh vực tâm linh huyền bí này để thu thập tài liệu,
chứng cứ, kiểm chứng. Thiên phóng sự đặc biệt “Những chuyện kỳ bí về thế giới
tâm linh” là kết quả của những chuyến khoác ba lô vượt rừng, ngược suối ấy.
Hàng trăm câu chuyện ly kỳ, huyền hoặc với hàng ngàn tình tiết hấp dẫn, đầy xúc
động về chuyện nghề, chuyện đời của các nhà ngoại cảm đã được tôi ghi lại một
cách trung thực, sinh động. Khởi đăng thiên phóng sự này, chúng tôi hy vọng rằng
nó sẽ giúp ích phần nào cho các nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến
ngoại cảm trong việc vén bức màn bí mật của thế giới tâm linh kỳ bí. Và cũng có
thể, sẽ giúp cho hàng ngàn những người mẹ, người vợ liệt sĩ sớm tìm thấy hài cốt
của chồng con mình sau mấy chục năm dằng dặc đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông.
Bài 1: Hành trình đi tìm gần 500 hài cốt liệt sĩ ở Tây Nguyên
Cuối cùng, chúng tôi cũng có mặt ở K’Nác, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai sau hành
trình ngót 2 ngày đêm vượt 1.500 cây số bằng ô tô từ Hà Nội. Tây Nguyên vào tiết
thu đẹp nao lòng. Trời ngằn ngặt xanh, mây trắng lốp, nắng vàng rượi, gió mơn
man. Xa xa, dòng suối Đắc- lốp, nơi 41 năm trước đã nhuốm đỏ máu liệt sĩ vẫn rì
rầm chảy giữa cỏ lau ngút ngàn. Ngọn đồi trước mặt, nơi căn cứ biệt kích của địch
chiếm đóng xưa, nay là toà nhà 4 tầng khang trang, trụ sở của lâm trường Kông-
Hà – Nừng. Dưới chân đồi, nơi từng diễn ra trận đánh khốc liệt, gần 500 chiến sĩ
đã vùi xác, giờ chỗ là ao hồ, chỗ là nhà cửa, chuồng trại. Chao ôi cái sự xoá nhoà
khắc nghiệt của thời gian.
Đang miên man nghĩ, bất giác, tôi chợt rùng mình khi nghe nhà ngoại cảm Phan
Thị Bích Hằng, người đang chắp tay trước bàn thờ thực hiện cuộc trò chuyện với
các vong liệt sĩ từ sáng, quay sang chúng tôi nói, giọng nghèn nghẹn: “Liệt sĩ Ngô
Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc công 409, quân khu 5 khóc ghê quá.
Chú ấy bảo: Ngót 40 năm, lâu quá rồi, thời gian đủ để xoá nhoà tất cả, kể cả chúng
tôi, những người đã hy sinh vùi xác thân vĩnh viễn nơi này. Chỉ có các bạn là
những người còn nhớ đến để đi tìm. Còn những người chúng tôi nằm xuống xanh
cỏ để cho họ đỏ ngực, để được thăng quan tiến chức thì có bao giờ họ nghĩ đến
chúng tôi đâu. Giá như họ nhớ đến chúng tôi chỉ một chút thôi và sớm hơn một
chút thôi thì giờ đây, đâu đến nỗi các bạn phải khổ sở và nhất là chúng tôi, mấy
trăm con người phải vùi thịt xương nơi rừng xanh núi đỏ, không một nén hương
tàn. Tôi không nỡ bỏ anh em ở lại núi rừng để mà về quê dù rất thương em trai tôi.
Các em ở đây chúng còn trẻ quá. Hầu hết mới 18 – 19 tuổi đầu. Tôi phải đưa bằng
được họ về với quê. Tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn tìm hài cốt của họ”.
Kỳ 1: Gần trọn một đời tìm anh
Khởi hành gian nan

Nếu không có cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt người anh thân yêu của giám đốc
công ty S-fone Phạm Văn Mẫn thì có lẽ mãi mãi, người đời sẽ chẳng biết gì về trận
đánh khốc liệt vào trường biệt kích của địch ở K’Nác năm xưa. Và chắc chắn, thịt
xương của ngót năm trăm chiến sĩ sẽ vĩnh viễn chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy
ao chuôm, chuồng trại, nhà cửa. Bởi lẽ, trong hầu hết các trang sử của những đơn
vị bộ đội, chẳng có một dòng ghi chép nào nhắc đến trận đánh K’Nác tối ngày
mồng 7 rạng ngày 8 tháng 3 năm 1965 buồn thảm ấy. Bộ đội ta hy sinh quá nhiều.
Máu của các chiến sĩ đã nhuốm đỏ dòng suối Đắc – lốp. Xác các anh phơi trắng
chân đồi. Theo thượng tướng Nguyễn Nam Khánh thì sở dĩ người ta cố tình quên
đi vì sợ bị quy trách nhiệm. Cách hành xử ấy không những có lỗi với các chiến sĩ
đã hy sinh mà còn có lỗi với thân nhân các gia đình liệt sĩ vì sẽ gây rất nhiều khó
khăn cho họ trong việc tìm kiếm hài cốt chồng con mình sau này.

Anh Mẫn thắp hương tại đền tưởng niệm các LS ở K’Nack
Trở lại câu chuyện đi tìm mộ liệt sĩ của anh Phạm Văn Mẫn. Mẫn có người anh trai
tên Phạm Văn Thành, quê ở Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định, lên đường
nhập ngũ năm 1964. Năm ấy, cậu bé Mẫn mới tròn 10 tuổi. Lúc lên xe, anh Thành
đã dúi vào tay Mẫn nắm cơm, khẩu phần ăn duy nhất của anh trước lúc lên đường.
Thương anh, mắt nhoè lệ, lòng quặn đau như kim châm, dao cứa.
Chiến trường ác liệt. Anh đi biền biệt không về. Chẳng một lá thư, một dòng nhắn
gửi. Mẹ đỏ mắt ngóng chờ. Năm 1972, tin sét đánh ngang tai. Anh Thành đã hy
sinh. Cả nhà chết lặng.
Hoà bình lập lại. Nhớ thương anh, Mẫn quyết chí đi tìm. Nhưng biết tìm ở đâu?
Giấy báo tử chỉ vỏn vẹn ghi: “Hy sinh ở mặt trận phía Nam”. Kệ, Mẫn cứ đi. Lúc
bắt xe khách, khi cuốc bộ ngược đường Trường Sơn. Cứ thấy nghĩa trang liệt sĩ là
anh vào. Lần tìm từng tấm bia trên mộ nhưng cái tên Phạm Văn Thành, quê Nam
Định vẫn biệt vô âm tín. Thấm thoắt đã ngót 30 năm. Từ lúc tóc Mẫn còn xanh đến
khi điểm bạc mà thông tin về phần mộ người anh vẫn biền biệt phương trời.
Đúng lúc tưởng như vô vọng nhất thì tình cờ anh gặp được đồng chí Trần Văn
Thức, đồng đội cũ của anh Thành cùng trực tiếp tham gia trận đánh K’Nak. Anh
Thức kể: “Tôi thuộc đơn vị bộ đội chủ lực tham gia hỗ trợ bộ đội Quân khu 5 đánh
Trường biệt kích Tây Nguyên. Súng nổ mở màn lúc 23h 30′ thì chừng vài phút sau,
tôi bị thương cùng với anh Thành. Nhưng mãi đến sáng mới được đưa ra Trạm xá
Trung phẫu, cách K’Nác khoảng 8 -10 km. Tại đây, tôi có nhìn thấy dân công hoả
tuyến đưa đồng chí Thành đi mai táng cạnh trạm Trung phẫu. Vị trí chôn cất thì
không rõ lắm vì lúc đó tôi bị thương nặng, lúc tỉnh, lúc mê”. Thông tin ấy khiến
cho anh Mẫn khấp khởi hy vọng và càng quyết chí đi tìm anh.
Từ đồng chí Thức, anh Mẫn đã gặp gỡ được nhiều nhân chứng vốn từng tham gia
trận đánh K’Nak xưa. Gặp đồng chí Trần Duy Trung thuộc Trung đoàn 95 A, sư
đoàn 325 bộ đội chủ lực, nay đang ở Xuân Trường, Nam Định. Gặp Trung tá Trần
Tấn Ước, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn 409, hiện ở thị trấn Bình Sơn, Bình
Định. Gặp trung tá, anh hùng Nguyên Ngọc Bình nguyên là đại đội trưởng đại đội
1 của tiểu đoàn 409, người được phong anh hùng trong trận đánh K’Nak. Gặp
trung tá Nguyễn Văn ẩm, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn, phụ trách việc chôn
cất các liệt sĩ cùng một số nhân chứng khác. Cả một trận đánh khốc liệt năm xưa
chợt hiện về qua hồi ức của những người một thời vào sinh ra tử ấy.
Vén bức màn bí mật về trận đánh khốc liệt K’Nak
Căn cứ biệt kích K’Nak nằm trên 3 quả đồi chạy dọc Bắc Nam, có nhiều lợi thế
quân sự. Nơi đây đồi núi lô nhô, thuận lợi cho việc xây dựng phòng thủ và bố trí
binh lực, hoả lực, xuất phát tiến công. Lại có nhiều thung lũng sình lầy, có sông Ba
và khe suối bao bọc, cản trở khi bị đối phương tiến công. Mỹ nguỵ đã xây dựng ở
đây một cụm cứ điểm bao gồm đồn luỹ bảo vệ, sân bay dã chiến và trại pháo nhằm
chặn cắt đường giao liên giữa Bình Định và Gia Lai. Quân ta đã nhiều lần tập kích
căn cứ này nhưng đều không thành công. Mùa xuân năm 1963, Đảng uỷ, Bộ tư
lệnh quân khu 5 và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định tập trung lực lượng
trên quy mô lớn tấn công căn cứ này. Lực lượng ta gấp 3 số lượng địch, gồm: Tiểu
đoàn đặc công 409 quân khu 5, một đơn vị đặc công của tỉnh Bình Định, trung
đoàn số 10 và Bộ phận chỉ huy tiền phương quân khu 5. Tổng quân số lên tới gần
750 người.
14h ngày 7 tháng 3 năm 1965, bộ đội ta xuất quân từ Kông-Hà-Nừng, cách K’Nak
hơn 20 km. 18h, cách suối khô 500m. 19h, bắt đầu tiếp cận. Đến 23h, quân ta đã
chiếm lĩnh xong các vị trí quy định. Theo kế hoạch, đặc công mở cửa diệt các vị trí
trọng yếu. Sau đó, bộ binh dùng xung lực mạnh giảI quyết trận địa. Song do quá
trình trinh sát địa hình chuẩn bị trận đánh trước đó một tháng đã để lộ dấu vết nên
địch biết trước kế hoạch tấn công của ta. 23h 30′, bộ đội ta vấp phải mìn nổ, mìn
sáng. Địch lập tức nổ súng trùm lên toàn bộ đội hình của ta. Pháo sáng chúng bắn
sáng rực như ban ngày. Ta tiến công cưỡng hành. Bộ đội ta chiến đấu cực kỳ dũng
cảm, đã đánh chiếm được điểm cao phía Bắc và phía Nam nhưng hướng chủ yếu ở
giữa chỉ chiếm được “đầu cầu”. Lô cốt cố thủ của địch bắn chặn quyết liệt. Đến 0h
30′ ngày 8 tháng 3, quân ta thương vong gần hết. Xác của các chiến sĩ nằm la liệt
trắng cả ven suối và chân đồi K’Nak. Lực lượng còn lại buộc phải rút lui. Địch vẫn
bắn truy kích dữ dội. Gần 500 thương binh và tử sĩ của ta không mang theo được.
Một phần địch gom lại, đổ xăng đốt. Số còn lại, dùng xe ủi đào từng hố hất các liệt
sĩ xuống rồi san phẳng.
Đồng chí Nguyễn Văn ẩm, chính trị viên phó Tiểu đoàn 409, phụ trách công tác
thương binh ở trạm trung phẫu (cách vị trí địch khoảng 8km) cho đào sẵn 50 huyệt
mai táng. Mỗi hàng 10 huyệt, cách nhau 60 – 80cm nhưng duy nhất chỉ mai táng
được 8 đồng chí, trong đó có tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi và liệt sĩ Phạm Văn
Thành. 8 đồng chí này bị thương ngay từ đầu trận đánh nên mới đưa ra được phía
sau. Lực lượng cứu thương và dân công hoả tuyến (đều là người dân tộc) cũng hy
sinh hết cả nên không còn người cấp cứu và tải thương ra cứ được. Nếu tính cả lực
lượng này, hơn 1.000 người đã để lại xương thịt ở trận địa K’Nak.
Cuộc điện đàm… huyền hoặc
Chuyện tìm hài cốt liệt sĩ Phạm Văn Thành giờ tưởng chừng dễ dàng như trong
lòng bàn tay. Nhưng khi đưa các nhân chứng vào K’Nak, anh Mẫn đã bật khóc nức
nở. Ngót 37 năm trời dằng dặc, cảnh vật thay đổi quá nhiều. Trạm trung phẫu trước
kia có 4 cây đa cổ thụ to lắm, che chắn cho trạm xá, nay chỉ còn một cây. Suối
Đắc-lốp giờ đã ngăn dòng làm đập thuỷ điện. Đồng đội cũ của anh Thành giờ đều
tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút nên việc xác định vị trí ngôi mộ rất khó khăn.
Nhiều lần, anh Mẫn phải cầu viện đến các nhà ngoại cảm. 9 nhà ngoại cảm nổi
tiếng từ Bắc chí Nam anh đều đã vời vào nhưng không hiểu sao, người ra đến sân
bay thì cáo ốm xin về, người bước đến cửa rừng thì kêu: “khu rừng này thiêng lắm,
sợ lắm, không tìm được đâu” rồi hớt hải bỏ về. Có nhà ngoại cảm vừa đào đào bới
bới bỗng lăn đùng ra đất, tay ôm chặt đầu lăn lộn, miệng kêu gào: “Ôi! đau đầu
quá! Đau quá”. Lần cuối cùng, ngày 26 tháng 12 năm 2001, nhà ngoại cảm
Nguyễn Khắc Bảy cùng anh Mẫn đi Tây Nguyên. Trước khi đi, nhà ngoại cảm
bằng khả năng đặc biệt đã cung cấp những thông tin ban đầu khá chính xác:
– Nơi liệt sĩ Thành nằm còn có 7 người nữa.
– Khu mộ cách con suối từ 20 – 50m, có nhiều bụi rậm, trong đó có một cây
cụt.
– Anh Thành nằm hàng thứ 2, ngôi thứ 2 từ phải qua trái. Ngôi đầu, hàng
đầu là một người chỉ huy.
Nhưng vào làm việc tại thực địa, nhà ngoại cảm cho khai quật một số điểm đều
không thấy. Tranh luận nổ ra. Một số người trong đoàn giảm niềm tin và chán nản.
Lúc đó, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy mới gọi điện thoại di động trao đổi với
thiếu tướng Nguyễn Chu Phác – chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên
cứu tiềm năng con người), rồi chuyển điện thoại cho anh Mẫn trực tiếp nói chuyện.
Từ Hà Nội, thiếu tướng Chu Phác hỏi: “ở đấy ai là Thành?”. Anh Mẫn đáp: “Thưa
chú! Thành là anh ruột cháu. Anh ấy là liệt sĩ. Chúng cháu đang tìm nhưng không
thấy”. Thiếu tướng lại hỏi: “ở đấy có ông chỉ huy tên Ngô Trọng Đãi đeo súng
ngắn hy sinh không?”. “Thưa chú! Chú Ngô Trọng Đãi là tiểu đoàn trưởng, hy sinh
cùng anh cháu”. Thiếu tướng bảo: “Ông ấy đeo súng lục, tay cầm cái gậy, đuổi các
cậu về và nói: ở đây có hàng trăm liệt sĩ, chúng nó không tìm mà chỉ nhăm nhăm đi
tìm một người là Thành – anh nó thì không cho tìm”. Thiếu tướng trùng giọng:
“Thôi! Các cậu về đi. Về ngay để nghiên cứu, tổ chức lại cuộc tìm mộ này”.
Ngày 20 tháng 2 năm 2002, anh Phạm Văn Mẫn đã làm một lá đơn gửi Bộ môn
cận tâm lý và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người nhờ giúp đỡ tìm mộ anh
trai và đồng đội ở K’Nak. Hơn một tháng sau, Bộ môn đã cử một đoàn công tác
đặc biệt gồm 3 nhà ngoại cảm nổi tiếng: Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thuý Hoàn,
Nguyễn Khắc Bảy do Đại tá Hàn Thuỵ Vũ phụ trách trở lại Tây Nguyên. Anh
Phạm Văn Mẫn đã trực tiếp mời Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó
tư lệnh quân khu 5 cùng nhiều nhân chứng khác tham gia đoàn. Trước khi lên
đường trở lại chiến trường xưa, Đoàn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng
khả năng đặc biệt đã mời vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng và
vong linh liệt sĩ Phạm Văn Thành về nhà riêng ở Khu tập thể Kim Liên để xin ý
kiến. Cuộc trò chuyện kéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ trong bảng lảng hương khói và
nước mắt với rất nhiều thông tin của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi đã mở ra hướng đi mới
cho việc tìm mộ tập thể liệt sĩ ở Tây Nguyên.
Kỳ 2: Bí mật dưới dòng Đắc-lốp
“Tìm liệt sĩ tiếng lòng vẫy gọi
Đánh thức lương tri của mỗi con người
Ai đem hạnh phúc cho đời
Nhớ người chiến sĩ quên mình năm xưa”
Trò chuyện với…vong linh liệt sĩ
Nhà ngoại cảm Bích Hằng đang “trò chuyện” cùng các LS tại K’Nack
Cuộc “gặp gỡ” kỳ lạ đượm chất “liêu trai” giữa nhà ngoại cảm Phan Thị Bích
Hằng và vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, Phạm Văn Thành đã diễn ra vào hồi 16h
ngày 26 tháng 3 năm 2002 tại căn phòng nhỏ của chị ở khu tập thể Kim Liên, Hà
Nội. Tham gia cuộc gặp gỡ có thiếu tướng Chu Phác, chủ nhiệm bộ môn cận tâm
lý, thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, Đại tá Hàn Thụy Vũ và anh
Phạm Văn Mẫn. Trong không khí tĩnh lặng, thiêng liêng phảng phất hương trầm,
trước di ảnh của hai liệt sĩ, nhà ngoại cảm tay chắp trước ngực thành kính, giọng
đầy xúc động: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Phạm Văn Thành! Hôm nay là
ngày 26 tháng 3 năm 2002, cháu Phan Thị Bích Hằng cùng anh Phạm Văn Mẫn là
em của liệt sĩ Phạm Văn Thành, Thiếu tướng Chu Phác, Đại tá Hàn Thuỵ Vũ muốn
được mời bác và anh Thành về. Xin hỏi bác những thông tin có liên quan đến trận
đánh căn cứ biệt kích K’Nak và đặc biệt là nơi mai táng cũng như tình trạng hiện
nay của các liệt sĩ tại K’Bang”. Ngừng lời như kìm nén niềm xúc động, mắt vẫn
dõi nhìn vào tấm ảnh đã ố vàng của liệt sĩ Đãi, chị đằng hắng giọng rồi nói tiếp,
giọng run run: “Thưa bác Đãi! Nhiều năm qua, anh Mẫn đã bỏ ra rất nhiều công
sức, tiền của để đi tìm mộ anh Thành tại khu rừng mà mọi người chỉ dẫn là nơi đặt
trạm trung phẫu 37 năm về trước mà không đạt kết quả. Hôm nay, xin phép bác và
anh Thành cho anh Mẫn được thưa chuyện. Mong được hai người chỉ dẫn”.
Anh Mẫn: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Thành! Nhiều năm qua, đã mấy chục
lần cháu đi tìm anh cháu và các bác ở K’Bang. Lần gần đây nhất là tháng 12 năm
2001. Mặc dầu đã được các nhân chứng chỉ chỗ chôn cất các bác, cháu đã khai
quật nhiều lần mà vẫn không thấy. Lần này, trời run rủi cho cháu được gặp nhiều
đồng đội cũ của Bác, những người trực tiếp chỉ huy trận đánh, trực tiếp chiến đấu
và mai táng như bác Nguyễn Văn ẩm, bác Trần Duy Trung, bác Nguyễn Trọng
Bình, Châu Khải Địch, Nguyễn Văn Cán, Nguyễn Minh Sang, Trần Tấn Ước…
Đặc biệt chuyến đi tới còn có Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh cùng nhiều
thành viên khác. Cháu mong bác và anh linh thiêng hướng dẫn thêm để chuyến đi
này đạt kết quả như mong muốn”. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sau một
hồi chăm chú nhìn bức ảnh liệt sĩ Đãi và lắng nghe, miệng “dạ, vâng” liên tục như
thể hai người trần đang trò chuyện với nhau, đã quay sang anh Mẫn để truyền đạt
lại lời của liệt sĩ (từ đây xin ghi là liệt sĩ Đãi – tác giả). “Tôi không nỡ bỏ anh em ở
lại núi rừng để về quê hương dù rất thương em trai tôi. Cả Thành cũng vậy, dù rất
thương cậu xong cũng không thể về một mình mà để lại đồng đội đâu Mẫn ạ. Lần
nào cậu vào đào bới chúng tôi đều biết hết. Sự hiện diện của cậu ở K’Bang bao
nhiêu năm nay ở núi rừng K’Bang là nguồn động viên an ủi vô cùng lớn đối với
linh hồn các liệt sĩ. Như vậy là vẫn có người nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi vẫn còn
có cơ hội về quê. Nhưng cậu chỉ đi tìm anh cậu còn để bỏ mặc đồng đội của tôi,
của anh cậu thì làm sao tìm được”. Anh Mẫn: “Thưa bác, những lần đi tìm trước,
cháu có đào đúng chỗ các bác nằm không ạ?”. Liệt sĩ Đãi: “Toạ độ cậu xác định là
đúng nhưng địa điểm cụ thể thì chưa. Phải lùi về phía con suối nữa, nơi có nhiều
cây song le gần sát nước. Trước đây chỗ mai táng chỉ cách suối khoảng 25m thôi.
Đấy là lúc suối cạn. Còn bây giờ suối đã ngập nhiều rồi. Chỗ hồ nước mênh mông
ấy, hài cốt chúng mình ở dưới ấy. Cậu có đủ can đảm lặn xuống đáy không?”. Anh
Mẫn: “Thưa bác, như vậy có nghĩa là các bác nằm ở dưới con suối ạ? Vì ở đó bây
giờ là đập thuỷ điện”. Liệt sĩ Đãi: “Cũng gần như vậy. Duy chỉ có một điều tôi
không muốn nói ra vì nếu nói, sẽ chẳng ai vào đây với chúng tôi nữa. Thôi, dù sao
cũng cố gắng vào với chúng tôi đi. Tôi muốn gặp lại những đồng đội cũ của tôi còn
may mắn sống sót sau trận đánh ấy và cũng để cho họ được một lần trở lại chiến
trường xưa”. Anh Mẫn: “Vậy có cách nào để xả con suối đó không ạ?”. Liệt sĩ
Đãi: “Thế tôi mới hỏi cậu”. Anh Mẫn: “Bác Đãi ơi! Bác hãy giúp cháu. Cháu sẽ
xin xả đập nước. Nhưng nếu chính quyền họ bắt cháu thì sao. Xin bác và các liệt sĩ
giúp cháu”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu làm vì việc nghĩa thì không ai dám hại cậu đâu, miễn
là hợp lý, hợp tình. Nhưng có một điều tôi muốn nói với cậu. Tôi sợ cậu lực bất
tòng tâm. Tìm các liệt sĩ còn muôn vàn gian khó đấy. Nhiệt tình không chưa đủ. à,
mà cậu đã qua Vĩnh Thạnh bao giờ chưa?”. Anh Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Thưa bác,
sao lại phải qua Vĩnh Thạnh xa xôi thế ạ?”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu dốt lắm. Không qua
Vĩnh Thạnh thì chuyến đi của cậu còn có ý nghĩa gì. Kiểu gì cũng phải qua đó thắp
hương. Các liệt sĩ quê ở đó nhiều lắm và còn nhiều lý do khác nữa, sau này mới
hiểu”.
Anh Mẫn còn đang vân vi về lời dặn của liệt sĩ Đãi thì vong linh của liệt sĩ Thành
về, nói qua nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Anh không biết nói gì thêm với
em cả, chỉ mong sớm được cùng em về với quê hương, cha mẹ. Khi đi em nhớ thắp
hương xin phép tổ tiên để các cụ phù hộ cho em nhé. Nhà mình còn một ông chú
chết trẻ nữa đấy. Chú trách là không bao giờ nói gì đến chú cả. Lần này em phải
nhớ. Anh và bác Đãi sẽ phù hộ cho em”.
Chị Hằng tay vẫn chắp trước ngực, nói: “Thưa bác Đãi! Thưa anh Thành. Lần này,
anh Mẫn tổ chức đoàn đi tìm kiếm các liệt sĩ tương đối quy mô. Có sự tham gia
của nhiều nhân chứng, sự giúp đỡ của quân khu 5, của địa phương tỉnh Gia Lai và
các nhà ngoại cảm thuộc Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con
người. Thành phần này rất đầy đủ và chuẩn bị rất công phu. Cháu mong các bác
hãy phù hộ giúp đỡ cho đoàn đi tìm kiếm đợt này đạt được như ý muốn. Cháu cảm
ơn bác Đãi, anh Thành và cảm ơn các liệt sĩ”.
Cuộc nói chuyện kết thúc vào hồi 17h nhưng mọi người còn bịn rịn chưa muốn về.
Ai cũng băn khoăn trước những câu nói khó hiểu của liệt sĩ Đãi: “Nếu tôi nói ra sẽ
chẳng ai vào đây nữa”. “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi của cậu sẽ chẳng
còn ý nghĩa gì” và “Cậu có đủ can đảm mò xuống dưới suối không?”. Có gì ẩn
chứa trong những lời nói ấy? Câu trả lời vẫn còn ở phía trước, tận núi rừng Tây
Nguyên xa xôi, hùng vĩ khiến tất cả mọi người cứ khắc khoải như chính linh hồn
các liệt sĩ đã từng khắc khoải đợi chờ suốt 37 năm dằng dặc.
Nước mắt giữa rừng sâu
Trở lại chiến trường xưa tìm đồng đội
Ngày 27 tháng 3 năm 2002, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trên đường đến K’Nak,
đoàn rẽ vào Nghệ An, Đà Nẵng đón thêm một số nhân chứng, trong đó có bác Ngô
Trọng Quang là em ruột của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tổng cộng khoảng hơn 40
người, do Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh làm trưởng đoàn. Ba ngày sau, tại
núi rừng K’Bang âm u, trùng điệp, tại chính mảnh đất đã thấm đẫm máu của ngót
500 chiến sĩ đặc công anh hùng, những người lính đã một thời vào sinh ra tử trong
trận đánh khốc liệt K’Nak, sau 37 năm trời đằng đẵng, nay tóc bạc da mồi, bồi hồi
xúc động kể lại kỷ niệm xưa. Nước mắt lăn dài, khói hương nghi ngút, những tiếng
nấc nghẹn ngào cứ bật ra. Trung tá Nguyễn Văn Cán, 70 tuổi, sụt sùi kể: “Lúc đó
trận đánh rát quá, quân ta thương vong quá nhiều nên tôi phải liên lạc và báo cáo
cấp trên bằng bộ đàm. Đang báo cáo thì anh Ngô Trọng Đãi giật lấy máy từ tay tôi
để xin ý kiến chỉ đạo. Đúng lúc đó, một quả pháo cối của địch bắn trúng anh.
Bụng anh bị vỡ, máu chảy ồ ạt, ruột gan tòi hết cả ra ngoài. Tôi phải xé quần áo
buộc chặt. Dân quân hoả tuyến vội vàng đưa anh về trạm trung phẫu cấp cứu
nhưng không kịp. Đau xót và thương lắm các đồng chí ạ!”. Nói đoạn, trung tá Cán
bật khóc nức nở như thể đang đứng trước trận chiến năm nào, đầy xác và máu
đồng đội.
Các nhân chứng đang xem lại sơ đồ trận đánh để xác định vị trí trạm trung
phẫu
Trung tá Nguyễn Văn ẩm, 74 tuổi, nhân vật trung tâm của chuyến đi vì ông là
người trực tiếp chôn cất liệt sĩ Đãi, Thành và 6 đồng chí khác nhớ lại: “Tôi đào sẵn
50 hố. Mặc dù số lượng hy sinh quá nhiều so với dự kiến nhưng cuối cùng cũng
chỉ đưa về mai táng được 8 đồng chí thôi. Sợ địch phát hiện nên chôn cất xong
chúng tôi phải san phẳng ngay. Kể lại thì xót xa lắm. Lúc đó vì khó khăn nên mai
táng các đồng chí ấy chẳng có quan tài, áo mưa hay tăng võng gì sất. Chỉ vỏn vẹn
có 4m vải xô trắng quấn qua loa. Nếu tìm thấy bây giờ thì xương cốt chắc cũng
chẳng còn gì nữa”.
Trung tá Nguyễn Minh Sang, người trực tiếp tham gia trận đánh, sau này đã từng
bám trụ chống lại bọn lâm tặc phá rừng, nơi đồng đội của bác đã đổ xương máu,
hiện đang sống tại K’Bang thì vừa khóc tu tu, vừa nói: “Phải tìm bằng được các
liệt sĩ rồi sau này có chết đi cũng không có gì phải áy náy. Chừng nào chưa tìm
được các anh thì rừng này vẫn phải giữ nguyên không ai được chặt phá. Trong khi
chúng ta còn sống thì bằng mọi cách, phải đưa các anh trở về với quê cha đất mẹ”.
Bí mật dưới hồ Đắc-lốp
Suối Đắc Lốp
13h ngày 30 tháng 3 năm 2002, bắt đầu cuộc tìm kiếm hài cốt 8 liệt sĩ tại khu vực
trạm trung phẫu. Trung tá Nguyễn Văn ẩm, do tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút,
cộng với địa hình thay đổi quá nhiều qua 37 năm mưa nắng nên không thể nhớ
được chính xác vị trí trạm trung phẫu cũng như nơi chôn cất 8 liệt sĩ. Cả ba nhà
ngoại cảm là Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy và Thẩm Thuý Hoàn thì đều
kêu ở đây nhiễu quá, mất hết thông tin, không ai gặp được vong. Lực lượng bộ đội
và dân quân đào một số đoạn hào nhưng không phát hiện được dấu vết gì. Một số
dân địa phương, người Ba Na lớn tuổi, chỉ một số điểm khác cũng không trúng.

Vị trí trạm trung phẫu gần suối Đắc-Lốp


Các nhà ngoại cảm đều cố gắng cầu khấn xin gặp vong người chỉ huy cao nhất là
liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Đến 21h ngày 30 tháng 3 năm 2002, tại nhà nghỉ, Thẩm
Thuý Hoàn gặp được vong liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Liệt sĩ dặn: “Triển khai xuống
phía dưới con suối, không nên đào quá lên trên. Hôm nay đã hất một phần, ngày
mai chịu khó bới lại một chút. Từ chỗ đào hôm nay hơi chéo xuống. Vì hài cốt của
chúng tôi không còn nhiều nên khi đào phải chú ý thận trọng một chút. Ngày mai
tìm được các liệt sĩ khác rồi mới tìm được tôi và anh Thành. Nếu không, các anh
em còn lại sẽ không có ai tìm nữa”.
Cùng thời gian đó, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cũng được “yết kiến” vong
liệt sĩ Đãi. Chị nói thêm: “Người bác rất cần gặp trong ngày hôm nay vì bác đã
xanh cỏ để cho họ đỏ ngực thì không đến để nói một lời chia sẻ với các anh em ở
đây. Bác ẩm là đồng đội cũ nhưng không nói thay được. Khi nghe tin đoàn vào,
anh em liệt sĩ ở đây rất mừng, ra đón rất đông. Nhưng các vị tướng lại không nói
một lời. Sát mép gần bờ suối còn nhiều anh em. Cháu yên tâm không đi nhầm khu
vực. Bác sẽ hiệp đồng với cháu”. Hình ảnh của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi xuất hiện mờ
ảo, rất nhanh nhưng cả hai nhà ngoại cảm đều thu được trùng khớp thời gian và nét
mặt.
Chiều hôm sau, đoàn tìm kiếm quay trở lại rừng. 13h, cùng một lúc, chị Hằng và
Hoàn đều reo lên: “Bác Đãi về kìa”. Việc tìm kiếm khu mộ bắt đầu chuyển hướng
về phía chân đồi, nơi dòng suối Đắc-lốp. Cả đoàn túm vào phát quang hơn 100m
rừng le rậm rạp, mở đường xuống suối. Các nhà ngoại cảm và trung tá Nguyễn
Văn ẩm cùng chung một ý nghĩ: Dòng suối cạn khi xưa nay đã thành hồ nước rộng
gần 100m2 do chính quyền huyện K’Bang ngăn nước tạo đập làm thuỷ điện. Và
kia rồi, một gốc cây cổ thụ bị cưa ngang nổi lập lờ mặt nước. Bằng khả năng đặc
biệt, nhà ngoại cảm Bích Hằng đã xác định được vị trí của 8 liệt sĩ đang nằm dưới
lòng suối, rồi cho người cắm cọc theo các trật tự như sau: Liệt sĩ Đãi, Tất, Được,
Tuyển, Hưởng, Bình, Thành và Công. Liệt sĩ Đãi là tiểu đoàn trưởng, người chỉ
huy cao nhất nên được an táng đầu tiên. Người được an táng cuối cùng là liệt sĩ
Công, trẻ nhất.
Bích Hằng thắp hương tại vị trí đang khai quật để nói chuyện với các liệt sĩ. Liệt sĩ
Đãi yêu cầu gặp bác Lại (em trai). Liệt sĩ nói (qua Bích Hằng): “Em mới vào đây
thì biết gì đâu. Không đào chỗ này nữa. Cô Lệ dạo này ra sao?”. Bác Lại đáp: “Cô
Lệ đã lấy chồng là thương binh anh ạ”. Liệt sĩ Đãi: “Trước đây, anh có người yêu
tên Lý, quê ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, làm giáo viên, quen nhau ở lớp học bình dân.
Cô ấy đã tình nguyện quan hệ với anh một lần. Lúc đó, hai đứa có bàn với nhau:
Nếu con gái đặt tên là Hoài, con trai đặt tên là Nhơn. Nhưng trong túi anh lúc nào
cũng có ảnh của cô Lệ ở quê mình đã dạm hỏi ý. Rất tiếc là lúc chôn anh, bác ẩm
đã không chôn bức ảnh cùng. Giỗ anh vào ngày mồng 7 tháng 3 chứ không phải
mồng 8. Làm lệch ngày, anh về, không có nén hương, anh tủi thân. Vị trí các anh
em liệt sĩ ở đây là: Đãi, Tất, Được, Tuyển, Hưởng, Bình, Thành, Công. Nếu anh
Chương (đồng chí Nguyễn Huy Chương, nguyên chính trị viên trưởng tiểu đoàn,
người quyết định trận đánh – tác giả) mà có trách nhiệm đến thăm anh em ngay từ
khi hoà bình lập lại thì có biết bao nhiêu anh em đi theo ủng hộ, chứ phải đâu như
bây giờ. Nơi này tắm máu anh em xong để đấy. Y cụ, xong nồi, chảo vẫn ở dưới
suối”. Liệt sĩ Thành nói chen vào: “Lúc nãy bác Đãi thấy bác Lại cứ đi vòng quanh
mãi nên bác Đãi thương quá mà về gặp. Mẫn ơi! Chỉ cần em vào đây thắp hương là
đủ rồi. Để cho anh ở lại đây. Không phải anh không muốn về. Anh cũng nhớ mẹ
lắm chứ nhưng sợ em lực bất tòng tâm vì anh đang nằm ở dưới làn nước sâu. Chị
Thường nản rồi không vào thăm anh nữa à? Chị ấy là phụ nữ, đi lại vất vả thế, chắc
không chịu được. Có thằng Hải, thằng Đông vào đây là anh vui rồi. Hải nó lớt
phớt, không tin là tìm được anh. Anh chỉ còn rất ít”. Liệt sĩ Đãi nói tiếp: “Khẩu
súng lục anh đeo, lúc vào trạm trung phẫu, vì ruột cứ lòi ra nên đã tháo ra để quấn
băng. Anh chỉ ú ớ được mấy tiếng rồi không biết gì. Cô Lý rất yêu anh nhưng nhà
đã dạm hỏi coi như anh có vợ. Muốn gửi lời xin lỗi cô Lệ đã để cô ấy chờ lâu quá.
Em mang về dù một nắm đất cũng nhắn Lệ đến thăm anh”.
Bích Hằng: “Thưa bác Đãi, cháu xin phép được thỉnh cầu bác lần nữa. Mong bác
cho biết, toạ độ chúng cháu cắm cọc kia đã đúng chưa ạ? Bác có thể chỉ dẫn để
chúng cháu cắm lại. Và bác Lại có đôi lời muốn thưa chuyện với bác”. Liệt sĩ Đãi:
“Đây là cọc đầu tiên và 6 cọc tiếp theo. Nhưng không phải chỗ này, đi tiếp cắm lại.
Được rồi. Bắt đầu từ đấy kéo dài thẳng đến gốc cây. Đây là cây đa che chở cho
trạm trung phẫu”. Bác Ngô Trọng Lại, chắp tay vái lia lịa, miệng mếu máo: “Anh
ơi! Nếu đúng mảnh đất này là nơi lưu giữ xương thịt anh thì anh cho phép tất các
các gia đình thân nhân liệt sĩ ở đây đem nắm đất này về. Mong anh trao đổi với các
anh em và cho biết ý kiến. Điều kiện em rất khó khăn, tuổi cao, sức yếu, khả năng
tài chính eo hẹp. Anh nên về nghĩa trang liệt sĩ Hoà Vang hoặc đài liệt sĩ xãHoà
Thọ quê mình yên nghỉ”. Liệt sĩ Đãi: “Thật ra trong lòng anh đã nghĩ đến điều đó.
Dù sao nơi này cũng có xương máu của anh và đồng đội. Với tình cảm của em và
mọi người dành cho anh thì dù chỉ là một nắm đất cũng đầy đủ ý nghĩa rồi. Hồi
xưa đi hoạt động, anh vẫn thường bảo với em là: Anh hùng xá kể chi thân xác.
Mạng sống của mình còn chẳng tiếc, huống hồ một nắm xương tàn. Thôi thì sinh
thổ hoá thổ. Sinh ra từ đất rồi lại trở về với đất. Với anh em ở đây, về mặt chỉ huy
anh có thể nói được. Nhưng tình cảm cá nhân thì mỗi người một ý, anh không thể
quyết định thay được. Riêng anh, anh đồng ý theo em về. Em mỗi tuổi mỗi yếu, đi
lại nhiều, thương lắm. Quê mình là Hoà Nhơn sao bây giờ là Hoà Thọ. Dù về nghĩa
trang xã hay huyện đều được còn như thế này coi như anh được thuỷ táng dưới
lòng suối với anh em. Cậu Tuyển, Được cũng sẵn sàng về. Còn các anh em khác
đang lưỡng lự. Em có thể bốc một nắm đất sát bờ suối. Còn vị trí vừa cắm cọc là
có anh nằm ở dưới. Em cứ bốc một nắm đất lên rồi khấn: Ba hồn bảy vía anh Ngô
Trọng Đãi ở đâu thì theo em về quê. Em bốc bảy lần và nói như vậy. Mỗi lần cắm
một nén hương. Em chắp tay xin thần rừng, thần sông, thần suối phù hộ cho linh
hồn anh được về quê. Anh không muốn về trong ngậm ngùi mà muốn có lá cờ Tổ
quốc phủ lên phần đất, dù là tượng trưng, để phủ lên cho anh”.
Bác Lại vâng lời, làm đúng lời anh dặn. Vừa bốc đất, vừa khấn, vừa khóc. Tiếng
khóc nấc đớn đau chất chứa cả một đời cứ lan trong chiều tím nghe vừa ai oán, vừa
xót xa. Cả đoàn không ai kìm được nước mắt. Còn anh Mẫn, lặn ngụp dưới lòng hồ
suốt từ chiều đến giờ nhưng vì hồ rộng, nước sâu nên đành chịu. Nước hồ chỗn lẫn
nước mắt ướt đầm. Thương anh đứt ruột nhưng đành phải gạt nước mắt tạ từ chờ
đến mùa khô nước cạn.
Vì hồ rộng nước sâu nên anh Mẫn đành phải nuốt nước mắt lên bờ
Kỳ 3: Trở về đất mẹ
Trả lại tên cho các anh
Cũng trong thời gian ở K’Bang, đoàn công tác đã chia đội ngũ các nhà ngoại cảm
ra làm 2 nhóm nhằm mở rộng phạm vi tìm kiếm hài cốt của gần 500 liệt sĩ còn vùi
sâu đâu đó khắp K’Nak. Nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy làm
một nhóm. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, đại tá Hàn Thuỵ Vũ, nhà giáo
Đoàn Thanh Hương (thư ký Đoàn) làm một nhóm khác cùng đông đảo các nhân
chứng. Và kỳ diệu như trong chuyện cổ tích, các nhà ngoại cảm với khả năng đặc
biệt siêu phàm như thấu thị, đối thoại (nhìn thấy và trò chuyện với các vong hồn)
đã nhanh chóng tìm thấy các hố chôn tập thể hài cốt liệt sĩ giữa mênh mông đồng
bãi, ngút ngàn cỏ lau, điệp trùng suối, núi, hơn thế, còn xác định được danh tính
của từng người, điều mà với những con mắt trần thường tình của người đời là điều
không thể.
Bích Hằng (trái) và Thuý Hoàn (phải)
đang ngồi trò chuyện với vong linh LS Minh
ở hố chôn thứ nhất, dọc con suối Đắc-lốp, trong lùm cây rậm rạp, dưới gò mối lớn
tìm được 22 liệt sĩ. Qua Bích Hằng, các liệt sĩ cho biết: đây là hố chôn tập thể.
Phần nửa phía tây, gần căn cứ K’Nak, bị địch chất đống đổ xăng đốt nhưng mùi
da thịt cháy khét lẹt bốc lên đồi khiến chúng không chịu nổi nên nửa hố phía đông,
chúng dùng máy xúc đào đất lấp vùi. Bích Hằng lấy được tên tuổi, địa chỉ quê quán
của cả 22 người. Điều đặc biệt là sau này, khi đối chiếu những tên tuổi này với
danh sách các liệt sĩ ở Trung đoàn 95A và Tiểu đoàn đặc công 409 thì trùng khít.
ở hố chôn thứ 2, bên dãy cây bạch đàn có gò mối lớn, cách hố thứ nhất khoảng
100m, tìm được tên 12 liệt sĩ.
8h sáng ngày 1 tháng 4 năm 2002, Đoàn lên đồi thông K’Nak để xác minh một
ngôi mộ vô danh. Đây chính là cứ điểm phía Bắc của cụm cứ điểm biệt kích
K’Nak. Nhà ngoại cảm Bích Hằng thắp hương mời vong liệt sĩ lên trò chuyện. Liệt
sĩ cho biết tên là Nguyễn Văn Minh, chính trị viên Đại đội 40, Tiểu đoàn đặc công
409, quê ở Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Nhân chứng tại chỗ, anh hùng lực
lượng vũ trang, trung tá Nguyễn Ngọc Bình, nguyên Đại đội trưởng đại đội đặc
công 40 (D409) xác nhận: thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông kể: khi quả
pháo nổ trước mặt, anh Minh ngã vật xuống, anh Lê Xuân Hổ văng ra, đồng chí
liên lạc hy sinh tại chỗ còn ông thì bị thương gẫy tay phải.
Liệt sĩ Minh hỏi Trung tá Bình (qua nhà ngoại cảm): “Anh Lê Xuân Hổ thế nào?”.
Trung tá Bình, tay chắp trước ngực, mắt nhìn vào làn khói hương nghi ngút trên
mộ đồng đội, trả lời, giọng run run: “Anh Lê Xuân Hổ lên giúp Tây Nguyên. Năm
1972, chuyển đơn vị về Chu Lai, làm trung đoàn phó chiến đấu ở Tuyên Phước.
Trong lúc đi điều tra, anh ấy đã hy sinh”. Liệt sĩ Minh: “Anh Trần Tấn Ước (tiểu
đoàn phó tiểu đoàn 409 – tác giả) có khoẻ không? Tôi rất xúc động khi gặp các
anh. Tuy nằm ở trên đồi này mát mẻ nhưng tôi không thích vì gần đồn địch. Tôi
muốn về quê. Bố tôi là Nguyễn Văn Tỉnh ở Thạch Khê, Hà Tĩnh nhưng đã mất.
Còn em là Nguyễn Văn Tiến nhà nghèo, không đủ khả năng đưa tôi về. Trước mắt
cho tôi về nghĩa trang liệt sĩ với anh em. Chân phải tôi bị gãy. Tôi nằm trong một
khe đá nhỏ, không có người chôn. Giỗ tôi ngày 8 tháng 3″.
Người tìm thấy hài cốt liệt sĩ Minh là anh Giang Xuân Lâm, 40 tuổi, quê ở Thái
Bình. Ngày 18 tháng 10 năm 1992 (Âm lịch), trong khi đào phế liệu, anh Lâm phát
hiện cạnh tấm tôn có xương hàm nên bới cẩn thận, lật lên thấy hài cốt. Xương dài,
cao. Xương chân bên trái còn có băng cuốn. Gia đình anh đã di chuyển mộ 2 lần.
Năm 1995, đưa về an táng trên đồi thông.
9h30′ cùng ngày, đoàn khảo sát một số khu vực dọc suối, thuộc phía đông đồn cũ
của địch, Bích Hằng phát hiện dưới vườn khoai lang của dân có 5 liệt sĩ. Do có
nhóm công binh đi cùng, đoàn cho khai quật một hố nhỏ, rộng 0,60m, dài 1,2m,
sâu 0,60 m thì tìm thấy một chiếc răng và mảnh xương. Sợ không đủ sức nên đoàn
không dám đào thêm.
Sát mép suối, dưới gốc cây sung, Thẩm Thúy Hoàn đọc được tên 5 liệt sĩ. Liệt sĩ
Việt bảo: “Cảm ơn đoàn đã bỏ nhiều công sức đi tìm chúng tôi. Cảm ơn anh em
đồng đội đã đến đây. Tại sao khi chúng tôi đi có họ tên mà bây giờ vô danh không
ai biết tới”. Thấy chị Đoàn Thanh Hương ngồi ghi chép tên tuổi, quê quán các liệt
sĩ, liệt sĩ Việt nhắc: “Chị ghi nhầm quê của tôi rồi”.
Cuộc tìm kiếm kết thúc vào ngày 2 tháng 4 năm 2002. Đoàn đã xác định được 10
hố chôn với 128 liệt sĩ trong tổng số gần 500 người hy sinh tại K’Nak. Có danh
sách cụ thể và đã đối chiếu với đơn vị. Các nhân chứng từng là cán bộ chỉ huy xác
nhận là phù hợp với thực tế.
Đưa anh về với mẹ
Đội quy tập đang tìm kiếm hài cốt 8 LS dưới lòng hồ Đắc-Lốp
Lại một mùa mưa rừng qua đi. Giữa lúc lòng anh Mẫn nóng ran như người ngồi
trên đống lửa vì hài cốt của người anh và đồng đội vẫn chìm dưới hồ nước bạc thì
bất ngờ anh nhận được tin nhắn từ K’Nak: Hồ chứa nước trên dòng suối Đắc-lốp
đã cạn. Anh Mẫn mừng rơn như người bộ hành trên sa mạc trong cơn khát cháy
bỗng gặp nguồn nước mát. Anh tức tốc báo cáo với Ban chủ nhiệm Bộ môn cận
tâm lý, đề nghị cử nhà ngoại cảm vào giúp đỡ khai quật ngay. Anh Mẫn kể lại:
“Trước hôm trở lại K’Bang, tôi phải tổ chức buổi họp mặt gia đình gấp. Không
hiểu sao, suốt 30 năm vượt thác băng rừng tìm anh, biết bao hiểm nguy rình rập,
tôi không sợ. Vậy mà đêm ấy, lòng cứ thấp thỏm không yên. Tôi thông báo với gia
đình toàn bộ việc làm của mình cùng toàn bộ hồ sơ, tài liệu, phòng khi gặp chuyện
chẳng lành, con cháu có thể thay tôi tiếp tục hành trình tìm kiếm. Nửa đêm, tôi dậy
thắp hương cho anh Thành, thầm cầu nguyện vong linh anh sống khôn chết thiêng
phù hộ cho tôi chân cứng đá mềm để tìm thấy anh. Và lạ kỳ thay, bát hương trên
bàn thờ anh bốc cháy. Tôi hiểu, ở nơi rừng rú heo hút ấy, anh đã nghe được lời
nguyện cầu của tôi”.
Sáng 27 tháng 7 năm 2002, nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn (Bích Hằng có việc
tại Liên Bang Nga nên vắng mặt) cùng bộ phận tìm kiếm vào đến suối Đắc-lốp.
Nhưng đập chứa vẫn còn mênh mông nước. Bằng chính tấm tình tha thiết với các
liệt sĩ, anh Mẫn đã thuyết phục được chính quyền và nhân dân huyện K’Bang làm
một việc “động trời”: tháo đập nước Đắc-lốp. Sau nhiều ngày ăn trực nằm chờ, đập
cạn trơ đáy. Lòng vừa khấp khởi mừng thì bất ngờ cơn mưa rừng ập đến. Mưa như
trút nước. Mưa sầm sập từ ngày qua đêm. Đập nước lại đầy. Cả đoàn ngồi khóc.
Anh Mẫn một lần nữa lại phải cầu xin những người giữ đập xả nước. Lần này, đích
thân anh lặn xuống vực nước sâu hơn 4m ùng ục réo để nâng từng tấm gỗ chắn lên.
Mọi người ngồi trên bờ sợ thót tim. Chỉ sơ sểnh một tý, cái xác thân vạm vỡ của
anh sẽ bị dòng nước cuồn cuộn gào thét cuốn phăng. Nhưng cuối cùng, sức người,
nói đúng hơn, lòng người đã thắng. Vài ngày sau, nước rút cạn.

Bích Hằng đang ngồi trò chuyện với các vong linh LS
Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên
quan tới khu vực trạm trung phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ
đợt trước. Về vị trí mộ cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4
ngày đào bới cật lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang
mang. Anh Mẫn cũng nản lòng.
Đầu giờ chiều, vừa ăn cơm trưa xong, đoàn đang chuẩn bị đào bới một lần nữa thì
mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Cả khu rừng tối sầm. Bầu trời đen kịt. Anh Mẫn
quỳ sụp xuống lạy bốn phương, vừa lạy, vừa khóc. Lần đầu tiên anh khấn trách:
“Cháu vào đây làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các
bác. Vậy mà các bác không thương cháu. Lần này cháu lại phải về không rồi”.
Đang tuyệt vọng than vãn như vậy thì bất ngờ, một tiếng reo to như thức tỉnh cả
núi rừng: “Chú Mẫn ơi! Tìm thấy rồi”. Người cất tiếng reo vui ấy là Quang, một
tân binh vừa tròn 20 tuổi. Cả đoàn hăm hở đào liên tục trong hai tiếng đồng hồ. Và
đây rồi, các anh đã hiện ra. 8 bộ hài cốt nằm thành hai hàng, cách nhau 0,5m đều
tăm tắp. Tiếng khóc xen lẫn tiếng cười cứ hoang hoải buông trong buổi chiều tàn
giữa rừng sâu thăm thẳm.
37 năm vùi sâu dưới lòng nước bạc, hài cốt các anh còn ít quá!
Khi đoàn làm lễ đưa các liệt sĩ lên xe về huyện đội K’Bang, trời giăng mưa trắng
xoá. Thế là, sau 37 năm nằm lạnh lẽo dưới lòng nước bạc, không một nén hương
tàn, không một lời thăm viếng, các anh lại trở về trong vòng tay đồng đội, trong
niềm xúc động nghẹn ngào của người thân, gia đình.
Ngày đưa anh Thành về nghĩa trang quê nhà (xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường,
tỉnh Nam Định) trong không khí long trọng và trang nghiêm cũng là ngày nước
mắt mặn mòi của người mẹ 84 tuổi đổ thật nhiều. 37 năm vò võ đợi tin con. 9 lần
phấp phỏng chờ Mẫn vào Tây Nguyên đưa Thành về là 9 lần mẹ mừng huỵt, 9 lần
mẹ khóc oà tức tưởi. Tưởng vĩnh viễn đời này, kiếp này mẹ mãi mãi mất Thành.
Nên lần này, mặc dầu Mẫn điện về thông báo đã tìm được hài cốt anh Thành, chính
quyền và nhân dân huyện Xuân Trường đang khẩn trương chuẩn bị đèn, hoa, kèn,
trống để tổ chức đón nhận và làm lễ truy điệu cho anh, mẹ vẫn hồi hộp, thấp thỏm
không yên. Mẹ sợ trái tim già nua không đủ sức chịu đựng trước trò đùa của tạo
hoá lần nữa. Đầu giờ chiều, mẹ đã ra gốc đa đầu làng ngồi chờ. Đêm xuống, sương
giăng lạnh, mẹ vẫn lặng câm ngồi như hoá đá. 37 năm, gần 14 nghìn đêm thâu mẹ
đã chờ đã đợi. Giờ chờ thêm một đêm nữa có sao. Cho đến 1h sáng, khi chiếc xe
trở Thành vừa đỗ, mẹ cuống cuồng lao đến, giang vòng tay gầy guộc ôm trùm lên
chiếc tiểu sành phủ lá cờ tổ quốc. Mẹ khóc nấc lên. Ôi! Đứa con yêu của mẹ! Da
thịt của mẹ! Máu xương của mẹ! Ngày tiễn con đi mẹ lén lau dòng nước mắt. Giờ
đón con về nước mắt mẹ lại tuôn rơi. Có điều, nước mặt mẹ bây giờ mặn chát, chất
chứa cả một đời thương đau.
Mẹ LS Thành: “Ôi! đứa con yêu của mẹ!”
Nỗi băn khoăn được giải toả
Có một niềm băn khoăn, day dứt kể từ buổi trò chuyện với liệt sĩ Ngô Trọng Đãi
trong buổi chiều ngày 26 tháng 3 năm 2002: “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi
của cậu sẽ chẳng còn ý nghĩa gì”. Mãi sau này, anh Phạm Văn Mẫn mới giải toả
được. Chuyện là, được tin anh Mẫn tìm được nhiều hài cốt liệt sĩ ở trận đánh
K’Nak, gia đình ông Phạm Văn Minh (cùng quê Nam Định) đã tìm gặp anh Mẫn,
đề nghị giúp đỡ tìm mộ em trai là liệt sĩ Phạm Xuân Ninh cũng hy sinh trong trận
đánh đó. Anh Mẫn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vui vẻ nhận lời.
Ngày 18 tháng 1 năm 2003, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trời cuối đông rét cắt da,
cắt thịt, cộng với mưa rừng khiến cuộc tìm kiếm vô cùng gian nan. Cuối cùng,
Bích Hằng cũng tìm được hài cốt liệt sĩ Phạm Xuân Ninh gần rừng le phía bờ suối
cạn. Hài cốt liệt sĩ còn đủ với các đặc điểm được gia đình ông Phạm Xuân Minh
công nhận. Trên đường trở ra Hà Nội, anh Mẫn đề nghị đoàn đi vòng đường Vĩnh
Thạnh, cách K’Nak khoảng hơn 60km. Đến nghĩa trang huyện Vĩnh Thạnh, anh
Mẫn dẫn mọi người tới một ngôi mộ có bia đề tên: Liệt sĩ Phạm Văn Thành (Miền
Bắc). Anh Mẫn kể: Từ năm 1995, ông đã đến đây nhiều lần thắp hương và khóc
thương người anh của mình nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ. Nay lại tìm thấy hài
cốt anh Thành ở suối Đắc-lốp. Vậy ngôi mộ này là thế nào?
Bích Hằng làm lễ và thực hiện cuộc trò chuyện với người dưới mộ. Liệt sĩ cho biết
đúng tên là Phạm Văn Thành nhưng hy sinh tháng 6 năm 1966 tại trạm xá 210.
Quê ở Aí Mộ, Bồ Đề, Gia Lâm (Hà Nội). Nay liệt sĩ còn người anh là Phạm Văn ất
khoảng 80 tuổi. Anh Mẫn lập tức điện thoại ra Hà Nội nhờ người đến Aí Mộ để
xác minh. Và thật bất ngờ, những thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông Phạm
Văn ất hiện vẫn còn nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không có điều kiện
vào thăm và đưa hài cốt em mình về quê được. Đến đây, nỗi băn khoăn, vướng
mắc bao ngày, anh Mẫn mới giải toả hoàn toàn. Điều đó, càng khiến ông biết ơn
vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi.
Hành trình tìm kiếm còn dài

Anh Mẫn: “Chừng nào còn sức, còn tiền là tôi còn đi tìm kiếm hài cốt các LS”
Tìm được hài cốt anh Thành, hơn thế, đưa được anh trở về quê hương, ước nguyện
một đời của anh Mẫn đã hoàn thành. Nhưng đêm đêm, anh vẫn thảng thốt giật
mình khi chợt nhớ, ở núi rừng K’Bang heo hút, giá lạnh, vẫn còn đó những đồng
đội của anh Thành thân xác đang nằm dưới chuồng lợn, nhà xí, dưới hồ sâu, cỏ
hoang. Không! Anh phải đi, phải tiếp tục đi tìm cho tới khi tất cả các liệt sĩ được
về yên nghỉ tại nghĩa trang. Không thể để cho các anh hy sinh thêm một lần nữa.
Và thế là, cứ một năm vài lần, tạm gác lại khối công việc đồ sộ của giám đốc
S.phone Hà Nội, anh cùng nhiều cựu chiến binh một thời vào sinh ra tử, lại khoác
ba lô đưa các nhà ngoại cảm vào K’Bang tìm kiếm hài cốt. Thành quả của những
chuyến đi ngược ngàn ấy là hơn hài trăm hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy và quy tập
tại nghĩa trang huyện K’Bang. Điều ấy, khiến anh Mẫn vui lắm. Anh bảo: “Chừng
nào còn sức, còn tiền là tôi còn đi”.
Để kết thúc bài viết bày, chúng tôi xin được mượn những vần thơ đong đầy nước
mắt mà nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã đọc trong buổi chiều mưa rừng mịt
mù tiễn đưa linh hồn liệt sĩ Ngô Trọng Đãi về quê hương. Đây được xem như
những nén tâm nhang chứa chan lòng biết ơn và cả niềm tiếc thương vô hạn đối
với những chiến sĩ đã hy sinh thân mình vì nước mà xác thân còn vùi sâu dưới
nước lạnh, cỏ hoang, trong sự thờ ơ, lãng quên vô cảm của người đời.
Cầu xin cho linh hồn các anh được siêu thoát.
Lời ru ngọn cỏ
Cỏ xanh bên mộ khẽ ru
à ơi! Rừng đã vào thu lá vàng
Người ơi dù có muộn màng
Dẫu chưa về được nghĩa trang quê nhà
Nơi đây nhiều cỏ, ít hoa
Hãy say giấc ngủ như là tuổi xanh
Mặc ai xây mộng viễn hành
Mặc ai ngắt lá, bẻ cành, rung hoa
Đất này dù đất miền xa.
Thân thương như đất quê nhà người ơi!
Lá vàng lại lá vàng rơi
Lẻ loi lại vắng xa nơi đất rừng
Ru người giữa chốn mông lung
Giọt sương cũng muốn đọng ngưng nỗi niềm
Dấu chân đã trải trăm miền
Về đây ấm với Tây Nguyên nghĩa tình
Người hy sinh, đất hồi sinh
Máu người hoá ngọc lung linh giữa đời
Thương đau ru đến muôn đời
Và xanh xanh mãi những lời ru êm
à ơi! Ai nhớ ai quên
Thì đây cỏ biếc vẫn bên mộ người.
K’Bang ngày 2 tháng 4 năm 2002
Phan Thị Bích Hằng
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh:
Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh và tác giả
“Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chưa có trận đánh
nào chúng ta bị tổn thất nặng nề như trận đánh căn cứ biệt kích của địch ở K’Nak
năm 1965. Việc tổ chức tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở đó là rất tốt, góp phần thực hiện
chính sách của Đảng, đồng thời sẽ có thêm kinh nghiệm để chỉ đạo việc tìm kiếm
hài cốt liệt sĩ trên phạm vi cả nước. ở riêng Quân khu 5, có khoảng 10 trận đánh
tổn thất như thế này”.
Thiếu tướng Châu Khải Địch: “Số lượng anh em hy sinh quá lớn. Nếu tính cả
dân quân du kích địa phương, số hy sinh trong trận này lên tới hơn 1.000 người.
Lại bị chôn tập thể. Nhiều chiến sĩ bị địch chất đống đổ xăng đốt mất xác nên dẫu
tìm kiếm hết sức cũng không thể nào hết được. Cần xây dựng đài tưởng niệmi để
chính quyền, nhân dân địa phương, gia đình thân nhân liệt sĩ đến viếng thăm”.
Ông Phan Minh Túc – chủ tịch huyện K’Bang:
Với sự giúp đỡ tận tình, đầy trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Bộ quốc
phòng, Bộ môn cận tâm lý – Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, đồng đội
và thân nhân liệt sĩ, đặc biệt là nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và gia đình
ông Phạm Văn Mẫn đã giúp cho huyện K’Bang tìm kiếm, cất bốc, quy tập và đưa
vào an táng tại nghĩa trang huyện hơn 200 hài cốt liệt sĩ. Hiện nay, nghĩa trang
liệt sĩ K’Bang đã bị quá tải. Việc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Chúng tôi đang chuẩn bị
mở rộng nghĩa tranh để thời gian tới, có thể quy tập thêm nhiều hài cốt liệt sĩ.
Chúng tôi cũng tha thiết đề nghị Bộ lao động thương binh và xã hội sớm có kế
hoạch và kinh phí đầu tư cho địa phương triển khai xây dựng Đài tưởng niệm các
liệt sĩ trong trận đánh đồn K’Nak trong năm 2006 và đầu năm 2007, kịp khánh
thành vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sĩ 27 tháng 2 năm 2007.
* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu của Bộ môn cận tâm
lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người.
Kỳ 4: Vượt ngàn trùng sóng … tìm cha
Cho đến tận bây giờ, khi nấm mồ của người cha thân yêu đã xanh rì cỏ mọc và câu
chuyện đầy ly kỳ, huyền hoặc về hành trình vượt muôn trùng sóng nước tìm cha ở
đảo Hòn Mê (Thanh Hoá) của ông Trần Văn Mắc đã bớt xôn xao trên những con
phố nhỏ, ông vẫn không thể tin nổi rằng, có một ngày, ông lại có thể tìm thấy hài
cốt của người cha bị mất tích trong cơn bão biển sau 17 năm sống trong vô vọng.
Càng không thể tin nổi, người vẽ đường và giúp ông tìm cha là một người hoàn
toàn xa lạ, chẳng có máu mủ hay quan hệ thân tình gì với gia đình ông, chẳng biết
gì về trận bão khủng khiếp năm ấy và cũng chưa một lần đặt chân ra đảo Hòn Mê.
Ngồi tít tận Hà Nội vẽ sơ đồ chỉ dẫn chi tiết, lạ kỳ thay, hành trình tìm kiếm đều
diễn ra đúng như có sự sắp đặt của bàn tay tạo hoá. Một ngày cuối tháng 8 năm
2006, ngồi kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện ly kỳ ấy tại nhà riêng ở ngõ 33 Kỳ
Đồng, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, ông Trần Văn Mắc miệng không
ngớt xuýt xoa: “Thần bí lắm! Huyền hoặc lắm! Đến mức nhiều khi không thể tin
nổi. Cứ y như trong Liêu trai chí dị ấy”. Rồi giơ cánh tay chắc lẳn ra trước mặt
tôi, ông thì thào: “Đấy, cứ nhắc đến chuyện ấy là tôi lại nổi hết da gà lên đây
này”.
Cơn bão tang thương năm 1985 và cuộc gặp gỡ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc
Bảy

Ông Trần Văn Mắc tại nhà riêng ở Hải Phòng


Ngày 20 tháng 10 năm 1985 sẽ mãi mãi đi vào lịch sử thôn Lương Khê, xã Tráng
Cát, huyện An Hải (Hải Phòng), quê của ông Trần Văn Mắc. Bởi đó là một ngày
buồn đau thê lương nhất. Cơn bão cuối năm với gió giật cấp 6, cấp 7 đã nuốt chìm
4 chiếc thuyền đánh cá ngoài biển khơi, vĩnh viễn cướp đi riêng của thôn Lương
Khê 13 người. Ông Mắc đau đớn nhất. Mất liền một lúc 3 người thân: cha (ông
Trần Văn Mặc), em út Trần Văn Sùng mới 12 tuổi và em rể Trần Văn Dũng. Em
Trần Văn Sùng lần đầu tiên theo cha ra biển chơi và đó cũng là lần cuối cùng trong
đời.
Ròng rã suốt nửa tháng trời, gia đình ông Mắc cứ đội mưa dầm gió bấc, đi suốt
dòng đục bến trong để tìm xác 3 người xấu số mà chỉ thấy muôn trùng sóng nước
mịt mù nỗi u hoài thê lương. Ông Mắc vẫn đi, đi mãi. Đến tận mũi Cồn Mòi (vùng
biển tỉnh Thái Bình) thì vớt được xác chiếc thuyền của cha.
Thấm thoắt 17 năm trôi qua. Hy vọng tìm thấy thi hài cha và các em đã trở nên vô
vọng. Mẹ thì mỗi năm một già yếu mà nỗi nhớ chồng con cứ day dứt khôn nguôi.
Nhiều lần, mẹ níu tay Mắc mà khóc rằng: “Con ơi! Bằng mọi giá phải tìm được bố
và em. Dù chỉ là một mẩu xương khô cũng được. Nếu không, mẹ chết không nhắm
được mắt đâu con ơi!”. Thương mẹ đứt ruột nhưng biết tìm cha ở đâu bây giờ?
Một ngày đầu tháng 5 năm 2002, trong một lần gặp gỡ ông Trần Tích Tiến, phó
tổng giám đốc Công ty cao su INQUE Việt Nam, ông Mắc đã đem nỗi lòng u uẩn
của mình ra giãi bày. Không ngờ, nghe chuyện xong, ông Tiến cười bảo: “Anh yên
tâm! Tôi sẽ giúp anh tìm được mộ cụ”. Ông Mắc ngạc nhiên hỏi: “Bằng cách nào,
thưa anh?!”. Ông Tiến bảo: “Tôi vừa nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy giúp
cho bạn tôi tìm được mộ bố là liệt sĩ Vũ Duy Dư, chôn tít trên đỉnh núi bản Adiu,
vùng sâu xa nhất của Đà Nẵng. Chuyện ly kỳ lắm. (Chuyện đi tìm mộ liệt sĩ Vũ
Duy Dư, chúng tôi sẽ kể chi tiết ở phần sau – PV). Anh hãy tin tôi đi”. Nụ cười ấm
áp và cái bắt tay xiết chặt của ông Tiến khiến ông Mắc lòng khấp khởi mừng mà
vẫn thấy lo lo. Bố và em chết ngoài biển cả. Biết trôi dạt nơi nào? Mười bảy năm
rồi còn gì. Thời gian quá dài đủ để xoá đi tất cả những gì gọi là dấu vết còn lại.
Đêm ấy, về đến nhà, ông Mắc kể lại toàn bộ câu chuyện gặp gỡ ông Tiến hồi sáng
cho mẹ và vợ nghe. Mẹ nghe xong khóc ầm lên, vừa khóc vừa giục ông Mắc đi gặp
nhà ngoại cảm sớm. Vợ ông, bà Phan Thị Trinh thì bảo: “Em cứ thấy hoang đường
thế nào ấy. Chả tin được. Ông Nguyễn Khắc Bảy có hoạ là thánh mới làm được
như thế. Nhưng thôi, chiều mẹ, mình cứ đi. Được thì nhất. Không được cũng chẳng
mất gì”.
Quyết định như thế nhưng mãi đến đầu tháng 10, ông Mắc mới có cuộc gặp gỡ với
nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy. Ông Mắc kể lại: “Nhìn thấy Bảy, tôi hoàn toàn
bất ngờ. Bảy cao, gầy, thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, hoàn toàn trái ngược với các ông
đồng bà cốt tôi vẫn thường gặp ngoài đời. Sau một hồi nhìn chằm chặp vào chán
tôi, Bảy reo nhỏ: “Thấy cụ rồi anh ạ!” rồi vội vàng lôi tờ giấy A3 đặt lên mặt bàn.
Miệng nói, mắt nhìn chán tôi, tay vẽ. Bảy đưa các thông tin:
1. Bố tôi bị cá ăn mất bàn chân phải.
2. Bố tôi có mộ vì xác trôi dạt vào đảo Hòn Mê (Tĩnh Gia, Thanh Hoá), được bộ
đội vớt lên an táng.
3. Mộ nằm trong một cụm gồm 6 ngôi nằm ở phía Đông Bắc của đảo Hòn Mê, trên
một vùng đất thấp, giữa một khe nước và hai lối đi nhỏ của bộ đội.
4. Trong 6 ngôi thì có 2 ngôi nằm song song, 2 ngôi nằm chèn ngang. Anh Dũng
nằm ở ngôi thứ 3. Bố tôi nằm ở ngôi thứ nhất, cách mép nước khoảng 37m, cách
khu bộ đội A9 khoảng 150m. Em ruột tôi là Trần Văn Sùng không có ở đây.
5. Những người đã mai táng bố tôi và anh Dũng là các anh bộ đội trên đảo, trong
đó có các anh tên là: Định, Tuấn, Bính, Ngơi…
Sơ đồ Bảy vẽ khá chi tiết, chữ viết rõ ràng, rành mạch. (Xem ảnh).

Viết xong, Bảy đưa cho tôi, bảo: “Anh cứ dựa vào sơ đồ này, thể nào cũng tìm thấy
bác và anh Dũng”. Thú thực, lúc đó đầu tôi cứ mụ đi. Người cứ như nửa tỉnh nửa
mê. Nhưng tiễn Bảy về rồi mà lòng vẫn cứ bán tín bán nghi. Tôi bèn nhờ các anh
công nhân bên Bảo hiểm hàng hải và Nhà Đèn xác minh hộ. Thông tin nhận được
thật bất ngờ: Phía Đông Bắc đảo Hòn Mê đúng là có 6 ngôi mộ của dân, trong đó
có những người chết trong trận bão tháng 10 năm 1985 được bộ đội vớt lên an
táng”.
Thông tin phản hồi ấy như ánh nắng mặt trời xoá tan đám mây nghi ngờ u ám vốn
bao phủ trong đầu vợ chồng ông Mặc bấy lâu. Gia đình ông vội vàng chuẩn bị và
làm các thủ tục xin ra đảo Hòn Mê vì đây là hòn đảo quân sự, không có dân cư ở.
Lần thứ nhất ra đảo: Đào mộ nhầm và 2 cuộc báo mộng kỳ lạ
Tối ngày 5 tháng 11 năm 2002, gia đình ông Mắc gồm 7 người cùng nhà ngoại
cảm Nguyễn Khắc Bảy và bà Quan Lệ Lan, cán bộ nghiên cứu của Bộ môn cận
tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) rời Hà Nội trên chiếc xe
Toyota 14 chỗ tiến thẳng về huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá). Mất một ngày để lo các
thủ tục. Sáng sớm hôm sau, đoàn thuê một chiếc tàu đánh cá ra đảo Hòn Mê. Được
anh em chiến sĩ trên đảo đón tiếp nhiệt tình, ông Mắc cũng cảm thấy yên tâm phần
nào. Tới phía Đông Bắc của đảo, cả đoàn sững người. Trong mờ mịt sương giăng,
6 ngôi mộ lần lượt hiện ra. Hai bên là khe nước và lối đi. Ông Mắc vội vàng lấy
thước dây ra đo. Từ mép nước đến ngôi mộ thứ nhất đúng gần 38m. Ông giật
mình, chân tay cứ run bắn lên. Những thông tin anh Bảy đưa ra đã trùng khớp với
địa hình, địa vật ở đây.

Di ảnh ông Trần Văn Mặc


Cả 6 ngôi mộ đều được vun đắp cao ráo, chắc chắn, sạch sẽ. Bởi ngày rằm và
mồng một, tháng đều đặn 2 lần, anh em bộ đội trên đảo hương khói chu toàn. Sau
khi dâng lễ cúng thần linh, đoàn chuẩn bị khai quật ngôi mộ thứ nhất và thứ 3 (theo
sơ đồ thì đó là mộ của bố anh Mắc và anh Dũng) thì bất ngờ, nhà ngoại cảm
Nguyễn Khắc Bảy bảo: “Không! Nhầm rồi. Nhầm rồi. Đào ngôi thứ 4 và thứ 2 mới
đúng”. Thầy bảo sao thì nghe vậy. Gia đình ông Mắc và các chiến sĩ ở đảo nhanh
chóng khai quật. “ối giời! Các ông đào nhầm mồ mả người khác rồi”. Bà Trinh hét
toáng lên. Cả đoàn tá hoả. “Toàn hài cốt phụ nữ đây này”. Miệng nói, tay bà run
run cầm 2 chiếc vòng tránh thai giơ lên cho cả đoàn xem. Cả đoàn chết lặng. “Đây
nữa, quần áo, khăn sống vẫn còn nguyên đây này”. Giời ạ! Đúng là toàn quần áo
phụ nữ. Vì khi an táng, thi hài được bọc trong những tấm tăng dày nên xương cốt,
trang phục còn nguyên vẹn. Bà Trinh khóc ầm lên vì sợ hãi. Mọi người cuống
cuồng vùi lấp lại, rồi làm lễ tạ tội. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy thành kính
thắp hương mời vong người đàn bà xấu số lên nói chuyện. Chị cho biết tên là Vân,
cũng bị chết biển trong trận bão năm 1985. Có lẽ, vong linh của chị thiêng quá nên
đã “ốp” vào nhà ngoại cảm, buộc anh chỉ nhầm. Đang thực hiện cuộc trò chuyện
bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo tới. Gió ràn rạt thổi. Anh Bảy giục cuống cả lên. Anh
bảo: “Bác Mặc đang hò hét tôi đưa các anh chị vào đất liền sớm kẻo bão”. Ngay
chiều hôm ấy, cả đoàn rời đảo. Về đến thành phố Thanh Hoá thì mưa giông chớp
giật. Cả đoàn hoàn hồn.
Trên đường ra Hà Nội, đoàn ghé thăm ông Trúc, nguyên đảo phó đảo Hòn Mê
những năm 1980. Không hề hay biết gì về sơ đồ anh Bảy đã vẽ ở Hà Nội, ông Trúc
nhiệt tình kể: Tháng 10 năm 1985, có 4 xác người chết dạt vào bờ. Anh Tuấn quân
y được lệnh đi vớt và chôn cất. Sau đó, anh Tuấn về báo cáo lại, có một người đàn
ông to lớn cao tuổi nhất bị cá ăn mất bàn chân phải. Xác ông cứ dập dềnh ngoài
biển. Anh em bộ đội phải quăng dây câu để kéo vào thì xác lại vướng đá ngầm,
không kéo vào được. Cuối cùng, anh Tuấn phải khấn xin rằng anh em sẽ an táng
chu đáo, mới đưa được xác ông vào. Nghe chuyện, ông Mắc khóc oà. Người đàn
ông luống tuổi cao lớn ấy đúng là bố rồi. Năm 1985, bố ông vừa tròn 51 tuổi, sức
khoẻ tráng kiện, nổi tiếng cả làng chài về tài đạp sóng, vượt gió. Nếu không vì cậu
con trai Trần Văn Sùng 12 tuổi, có lẽ ông không thể chết đuối được. Và phải
chăng, vì không thấy xác con nên xác ông cứ nấn ná ngoài biển cả?
Những điều ông Trúc kể càng thắp thêm niềm tin, hy vọng tìm thấy hài cốt cha
trong ông Mặc. Ông quyết tâm quay lại đảo vào một ngày gần nhất.
Có hai điều vô cùng huyền bí mà đến tận bây giờ, ông Mắc vẫn không thể nào lý
giải được. Chuyện là, khi về đến nhà, đã thấy người mẹ già nước mắt vắn dài, bảo:
“Đào nhầm mộ bố rồi phải không?”. Cả đoàn sửng sốt, không hiểu sao bà cụ ở nhà
lại biết. Bà thở dài, bảo: “Đêm qua, u nằm mơ thấy thầy con về. Thầy đứng đầu
giường u, tay phe phẩy quạt nan, cười khà khà bảo: Mộ bố không đào lại đi đào mộ
hàng xóm. Nhưng không sao, rồi sẽ tìm thấy tôi”. Chưa hết ngạc nhiên. Trưa hôm
sau, vừa ăn cơm xong, ông Mắc thấy một người phụ nữ chừng 35 tuổi đến nhà ông
gõ cửa, xin gặp ông Mắc, bà Trinh. Hai vợ chồng ông còn đang ngơ ngác thì người
phụ nữ đã hỏi: “Có phải ông bà vừa ở đảo Hòn Mê về phải không? Có phải ông bà
đã đào nhầm mộ người phụ nữ tên Vân có phải không?”. Ông Mắc gật đầu xác
nhận. Người phụ nữ khóc oà rồi sụt sùi kể: chị chính là em gái của chị Vân. Tối
qua, chị Vân về báo mộng cho chị, rằng muốn tìm thấy mộ chị, hãy đến địa chỉ số
nhà 4, ngõ 33 phố Kỳ Đồng, Quận Hồng Bàng, Hải Phòng, gặp vợ chồng ông Mắc,
bà Trinh. Chị đi mà lòng dạ cứ bán tín bán nghi. Và thật kỳ lạ, mọi chuyện xảy ra
đúng như lời người báo mộng.
Lần thứ 2 ra đảo: sự trùng khớp lạ kỳ

Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy và tác giả


Ngày 28 tháng 11 năm 2002, được sự giúp đỡ của ông Sơn – nguyên đảo trưởng
đảo Hòn Mê, ông Trúc – nguyên đảo phó, ông Tuấn – quân y, những người đã
từng công tác ở đảo năm 1985 (nay đã nghỉ hưu), gia đình ông Mắc và chị Vân lại
ra đảo. Xem sơ đồ anh Bảy vẽ, các ông Sơn, Trúc, Tuấn đều khẳng định đúng như
thực tế lúc đó. Năm 1985, ông Sơn đang triển khai xây dựng nhà A9 còn ông Tuấn
là người trực tiếp chôn 4 thi hài chết trôi. Ông Trúc là đảo phó chính trị nên nắm
rất rõ các chi tiết.
7h sáng ngày 29 tháng 11 năm 2002, ngôi mộ thứ nhất nằm cách mép nước gần
38m được khai quật. Thi hài một người đàn ông bị mất chân phải hiện ra. Lắp hai
chiếc răng rụng vào hàm thì vừa khớp. Cả nhà khóc oà khi nhận ra sợi dây chun
quần thắt rất nhiều nút để tăng tính đàn hồi mà ông Mắc đã làm cho cụ. Đây đích
thực là xương cốt của bố rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
Khai quật tiếp ngôi thứ 3, mở nắp quan tài ra, lại những tiếng khóc vỡ oà khi gia
đình anh Dũng nhận ra bộ quần áo bò vá gối anh Dũng mặc hôm ra khơi.
Khai quật lại ngôi thứ 4, gia đình chị Vân nhận ra tấm mề đay mang hình đức Mẹ
mà chị luôn mang bên mình. Ba ngôi còn lại vì chưa xác định được nhân thân nên
anh em chiến sĩ trên đảo khai quật lên, ghi lại những dấu vết còn lại của từng bộ
hài cốt, tắm rửa, sang tiểu rồi chôn lại.
Thế là, sau 17 năm sống trong vô vọng, cuối cùng, ông Mắc cũng tìm được và đưa
hài cốt người cha thân yêu về với quê nhà, thoả một đời ước nguyện của mẹ. Ông
nghẹn ngào nói: “Đời này, kiếp này, chúng tôi chịu ơn nhà ngoại cảm Nguyễn
Khắc Bảy và Bộ môn cận tâm lý, chịu ơn tấm tình nồng hậu mà các chiến sĩ đảo
Hòn Mê đã dành cho gia đình chúng tôi. Thế giới này quả là rộng lớn và có biết
bao điều lỳ lạ. Một lần nữa xin được tạ ơn với đời, với người”.
Kỳ 5: Tìm mộ liệt sĩ qua…vong một thai nhi 3 tháng tuổi
“Lúc đầu, nghe cô đồng Tuyên ở thị trấn Thứa (Bắc Ninh) gọi tôi là bố và xưng
con, tôi ngơ ngác không hiểu gì. Sau mới vỡ lẽ, vong của con trai tôi về và nhập
vào cô. Cháu vốn là một… thai nhi mới 3 tháng tuổi. Những năm 80, vợ tôi mang
thai cháu là thứ 3 nhưng do chính sách kế hoạch hoá gia đình nên đã nạo bỏ cháu
ở nhà hộ sinh. Tôi đâu có biết là mình đã đánh mất cháu, chỉ đến khi tôi hỏi cháu
mới kể như vậy. Thú thực, lúc ấy tôi xúc động quá, cả ân hận nữa. Tôi xin lỗi cháu
nhưng cháu cười bảo: cha mẹ không có lỗi vì đấy là qui định của nhà nước. Tôi
khóc oà lên. Ôi! Không ngờ một đứa trẻ mà lại có những suy nghĩ và tấm lòng bao
dung đến vậy”. Câu chuyện về hành trình leo núi ngược ngàn đi tìm mộ liệt sĩ Vũ
Duy Dư trên điểm cao 463 ở bản Adiu (Quảng Nam) đã được ông Trần Tích Tiến,
Phó tổng giám đốc công ty cao su INOUE mở đầu như vậy. Ông nói, giọng nghèn
nghẹn: “Điều bất ngờ là chính cháu đã vẽ đường đi nước bước cho chúng tôi đi
tìm mộ và cuối cùng, chúng tôi đã tìm thấy”. Câu chuyện ông Tiến kể trong đêm
mưa dầm sùi sụt ấy cứ bị ngắt quãng bởi những giọt nước mắt và tiếng nấc nghẹn
ngào.
Từ sự chỉ dẫn của vong… thai nhi 3 tháng tuổi
Ông Trần Tích Tiến đang lần giở từng bức ảnh
của cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt LS Vũ Duy Dư.
Ông Trần Tích Tiến, thực ra, không có quan hệ máu mủ, ruột thịt gì với liệt sĩ Vũ
Duy Dư. Ông chỉ là chỗ quan hệ thân tình với gia đình con gái út của liệt sĩ: chị Vũ
Thị Thắng và anh Nguyễn Văn Thành. Song, đúng như lời giới thiệu của chị
Thắng: “Anh muốn tìm hiểu kỹ về chuyện đi tìm mộ bố em thì phải gặp anh Tiến,
vì anh ấy lưu giữ được đầy đủ tư liệu về chuyến đi này. Anh Tiến có tâm với gia
đình các liệt sĩ nhiều lắm. Nếu không có anh ấy, chắc giờ này bố em vẫn nằm giãi
dầu sương gió trên đỉnh núi Adiu”.
Chị Thắng kể: Cha chị sinh hạ được 3 người con. Anh cả là Vũ Duy Đoàn, anh thứ
là Vũ Duy Kết. Chị là con gái út. Năm 1968, chiến trường miền Nam nổ ra ác liệt,
cha lên đường nhập ngũ, rồi đi biệt không về. Không một lá thư, không một lời
nhắn gửi. Cả nhà ngóng đợi. Đến tận năm 1975, đất nước hát khúc khải hoàn ca,
đồng đội của cha náo nức trở về mà cha vẫn biệt vô âm tín. Đi dò hỏi, đồng đội của
cha bảo: Năm 1968, các bác thỉnh thoảng gặp cha đi lấy gạo ở Adiu (Quảng Nam)
nhưng về sau thì không gặp nữa. Không biết cha chuyển đi nơi khác hay đã hy sinh
rồi. Các bác còn dặn thêm: Nếu hy sinh thì chỉ ở Adiu thôi.
Niềm hy vọng cứ mỏng dần theo năm tháng. Rồi một hôm, người của huyện đội
Thanh Trì đến nhà chị cùng tin sét đánh: Cha đã hy sinh ở chiến trường miền Nam.
Mẹ chị chết lặng. Còn mấy anh em thì ôm nhau khóc ầm lên. Khổ thân cha! Ra đi
không để lại một kỷ vật gì. Mẹ lặng lẽ lập bát hương thờ cha. Giấy báo tử ghi cha
hy sinh ngày 15 tháng 3 năm 1975. Mẹ lấy đó làm ngày giỗ. Ngày ấy nhà chị
nghèo quá, thường phải ăn rau cháo trừ bữa. Mẹ tảo tần nuôi ba đứa con ăn học.
Mãi sau này, khi kinh tế gia đình bớt khó khăn, thấy nhiều gia đình vào miền Nam
tìm mộ thân nhân, được Bộ và Sở lao động thương binh xã hội cấp giấy đi tìm,
khát vọng tìm mộ cha trong chị Thắng chợt trỗi dậy. Nhân ngày giỗ cha, chị bàn
với gia đình, cô gì chú bác nhưng mọi người gạt đi. Họ bảo: Giấy báo tử chỉ ghi
vỏn vẹn là hy sinh ở chiến trường miền Nam mà miền Nam thì rộng lớn như vậy,
biết mộ cha chỗ nào mà tìm. Không nản lòng, vợ chồng chị bàn riêng với anh Đoàn
quyết tâm làm một chuyến vào tận bản Adiu tìm cha.
Vào một ngày cuối tháng 8 năm 2000, anh Đoàn cùng một người bạn khoác ba lô
lên tàu vào Đà Nẵng. Hỏi thăm, được biết bản Adiu thuộc huyện Hiên, tỉnh Quảng
Nam, cách Đà Nẵng chừng 100km. Nghỉ một đêm tại Đà Nẵng, sáng sớm hôm sau,
hai anh em bắt xe vào huyện Hiên. Mặc dầu được các đồng chí phòng lao động
thương binh và xã hội huyện Hiên tận tình giúp đỡ, kiểm tra toàn bộ danh sách liệt
sĩ đã được quy tập về nghĩa trang nhưng không thấy tên liệt sĩ Vũ Duy Dư. Anh
Đoàn quyết định thuê xe ôm vào bản Adiu. Khổ thân anh! Đường lên Adiu quá
nhiều đèo dốc hiểm trở, lại đúng vào mùa mưa Tây Nguyên nên đi chừng 7 – 8 km,
buộc lòng phải quay lại.
Niềm hy vọng tìm thấy cha bị rơi rụng nhưng đêm đêm, nỗi day trở cứ cắn rứt
lương tâm chị Thắng khiến chị không yên. Nhiều lần, chị khóc với bạn bè rằng:
Cha đi chinh chiến khi chị vừa tròn 2 tuổi. Kỷ niệm về cha không có nhiều. Khuôn
mặt cha chị cũng không còn nhớ. Nhưng đời này, kiếp này, nếu không tìm được
mộ cha, chị là đứa con bất hiếu. Là người đã từng xông pha trận mạc, tận tay chôn
cất những mảnh thi hài còn sót lại của đồng đội ở chiến trường miền tây Nam bộ,
ông Trần Tích Tiến rất hiểu và cảm thông với nỗi niềm của chị Thắng. Lòng tự
nhủ, bằng mọi cách phải giúp Thắng làm tròn được tâm nguyện. Làm phó tổng
giám đốc công ty cao su INOUE, ông Tiến có điều kiện đi đây đó nhiều. Đến đâu,
ông cũng tranh thủ đến các nghĩa trang liệt sĩ để tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư, bày tỏ
nỗi niềm cùng những người bạn tâm đắc mong có sự trợ giúp.
Ngày 24 tháng 2 năm 2002, nhờ sự đưa đường của anh Thắng ở phố Lò Rèn (Hà
Nội), ông Tiến cùng vợ chồng chị Thắng, anh Thành đã xuống nhà cô đồng Tuyên
ở thị trấn Thứa, Bắc Ninh để gọi hồn liệt sĩ Vũ Duy Dư. Vừa đặt chút lễ mọn lên
bàn thờ, chưa kịp ngồi yên vị, ông Tiến đã giật nảy mình khi nghe cô đồng Tuyên
gọi ông là “bố Tiến” và xưng con. Qua trò chuyện, ông mới biết đó là vong của
thai nhi 3 tháng tuổi mà vợ ông đã nạo bỏ ở nhà hộ sinh cách đó gần 20 năm. Càng
nói chuyện, ông Tiến càng bị xúc động vì những thông tin cháu nói (qua cô đồng
Tuyên) rất chính xác, kể cả những chuyện rất riêng tư, bí mật chỉ mình ông biết.
Ông Tiến hỏi: “Thế con có biết ai đang ngồi cạnh bố không?”. Cháu bảo: “Chú
Thành, bạn bố, nhà ở 509 đường Nguyễn Văn Cừ, Gia Lâm, Hà Nội chứ gì? Vợ
chú đang muốn tìm mộ bố là liệt sĩ có đúng không? Hồi Tết, chú đến nhà cháu chơi
mà không mừng tuổi cho cháu đấy nhé”. Cháu còn nói tên những người hàng xóm
cạnh nhà “bố Tiến”, nhận xét người này tốt, người kia xấu, rồi căn dặn ông nên
quan hệ với người này, cảnh giác với người kia”. Ông Tiến bảo: “Con giúp vợ
chồng cô Thắng tìm được mộ ông nhé”. Cháu cười bảo: “Cô chú sẽ tìm được. Gần
tìm được rồi. Bố cứ đến nhà chú Bảy (nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy) ở phòng
212, nhà B19, khu tập thể Kim Liên và ông Chu Phác (thiếu tướng Chu Phác – chủ
nhiệm Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) là tìm
được thôi mà”.
…đến sơ đồ của nhà ngoại cảm

Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy đang vẽ sơ đồ


Đúng như sự chỉ dẫn của vong thai nhi 3 tháng tuổi, gia đình chị Thắng đã tìm đến
phòng số 212, nhà B19, khu Tập thể Kim Liên (Hà Nội) và gặp được nhà ngoại
cảm Nguyễn Khắc Bảy. Đó là căn phòng chật hẹp chừng 18m2 nhưng mọi thứ bày
biện gọn gàng, ngăn nắp. Sau khi đặt lễ lên bàn thờ, nơi treo ảnh Bác Hồ kính yêu,
nhà ngoại cảm mời chị Thắng ngồi trước mặt. Anh hỏi thăm về gia đình chị, về
người cha liệt sĩ rồi bảo: “Chị yên tâm! Sẽ tìm được cụ. Nhưng chị có anh trai hoặc
em trai không? Nếu có thì gọi đến đây để kết hợp xem sẽ tốt hơn. Bởi đây là vấn
đề tâm linh mang tính huyết thống. Thông thường, ở vợ và con trai liệt sĩ thể hiện
rõ hơn song phải là những người có tâm, luôn tưởng nhớ tới người đã mất”. Nghe
vậy, chị Thắng liền gọi điện cho anh trai cả Vũ Duy Đoàn.
Khi anh Đoàn và chị Thắng ngồi ngay ngắn, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy bảo
hai người vén tóc lên cho gọn gàng rồi chăm chú nhìn vào trán họ. Anh hỏi chị
Thắng: “Cụ hy sinh năm nào? Giấy báo tử ghi thế nào?”. Chị Thắng sụt sịt: “Em
cũng không biết cụ thể. Chỉ thấy trong giấy báo tử ghi bố em mất ngày 15 tháng 3
năm 1975 tại mặt trận phía Nam thôi và gia đình lấy ngày đó để làm giỗ cho cụ”.
Nghe xong, anh Bảy chắp hai tay trước ngực, mặt hướng lên bàn thờ Bác Hồ một
cách thành kính, miệng khấn lầm rầm. Chừng 5 phút sau, anh quay sang chị Thắng
nói: “Cụ về rồi đấy chị ạ!”. Nói đoạn, anh lấy tờ giấy trắng khổ A3 cùng hộp bút
màu bày ra trước mặt rồi lại chăm chú nhìn lên trán hai người. “Thấy rồi. Có mộ
anh chị ạ! Mộ chưa quy tập”. Tay vẽ, miệng anh thuyết minh: Đây là dãy núi. Đi
qua chiếc cầu bằng cây bắc qua con suối. Đây là đường mòn nhỏ đơn vị hay đi lấy
gạo. Cụ không phải mất ngày 15 tháng 3 năm 1975 đâu chị ạ. Chị ghi lại đi. Cụ
mất ngày 14 tháng 10 năm 1969 âm lịch ở bản Adiu cơ. Giấy báo tử ghi sai. Nhiều
trường hợp như thế này lắm. Giấy báo tử thời chống Pháp ghi chi tiết chứ không
như thế này.
Mọi người nhìn vào sơ đồ thấy núi non trùng điệp, ruộng lúa bậc thang, cỏ cây
ngút ngàn. Có cầu bắc qua sông, qua suối. (Xem ảnh).
Vẽ xong sơ đồ, anh Bảy bắt đầu điền các ký hiệu, trong đó có cao điểm 463, nơi
trạm trung phẫu của đơn vị. Đang cắm cúi viết, nhà ngoại cảm bất chợt dừng bút
hỏi: “Anh Tiến này. Em nghe thấy cụ nói điểm cao 463. Không hiểu ở chiến
trường, người ta có gọi như thế không nhỉ?”. Ông Tiến bảo: “Có đấy. Điểm cao là
quả đồi hay ngọn núi cao nhất. Người ta đặt cho nó một cái tên để phân biệt với
những ngọn núi khác. Thông thường, những con số đặt cho điểm cao là chiều cao
của ngọn núi. Song cũng có thể chỉ là mã số trong bản đồ quân sự”. Nhà ngoại cảm
bảo: “Em nghe không rõ, chỉ thấy cụ nói điểm cao 463 thì điền vào chứ thực tình
em không hiểu. Em nghe thấy gì thì ghi vào để lấy tín hiệu. Càng nhiều tín hiệu thì
khi tìm càng dễ”. Ngừng lời, anh Bảy lại chăm chú lắng nghe và tiếp tục ghi chép,
miệng lẩm bẩm: ông Lai, ông Luật, anh Hạo ở thôn 1, bản Adiu là những người
trước kia thường xuyên gặp cụ. Ông Lai có nước da ngăm đen, hàm trên rụng hết
không còn một chiếc răng nào. Cứ thế, anh viết lên tấm sơ đồ đã vẽ xong. Cuối
cùng, anh khoanh tròn một chấm đen rồi kẻ một đường mũi tên ra ngoài khoảng
trống, ghi: phần mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư. Anh chấm ba nốt tròn nữa cạnh mộ liệt sĩ
rồi cũng ghi chú là 3 ngôi mộ của dân địa phương phía sau. Ngẩng đầu lên, anh
Bảy bảo: “Thế là đã rõ rồi. Em chỉ băn khoăn một điều là sao lại có mỗi một mộ
liệt sĩ ở đây. Hay những người khác quy tập rồi sót cụ ở lại?”. Ông Tiến hỏi: “Có
chắc chắn không? Bảy cố gắng hỏi lại cụ xem”. “Để lát nữa anh ạ. Nếu có thêm tín
hiệu em sẽ tiếp tục ghi. Anh chị cứ yên tâm, em sẽ làm hết sức chi tiết cho gia
đình”. Chiêu một ngụm nước, anh Bảy chậm rãi nói: “Anh ạ! Bản đồ thế này là rõ
lắm rồi”. Vừa nói, Bảy vừa lấy tờ giấy trắng khác tiếp tục ghi chép những thông tin
mới. “Mộ cụ chôn ngay gần đường mòn mà đơn vị vẫn đi lấy gạo qua. Đồng đội
của cụ có đánh dấu một tảng đá to cạnh đấy. Mộ ở cạnh một gốc cây cụt. Cốt còn
nhưng ít lắm. Có một bát cơm đã hoá thạch, một lọ thuốc ký ninh, bên trong là tờ
giấy ghi địa chỉ nhưng mờ hết rồi. Có hộp dầu cao hổ đút ở túi ngực. Cụ không
phải hy sinh trong trận đánh đâu. Cụ là bác sĩ phải không ạ?”. Chị Thắng ngồi bên
trả lời: “Vâng! Bố em ở nhà là y sĩ”. Anh Bảy bảo: “ừ! Đúng rồi. Cụ mất lúc 14h.
Khi đang mổ cho thương binh thì có một vệt sáng từ máy bay lao xuống làm sập
cái nhà phẫu. Chỉ có mình cụ mất thôi. Cạnh cụ còn có chị Lý là y tá vẫn sống, quê
ở Quảng Trị và hai người nữa”. Anh Bảy ngừng viết, nhìn kỹ vào khuôn mặt anh
Đoàn, chị Thắng, bảo: “Em nhìn thấy cụ rồi. Cụ giống chị, trắng, cao chứ không
giống anh Đoàn có đúng không?”. Cả hai anh em đều gật đầu xác nhận đúng.
Chừng hơn một tiếng đồng hồ, tấm sơ đồ được vẽ xong. Ông Tiến hỏi thêm, nếu
gia đình đi tìm theo sơ đồ này thì cần phải làm những thủ tục gì? Bảy bảo: “Tốt
nhất trước khi đi, gia đình gọi điện báo cho em biết, em sẽ hướng dẫn cho. Em vẫn
chỉ dẫn qua điện thoại cho nhiều gia đình mà kết quả vẫn tốt”. Là người đã từng
sống và chiến đấu trong chiến trường nên khi nhìn tấm bản đồ, ông Tiến biết việc
đi tìm chẳng đơn giản chút nào. Ông tha thiết đề nghị anh Bảy bớt chút thời giờ đi
cùng đoàn. Thật may, anh Bảy nhận lời. Cả nhà đều vui mừng, nhất là chị Thắng,
mặt mũi rạng rỡ hẳn lên. Trên đường về nhà, chị luôn miệng trầm trồ, xuýt xoa:
“Lạ nhỉ?! Không hiểu tại sao anh ấy lại biết rõ thế nhỉ?”. Từ hôm ấy, tất cả ráo riết
chuẩn bị chờ ngày lên đường tìm cha.
Kỳ 6: Ngược ngàn thang đá lên bản Adiu

Điểm cao 463


Mặc dầu đã có tấm bản đồ chỉ dẫn khá chi tiết nhưng cũng phải mất hơn một tháng
sau, gia đình chị Thắng mới quyết định lên đường tìm cha. Nhìn vào tấm bản đồ ấy
cũng đủ thấy hành trình đi gian nan thế nào. Phải vượt qua sông qua suối, trèo núi
cao vực sâu. Chị Thắng phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng từ những dụng cụ nhỏ nhất như
đèn pin, dao, võng, áo mưa, thuốc men. Đoàn khởi hành từ Hà Nội vào chiều ngày
31 tháng 2 năm 2002 gồm 5 thành viên: Ông Trần Tích Tiến (trưởng đoàn), nhà
ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy (phó đoàn), anh Vũ Duy Đoàn, chị Vũ Thị Thắng,
anh Nguyễn Văn Thành và bác sĩ Phạm Đỗ Bình. Sáng hôm sau, đoàn đã có mặt ở
huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam. Biết đoàn vào tìm mộ liệt sĩ nên các đồng chí lãnh
đạo và cán bộ phòng Lao động thương binh và xã hội huyện và Huyện đội tiếp đón
rất chu đáo và tận tình giúp đỡ. Tuy không tìm thấy danh sách của liệt sĩ Vũ Duy
Dư song những thông tin mà huyện đội cung cấp đã trùng khớp với một số tín hiệu
được xác lập trên tấm bản đồ: có bản Adiu, có điểm cao 463. Biết đường lên Adiu
quá hiểm trở nên huyện đội đã cử đồng chí Đức, người dân tộc Cà-tu đi làm hoa
tiêu cho đoàn. Đi được chừng 8km trên đường mòn Hồ Chí Minh thì bắt gặp một
chiếc cầu treo bắc qua con sông rộng. Xe ô tô Toyota 15 chỗ buộc phải dừng lại.
Cả đoàn chỉ mang theo những thứ thật cần thiết. Mỗi người một chiếc ba lô. Lặng
lẽ vượt qua suối, qua đồi. Chừng 3 tiếng đồng hồ thì tới xã A-roi. Đồng chí Đức
cho đoàn tạm nghỉ giải lao rồi cùng ông Tiến, anh Bảy lên thăm đồng chí Thắng,
nguyên là huyện đội trưởng, nay đã nghỉ hưu để hỏi thăm tình hình bản A-diu.
Thông tin ông Thắng cung cấp thật bất ngờ: ở bản A-diu có ông Lai, ông Luật, ông
Hạo. (Đúng như thông tin nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy cung cấp từ Hà Nội).
Nhưng ông Luật mất rồi. Ông Hạo thì chuyển đi nơi khác. Hiện chỉ còn mỗi bố Lai
thôi. Ông Tiến sốt sắng hỏi: “Thế ở xã mình có điểm cao 463 không?”. “Có đấy. ở
ngay sau bản A-diu ấy”. Đồng chí Thắng đáp. Nghe vậy, ông Tiến mừng rơi lệ.
Nhìn sang Bảy, thấy mắt anh cũng rưng rưng. Chỉ mỗi anh Đức là khuôn mặt vẫn
bình thản vì đoàn chưa cho anh biết những điều huyền bí trong tấm bản đồ.
Anh Thắng (bên trái) và anh Bảy
Tạm biệt đồng chí Thắng, đoàn tiếp tục hành trình lên bản A-diu. Cả đoàn cặm cụi
đi, không ai nói với ai một lời. Một niềm xúc động đang dâng trào trong mỗi
người. Chừng một giờ leo núi, đoàn đặt chân đến bản, nghỉ tại nhà ông Lai. Bản A-
diu nghèo xác xơ với gần một trăm hộ, hầu hết là người Cà-tu. Bản nghèo đến mức
anh Đức hỏi mua gạo để nhờ gia đình nấu cơm cho đoàn mà chạy khắp bản không
mua nổi một bơ. Cô con gái bố Lai cười lỏn lẻn: “ở đây chỉ có sắn thôi” khiến cả
đoàn sững sờ. Chị Thắng rầu rĩ bảo, không ngờ ở đời còn có những nơi nghèo khổ
thế này”. Một nồi sắn to nóng hổi dọn ra. Cả đoàn sà vào. Chỉ có sắn luộc chấm
với muối dầm, ớt xanh mà sao thấy ngon thế. Chị Thắng thở dài đánh thượt: Chả
bù ở Hà Nội, toàn sơn hào hải vị mà bữa cũng chỉ nuốt được bát cơm.
Bố Lai ra huyện lĩnh lương từ sáng sớm, mãi đến sẩm tối mới về. Năm nay, bố
khoảng 67 tuổi, người cao, gầy, nước da nâu đồng săn chắc. Bước chân đến sân, bố
đã cười khơ khớ, để lộ hàm trên không còn một chiếc răng nào. (Đúng như tín hiệu
anh Bảy cho). Bố hồ hởi kể cho đoàn nghe về các ngôi mộ mà khi làm rẫy, bố gặp
song không phải ở bản A-diu. Bố cũng chẳng biết đấy là mộ của bộ đội hay địch vì
ngày xưa đánh nhau, địch chết cũng nhiều và chôn ở những nương ấy. Biết đoàn từ
Hà Nội lên tìm mộ liệt sĩ nên dân bản kéo đến rất đông. Chuyện nổ như ngô rang.
Giữa lúc tiếng nói, tiếng cười râm ran khắp bản thì bất ngờ, một ông già tóc bạc
như cước, người chắc lẳn như cây lim, cây táu bước đến trước mặt ông Tiến, hỏi:
“Có phải đi tìm bộ đội Dư không? Tao biết nó đấy. Chính tao với thằng A-feng
chôn nó vì hồi ấy, tao làm du kích bản mà”. Ông già ấy là bố A-mo. Bố kể: “Bộ
đội Dư là bác sĩ. Nó bị thương, bộ đội để nó ở lại với dân bản. Nó đã cứu giúp dân
bản, chữa bệnh sốt rét cho dân bản. Dân bản quý nó lắm. Nhưng đến lúc nó bị sốt
rét thì hết thuốc nên nó chết đấy. Ai cũng khóc thương nó. Tao chôn nó ở đằng sau
một cây to. Tao đánh dấu cây ấy rồi”. Cả đoàn sướng rơn. Ông Tiến hỏi mà lưỡi cứ
líu lại: “Thế bố có nhớ bộ đội Dư mất năm nào không?”. Bố bảo, cuối năm 1969
nhưng tháng thì bộ chịu. Ông Tiến lại hỏi: “Bố có nhớ đường đến đó không?”. Bố
A-mo cười: “Nhớ chứ. Nó ở trên núi cao đằng sau bản ấy. Đi lên đó, nếu mà người
dân thì mất hai tiếng còn chúng bay phải mất 3 tiếng”. Ông Tiến đề nghị bố dẫn
đường. Bố A-mo nhận lời ngay.
Đêm ấy, cả đoàn không sao chợp mắt được. Nằm chùm chiếu co ro mà cái rét vùng
cao lạnh thấu thịt thấu xương. Nửa đêm, chị Thắng dậy ngồi bưng mặt khóc thút
thít. Linh cảm về cuộc hội ngộ cha con sau bao năm cách biệt đang đến gần khiến
chị xúc động.
Sáng sớm hôm sau, khi tiếng chim rừng vừa cất, đoàn đ • lục tục chuẩn bị lên điểm
cao 463. Đi cùng đoàn còn có 3 trai bản cường tráng do già làng cắt cử, tổng cộng
11 người, chia làm 3 tốp. Mỗi tốp do một người dân tộc dẫn đường, đề phòng có ai
mệt, cần ngồi nghỉ, vẫn có thể sát nhập tốp cuối cùng. Núi sừng sững, lau sậy cao
lút đầu. Lá sậy sắc lẻm như ngàn lưỡi dao cứa tướp máu đôi cánh tay trần của ông
Tiến. Dốc dựng đứng. Đầu người dưới trạm chân người leo phía trên. Không ai
dám nhìn xuống vì độ cao chóng mặt. Vực sâu thăm thẳm. Mây xoà vào mặt, quấn
quýt lấy thân người. Mồm miệng thi nhau thở. Hơi phì cả ra đằng tai. ì ạch vượt
qua ngọn núi đầy lau lách lại thấy hiện lên trước mặt dốc núi một cánh rừng
nguyên sinh. Đi theo một khe suối cạn, hai bên vách đá dốc ngược, cây cối um
tùm. Bố A-mo bảo, con đường này dân bản chẳng ai dám đi, chỉ có thợ săn thú
thỉnh thoảng mới bước chân vào nên cây dại mọc chằng chịt, vừa leo vừa phải
dùng dao phát quang mở đường. Nhiều đoạn phải đi trên vách đá treo leo, một bên
là sườn núi cao, một bên là vực thẳm. Rừng rậm đến mức không có nổi một tia
nắng mặt trời xuyên qua được kẽ lá. Mặt đất ẩm ướt, đầy lá mục. Bước chân đến
đâu, vắt ngóc đầu quăng mình rào rào đến đây. Chị Thắng bị mấy con bám vào
bụng chân, sợ quá, khóc thét, vừa nhảy, vừa kêu la.
Ngược ngàn thang đá
Chừng hơn 3 tiếng sau, đoàn đặt chân đến một khu rừng có mấy cây cổ thụ, xung
quanh được bao bọc bởi nhiều cây con và dây leo chằng chịt. Bố A-mo ngắm nghía
một hồi rồi hạ lệnh dừng lại. Bố khoát tay chỉ, chính nơi này, sau những gốc cây
kia, bố đã an táng liệt sĩ Dư. Hơn chục người lao vào phát quang bụi rậm, tạo thành
một khoảng trống rộng để xác định vị trí ngôi mộ nhưng tìm mãi chẳng thấy nấm
đất nào. Nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy kiểm tra lại tín hiệu rồi khẳng định, mộ
liệt sĩ Dư đúng ở chỗ gốc cây cụt. Ông Tiến vội bày lễ vật, hương hoa, nải quả lên
trên gốc cây, thắp hương lầm rầm khấn. Chị Thắng, từ lúc lên, cứ ngồi phệt xuống
đất khóc réo gọi bố. Sau khi làm xong thủ tục tâm linh, đoàn bắt đầu đào bới. Anh
Đoàn – con trai cả của liệt sĩ, dưới sự chỉ dẫn của anh Bảy, là người bập nhát cuốc
đầu tiên ở ngay gốc cây cụt, nơi vừa thắp hương, đằng sau gốc cây cổ thụ to nhất.
Đây chính là cây mà bố A-mo đã đánh dấu trên thân cách đây 33 năm bằng cách
dùng dao chặt tước vỏ. Nay, vết chém vẫn còn, dài khoảng 60 cm, rộng 30cm. Mọi
người thay nhau đào. Đến 12 h trưa, hố đào đã được mở rộng 1,5m, sâu chừng
70cm mà vẫn chưa thấy dấu hiệu gì. Ông Tiến lo ra mặt, hỏi bố A-mo có nhớ nhầm
không? Bố khẳng định chắc nịch: “Đúng ở cây to này mà. Nhưng tao không nhớ
bên phải hay bên trái. Tao chôn bộ đội Dư trước, rồi chôn 3 cái dân sau mà”. Nói
đoạn, bố tóm tay ông Tiến, dẫn đi cách cây cổ thụ chừng 10 m về bên trái, chỉ vào
chỗ bụi cây rậm rạp: “Mộ 3 cái dân ở chỗ ấy đấy”. Ông Tiến vạch cành len vào
trong thì nhìn thấy một nửa thân gỗ to, dài chừng 2m nằm trên mặt đất, lá rừng phủ
dầy bên trên. Đồng chí Đức giải thích, người dân tộc Cà-tu mai táng người chết
như thế. Họ xẻ thân cây gỗ làm hai mảnh. Sau đó đục rỗng rồi đặt người chết vào
đó. Hố chôn sâu chừng 60cm, do đó nửa trên của thân cây vẫn nổi trên mặt đất.
Như vậy, vị trí bố A-mo xác định nơi mai táng liệt sĩ Vũ Duy Dư là chính xác
nhưng sao đào mãi vẫn không thấy. Ông Tiến bàn với đồng chí Đức cho đào hố
thứ hai dịch về phía bên phải cây cổ thụ, cách hố thứ nhất khoảng 4m. ở vị trí này
cũng có một gốc cây cụt. Hố thứ hai đào rộng 1,5m, sâu 50 cm thì gặp một lớp đá
ong. Bố A-mo bảo: “Không phải chỗ này rồi vì ngày xưa tao đào không gặp lớp đá
như thế”. Ông Tiến nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy xin thêm tín hiệu tại
hiện trường để xác định. Bảy bảo: “Để em thắp hương xin con ong chỉ dẫn”.
Khoảng 5 phút sau, một con ong to bằng ngón tay út bỗng từ đâu vù đến, bay xung
quanh mặt chị Thắng hai vòng rồi dừng lại, đậu vào trán chị. Chị Thắng sợ quá,
mặt tái mét. Anh Bảy trấn an: “Cứ bình tĩnh, đừng sợ”. Nghe vậy, chị Thắng đứng
yên, hai tay chắp trước ngực, miệng khấn xin bố chỉ dẫn. 30 giây sau, con ong rời
khỏi trán chị Thắng, xà xuống, bay xung quanh nơi anh Bình đang nằm nghỉ vì
mệt, cách miệng hố thứ nhất 40cm rồi bay thẳng vào rừng sâu.
Mặt trời đã ngả về Tây. Rừng rậm bắt đầu âm u. Nhìn đồng hồ đã 1h30′ chiều. Cả
đoàn lo lắng. Nếu hôm nay không tìm thấy thì buộc lòng phải quay về bản vì
không mang theo lương thực. Mà ngày mai lại tiếp tục lên tìm kiếm thì mọi người
không đủ sức. Hôm nay leo núi đã oải quá rồi. Ông Tiến bàn với đồng chí Đức
huyện đội và anh Bảy: “Tín hiệu con ong không cho biết rõ ràng nhưng cũng có xà
xuống đất, bay quanh anh Bình nằm giữa hố 1 và 2. Theo tôi, chúng ta nên mở
rộng hố 1 thêm 40 cm nữa về phía hố 2. Nếu vẫn không thấy thì đào một đường
hào rộng 60 cm, sâu 60 cm, chạy dài từ hố 1 sang hố 2, cắt toàn bộ đằng sau cây cổ
thụ. Vì thời gian không còn nhiều nữa”. Mọi người đều nhất trí, thay nhau đào.
Anh Bảy ngồi xếp bằng, tay chắp trước ngực, lẩm bẩm khấn. Đột nhiên, anh nói:
“Em vừa nhìn thấy một người con gái đứng đằng sau gốc cây kia. Anh Tiến ra xem
nào”. Vừa nói, Bảy vừa chỉ vào cây cổ thụ phía đằng xa, cách chỗ mọi người đào
chừng 15 m. Ông Tiến ngó nghiêng một hồi chẳng thấy gì. Anh Bảy lại nói: “Đấy,
chị ấy vừa ló ra đấy. Chị ấy cắt tóc ngắn, mặc váy dân tộc mà. Anh ra xem có ngôi
mộ nào ở đó không?”. Nghe vậy, bố A-mo bảo: “Có con A-lý chôn ở đấy”. Anh
Bảy liền bước đến phía sau gốc cây to, thắp hương khấn: “Chị A-lý ơi! Tôi dân bản
rất quý bộ đội Dư nên muốn giữ ở lại. Nhưng bộ đội Dư đã ở đây với dân bản, với
chị A-lý hơn 30 năm rồi. Nay gia đình muốn xin dân bản cho đón bộ đội Dư về với
ông bà, tổ tiên để thoả lòng thương nhớ. Chị A-lý linh thiêng hãy giúp đỡ phù hộ
cho chúng tôi nhanh chóng tìm được bộ đội Dư chị nhé”.
Từ lúc mọi người tích cực đào bới, anh Đoàn cứ ngồi rũ ở gần mép hố 2. Anh Bảy
đề nghị đào mở rộng hố 2 chỗ anh Đoàn ngồi. Vừa cuốc vài nhát, anh Đoàn reo
lên: “Anh Tiến ơi! Hình như em thấy dây võng này”. Mọi người đổ xô vào. Bảy
nhảy xuống hố, dùng tay khẽ bới. Sợi dây dù lộ dần ra. “Chính xác rồi”. Bảy nói
to, giọng reo vui. “Chiếc võng ngày xưa làm bằng vải Tô Châu nên mặc dầu vùi
sâu dưới đất hơn 30 năm nhưng những sợi ny-lon và dây dù buộc quanh đầu võng
vẫn còn”.
Sau khi xác định được hướng nằm của chiếc võng, mọi người nhẹ nhàng đào rộng
và dài dần ra. Có một sự trùng hợp đặc biệt là hướng chiếc võng đặt đúng vị trí anh
Bình nằm nghỉ khi con ong xà xuống bay xung quanh. Điều đó, chứng tỏ rằng liệt
sĩ đã nhận được lời cầu khẩn và sai linh vật hỗ trợ. Đặc biệt thứ hai là ông Tiến và
anh Đức, lúc đầu, đào đúng vị trí chiếc võng mà không thấy. Chỉ đến khi anh
Đoàn, con trai cả của liệt sĩ, xới thêm chừng 4 cm thì thấy. Như vậy, vấn đề huyết
thống trong tâm linh rất quan trọng.
Tất cả đoàn đều thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Đồng hồ đã chỉ
14h30′. Mọi người vội vã tập trung tìm kiếm hài cốt và kỷ vật của liệt sĩ. Đúng như
tín hiệu anh Bảy đã báo trước ở Hà Nội, do mai táng trong rừng rậm, đất ẩm nên
hài cốt không còn nhiều. Những chiếc khuy áo, nắp hộp thuốc mỡ dạng tuýp, một
tấm vải dù đùng để nguỵ trang khi hành quân còn nguyên vẹn đã ngả sang màu
vàng nhạt. Tất cả được gom lại, niệm trong miếng vải màu lá cờ tổ quốc rồi trang
trọng đặt trong ba lô. Đoàn xuống núi.
23h ngày 4 tháng 3 năm 2002, chiếc xe ô tô trở di hài của liệt sĩ Vũ Duy Dư đã về
tới thôn Đại Từ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Mặc dầu trời đã khuya
song nhân dân địa phương vẫn tập trung rất đông để đón đứa con của quê hương
trở về sau 33 năm xa cách. Sáng ngày 5 tháng 3, lễ truy điệu liệt sĩ đã được huyện
đội Thanh Trì, hội cựu chiến binh, các ban ngành địa phương cùng gia đình cử
hành trang trọng. Hài cốt liệt sĩ đã được mai táng tại nghĩa trang quê nhà.
Mộ liệt sĩ Nguyễn Duy Dư tại nghĩa trang huyện Thanh Trì
Cuộc trò chuyên giữa tác giả và ông Trần Tích Tiến:
PV: Là người theo suốt cuộc hành trình đi tìm mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư, ông có nhận
xét gì về tấm sơ đồ và những thông tin, tín hiệu mà nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc
Bảy đã cung cấp tại Hà Nội?
Ông Trần Tích Tiến: Sơ đồ vẽ đẹp, rõ ràng từng khu vực, từ đồi núi, sông suối,
ruộng nương, bản làng… Có thể nói, tín hiệu được xác lập từ Hà Nội, qua thực địa,
chính xác đến 90%. Chính nhờ tín hiệu này mà đoàn tìm kiếm đã đạt kết quả tốt
trong thời gian rất ngắn. Cụ thể:
1. Mộ liệt sĩ Vũ Duy Dư mai táng tại bản A-diu, huyện Hiên (Quảng Ngãi). Địa
danh này hoàn toàn chính xác.
2. Bản A-diu có ông Lai, ông Luật, ông Hạo biết thông tin về phần mộ liệt sĩ.
3. Có điểm cao 463. Và thực tế, mộ liệt sĩ đã nằm trên đỉnh của điểm cao.
4. Liệt sĩ hy sinh ngày 14 tháng 10 năm 1969. Về thông tin này, tôi cho là chính
xác. Vì theo giấy báo tử, liệt sĩ Dư hy sinh ngày 15 tháng 3 năm 1975 tại mặt trận
phía Nam nhưng sau khi xác minh nhân chứng là bố A-mo, người trực tiếp mai
táng liệt sĩ , bố khẳng định liệt sĩ mất khoảng cuối năm 1969.
PV: Vậy còn những thông tin chưa chính xác?
Ông Trần Tích Tiến: Thứ nhất, là thông tin về sự hy sinh của liệt sĩ. Nhà ngoại
cảm cho biết: trong lúc đang cứu chữa bệnh nhân trong một lán trại, do máy bay
địch oanh tạc, chiếc lán bị sập. Y sĩ Vũ Duy Dư đã hy sinh. Nhưng khi gặp bố A-
mo và một số người già bản A-diu, được biết, liệt sĩ Dư bị thương, khi đơn vị
chuyển quân đã để lại nhờ bản chăm sóc. Trong thời gian ở lại bản, thấy dân bản bị
sốt rét nhiều quá, y sĩ Dư đã cấp phát thuốc chữa bệnh cho dân. Khi y sĩ Dư bị sốt
rét thì hết thuốc nên đã mất. Chính vì nghĩa cử cao đẹp này mà đồng bào rất biết ơn
liệt sĩ.
Thứ hai, trong mộ liệt sĩ có bát cơm cúng hoá thạch, có lọ thuốc ký ninh bên trong
đựng tờ giấy mờ hết chữ. Trong túi áo bên trái còn hộp dầu con hổ. Tại thực địa,
khi khai quật mộ, không thấy những thứ đó. Chỉ có tuýp thuốc mỡ, mảnh vải dù
được gấp gọn gàng dưới phần đầu của liệt sĩ.
Kỳ 7: 84 năm đi tìm mộ người anh hùng Lương Ngọc Quyến
99 năm đã qua đi, kể từ khi ngọn lửa của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên bùng cháy
(30/8/1917 – 5/1/1918). Đây là lần đầu tiên, trong lịch sử cận đại Việt Nam, một
cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đã chiếm được tỉnh lỵ, không những làm
vang dội cả nước Việt Nam mà còn làm rung động nước Pháp và ảnh hưởng tới
các xứ thuộc địa của Pháp. Cuộc bạo động ấy cùng tên tuổi của hai nhà lãnh tụ
Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn sẽ mãi mãi là những nét vàng son rực rỡ ghi trong
trang sử hào hùng của đất Thái Nguyên, của lịch sử dân tộc. Song có một điều ít ai
biết được rằng, phía sau cái chết còn nhiều bí ẩn của người anh hùng Lương Ngọc
Quyến là cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt có lẽ là dài nhất, đằng đẵng nhất – 84
năm, của rất nhiều thế hệ con cháu của cụ. Và đến tận những ngày này, khi chút ít
hài cốt của cụ Lương Ngọc Quyến đã được tìm thấy nhờ khả năng đặc biệt của
nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và được an táng tại quê nhà (xã Nhị Khê,
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) thì di hài của người anh hùng Đội Cấn vẫn còn
chìm lấp đâu đó giữa bạt ngàn nương chè, cỏ dại.
Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và cái chết oanh liệt của người anh hùng Lương
Ngọc Quyến
Cụ Lương Ngọc Quyến
Sinh ra trong thời buổi loạn lạc, đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, ngay từ thuở
nhỏ, cậu bé Lương Ngọc Quyến đã mang trong mình lòng yêu nước và mối căm
thù giặc sâu sắc. Mặc dầu được cha là cụ cử Lương Văn Can, người sáng lập ra
Đông kinh nghĩa thục, kèm cặp chữ thánh hiền song cậu bé Quyến vẫn chuộng võ
hơn văn. Năm 1900, đi thi hương không đậu, ông bèn rũ bỏ con đường khoa cử,
dốc hết tâm trí vào việc rèn luyện trí lực, những mong có thời cơ cứu nước. Tháng
10 năm 1905, khi nhà yêu nước Phan Bội Châu phát động phong trào Đông du,
ngay lập tức, Lương Ngọc Quyến lên đường, trở thành một trong bốn học sinh có
mặt tại Nhật. Ngày ra đi, ông cúi đầu lạy từ cha mẹ, gạt nước mắt phân ly, làm giấy
cho phép người vợ hiền cải giá, để lại nhà đứa con thơ dại, chỉ mang một số tiền
vừa đủ đến Yokohama (Nhật Bản). Cái nghĩa khí của một đấng nam nhi “ra đi đầu
không ngoảnh lại” ấy đã gây một niềm cảm kích mãnh liệt trong lòng lãnh tụ Phan
Bội Châu. Trong Ngục trung thư, cụ Phan đã dành những lời khen ngợi tốt đẹp
nhất cho Lương Ngọc Quyến: “Tôi xem ra người thật có khí phách hăng hái, đầu
tóc còn để bờm sờm. Dò hỏi mới biết Lương quân đã bỏ nhà trốn sang Nhật trơ trọi
một thân, lúc lên đến bến thì trong túi chỉ còn vẻn vẹn 3 xu. Thấy thế tôi vừa mừng
vừa chưng hửng. Vì bạn nhỏ tuổi nước ta, một thân một bóng mà dám liều mạng
xông pha sóng gió muôn trùng đến một nước mình chưa quen biết bao giờ, Lương
quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra, Lương quân vốn là một thanh niên chứa
sẵn kỳ khí, có hoài bão cao xa, chỉ nghe nói tôi đã sang Đông, cho nên mạnh bạo
bỏ nhà ra đi, không kể gì mọi nỗi gian nan nguy hiểm. Bạn thiếu niên anh tuấn
nước ta, có mấy người được như Lương quân?!”.
Tháng 5 năm 1906, Lương Ngọc Quyến được Phan Bội Châu bố trí vào học quân
sự tại Chấn Võ Học hiệu (Simbu Gakku), một trường quân sự của chính phủ Nhật
Bản đào tạo sĩ quan cho Trung Quốc. Nhưng đến ngày 10 tháng 6 năm 1907, Pháp
và Nhật bắt tay nhau, nên ngày 8 tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu cùng toàn bộ
du học sinh Việt Nam bị chính phủ Nhật trục xuất. Cụ Phan cùng Lương Ngọc
Quyến và một số đồng chí phải sang Quảng Đông, nương náu ở nhà Chu Bá Linh,
một nữ giáo viên Trung Quốc có cảm tình với các nhà cách mạng Việt Nam.
Bấy giờ, phong trào cách mạng trong và ngoài nước đều gặp nhiều khó khăn. Cụ
Phan phải đi bán sách để sinh nhai, tối về lại cùng Lương Ngọc Quyến uống rượu
giải sầu. Muốn thoát khỏi cảnh cùng quẫn, Lương Ngọc Quyến tìm đường về nước
để vận động tài chính. Cụ Lương Văn Can đã gom góp được 250 đồng để Quyến
mang sang Trung Quốc. Tháng 10 năm 1910, cụ Phan đã dùng số tiền ấy để đưa
một số đồng chí sang Xiêm cày cấy, chờ đợi thời cơ. Năm 1911, cha Lương Văn
Can lại đứng ra hỏi cưới và tổ chức cho Nguyễn Thị Hồng Đính, con gái thứ hai
của chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương (làng Động Trung, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình) sang Đông Hưng, Trung Quốc để thành hôn với Lương Ngọc
Quyến. Sau đó, với tư cách là một học viên đã tốt nghiệp Chấn Võ Học hiệu,
Lương Ngọc Quyến được vào học trường Quân nhu học hiệu ở Quảng Đông và
trường Sĩ quan học hiệu Bắc Kinh, rồi trở thành thiếu tá trong quân đội cách mạng
Trung Hoa. Đang tuổi thanh xuân, ý chí giết giặc cứu nước luôn sôi sục nên ông
lao vào học tập và thực hành sở học ngay trên chiến địa Trung Hoa. Cụ Phan nhận
xét: “Lúc ấy, học vấn khác, phần nhiều Lương Ngọc Quyến đều không lưu ý, duy
một khoa học quân sự chiến thuật thì lại thiệt tâm nghiên cứu. Cái chí đoản đao
thất mã (thanh gươm yên ngựa) e không một phút nào quên”.
Tháng 6 năm 1912, nhân cách mạng Tân Hợi (1911) thành công ở Trung Hoa,
Phan Bội Châu đã thành lập Việt Nam quang phục Hội, lấy chủ nghĩa dân chủ
cùng mục tiêu “khu trục Pháp tặc, khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam cộng
hoà dân quốc” làm tôn chỉ. Lương Ngọc Quyến cùng Hoàng Trọng Mậu được cử
làm uỷ viên quân vụ thuộc Bộ chấp hành. Khi ấy, số hội viên tập hợp ở Quảng
Đông lên đến cả trăm người. Để có lương thực nuôi quân, đầu năm 1913, Lương
Ngọc Quyến về nước lần thứ 2. Tại nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cương,
Lương Ngọc Quyến đã bàn với con cháu các chí sĩ tiến hành hai cuộc tập kích vào
Ty rượu Thanh Ba và Dinh tuần phủ Phú Thọ Chế Quang Ân. Rất tiếc, hai trận
đánh này đều thất bại, nhiều chiến sĩ cách mạng đã hy sinh anh dũng. Đến tháng 4
năm 1913, Lương Ngọc Quyến lại đưa Phan Bội Châu đến tỉnh Hồ Nam (Trung
Quốc) gặp người bạn đồng học cũ là Trương Huy Toản, đang giữ chức sư trưởng
của quân đội Trung Hoa Dân quốc ở Hồ Nam để nhờ tài trợ. Trương Huy Toản
nhận lời giúp nhưng ngay sau đó, Trung Hoa rơi vào nội chiến. “Hoạ vô đơn chí”,
đang lúc gian nan thì ở trong nước lại xảy ra hai vụ đánh bom ở Thái Bình và Hà
Nội khiến cho mạng lưới của Việt Nam quang phục hội bị càn quét tơi bời.
Giữa năm 1914, nhân cơ hội ở Châu Âu sắp xảy ra đại chiến, Lương Ngọc Quyến
lên đường vào Sài Gòn, tìm xuống Long Xuyên gặp gỡ Dương Bá Trạc để trù tính
việc đưa người sang Xiêm để khẩn ruộng, luyện quân, chuẩn bị lực lượng chờ thời
cơ khởi nghĩa. Biết giặc Pháp sẽ tra xét kỹ ở biên giới Miên – Xiêm, Lương Ngọc
Quyến thay đổi lộ trình, đi Hương Cảng để từ đó vòng sang đất Xiêm. Nhưng tại
Hương Cảng, ông đã bị cảnh sát Anh phục bắt rồi giao cho nhà cầm quyền Pháp ở
Quảng Châu Loan. Khoảng tháng 3 năm 1915, ông bị giải về Hà Nội, ra toà án
binh Cao Bằng rồi lần lượt bị chuyển sang các nhà lao Hoả Lò (Hà Nội), Nam
Định, Sơn Tây, Phú Thọ và lại quay về Hoả Lò. Tại đây, địch đã dùng những đòn
tra tấn dã man nhất, cả những ngón nghề mua chuộc xảo quyệt song vẫn không làm
lung lạc được ý chí sắt đá, nghị lực phi thường của người chiến sĩ cách mạng
Lương Ngọc Quyến. Theo Việt Nam nghĩa sử lược (1918) của Đặng Đoàn Bằng và
Phan Thị Hán (tức Phan Bội Châu), thì trong phiên toà xét sử Lương Ngọc Quyến
tại Hà Nội, thực dân Pháp đã cho vời mẹ của ông – bà Lê Thị Lễ đến chứng kiến,
hòng lợi dụng tình mẫu tử để lung lạc ý chí của ông. Nhìn thấy con mình bị gông
xiềng tù tội, lòng mẹ đau đớn như cắt từng khúc ruột nhưng ra trước toà, vừa ngó
thấy mặt con, cụ đã mắng: “Tao nuôi mày khôn lớn những mong báo đền nợ nước
thù nhà. Nhưng mày làm thế nào để bị giặc bắt đưa ra xét sử, thật đáng xấu hổ”. Cụ
bà cò cứng cỏi chất vấn quan toà: “Từ thuở còn là bào thai, chúng tôi đã dạy con
về tình yêu thương giống nòi, chủng tộc. Bởi vậy, con tôi theo đuổi mục đích cứu
nước là hợp với đạo lý của gia đình và của đất nước chúng tôi, sao lại gọi là phản
loạn?”. Nói đoạn, cụ quay sang nói với con trai mình: “Mẹ chỉ mong con xứng
đáng là công dân nước Việt đến hơi thở cuối cùng”. Là một người mẹ hiền đức,
cần kiệm, tảo tần lúc thường ngày, nhưng chính trong thời khắc căng thẳng ấy, hốt
nhiên, cụ bà Lê Thị Lễ bộc lộ trọn vẹn khí phách của một người mẹ Việt Nam anh
hùng. Chính khí phách anh hùng của mẹ đã vun đắp thêm chí khí cho con.
Ngay trong địa ngục Hoả Lò, Lương Ngọc Quyến còn tìm mọi cách tuyên truyền,
giác ngộ lòng yêu nước, căm thù giặc trong các bạn tù, kêu gọi họ nổi dậy chống
thực dân. Biết không thể khuất phục được Lương Ngọc Quyến, ngày 25 tháng 7
năm 1916, thực dân Pháp bèn phạt ông án tù chung thân và đưa ông lên Thái
Nguyên.
Tên Công sứ khét tiếng tàn ác Darles, để diệt trừ mầm nguy hiểm Lương Ngọc
Quyến, đã sai lính dùi bàn chân của ông rồi tra xích sắt, làm cho ông bị liệt hẳn
chân. Nhưng hắn không thể ngờ, hành động tàn ác ấy chỉ càng làm bùng lên ngọn
lửa căm thù trong con người Lương Ngọc Quyến. Chính tại nhà tù của giặc Pháp,
ông đã tìm được người đồng chí mới là Đội Cấn (tên thật là Trịnh Văn Cấn), một
viên đội khố xanh yêu nước, đang phục vụ trong cơ binh Pháp ở Thái Nguyên.
Xuất thân từ tầng lớp nông dân, tuy đứng trong hàng ngũ của địch nhưng Đội Cấn
thấm thía vô cùng nỗi nhục mất nước và đau xót trước cảnh ngộ của đồng bào khi
hàng ngày, tận mắt chứng kiến những hành động tàn ác của Darles với người bản
xứ, với tù nhân, dân phu. Điều đó, đã hun đúc trong ông ý chí giết giặc cứu nước.
Sau một thời gian, ông đã bí mật kết giao được với nhiều người có cùng chí hướng
trong đơn vị. Lấy tư cách là Uỷ viên quân vụ thuộc Bộ chấp hành của Việt Nam
quang phục hội, Lương Ngọc Quyến đã kết nạp Đội Cấn vào Hội.
Sau đó, một Ban chỉ huy khởi nghĩa đã được thành lập gồm: Đội Cấn, Lương Ngọc
Quyến, Đội Giá, Đội Xuyên, Đội Nam, Đội 935 và một người đội văn thư. Kế
hoạch tấn công đã được vạch ra: huy động lực lượng lính khố xanh ở trại tỉnh lỵ,
các đồn lân cận (175 lính), các tù chính trị và tù thường phạm giác ngộ đánh chiếm
tỉnh lỵ Thái Nguyên làm căn cứ. Khi cuộc bạo động nổ ra, sẽ có quân của Việt
Nam quang phục hội từ bên ngoài vào tiếp ứng. 22 h ngày 30 tháng 8 năm 1917,
ban chỉ huy hạ lệnh khởi sự. Đội Trường dẫn quân đi diệt tên giám binh Noel và
các tên tay sai là Phó quản Lạp và Đội Hành. Đội Giá dẫn quân phá đề lao, diệt tên
giám ngục Lô-ép, giải phóng 203 tù nhân, trong đó có Lương Ngọc Quyến. Tiếp
đó, Đội Cấn tập hợp thành đội ngũ hùng mạnh, lấy đại nghĩa “giết thù cứu nước”
để hiểu dụ anh em. 131 lính khố xanh đã đồng lòng hưởng ứng. Mọi người nhất trí
bầu Đội Cấn làm Thái Nguyên Quang phục Quân Đại đô đốc và cử Lương Ngọc
Quyến làm quân sư. Ngay đêm đó, nghĩa quân đã toả ra đánh chiếm các công sở
như toà sứ, toà án, nhà đoan, kho vũ khí, kho bạc, nhà dây thép và bao vây trại
lính Pháp. Khi phá kho vũ khí, nghĩa quân đã thu được 167 súng trường và 62.175
viên đạn.
Sáng ra, nghĩa quân trương trước cửa thành lá quốc kỳ nền vàng năm sao đỏ do
Việt Nam quang phục hội chế định và quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam
Quang phục Quân cùng bức trướng đề bốn chữ “Nam binh phục quốc”. Dùng loa
tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là “Đại hùng đế quốc”. Trước đó, từ
ngay nửa đêm, nghĩa quân đã công bố bản “Tuyên ngôn thứ nhất” do ông Tú
Nguyễn Gia Cầu khởi thảo, Lương Ngọc Quyến chỉnh sửa. Bản tuyên ngôn kể rõ
tội ác của thực dân Pháp kể từ khi chúng xâm chiếm nước ta, nhấn mạnh dã tâm vơ
vét của cải, đưa dân ta đi làm bia đỡ đạn ở chiến trường Châu Âu. Phần cuối, nhân
danh Đại đô đốc Quang phục Quân Trịnh Văn Cấn, bản tuyên ngôn kêu gọi nhân
dân đứng lên khởi nghĩa, đồng tâm hiệp lực diệt trừ giặc Pháp, dành độc lập cho tổ
quốc.
Hưởng ứng lời kêu gọi, hơn 300 người dân địa phương đã tình nguyện gia nhập
nghĩa quân nâng tổng số quân lên đến 623 người với võ khí tương đối đầy đủ. Cân
nhắc tương quan lực lượng giữa ta và địch, Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn đã
chọn phương án cố thủ Thái Nguyên để chờ ngoại viện. Toàn thể nghĩa quân được
tổ chức thành 8 đội, chia nhau đào công sự và ngăn giữ các hướng ra vào tỉnh lỵ.
Lương Ngọc Quyến chỉ huy tuyến phòng thủ bên ngoài. Đội Cấn lo giữ phía trong.
Hốt hoảng trước việc tỉnh lỵ Thái Nguyên bị nghĩa quân chiếm đóng, ngày 31
tháng 8 năm 1917, thực dân Pháp cấp tốc điều quân từ Hà Nội và Đáp Cầu lên giữ
đồn Gia Sàng. Sáng 2 tháng 9, bắt đầu mở cuộc tấn công với lực lượng hùng mạnh
gồm 2.000 quân, có pháo binh, tàu chiến yểm trợ. Nghĩa quân đã kháng cự rất
quyết liệt, tiêu diệt được 107 tên, sát thương 17 tên. Song trước kẻ địch mạnh gấp
bội, nghĩa quân cũng bị tiêu hao, chỉ còn 250 tay súng nên buộc phải rút lui. Chính
trong lần rút chạy ấy, Lương Ngọc Quyến đã anh dũng hy sinh.
Trưa ngày 5 tháng 9, Đội Cấn ra lệnh rút quân khỏi tỉnh lỵ để toả ra các vùng rừng
núi xung quanh. Bị giặc Pháp truy đuổi ráo riết, nghĩa quân phải di chuyển suốt 4
tháng ròng từ Hùng Sơn (huyện lỵ Đại Từ), Quán Chu đến Vĩnh Yên, Phúc Yên rồi
quay lại Thái Nguyên, đèo Nứa. Ngày 21 tháng 12, lực lượng của Đội Cấn tại căn
cứ núi Pháo chỉ còn 30 tay súng nhưng đã đánh bật nhiều đợt tấn công liên tiếp của
địch. Bị trọng thương và bị bao vây, vào lúc 21h ngày 5 tháng 1 năm 1918, Đội
Cấn đã tự sát để khỏi sa vào tay giặc.
Tuy chỉ dành được độc lập vỏn vẹn có 7 ngày rồi bị địch dìm trong biển máu
nhưng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên vẫn là điểm son rực rỡ nhất của phong trào
yêu nước theo đường lối bạo động. Điểm son ấy đã kết thúc một cách oanh liệt
phong trào yêu nước trong hai thập niên đầu thế kỷ 20. Sau này, khi viết Phan Bội
Châu niên biểu, cụ Phan một lần nữa, lại dành những lời hay nhất để ca tụng
Lương Ngọc Quyến: “Việc Thái Nguyên Quang phục 7 ngày, ông thiệt là tướng
tiên phong cho quân cách mệnh. Thế mới biết, người ta chỉ sợ không chí khí,
không sợ không một ngày biểu hiện được. Xem ở ông Lương mà càng đáng tin
lắm”. Còn học giả Nguyễn Hiến Lê, cũng không tiếc lời ca ngợi khi viết Đông kinh
nghĩa thục: “Trong lịch sử cách mạng của dân tộc ta, hai cái chết đó oanh liệt và
cảm động bậc nhất”.
Tuy nhiên, cái chết của người anh hùng Lương Ngọc Quyến, cho đến tận bây giờ,
vẫn còn là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu lịch sử. Đã có nhiều giả thiết về
cái chết đầy bi tráng này. Theo nhà nghiên cứu Đào Trinh Nhất thì “Đến trưa ngày
5 tháng 9, tỉnh thành thập phần nguy cấp. Quang phục quân được lệnh bỏ tỉnh
thành lục tục ra đi. Đội Cấn đã xếp đặt võng cáng sẵn sàng để đưa Lương Ngọc
Quyến theo quân. Nhưng ông đã khảng khái từ chối, không muốn đi theo quân để
anh em chiến sĩ phải bận lòng vì mình, phải chậm trễ trên đường bạt thiệp bôn ba,
mỗi bước có giặc theo sau, mỗi bước phải quay lại cự địch. Ông quyết định chết ở
Thái Nguyên, lấy hồn tiễn đưa các chiến sĩ. Sau mấy câu vắn tắt yên uỷ mọi người,
ông nói với Đội Cấn, thành thực và tự nhiên: Ông bắn hộ một phát vào giữa ngực
cho tôi khỏi trông thấy thực dân dày xéo lên lá cờ cách mạng. Bất đắc dĩ, Đội Cấn
phải làm theo ý muốn ấy. Sau đó, di hài Lương Ngọc Quyến được nghĩa quân đào
hố chôn lấp tử tế và san phẳng mặt đất rồi mới từ giã tỉnh thành kéo đi”. Nhưng
theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kiệm thì “vào ngày 4 tháng 9, địch dồn hết lực
lượng tấn công. Lương Ngọc Quyến trong lúc chỉ huy chiến đấu bị mảnh đại bác
bắn vào đầu nên hy sinh ngay tại trận”. Chính cái chết đầy bí ẩn ấy đã dẫn đến
hành trình tìm mộ dài dằng dặc ngót một thế kỷ của rất nhiều thế hệ con cháu
người anh hùng Lương Ngọc Quyến sau này.
Kỳ 8: 84 năm, hai thế hệ đi tìm mộ cha, ông

Bích Hằng đang trò chuyện với vong linh cụ Quyến


Sinh thời, Lương Ngọc Quyến có với người vợ thứ 2, bà Nguyễn Thị Hồng Đính, 3
mặt con: Lương Dân Nguyên, Lương Tân Khải và Lương Cao Vinh. Cả ba cậu con
trai, bà Đính đều sinh hạ tại Trung Quốc. Năm 1917, sau khi Lương Ngọc Quyến
hy sinh, bà gửi đứa con thứ 2 là Lương Tân Khải cho một phụ nữ Trung Quốc nuôi
dùm rồi đưa 2 con Nguyên và Vinh về nước. Mất cha từ lúc tuổi còn thơ nhưng
hình ảnh của cha với khí phách của một người anh hùng trọn đời hy sinh vì dân vì
nước vẫn hiện hữu trọn vẹn, trở thành niềm tự hào trong tâm hồn hai cậu bé qua lời
kể của mẹ. Sau này, trưởng thành, nỗi đau mất phần mộ cha trở thành nỗi ám ảnh,
thôi thúc Nguyên và Vinh đi tìm. Nhưng hoàn cảnh thời ấy, chiến tranh thì liên
miên, hết chống Pháp rồi đánh Mỹ, gia cảnh thì nghèo túng, Thái Nguyên thì mênh
mông đồi núi, tin tức về cha gần như chẳng có, việc tìm mộ chẳng khác gì “mò kim
đáy bể”. Năm 1967, ông Lương Cao Vinh lâm trọng bệnh mất. Gánh nặng tìm mộ
cha dồn cả lên vai ông Nguyên. Năm lần bảy lượt đi tìm chẳng được. Năm 1993,
tuổi cao sức yếu, ông Nguyên cũng ra đi. Trước khi mất, lời trăn trối cuối cùng với
cậu con trai thứ Lương Quân vẫn là nỗi canh cánh trọn đời về phần mộ cha Lương
Ngọc Quyến: “Con gắng thay cha tìm mộ ông. Bằng mọi cách phải tìm cho được.
Bố linh cảm mộ ông được chôn gần một ngôi chùa nào đó trên Thái Nguyên”.
Thấu hiểu nỗi đau của cha. Nhưng biết tìm mộ ông ở đâu bây giờ? Năm 1994, qua
báo chí, ông Quân biết đến khả năng tìm mộ đặc biệt của nhà ngoại cảm Phan Thị
Bích Hằng. Bấy giờ, tên tuổi của Bích Hằng đã vang dội cả nước qua hàng ngàn vụ
tìm mộ, nhất là vụ tìm mộ tập thể 13 liệt sĩ ở Non Nước (Ninh Bình) và 5 mộ liệt sĩ
ở Đông Triều (Quảng Ninh). Qua sự giới thiệu của ông Nguyễn Văn Huy, giám
đốc Bảo tàng dân tộc học, quãng giữa tháng 4 năm 1994, ông Quân tìm đến nhà
riêng của Bích Hằng ở Khu tập thể binh đoàn 11 (Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội)
cùng bức ảnh truyền thần của ông nội Lương Ngọc Quyến được vẽ lại từ bức ảnh
chụp của Sở mật thám Pháp khi ông Quyến bị cầm tù. Bích Hằng, sau khi thắp
hương mời vong cụ Quyến về, cho biết: hình ảnh cụ hiện lên rất mờ, thông tin
nhận được rất ít. Cụ nói, mộ cụ vẫn còn nhưng cốt không còn nhiều, được chôn
gần một ngôi chùa nào đó ở Vô Tranh, huyện Phú Lương hay Phú Bình gì đó. Địa
điểm không rõ lắm nên gia đình cứ lên đó mà tìm, hy vọng sẽ có người biết mà chỉ
dùm.
Vài ngày sau, ông Quân tìm đường lên Thái Nguyên. Xem bản đồ, chỉ có xã Vô
Tranh thuộc huyện Phú Lương. Ông bèn nhờ người cậu ruột, nguyên là cán bộ
quân khu Việt Bắc giới thiệu với ông trưởng thôn Thống Nhất, xã Vô Tranh dẫn đi
tìm. Phú Lương ngày ấy rừng núi còn rậm rạp, hoang vu, nhà nọ cách nhà kia một
quả đồi. Sục vào từng nhà, gặp gỡ các cụ cao niên trong làng để hỏi nhưng chẳng
ai biết gì về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, huống hồ là thông tin về
phần mộ cụ Lương Ngọc Quyến. Bác trưởng thôn đưa ông Quân đến hai ngôi chùa
trong xã. Một ngôi có tên là chùa Lụa nằm trên một quả đồi nhưng đã đổ nát hoàn
toàn, chỉ còn lại những hòn đá kê chân cột. Xung quanh là rừng nứa ngút ngàn.
Dưới chân đồi có một gia đình người Thái Bình lên khai hoang lập nghiệp từ
những năm 1950. Hỏi về cụ Quyến, họ lắc đầu nguây nguẩy không biết, lại còn
nghi ngờ ông Quân đi tìm đồ cổ. Ngôi chùa thứ hai cũng toạ lạc trên một sườn đồi,
bạt ngàn sắn. Ông trưởng thôn cho biết, ngôi chùa này đã bị cháy lâu lắm rồi, do
Pháp đốt. Nền chùa chính là chỗ đã mọc lên cây ngái to cỡ một người ôm. Người
chủ nương sắn đã đan một tấm liếp nhỏ, dưới đặt bát hương để cúng vái thần linh
vào những ngày rằm, mồng một. Đến hai ngôi chùa, ông Quân đều thành tâm thắp
hương cầu nguyện, đi xung quanh quan sát địa hình kỹ lưỡng, hy vọng tìm thấy
một dấu hiệu nào đó nhưng vô vọng.
Trở về Hà Nội, ông gặp Bích Hằng, kể lại chuyện lên Thái Nguyên tìm mộ cụ
Quyến. Bích Hằng khuyên ông nên nhẫn nại, kiên trì. Chị khẳng định mộ cụ còn
nhưng hiện thời chị chỉ giúp được thế. Sau đó, ông Quân có đến gặp Bích Hằng vài
lần nữa nhưng cùng không thu được thông tin gì mới. Cũng trong thời gian ấy, anh
em ông Quân có nhờ một số nhà ngoại cảm tiếng tăm khác như ông Đỗ Bá Hiệp
(Hà Nội), ông Tư Liên (Đà Nẵng) nhưng sự việc cũng chẳng sáng sủa gì. Giữa lúc
tưởng chừng bế tắc, không còn một tia hy vọng gì thì ông Quân bất ngờ nhận được
tin nhắn của Bích Hằng: đã có thông tin về phần mộ cụ Lương Ngọc Quyến. Ngay
lập tức, ông Quân cùng ông Cơ, người em con ông chú ruột, vội vã đến nhà Bích
Hằng. Chị vui mừng thông báo: chị vừa lên xã Vô Tranh, huyện Phú Lương tìm
mộ nhà báo Thôi Hữu, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong lúc “trò
chuyện” với vong liệt sĩ Thôi Hữu, ông cho biết, quả đồi bên kia có mộ của người
anh hùng Lương Ngọc Quyến. Rất tiếc, lúc đó trời đã sâm sẩm tối nên Bích Hằng
không sang được.
Lần này, đến gặp Bích Hằng, ông Quân đã tháo bức ảnh cụ Lương Ngọc Quyến mà
gia đình đã thờ phụng mấy chục năm nay. Bức ảnh này được chụp lại từ bức ảnh
của Sở mật thám Pháp, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Khi nói chuyện với vong cụ Quyến, chị Hằng nói cụ hiện lên rất rõ, cằm vuông,
mắt sáng, đặc biệt là thông tin về phần mộ cụ rất nhiều. Cụ chỉ dẫn: Đi qua cây cầu
có tên Rùng Rình thì tạt vào bên phải đường. Qua một thửa ruộng, lên một quả đồi,
trên đó có một ngôi nhà ngói. Phía đầu hồi nhà có một bụi tre, một chuồng nuôi gia
súc, dưới chân đồi có một cái ao. Giữa bụi tre và ao là một cây bạch đàn lớn mới bị
chặt, trên gốc cây vừa nhú lên hai mầm non. Cụ nằm dưới gốc cây bạch đàn ấy.

Bứng gốc cây bạch đàn


8h ngày 23 tháng 12 năm 2001, chiếc xe Toyota 12 chỗ ngồi xuất phát từ Hà Nội
đi Thái Nguyên. Đoàn đi bốc mộ gồm đông đảo con cháu cụ Lương Ngọc Quyến
cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và đại tá Hàn Thuỵ Vụ, Phó chủ nhiệm
Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người). Trước khi đi,
thực hiện đúng lời dặn của Bích Hằng, gia đình đã thắp hương trên bàn thờ gia
tiên, trình bày toàn bộ sự việc, xin phép lên đón cụ Lương Ngọc Quyến về. Hành
trình đi khá thuận lợi. Thông tin kiểm chứng đầu tiên là cây cầu Rùng Rình, vốn
trước đó là một cây cầu tre, khi đi qua thì cầu rung rinh, nay mặc dầu đã được bê
tông hoá kiên cố song dân địa phương vẫn gọi bằng tên cũ: cầu Rùng Rình. Vị trí
hài cốt cụ Lương Ngọc Quyến cũng nhanh chóng được xác định, trùng khớp với
những thông tin Bích Hằng cho từ Hà Nội: Nương chè, bụi tre, chuồng gia súc (gia
chủ mới dỡ bỏ), ao, gốc cây bạch đàn có hai mầm tái sinh. Chủ của nương chè này
là ông Bân, năm nay chừng 50 tuổi, quê gốc Thái Bình, lên đây khai hoang từ cuối
những năm 1970. Trước đó hai ngày, ông Quân đã lên đây, trình bày nguyện vọng
với UBND xã Vô Tranh và gia đình ông Ban, xin được giúp đỡ. Vì hài cốt của cụ
Quyến nằm trên nương chè của ông Bân nên việc khai quật sẽ ảnh hưởng ít nhiều.
Ông Bân bảo: “Việc gia đình tìm mộ là việc nghĩa nên cứ thoả mải tiến hành”. Tuy
nhiên, buổi sáng hôm đoàn lên khai quật, trong khi bà vợ săng sái đi đun nước,
thành kính giúp đoàn lập bàn thờ thắp hương vì tin tưởng vào chuyện tâm linh, vào
khả năng tìm mộ đặc biệt của nhà ngoại cảm thì ông chồng cứ chắp tay sau hông
đứng nhìn, cười khành khạch, cho đấy là chuyện hoang đường, mê tín dị đoan.
Trước khi khai quật, Bích Hằng thắp hương tại mộ, mời cụ Quyến lên trò chuyện.
Điều bất ngờ đầu tiên là vong của cụ bà Nguyễn Thị Hồng Đính cùng các con:
Nguyên, Vinh cũng lên theo. Cuộc trò chuyện kéo dài gần hai tiếng đồng hồ trong
sụt sùi nước mắt và tiếng cười (đã được gia đình ghi âm và đại tá Hàn Thuỵ Vũ
quay phim đầy đủ, nay chất lượng băng còn khá tốt – PV) với rất nhiều thông tin
mà gia đình ông Quân, ông Cơ xác nhận sau này là chính xác đến… 100%. Điều
ngạc nhiên là có nhiều chuyện rất bí mật, riêng tư, chỉ rất ít người trong gia đình
biết mà Bích Hằng cứ nói… vanh vách, khiến cả nhà… choáng. Ví như vừa thấy
Bích Hằng reo: “Cụ bà cũng về đấy” đã thấy cụ trách (qua nhà ngoại cảm): “Sáng
nay chúng may thắp hương sao không hoá vàng?”. Mọi người hướng sang cô
Dung, vợ chú Thắng (em trai ông Quân). Cô Dung bảo: “Trước khi đi, em đã dặn
anh Thắng hoá rồi cơ mà?!”. Nói xong, cô rút máy điện thoại di động, điện về nhà.
Chú Thắng giật mình bảo: “Chết thật! Sáng anh vội đi dạy học nên quên chưa
hoá”. Một lát, cụ bà lại bảo: “Hôm qua, ở quê vui lắm. Xã được tuyên dương anh
hùng. Bao nhiêu anh em họ hàng nhà mình đều được nêu danh”. Cả nhà ngớ người,
nhớ ra hôm qua (ngày 22 tháng 12 năm 2001), xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình – quê của cụ bà Nguyễn Thị Hồng Đính, vừa tổ chức lễ đón nhận
danh hiệu anh hùng thời kỳ chống Pháp. Trong danh sách các anh hùng liệt sĩ có
công với nước, có rất nhiều người thân của bà: ông nội là Nguyễn Mậu Kiến (1819
– 1879), thủ lĩnh văn thân chống Pháp ở Thái Bình. Cha là chí sĩ Cần Vương và
Duy Tân Nguyễn Hữu Cương (1855 – 1912), cùng đông đảo anh em, cháu, chắt
của bà từng được ghi danh trong sách sử của tỉnh.
“Thằng Long đâu rồi, bốc mấy nắm đất trên mộ ông cho bố mày khỏi đau bụng”.
Nghe cụ bà gọi, cả nhà lại giật mình. Long là con chú Thắng, mới học lớp một.
Thắng bị bệnh thận phải mổ. Vết mổ gần chục năm rồi vẫn cứ rỉ nước vàng, người
đau yếu rất khó chịu. Cháu Long vâng lời, làm đúng lời cụ dặn. Chừng một tuần
sau, vết thương lành, đến tận những ngày này (tháng 10 năm 2006) vẫn chưa thấy
hiện tượng gì, trong khi trước đó, Thắng chạy khắp các bệnh viện, gõ cửa nhiều
giáo sư, bác sĩ, thầy lang mà không khỏi.
Bích Hằng reo: “Ông Nguyên cũng lên đây này”. Ông Nguyên là con cả của cụ
Lương Ngọc Quyến. Ông Nguyên bảo: “Thằng Chính mua cho tao cái vé máy bay
để tao vào Sài Gòn chơi”. Chính nghe vậy, bưng mặt khóc tu tu. Chính là con ông
Vinh, cháu gọi ông Nguyên là bác ruột, hiện lập nghiệp trong Sài Gòn. Khi còn
sống, ông Nguyên luôn muốn vào Sài Gòn chơi với họ hàng, bạn bè, con cháu.
Nhưng vì ông to béo, lại già yếu, nhiều bệnh tật, chuyện sinh hoạt cá nhân còn
không tự làm được thì đi làm sao? Có lần, ông bí mật mua vé máy bay định trốn
vào Sài Gòn chơi, may con cháu phát hiện ra kịp thời ngăn cản. Anh Chính bảo:
“Chuyện này chỉ những người thân trong gia đình tôi biết và đã xảy ra từ 20 năm
trước, cô Hằng không thể biết được”. Anh Chính hỏi Bích Hằng: “Cô thấy ông
Nguyên hình dáng thế nào?”. Bích Hằng cười, bảo: “Ông lão to lớn, râu dài bạc
phơ, mắt lúc nào cũng cười”. Anh Chính xác nhận, rất đúng với vóc dáng và tính
cách của ông Nguyên.
Cuộc gặp gỡ, trò chuyện kéo dài đến 12 giờ trưa. Cụ Lương Ngọc Quyến vội giục:
“Các cháu mau căng bạt che nắng để chuẩn bị đào. Xương cốt ông còn rất ít. May
ra có thể thấy cái cùm sắt vì khi giam ông, giặc Pháp đã cùm ông rất chặt, xiên cả
dây thép qua chân nên không tháo ra được. Khi chôn, ông nằm nghiêng, chân co,
lưng quay về chân đồi. Rễ cây bạch đàn ăn vào chân ông khiến ông rất đau. Chính
ông làm cho nó chết. Lát nữa, có nhiều nghĩa quân khởi nghĩa năm xưa đến đây để
tiễn đưa ông. Các cháu nhớ nấu cho ông nồi cháo to để ông chiêu đãi quân sĩ”.
Việc đầu tiên là phải bứng gốc cây bạch đàn có đường kính hơn 30cm lên. Khi gạt
hết phần đất mượn do trong quá trình làm nương, chủ nhà đã san lấp bớt cho đỡ
dốc, đến phần đất cũ độ 20cm, Bích Hằng gạt mọi người ra, bảo: “Sắp đến hài cốt
của cụ rồi. Cháu phải trực tiếp xuống vì mọi người không biết đâu mà xác định. Cụ
bảo: đầu cụ là chỗ chú Tiến đứng (Tiến là anh ruột ông Quân). Chân cụ là nơi chú
Chính đứng”. Cả nhà lại một lần nữa bị bất ngờ vì trước đó, không ai nói tên Tiến
và Chính cho Bích Hằng biết. Tiếp xúc với Hằng, từ trước đến nay chỉ có 3 người:
ông Quân, ông Cơ và cô Phấn (em gái ông Cơ).

Từ trái qua phải: Ông Lương Cơ, Lương Quân, cô Lương Phấn
Sau khi gạt thêm một vài lớp đất mỏng, Bích Hằng reo khẽ: “Cốt cụ đây rồi”. Trăm
con mắt đều nhìn xuống hố, thấy rõ hình hài một bộ xương người trong tư thế nằm
nghiêng, chân co lại. Xương ống đùi, cẳng chân với các đầu xương phình to hằn rõ
trên nền đất. Phần ngực có rất nhiều bột trăng trắng, trong khi xung quanh là đất
đen pha đá dăm. Bích Hằng dặn: “Cốt cụ vì chôn quá lâu, lại chẳng có hòm ván gì
cả nên tan ra hết. Cụ dặn các chú nhớ bốc những đất lẫn cốt đem về để táng”.
Xương cốt cụ Quyến lẫn vào trong đất cát
Trong khi ông Quân, ông Cơ đang cặm cụi nhặt từng mẩu xương cùng đất vụn cho
vào bọc vải đỏ thì trong sân, ông chủ nhà mắt tái xanh, hốt hoảng chạy vào nhà
thắp hương lạy như tế sao. Thấy lạ, chị Phấn mới kéo bà vợ ra hỏi nhỏ. Chị vợ
cười, bảo: “Nhà em từ xưa đến nay không bao giờ tin vào chuyện vong hồn, thần
thánh. Ngày hôm kia, khi bác Quân lên đây, có một đàn chim về rất đông, hót ríu
ran trên bụi tre. Đêm qua, đột nhiên nhà em nằm mơ, thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn
có một vật đen tròn. Nhà em bèn vác cuốc ra cuốc hối hả chỗ ấy, rồi nghe thấy
tiếng người bảo: ngày mai, con cháu tôi sẽ lên đón tôi về. Choàng tỉnh giấc, nhà
em liền kể ngay với em song lại bảo: Chắc là tại ngày tôi nghĩ nhiều nên đêm mới
mơ như vậy. Định bụng, cứ để mọi người xem thế nào. Nay, thấy mọi việc diễn ra
đúng như trong mơ nên ông ấy mới sợ, vội vã thắp hương để tạ lỗi với cụ. Chứ từ
ngày lấy nhà em, có bao giờ thấy ông ấy cúng vái bao giờ đâu”.
Sau khi công việc đã hoàn tất, nhìn sang quả đồi bên cạnh, cách chỗ vừa khai quật
vài thửa ruộng, ông Quân thấy một tốp thợ đang đục đẽo gỗ để dựng nhà. Hỏi vợ
anh Bân, được biết, thôn Thống Nhất đang dựng lại ngôi chùa trên nền cũ. Ông
Quân cầm thẻ hương sang thì nhận ra, đó chính là ngôi chùa ông đã từng lên thắp
hương, bát hương ngày ấy được đặt tạm lên cây ngái giữa bạt ngàn nương sắn. Ông
chợt giật mình, nhớ lại cách đây 8 năm, Bích Hằng đã cho thông tin mộ cụ được
đặt gần một ngôi chùa và băn khoăn không hiểu vì sao, trước khi mất, cha ông
cũng dặn chắc như đinh đóng cột như thế?
Chi tiết cái cùm ở chân cụ Quyến, Bích Hằng nói “có thể còn” nhưng lúc đào lên
không thấy. Tuy nhiên, tại khu vực phía chân cụ, mọi người thấy một vết đất vàng
vàng như rỉ sắt. Có thể, trải qua hơn 80 năm mưa nắng, chiếc cùm sắt đã rỉ tiêu hết
cả rồi?
Chiều ngày 23 tháng 12 năm 2001, tức mồng 9 tháng 11 năm Tân Tỵ, tại xã Nhị
Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, lễ truy điệu và an táng nhà yêu nước Lương
Ngọc Quyến đã được Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc và nhân dân xã
cùng các thế hệ con cháu nội ngoại của ông long trọng tiến hành. Trên bia mộ ông,
trân trọng đề dòng chữ: “Cụ ông Lương Ngọc Quyến (1885 – 1917), lãnh tụ khởi
nghĩa Thái Nguyên”. Bên cạnh là bia mộ của bà Nguyễn Thị Hồng Đính. Phía trên,
giữa hai bia là phù điêu tạo hình lá quân kỳ nền đỏ năm sao trắng của Việt Nam
quang phục quân.
Như vậy, trải qua 84 năm đằng đẵng, cả hai thế hệ con, cháu cất công tìm kiếm, di
hài của người anh hùng Lương Ngọc Quyến đã được an nghỉ tại quê nhà. Người
hạnh phúc nhất có lẽ là ông Lương Quân. Bởi việc tìm được phần mộ ông nội
Lương Ngọc Quyến vừa là việc hiếu đễ với tổ tiên, vừa trút được nỗi canh cánh
nặng trĩu trong lòng người cha thân yêu suốt một đời đau đáu. Duy có một điều
làm ông còn day dứt, khiến niềm vui kia của ông chưa trọn vẹn. Đó là phần mộ của
người anh hùng Đội Cấn, vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm xưa,
người bạn chiến đấu của cụ Lương Ngọc Quyến vẫn còn vùi lấp đâu đó trên những
đồi núi điệp trùng Thái Nguyên. Hôm lên Vô Tranh đưa hài cốt cụ Quyến về quê
nhà, qua Bích Hằng, được biết cụ Đội Cấn có đến chia vui và tiễn biệt người bạn.
Lúc đó, cụ Đội Cấn có nhắn qua Bích Hằng vị trí nơi chôn cất. Sau này, khi đài
báo đưa tin đã tìm được mộ cụ Lương Ngọc Quyến, có một vị cao niên nhận là
cháu cụ Đội Cấn, tìm về Nhị Khê thắp hương. Song rất tiếc, gia đình ông Lương
Quân không được gặp và vị khách ấy cũng không để lại địa chỉ. Nay, qua Thế giới
mới, anh em ông Lương Quân xin nhắn nhủ: nếu con cháu cụ Đội Cấn đọc được
những thông tin này và muốn tìm hài cốt cụ, xin vui lòng liên lạc với ông theo địa
chỉ: Lương Quân, số 9 Núi Trúc, quận Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 04.8464679.
* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu trong cuốn “Lương
Văn Can và phong trào Duy Tân – Đông Du” của nhà nghiên cứu Lý Tùng
Hiếu.
Kỳ 9: Tìm mộ vị lãnh tụ nông dân Hoàng Công Chất
và sự chắp nối kỳ diệu gia phả dòng họ Hoàng Văn
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng
Trong suốt hành trình 15 năm phát tâm nguyện đi tìm những ngôi mộ bị thất lạc
giúp đời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt, đã tìm
được khoảng 7.000 hài cốt, trong đó phần lớn là hài cốt liệt sĩ. Đó thực sự là một
kỳ tích, đem lại niềm hạnh phúc nghẹn ngào cho hàng vạn người sau nhiều năm
đỏ mắt mỏi mòn ngóng trông. Với chị, mỗi chuyến đi là một kỷ niệm. Mỗi cuộc tìm
kiếm hài cốt là cả ngàn những tình tiết ly kỳ, xúc động, huyền bí không thể nào
quên. Nhưng, hành trình đi tìm mộ người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất
đợt đầu năm 2005 có lẽ ám ảnh chị nhiều nhất. Đó không chỉ là sự ám ảnh bởi sự
linh ứng đến kỳ lạ giữa cõi vô hình và hữu hình, giữa cõi âm và dương mà đó còn
là sự chắp nối kỳ diệu của rất nhiều chi tộc dòng họ Hoàng sau hơn hai trăm năm
dâu bể.
Từ lời sấm truyền trong dòng họ
Một buổi chiều đầu tháng giêng năm 2005, có hai người khách lạ tìm đến nhà Phan
Thị Bích Hằng. Người đàn ông mặc bộ Veston chừng 45 tuổi, mặt mũi khôi ngô,
tuấn tú. Người phụ nữ đi cùng trạc 40, mặt trái xoan, dáng người thanh mảnh,
quyền quý. Người đàn ông tự giới thiệu, anh là Hoàng Văn Khánh, chủ tịch Hội
đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc công ty Placo và em gái Hoàng Thị Sáu, quê
Hải Phòng. Sau một chút bối rối, anh trình bày những uẩn khúc, trăn trở bao năm
đè nén trong lòng khiến tâm bất an. Anh kể: Từ hồi còn nhỏ, anh đã từng nghe cha
chú, trong nhịp dịp chén thù chén tạc, rung đùi vuốt râu tự hào về dòng dõi, tổ tiên.
Nghe đâu, cụ tổ anh là thủ lĩnh nghĩa quân chống lại triều đình Lê – Trịnh. Năm
1770, linh cảm về một ngày đen tối đang đến gần, cụ cho người đưa 3 cháu nội về
tổng Cổ Trà Nghi Dương (nay là thôn Ngọc Tỉnh, xã Tân Trào, huyện Kiến Thuỵ,
Hải Phòng) những mong bảo tồn nòi dống. Có một câu sấm truyền từ đời nọ đến
đời kia trong dòng họ Hoàng: “Bao giờ phát phú phát vương. Tầm lại cố hương.
Bái tạ tiên đường. Nơi đó có chữ Hoàng gia đại tộc”. Sau này, trước lúc lâm chung,
cha anh, rồi người chú ruột, cứ níu chặt tay anh mà dặn dò: “Con gắng tìm cội
nguồn tiên tổ”. Lời trăn trối ấy cứ ám ảnh anh Khánh. Có uẩn khúc gì trong lời nói,
tự sâu thẳm ánh mắt của cha?

Anh Hoàng Văn Khánh đang thắp hương trước tượng cụ Hoàng Công Chất
Khi trở thành một doanh nhân thành đạt ở Hải Phòng, ngẫm về lời sấm truyền tụng
bao đời: “Bao giờ phát phú phát vương”, nhớ đến ánh mắt như van vỉ của cha
trước lúc đi xa, anh Khánh quyết chí đi tìm tổ tiên dòng họ. Anh đi khắp nơi, ở đâu
có đền thờ họ Hoàng là tìm đến nhưng mãi vẫn không thấy chữ “Hoàng gia đại
tộc”, thấy cội nguồn tổ tiên. Một lần về Nam Định công tác, gặp một nhà nghiên
cứu văn hóa lão thành, anh trải nỗi lòng mình. Nghe xong, nhà nghiên cứu cười
khà: “Có lẽ, cụ tổ họ Hoàng đã run rủi ta làm sứ giả cho anh đây. Anh hãy về thôn
Hoàng Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xem. ở đó, có nhà thờ
dòng họ Hoàng Văn to lắm”. Vâng lời, anh Khánh tìm đường về Nguyên Xá, xin
được vào thắp hương nhà thờ họ Hoàng. Anh chợt run bắn người khi nhìn thấy bức
hoành phi treo chính giữa ban thờ với bốn chữ đại tự viết bằng chữ thảo: “Hoàng
gia đại tộc”. Và oà khóc nức nở khi lật giở cuốn gia phả đã ố màu thời gian, thấy
ghi chi tộc họ Hoàng Văn ở Hải Phòng. Té ra, cụ tổ của anh chính là người anh
hùng nông dân Hoàng Công Chất. Cụ sinh ra tại Thủ Trì, Sơn Nam, nay là Hoàng
Xá, Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình. Cụ là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân
nổ ra năm 1739 cùng hai cuộc khởi nghĩa lớn khác của cụ Nguyễn Hữu Cầu (tức
Quận He) và cụ Lê Duy Mật.
Nhưng mộ phần cụ Hoàng Công Chất ở đâu? Các con cháu cụ lưu lạc nơi nào? Đã
rất nhiều năm anh Khánh cất công đi tìm kiếm di hài của cụ Hoàng Công Chất và
mong muốn dựng lại hoàn chỉnh sơ đồ phả tộc mà không thành. Tình cờ, một lần,
anh được đọc một tập tài liệu viết về hành trình đi tìm người em gái, vốn là một nữ
du kích gan dạ của đội Hoàng Ngân năm xưa, của nguyên Phó thủ tướng chính phủ
Trần Phương, dưới sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, đặc biệt là khả
năng gọi hồn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng (Chuyện sẽ kể chi tiết ở phần
sau – PV) với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí. Điều đó, thôi thúc anh tìm gặp
Bích Hằng, nhờ chị tìm hộ di hài tiên tổ và các chi tộc bị thất lạc.
Ba ngày sau. Vào một đêm mưa dầm sùi sụt, rét cắt da cắt thịt, vừa chợp mắt được
một lát, Bích Hằng chợt nghe thấy tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua. Chaỵ ra sân
mở. Chị giật mình khi thấy trước mặt là một người đàn ông quắc thước, da nâu,
trống gươm đứng nhìn chị. Quan sát kỹ, thấy trang phục, tướng mạo đúng là một
võ tướng. Xung quanh, có rất nhiều binh lính. Võ tướng cười, bảo: “Cháu đừng sợ.
Ta là võ tướng họ Hoàng. Còn đây là quan quân của ta. Cháu đi về với ta đi. Con
cháu ta đang mong đợi cháu từng ngày”. Nói đoạn, ông lên ngựa đi. Hình bóng
khuất xa rồi mà tiếng cười hiền hậu còn vang mãi.
Bích Hằng choàng tỉnh. Chị sực nhớ đến chiếc các-vi-dít mà hai người khách họ
Hoàng ở Hải Phòng để lại chiều hôm nọ. Đọc kỹ, thấy ghi: Hoàng Văn Khánh.
Tổng giám đốc Công ty Placo. Trụ sở: Km5, đường Phạm Văn Đồng, Anh Dũng,
Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Điện thoại: 0913.24004. Bên tai chị lại văng vẳng lời nhờ
cậy thiết tha của vị võ tướng họ Hoàng. Sáng sớm hôm sau, chị chủ động điện
thoại cho anh Khánh, hẹn ngày 16 tháng giêng (âm lịch), chị sẽ xuống Hải Phòng
tìm giúp.
Đến những tín hiệu cho trước
Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng giêng, Bích Hằng có mặt tại nhà thờ họ Hoàng ở xã
Tân Thành, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng. Đi cùng chị hôm đó, còn có nhà nghiên
cứu Quan Lệ Lan, thư ký của Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng
con người). Trước sự chứng kiến, thành tâm của đông đảo con cháu họ Hoàng,
Bích Hằng đã vời vong linh của cụ Hoàng Công Chất về trò chuyện. Qua Bích
Hằng, cụ bảo: “Những người đi theo triều đình thì coi ta là giặc cỏ. Nhưng nhân
dân lại coi ta là anh hùng. Ta vẫn thích sống trong lòng dân hơn. Còn với các con
các cháu, ta là giặc cỏ hay anh hùng, điều đó ta không cần quan tâm nữa. Chỉ biết
rằng ta là cụ tổ của các con. Trước kia, ta đã cùng các tù trưởng Lò Ngải, Lò
Khanh, Lò Thang đánh giặc giữ biên thuỳ. Nay ta đang ở đất châu Điện Biên.
Đáng khen các con đã làm được những việc khiến ta thấy được an ủi nơi chín suối,
mát mặt với tướng sĩ ba quân”. Anh Khánh chắp tay thành kính, giọng run run:
“Thưa tổ! Xin tổ cho chúng con biết, hiện giờ mộ tổ ở đâu”. Cụ Hoàng Công Chất
nói (qua Bích Hằng): “Các con cứ lên Thành Bản Phủ. Cứ nơi nào trồng cây đa là
có nghĩa quân của ta. Trước kia, nhà Lê Trịnh đã cho quân khai quật mộ ta rồi chặt
làm 3 khúc. (Chuyện này, chính sử cũng có nhắc đến). Chân ta, chúng ném xuống
sông Nậm Rốn. Đầu, thân thì vứt lăn lóc. Đêm, nghĩa quân của ta lén đi lấy. Thân
thì chôn ở gần sông Nậm Rốn nhưng cách đây ít năm, người ta đã ủi đi rồi. Đầu thì
vác về gần Thành Bản Phủ, chôn dưới một gốc cây đa. ở đó có một cây thuốc. Khi
các con đi tìm ta, sẽ có một người răng vổ gốc Thái Bình ra dẫn đường”.
Đang “thông dịch” cho mọi người nghe, bất chợt, Bích Hằng nhìn thấy một thiếu
phụ trẻ người Thái, đứng cạnh cụ Hoàng Công Chất bưng mặt khóc. Lấy làm lạ,
Bích Hằng hỏi, cụ Chất bảo: “Đây là liệt nữ Lò Thị Nương, con một vị tù trưởng ở
Điện Biên”. Xưa, nàng đi theo cha đánh giặc, cảm phục tài đức của tướng Hoàng
Công Chất, nàng tình nguyện làm vợ thứ 4. Sở dĩ cụ Chất gọi bà là liệt nữ vì bà đã
hy sinh cho nghĩa quân. Chuyện rằng: trong một lần bị giặc Phẻ truy kích, bà cùng
con trai là Hoàng Công Trực đã đánh lạc hướng cho nghĩa quân rút lui. Bắt được
hai mẹ con, giặc đã đem bà ra làm mồi nhử. Chúng trói hai người vào chiệc cột gỗ
chôn giữa đồng Tông Khao, xung quanh chất củi cao ngập đầu. Nếu tướng Hoàng
Công Chất muốn chuộc vợ, con thì phải mở cổng thành. Bằng không, chúng sẽ
thiêu cháy. Từ dưới đồng, bà Lò Thị Nương thét to: “Không được mở cổng thành”.
Lửa cháy ngùn ngụt. Hai mẹ con bà bị thiêu chết. Xót thương người vợ hiền, cụ
Chất cho trồng một cây đa trên mộ nàng. Nơi đây bốn mùa hoa nở. Hoa vàng và
hoa đỏ. Cụ bảo: “Đó là những tín hiệu ta cho để các con đi tìm mộ. Khi đi, sẽ có
một phụ nữ dân tộc Thái dẫn đường”.
Đi tìm di hài tổ tiên: sự linh ứng đến kỳ lạ
Một tháng sau ngày chiêu hồn cụ Hoàng Công Chất tại nhà thờ họ Hoàng ở Hải
Phòng, sáng ngày 29 tháng 3 năm 2005, khoảng 50 người, già trẻ, gái trai đủ các
chi ngành cùng nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng lên Điện Biên tìm mộ. Thành
Bản Phủ là nơi đoàn đặt chân đầu tiên. Những nghi lễ trang trọng nhất đã được cử
hành tại đây. Ông trưởng chi Hoàng Văn Nhương thành kính dâng sớ, cầu xin tổ
tiên linh hiển, báo cho con cháu biết nơi tổ yên nghỉ để con cháu được tu sửa, thờ
vọng. Lời khấn vừa dứt, sớ chưa kịp hoá bỗng một cơn gió lớn từ đâu ào đến. Và
những thanh âm nghe “lách cách, lách cách” như hàng ngàn tiếng gươm khua
khiến cả đoàn, đang thành kính chắp tay làm lễ đồng loạt quay lưng lại phía sau.
Lại một cơn cuồng phong cuốn bụi mịt mù. Mọi người hốt hoảng chạy ra sân. Một
cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến khiến tất cả đứng chết lặng: nền sân gạch đỏ
giờ ngập tràn lá xanh. Có những chiếc lá còn non tơ. Tịnh không có một chiếc lá
vàng nào. (Giữa xuân, kiếm đâu ra lá vàng?!). Đó là lá của ba cây đa, si, xanh quấn
quýt trước đền trút xuống, tương truyền, do chính tay cụ Hoàng Công Chất trồng,
như một lời nguyền với non sông giữ tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược,
thề đòi lại và giữ yên biên cương đất nước. Cây đa là cụ. Cây đề là trời đất. Còn
cây si loà xoà gốc rễ là dân tộc Thái. Qua Bích Hằng, cụ bảo, đấy là cụ khóc mừng
khi thầy tề tựu đầy đủ con cháu trai gái, dâu rể… lên với tổ. Cụ bảo: Cụ có 4 anh
em là Hoàng Văn Phiệt, Hoàng Văn Phí, Hoàng Công Chất và Hoàng Công Tại.
Cụ có 3 vợ và có nhiều con. Hoàng Công Toản là con cả. Kế tiếp là Chính, Châu,
Thao, Tần, Toản, Túc, Lựu (Trùng khớp với gia phả – PV). Năm 1768, nghĩa quân
của cụ bị quân của triều đình nhà Lê – Trịnh đánh tan tác. Con cháu cụ phải chạy
ra bản Loong Luống. Hiện vẫn còn ở đấy. Tiên lượng về một ngày đen tối sẽ đến,
để bảo tồn nòi giống, cụ cho người em gái là Hoàng Thị Chiên dẫn 3 đứa cháu nội
là Cao, Tháo, Thọ về quê, cầu cứu nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận
He). Trong 3 đứa cháu, Tháo là người có chí nhất. Tháo lúc ấy còn bé lắm. Cụ trao
cho Tháo một áo bào tía, một thanh gươm rồi bảo: “Con hãy giữ làm vật tin để
dâng lên tướng Nguyễn Hữu Cầu”. Tháo cầm lấy thanh gươm từ tay ông nội.
Thanh gươm cao hơn đầu, ôm lấy túi áo bào, vừa khóc vừa nói: “Ông ơi! Cháu sẽ
khôi phục lại sự nghiệp của ông”. Nói đến đây, cả nhà anh Khánh khóc ầm lên.
Cháu Tháo bé bỏng mà đầy chí khí ngày ấy chính là hậu tổ của anh Khánh. Trong
gia phả ghi rõ: Cụ hậu tổ là Hoàng Quí Công, tự Công Tháo”. Anh Khánh vừa
khóc vừa kể: Lúc còn sống, cha anh lúc nào cũng giữ khư khư một cái bọc, trong
có chiếc áo bào tía và một thanh gươm. Một lần hoả hoạn, chiếc áo bào cháy mất.
Cha anh khóc ròng mấy tháng trời vì tiếc. Đó là đồ gia bảo. Cha còn quý hơn cả
tính mạng mình.
Sau một hồi làm con cháu trấn tĩnh, cụ Chất bảo: “Thôi! Giờ để ta hướng dẫn các
con đến những nơi tổ yên nghỉ”. Cả đoàn bước ra khỏi đền. Từ trên cao phóng tầm
mắt ra bốn hướng, anh Khánh reo to: “Cây đa cổ thụ kia rồi”. Nhìn theo phía tay
anh chỉ, cách chỗ đứng chừng 500m, thấy một cây đa cổ thụ xoè bóng mát giữa
trưa nắng vàng.

Mộ cụ Hoàng Công Chất nằm dưới gốc cây đa


Khánh phăm phăm dẫn đường. Bích Hằng vô cùng ngạc nhiên. Thấy vậy, mọi
người mới kể: Cách đây chừng 10 năm, anh Khánh nằm mơ thấy tổ về chỉ đường
cho tìm mộ. Tỉnh dậy, anh có kể lại cho gia đình và vẽ lại sơ đồ. Không ngờ, hôm
nay, thấy thực địa diễn ra đúng như trong giấc mơ ấy nên anh mới thông thạo đến
vậy. Lúc ấy, Bích Hằng mới ngả ngửa người. Chưa hết ngạc nhiên. Khi cả đoàn
đứng trước đống mối lớn, dưới gốc đa cổ thụ chừng 200 năm tuổi, Bích Hằng vừa
xác định: “đúng mộ cụ đây rồi” thì bất ngờ, từ đâu xuất hiện một người đàn ông
răng vổ, bảo: “Đi tìm mộ cụ Hoàng Công Chất phải không? Tôi là Nguyễn Văn
Nhân, quê Thái Bình lên đây lập nghiệp lâu rồi. Trước đây, tôi nghe các cụ già ở
đây bảo: đây là nơi quân sĩ chôn một phần thi hài của cụ Chất đấy”.
Người đàn ông răng vổ
Như vậy, tín hiệu mà Bích Hằng cho từ Hải Phòng cách đây chừng một tháng: gốc
đa cổ thụ, người đàn ông răng vổ quê Thái Bình, đã có kiểm chứng. Nhưng còn tín
hiệu thứ 3: cây thuốc? Nhìn khắp lượt, chỉ thấy một cây hoa trắng, gốc cây bị vạc
hết vỏ. Hỏi ông Nhân, ông cười bảo: “Cây này chữa sâu răng tốt lắm. Tước một ít
vỏ, nhét vào chỗ sâu răng. Ngậm chừng 2-3 lần là khỏi”. Mọi người thở phào.
Cả đoàn lên bản Tông Khao tìm mộ cụ Lò Thị Nương. Hoa tiêu là một chị người
Thái ở Chi hội phụ nữ Điện Biên. Xe ô tô chạy rì rì trên con đường đất đỏ, hai bên
là ruộng lúa xanh rờn. Đến gần một cái ao, bỗng anh Khánh hô: “Dừng xe lại! Cụ
kia rồi”. Vừa xuống xe, anh Khánh lao thẳng vào con đường bé xíu, ngoằn nghèo
chuột chạy. Chạy đến lúc bở hơi tai thì dừng lại dưới một gốc đa cổ thụ. Chưa kịp
định thần thì cả đoàn chết lặng: Trên thảm cỏ xanh rì, cả một bụi hoa loa kèn đỏ
rực còn long lanh hạt sương sớm. Bên cạnh có một cây si, quả to như ngón chân
cái, vàng rượi từ gốc đến ngọn.
Khóm hoa loa kèm đỏ trêm mộ Bà Lò Thị Nương
Cả nhà đang thắp hương xì xụp khấn vái thì có một người phụ nữ Thái đi làm
đồng, bước lại hỏi: “Chúng mày vào đây để làm gì? ở nơi này, ngày xưa có một cái
miếu thờ, có 3 bát hương. Song chỉ có họ Lò mới được vào đây cúng. Còn các họ
khác chỉ đứng ngoài xem thôi. Sau này giặc phá hết. Miếu này thiêng lắm đấy”.
Nghe vậy, anh Khánh lại khóc oà.

Người đàn bà Thái


Cuộc hội ngộ của các chi tộc họ Hoàng
Tìm được mộ tiên tổ, ước nguyện của anh Khánh đã hoàn thành được một nửa.
Nhưng còn các chi tộc họ Hoàng khác? Nhớ đến lời kể của cụ Chất về cuộc chạy
loạn của dòng họ Hoàng lên bản Loong Luống năm 1768, anh Khánh quyết định
sáng hôm sau đi tìm. Hỏi thăm dân bản, họ bảo: Có bản Loong Luống. Nhưng
trước bị lũ lụt nên dân đi hết rồi. Cứ tìm nhà nào họ Hoàng thì vào. Một gợi ý hay
nhưng khác nào mò kim đáy bể. Đành nhờ cậu bí thư đoàn xã dẫn đường. Vào nhà
họ Hoàng thứ nhất. Cả đoàn không có cảm giác gì. Hỏi quê, đúng Thái Bình. Hỏi
ông nội là ai? Không biết. Hỏi bố đẻ là ai? Cũng không biết nốt. Đến nhà họ
Hoàng thứ hai, ông Quàng Lả. Vừa thấy anh Khánh bước vào, hai vợ chồng đon đả
chạy ra, tay bắt mặt mừng như người thân lâu ngày gặp lại. Linh cảm gì chăng?
Ông Quàng Lả tự hào kể: “Các cụ ngày xưa khai thiên lập ấp ở dưới Loong Luống
kia kìa. Ông cha ở đấy lâu lắm rồi. Lũ lụt mới chuyển lên đây”. Anh Khánh hỏi:
“Sao ông lại là họ Quàng?”. Ông Lả lại cười: “Tao họ Hoàng đấy. Nhưng tiếng
Thái, lúc Quàng, lúc Hoàng. Mà này, tao có một thằng cháu họ Hoàng, làm cán bộ
tỉnh to lắm. Là cháu nhưng nó hơn tuổi tao nhiều. Nó tên là Xuyên. Nó có cả gia
phả đấy”.
Thì ra là ông Hoàng Xuyên, nguyên Phó bí thư tỉnh uỷ Điện Biên. Tìm đến nhà
ông Xuyên, anh Khánh xúc động quá. Vốn hàng ngày là người hoạt ngôn mà nay,
ngồi trước ông Xuyên cứ lúng búng như gà mắc tóc. Bích Hằng phải trình bày dùm
hoàn cảnh, mục đích cuộc gặp gỡ. Hỏi về cuốn gia phả họ Hoàng, lúc đầu ông
Xuyên lắc đầu nguây nguẩy: “Tôi đâu có. Đâu biết”. Trong khi bà vợ ngồi cạnh lại
cứ tủm tỉm cười, huých nhẹ khuỷu tay vào chồng: “Kìa anh! Đưa cho các cô chú
xem đi. Cuốn gia phả dưới hầm ấy”. Đến nước này thì không thể chối được nữa.
Ông Xuyên thú nhận: Đúng là trước kia, nhà ông có một cuốn gia phả viết bằng
chữ Hán. Tổ tiên ông chính là tướng quân Hoàng Công Chất. Đợt cải cách ruộng
đất, sợ bị kết tội là con cháu Then, Phìa thì bị giết cả nhà nên ông nội phải cất dấu
dưới hầm. Hồi đi học Trung Quốc về, ông đã đem đốt đi. Ông kể, ngày trước, ở
Đền Bản Phủ, mỗi khi đến ngày giỗ cụ Hoàng Công Chất, chỉ mình ông nội được
ra lễ. Ông mặc áo vàng, cưỡi ngựa, có lọng che đầu. Hàng chục người hầu đội lễ
rất to. Bây giờ Bảo tàng văn hoá còn lưu bức ảnh này. Nói đoạn, ông Xuyên và anh
Khánh ôm choàng lấy nhau, khóc nấc lên. Thôi, đúng chúng ta là anh em rồi. Về
tuổi tác, ông Xuyên gần gấp đôi tuổi anh Khánh. Nhưng về vai vế dòng họ, cả hai
đều là cháu đời thứ 8 của cụ Hoàng Công Chất.
Ngày giỗ của cụ Hoàng Công Chất năm nay, chưa bao giờ con cháu lại tề tựu đông
đủ đến thế. Chi tộc họ Hoàng ở Điện Biên về. Chi tộc họ Hoàng ở Hải Phòng
xuống. Cùng chi tộc họ Hoàng ở Thái Bình. Tất cả, đều một lòng thành kính hướng
về cội nguồn, tiên tổ. Bữa cơm đoàn tụ hôm ấy, đầy ắp tiếng cười và cả những giọt
nước mắt hạnh phúc tuôn rơi…
Kỳ 10: Hành trình tìm mộ em gái của Giáo sư Trần Phương

Giáo sư Trần Phương


“Chưa bao giờ tôi tin ở đời lại có linh hồn, thần thánh, ma quỷ. Ngay cả ngày giỗ
bố mẹ, tôi cũng chẳng làm cơm cúng hay thắp hương khói gì sất, chỉ sửa một lọ
hoa tươi để tưởng nhớ người đã khuất. Bởi tôi vốn dĩ được đào tạo theo tinh thần
khoa học thực nghiệm. Cái gì chứng minh được mới tin là có. Cái gì chưa chứng
minh được thì dứt khoát không tin. Cho nên, lúc cùng đường, nhờ các nhà ngoại
cảm tìm mộ cô em gái vốn là đội trưởng đội du kích Hoàng Ngân, trái tim thì tha
thiết tìm thấy em mà lý trí tôi thì cố tỉnh táo để tìm cách “chống trọi” lại khả năng
gọi hồn, thấu thị… của họ. Vậy mà cuối cùng, tôi hoàn toàn bị khuất phục trước
khả năng đặc biệt của hai nhà ngoại cảm nổi tiếng: Nguyễn Văn Nhã và Phan Thị
Bích Hằng, người vẽ mộ, người gọi hồn. 24 ngày mò tìm trong bí ẩn, cuối cùng, tôi
đã tìm được hài cốt người em gái sau ngót 50 năm trôi dạt”.
Tìm em theo sơ đồ của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã
Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng chính phủ, hiệu trưởng trường Đại
học kinh doanh và công nghệ Hà Nội, có một người em gái, sinh năm 1929, tên là
Vũ Thị Kính. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, ngay từ
năm 16 tuổi, cô Kính đã đi tham gia kháng chiến, trở thành một nữ giao liên gan dạ
với bí danh Trần Thị Khang. Năm 1950, cô trở thành Huyện uỷ viên Đảng bộ Phù
Cừ, Bí thư Hội phụ nữ cứu quốc huyện, người tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích
Hoàng Ngân nổi tiếng. Tháng 6 năm 1950, giặc bắt được cô, đưa về bốt La Tiến,
một đồn binh lớn án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Thái Bình và phía
tây tỉnh Hải Dương. Tại đây, giặc đã dùng mọi cực hình tra tấn dã man
nhất (chuyện sẽ kể ở phần sau – PV) nhưng người nữ du kích kiên trung ấy vẫn
không hé nửa lời. Tức giận, giặc đã cắt cổ cô rồi vứt xác xuống sông Luộc. Sau cái
chết anh hùng ấy của cô, đội nữ du kích Hoàng Ngân đã phát động “Tuần lễ giết
giặc, trả thù cho chị Khang”.

Cô Trần Thị Khang


Mặc dầu Huyện uỷ và đội nữ du kích Hoàng Ngân đã đi khắp các bến đục dòng
trong những mong tìm xác cô mà không thấy. Thương con, người mẹ già khóc mờ
cả mắt. Suốt mấy chục năm ròng, thỉnh thoảng, mẹ lại ngước đôi mắt đục mờ như
cùi nhãn khô về phía giáo sư Phương, hỏi bằng cái giọng tủi hờn, xót xa: “Có tìm
thấy xác em không hả con?”. “Bao giờ hết chiến tranh, con sẽ đi tìm. Chắc là thấy
mẹ ạ!”. Miệng thì trả lời mẹ thế mà họng thì thấy nghẹn đắng. Cả một dòng sông
Luộc mang mang, cuồn cuộn sóng trôi ra biển cả, biết tìm em nơi nào?
Mẹ mất. Tin tức về phần mộ em vẫn biền biệt phương trời. Giáo sư Phương lúc
nào cũng sống trong cảm giác day dứt, đau xót, không yên. Năm 1989, khi đó, giáo
sư Phương đang làm Viện trưởng viện nghiên cứu chiến lược phát triển, có xuống
công tác tại Sở kinh tế đối ngoại (cũ) Quảng Ninh. Nghe anh em dưới đó đồn rằng,
cách Bãi Cháy, về phía Hà Nội 20 km, có một cô công nhân, trước vốn bị tan nạn
lao động, nay có khả năng ngoại cảm đặc biệt: biết quá khứ, dự báo tương lai, phán
đúng như thần. Anh em trong cơ quan, ai có việc gì hệ trọng đều đến nhờ cô xem
dùm. Họ khuyên giáo sư Phương nên đến đó xem một lần. Bán tín bán nghi, giáo
sư Phương tìm đến. Nhà ngoại cảm là một người phụ nữ xanh xao, gầy yếu nằm
bệt trên chiếc phản kê gần cửa sổ. Vừa nhìn thấy giáo sư Phương, cô đã nói, giọng
yếu ớt: “Ghế có một người anh chết trẻ, chết trong lửa”. Giáo sư Phương giật mình
đánh thót. Năm 1951, người anh ruột của ông là Vũ Sơn, trưởng ban tuyên giáo
của đại đoàn 320, hy sinh trong trận đánh ở Hà Nam Ninh. Quả bom Na-pan rơi
đúng hầm chỉ huy. Anh Sơn cùng một số đồng chí khác bị chết cháy. Chưa kịp trấn
tĩnh, giáo sư Phương lại rụng rời khi nghe nhà ngoại cảm phán tiếp: “Ghế còn có
một người em gái chết trẻ. Hài cốt vẫn còn nhưng vì ghế không tin nên không đi
tìm”. Nhà ngoại cảm còn phán rất nhiều về cuộc đời, sự nghiệp, thân thế của giáo
sư Phương khiến ông hoang mang: Có lẽ mình phải đi tìm manh mối thế nào đây?
Tại sao có người lại biết nhiều về mình như thế?
Sau đó, về Hà Nội, ông nghe tin nhiều người tìm được mộ người thân bằng gọi
hồn, thấu thị, ngoại cảm, với những tình tiết hết sức ly kỳ, huyền bí khiến ông càng
hoang mang. Trong ông, chợt loé lên một niềm hy vọng mong manh: Biết đâu đấy.
Nếu bằng phương pháp thần bí mà tìm được mộ em gái mình thì có gì phải câu nệ?
Song ông lại chột dạ: lấy cái gì để xác nhận đó là hài cốt của em Khang sau 50
năm trôi dạt? Hàm răng trắng, không nhuộm đen ư? Thời đó, thiếu gì con gái
không nhuộm răng? Đã có lần, bạn bè mách bảo ông một bộ hài cốt vô thừa nhận
có đặc biệt là răng trắng. Lúc đó, ông đã đấu tranh tư tưởng: nhận hay không nhận?
Nhận một bộ hài cốt mà trong lòng nghi hoặc mỗi khi tưởng niệm thì phỏng có ý
nghĩa gì? Còn khám nghiệm AND ư? Quá xa vời. Song trong tình cảnh chính mình
và cả khoa học thực nghiệm bị bất lực thì việc phải nhờ đến tâm linh huyền bí để
giải toả nỗi đau tâm thế ám ảnh bao năm là việc nên làm. Nghĩ thế, ông bèn tìm
cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có tiếng tăm.
Chị Tuyết Nga, bạn ông, người đã nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên (Tứ Kỳ,
Hải Dương) tìm được mộ người mẹ thân yêu bị giặc sát hại từ những năm 1960,
khuyên ông nên đến nhờ anh Liên. Nghe lời, chú Quỳnh, em ruột của ông, ăn chực
nằm chờ nhà anh Liên hơn một tháng trời, cuối cùng, được anh vẽ cho một tấm sơ
đồ phần mộ. Nhưng sơ đồ lại ghi mộ cô Khang nằm ở huyện Khoái Châu (Hưng
Yên), cách bến đò La Tiến đến mấy chục cây về phía thựợng lưu. Không thuyết
phục. Đành tự an ủi rằng: chú em út chưa đủ thân thiết với cô chị nên thông tin
chưa được chính xác. Cuối cùng, đích thân giáo sư Phương tìm đến cạy nhờ anh
Liên. Nhưng chờ đến đỏ mắt vẫn không thấy nhà ngoại cảm mách bảo gì. Thương
ông, chị Tuyết Nga bảo: “Em có người bạn là anh Nguyễn Văn Nhã, một nhà ngoại
cảm nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh Nhã đã vẽ được hơn 600 ngôi mộ, tỷ
lệ trúng đạt trên 60%. Để em điện thoại nhờ anh ấy xem sao”.
Sáng sớm ngày 25 tháng 7 năm 1999, anh Nhã có mặt tại Hà Nội. Trong phòng
làm việc của giáo sư Trần Phương, không có hương khói gì, sau khi hỏi vợ chồng
giáo sư một số thông tin về cô Khang như tên tuổi, ngày tháng năm sinh, năm mất,
bến đò La Tiến thuộc xã nào? Huyện Phù Cừ thuộc tỉnh nào? Bến đò ấy có cây cầu
nào không? (Điều đó chứng tỏ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã không biết gì về
vùng đất này), anh Nhã bèn lấy một tờ giấy trắng khổ lớn và mấy cây bút màu ra
vẽ. Anh vẽ một cách thư thả, lưu loát. Dưới ngòi bút của anh, thấy hiện lên con
sông uốn lượn, đường to, đường nhỏ giao nhau. Rồi anh ghi chú rõ ràng, rành
mạch: Từ bến đò La Tiến đi về hướng Đông Nam thấy một trường học. Đi chừng
1,6 km thì đến một ngã tư. Phía trái ngã tư có cửa hàng tạp hóa cửa màu xanh
dương. Rẽ tay phải thấy một cái đình. Đi tiếp 1km hãy rẽ trái vào một con đường
nhỏ. Cách đó 45m là phần mộ cô Khang. Ngôi mộ nằm trên đất cô Nhường. Đối
diện với mộ là quán ông An. Mộ chôn đầu về hướng tây, cách đó 4m có một gốc
cây đổ. Trên mộ có một khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và 5 cây
cỏ dại có hoa màu tím nhạt

Sơ đồ của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã


Vẽ chừng 10 phút thì xong. Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã ngẩng mặt lên hỏi
giáo sư Phương: “Bao giờ thì bác đi tìm mộ?”. Giáo sư Phương trả lời: “Khoảng 3
ngày nữa”. Anh Nhã bảo: “Tôi sẽ cho anh một tín hiệu để dễ tìm. Hai con bướm
nhé?”. Giáo sư Phương: “Hai con bướm sợ khó tìm”. Ngẫm ngợi giây lát, anh Nhã
bảo: “Vậy thì một bé gái nhé”. Nói đoạn, anh cắm cúi ghi tiếp vào tấm bản đồ:
13h30’ngày 28 tháng 7, sẽ có một bé gái chừng 11 tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần
mộ. Rồi anh dặn: “Nếu bác đến sớm thì 5 cây cỏ dại có 10 bông hoa tím. Nếu đến
muộn thì chỉ còn 5 bông”. Quá đỗi ngạc nhiên, giáo sư Phương hỏi: “Anh không
biết tí gì về vùng đất đó, vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ được tấm bản đồ chi tiết
này?”. Anh Nhã lắc đầu cười xoà: “Tôi cũng chẳng biết nữa. Cứ thấy trong đầu
hiện lên thế nào thì vẽ ra thế ấy”. Giáo sư Phương lại hỏi: “Thế còn những cái tên:
đất cô Nhường, quán ông An?”. Anh Nhã: “Tai tôi bỗng nghe thấy những âm thanh
ấy. Có thể là Nhương, Nhường, An hay Am gì đấy”. Trao tấm bản đồ cho giáo sư
Phương, anh Nhã vội vã ra sân bay, vào thành phố Hồ Chí Minh. Còn giáo sư
Phương cứ đứng ngẩn người, chẳng hiểu ra làm sao. Song tin hay không thì vẫn cứ
phải làm theo chỉ dẫn của nhà ngoại cảm. Bởi còn cách nào khác nữa đâu.
Kỳ 11: Ngày tìm mộ thứ nhất: Quán bà Nhờ, cô bé mặc áo xanh

Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã


Đúng hẹn, ngày 28 tháng 7, cả gia đình giáo sư Trần Phương tìm đường về La
Tiến, cách Hà Nội chừng 100km. Đoàn chia làm nhiều ngả, đối chiếu với bản đồ
mà tìm. Có một lối hướng thẳng vào giữa làng La Tiến là trùng khớp với bản đồ.
Có điều, đường từ bến đó đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn, chỉ bằng 1/3 cự ly
trong bản đồ. Băn khoăn, giáo sư Phương bèn điện thoại hỏi anh Nhã. Từ thành
phố Hồ Chí Minh, anh Nhã bảo: “Cự ly do tôi ước lượng nên có thể không chính
xác. Miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi, nhất là 4 tín hiệu nơi phần mộ”.
Cả nhà hướng mắt ra bốn phía quan sát kỹ lưỡng rồi săm soi đối chiếu với tấm bản
đồ. Lần theo chỉ dẫn và các tín hiệu trên đường: trường học, đình làng, quán tạp
hoá màu xanh dương, ngã tư, (tất cả đều trùng khớp với những tín hiệu anh Nhã
cho trước), đoàn đến đất nhà ông Điển, một nông dân kiêm thợ nề. Hai vợ chồng
ông chỉ đoàn ra dải đất phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ (một khúc cua của con sông
Luộc, nơi các xác chết thường bị cuốn vào, quạ đến ăn nhiều nên dân làng gọi là
vụng Quạ), cách nhà ông chừng nửa cây số, nơi đó có 3 ngôi mộ vô thừa nhận.
Mọi người sướng rơn nhưng khi đến xem xét kỹ lại không thấy một dấu hiệu nào
như anh Nhã cho nên đành quay về nhà ông Điển.
Đứng trước cửa nhà, nhìn về chân đê sông Luộc, chếch về phía tây là ngôi nhà anh
An. Nhà xây bằng gạch nhưng để ở chứ không bày biện bán hàng gì. Anh An cho
biết: vợ anh có một gian hàng bán lòng lợn ở chợ La Tiến, sáng sớm gánh hàng ra
bán song nếu ai cần mua tại nhà anh chị cũng bán. Như vậy cũng có thể tạm coi là
quán hàng được.
Còn đất bà Nhường? Hỏi thăm cả làng, chẳng ai có tên như vậy. Chỉ có một bà lão
tên Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà vốn trước đó cũng là một nữ du kích, hoạt động
cách mạng cùng cô Khang. Cách đó mấy năm, bà có nhắn giáo sư Trần Phương về
nhận một bộ hài cốt vô thừa nhận. Bộ hài cốt có hàm răng màu trắng, giống hàm
răng của cô Khang nên bà cho là hài cốt của người đồng đội mình.
Như vậy, những dấu hiệu dẫn đến ngôi mộ đã tìm thấy nhưng dấu hiệu của chính
ngôi mộ thì chưa. Đành chờ đến 13h 30. Giữa trưa hè trời nắng hầm hập như đổ
lửa, đoàn vẫn chia làm mấy nhóm đón lõng ở các ngả đường dẫn đến nhà ông
Điển. 10 phút. Rồi 15 phút ngột thở trôi qua. Bỗng một tốp học sinh ào ào đạp xe
từ cuối làng tới. Nhìn kỹ, thấy toàn con trai. Mấy phút sau, có một tốp con gái đi
bộ tới. Mọi người liền giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần
ngã tư, sau cái đình làng. Ba em săng sái dẫn ông Quỳnh, em ruột giáo sư Phương
tới đó, còn một em đứng lại. Giáo sư Phương giật mình. Em gái ấy mặc áo màu
xanh lá cây, có hai bông hoa to in trước ngực. Hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận,
em chỉ mấy ngôi ở vườn chùa ngay cạnh chỗ đứng. Giáo sư Phương biết, đó là mộ
của những người chết đói năm 1945. Em lại chỉ 3 ngôi mộ phía ngoài đê, cạnh
vụng Quạ, nơi mà đoàn đã ra tìm từ sáng. Hỏi thêm em một số chuyện nữa nhưng
cũng không thu thêm được thông tin quan trọng gì. Đến xế chiều, gần như mất
phương hướng, giáo sư Phương lại gọi điện cho anh Nhã. Anh hỏi: “Có thấy lạch
nước không? Có cái cống không?”. Anh Nhã hỏi cứ y như anh đang nhìn thấy vậy.
Rồi anh bảo: “Bác hãy đi tìm ngôi nhà mà bốn mặt đều sơn màu trắng, phía trước
đầy hoa đỏ”.
Cái cống lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, xế nhà ông Điển, chính là nơi giáo sư
vừa ngồi nói chuyện với bé gái mặc áo hoa màu tím. Còn lạch nước? Hỏi ông
Điển, hồi lâu ông mới sực nhớ ra: Ba mươi năm về trước, chính cái đầm sen là một
vùng ruộng trũng. Bờ ruộng chạy song song với một con lạch dẫn nước qua cống
cửa chùa vào ruộng mạ mà nay là đất ở của ông và mấy nhà xung quanh. Cuối
những năm 60, để lấy đất bồi đắp con đê sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng
trũng thành đầm sen bây giờ. Bờ ruộng và cái lạch nước cũng biến mất trong lòng
cái đầm sen ấy.
Mọi người ngó nghiêng khắp làng để tìm ngôi nhà tứ bề quét vôi màu trắng mà
chẳng thấy. Chỉ thấy nhà màu vàng hoặc xám. Bỗng ông Tân Cương, một cộng sự
của giáo sư Phương chỉ vào cái quán bên đường: “Hay là cái này?”. Đó là cái quán
nước nhỏ, thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê một cái giường và cái chõng, trên bày
bán mấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây, cả 4 mặt đều quét vôi
trắng xoá. Ông Tân Cương lý luận: “Một cái quán cũng có thể coi là nhà được lắm
chứ”. Vậy còn hoa đỏ? Đảo mắt một vòng, anh Tân Cương reo khẽ. Nhìn theo
hướng tay anh chỉ về phía đầm sen, mọi người sững sờ. Cả một biển hoa sen hồng
thắm giữa trưa hè. Hương đưa ngào ngạt.
Chủ quán là một bà lão hom hem. Cụ cho biết tên là Mân. Nhưng đó là tên chồng,
còn tên thật của bà là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuổi. Mọi người sục sạo tìm
kiếm đến tối mịt mà chẳng thấy thêm tín hiệu gì đành quay về Hà Nội. Gọi điện
cho anh Nhã, anh chấn an: “Tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Bác nên
tìm tiếp tục. Hôm nay chưa thấy thì ngày mai lại đi. Chỉnh mộ là cả một hành trình
đầy vất vả, không thể một lần mà trúng ngay được”. Rồi anh chỉ dẫn tiếp: “8h sáng
mai bác phải có mặt ở cái quán quét vôi màu trắng ấy. Bác hoặc con bác hãy thắp
20 nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8h30’, có một con chó vàng nâu đứng
cách đó chừng 10m. Nó nhìn bác một lát rồi đi. Thỉnh thoảng, nó ngoái đầu lại xem
bác có đi theo nó không. Bác cứ đi theo và giữ khoảng cách. Đi chừng hơn 100m,
con chó sẽ dừng lại, hít đất rồi bới. Bác hãy nhớ lấy chỗ đó, quan sát kỹ, tìm những
dấu hiệu trên phần mộ như đã ghi trong bản đồ”. Ngừng một lát, anh Nhã dặn tiếp:
“Nếu không thấy con chó xuất hiện thì chờ đến khoảng 9h, tìm kiếm quanh vùng
sẽ thấy một con chó vàng nằm bệt như ốm. Đánh dấu lấy chỗ ấy mà đào. Đào thấy
thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì điện thoại lại, tôi sẽ chỉ dẫn tiếp”.
Ngày thứ 2 tìm mộ: Con chó nằm bẹp như ốm – Quả trứng trên đầu đũa
Sáng sớm hôm sau, đoàn lại lục tục quay trở lại La Tiến. Việc đầu tiên là chia ra
làm nhiều tốp, đứng ở các ngả đường xem có con chó vàng nâu nào tiến về phía
quán nước quét vôi trắng không? Chờ đến gần 9h vẫn chưa thấy tín hiệu gì. Đành
chuyển sang phương án 2: tìm con chó vàng nằm bệt như ốm. Mọi người sục sạo
vào từng nhà quanh vùng. ở đây, nhà nào cũng nuôi chó vàng, thấy khách lạ, chúng
nhảy sồ ra sủa inh ỏi, chẳng thấy con nào nằm bệt một chỗ. Cô Nam (em ruột cô
Khang) mấy lần vào ra nhà cụ Nhờ, ngó ngó nghiêng nghiêng khắp xó xỉnh, bỗng
phát hiện thấy phía sâu bên trong gian nhà phụ, dưới gầm giường, có một con chó
vàng nằm ệp. Mọi người lần lượt vào xem, nó vẫn nằm im thít như cục bông,
chẳng gầm gừ hay sủa. Hỏi cụ Nhờ, cụ chép miệng bảo: nó chửa, chê cơm mấy
hôm nay rồi. GS Phương liền điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã. Anh
chỉ dẫn: Tìm kiếm trong vòng bán kính 10 m xem có những dấu hiệu trên phần mộ
(cách mộ 4m có một gốc cây đổ, trên mộ có khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ
màu nâu đỏ và 5 cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt) không?
Từ chỗ con chó nằm ệp, GS Phương kẻ một vòng tròn có bán kính 10 m. Phần lớn
vòng tròn bao lấy sân gạch và nhà của cụ Nhờ, chỉ một phần nhỏ lấn sang khoảnh
vườn hẹp trước tường hoa nhà ông Điển. Khoảnh vườn này, hôm trước đoàn đã đi
qua mà không ai để ý đến mấy vạt rau lang. Cả nhà dán mắt xuống đất tìm. Anh
Tân Cương bỗng phát hiện ra một gốc cây đổ bị vùi lấp dưới lớp dây lang, gốc cây
to bằng bắp chân, dài hơn gang tay. Trên thân lơ thơ mấy cái chồi cằn cỗi. Ông
Điển bảo đó là cây nhót ông chặt năm ngoái nhưng chưa kịp đánh gốc. Tiếp tục tìm
kiếm, thấy cách gốc cây nhót về hướng đông chừng 2m, có nửa viên gạch vỡ màu
nâu đỏ nằm cạnh một cành cây khô to bằng cổ tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về
hướng đông chừng 3m nữa, dưới tán cây cam thấp lùn, cả đoàn reo lên khi trước
mắt hiện lên cả một dãy hoa màu tím nhạt bung lên khỏi đám rau lang. GS Phương
tỉ mẩn ngồi dếm được đúng 5 gốc, mỗi gốc nở hai bông hoa to và dài bằng ngón
tay.
Sau khi rà soát lại kỹ càng, GS Phương lại điện cho anh Nhã. Anh bảo: “Từ gốc
cây đổ đến dãy hoa tím, vẽ một hình tam giác. Bác hãy đứng vào giữa rồi đánh dấu
lại. Lấy một chiếc đũa cắm xuống chỗ đó. Chính tay bác hoặc người khác nhưng
phải cùng máu mủ với cô Khang, đặt một quả trứng lên đỉnh chiếc đũa. Nếu quả
trứng nằm vững trên đầu đũa là đúng. Nếu không nằm im thì cắm chiếc đũa lùi ra
nửa mét”.
Bà Điển lập cập chạy vào bếp rút từ ống đũa ra một chiếc rồi chạy ra chuồng gà
nhặt trong ổ một quả trứng vừa mới đẻ đưa cho GS Phương. Ngồi ngắm nghía
chiếc đũa tre khẳng khiu, tay vân vê quả trứng gà, GS Phương chột dạ: Tay Nhã
đánh đố mình đây. Song lại tự chấn an: vấn đề là ở chỗ phải ngắm cho thật cân và
không được xúc động. Hít một hơi thật sâu, GS Phương rón rén đặt quả trứng lên
đầu chiếc đũa. Gần trăm con mắt dán vào quả trứng gà như nín thở. Bịch! Quả
trứng rơi xuống đất. Nhặt lên, khẽ khàng đặt lại. Lần 2, lần 3 Đặt nằm rồi đặt
đứng. Quả trứng vẫn lăn bo lo xuống đất. GS Phương ngồi bệt xuống đất, thở hắt
ra. “Chỉ tại cái đũa chết tiệt. Tiết diện quá nhỏ mà lại không phẳng thì tài thánh
cũng chẳng đặt được quả trứng tròn cho cân”.
Nghĩ vậy nhưng GS đứng dậy, lùi lại nửa mét, mặt vẫn hướng vào tường hoa. Cắm
chiếc đũa cho thật thẳng rồi nhẹ nhàng đặt quả trứng lên. Mọi người vội chìa tay ra
hứng sợ trứng rơi vỡ. Ô kìa! Kỳ lạ quá! Quả trứng nằm im trên đầu đũa tựa như có
chất keo kết dính. (Xem ảnh)

Từ phải qua trái: GS PHương, vợ chồng cô Năm (em ruột cô Khang),


anh Tân Cương
Mặc dầu không tin vào sự can thiệp của cô Khang (vì làm gì có linh hồn mà can
thiệp? Mà nếu có thì linh hồn đâu phải là lực hút vật chất – GS Phương nghĩ
thế) nhưng GS vẫn thở phào nhẹ nhõm vì nếu không làm được điều này sẽ không
thể đi tiếp bước sau. Lại gọi điện cho anh Nhã cầu cứu. Anh bảo: “Lấy quả trứng
làm tâm, vẽ một hình chữ nhật dài 2 mét, rộng 1,2m rồi đào sâu xuống 1,5m cho
đến lớp cát đen, hài cốt sẽ ở đó”.
Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Vừa đói, vừa mệt, GS Phương quyết định tạm nghỉ,
ra bến đò La Tiến ăn cơm. Trời đang nắng gắt bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo tới, gió
ào ào thổi cuốn bụi mịt mù. Mưa như trút nước. Mưa kéo dài lê thê. Chừng hơn
một tiếng mới tạnh. Moị người vội vã kéo về nhà ông Điển. Anh Tân Cương bảo:
“Phen này phải đền quả trứng của bà Điển là cái chắc”. Thế nhưng khi bước ra
vườn, tất cả đều sững sờ khi thấy quả trứng vẫn nằm chon von trên đầu đũa bé xíu.
Chẳng nhẽ khi mưa, lúc nào cũng có 2 giọt nước rơi cân bằng xuống 2 đầu quả
trứng à? Lại còn gió to nữa chứ? Bụi tre bờ sông gió vặn còn nghiêng ngả cơ mà?
Có điều gì huyền bí đây?
GS Phương từ từ gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa để cho tốp thợ đào đất. Hai bàn
tay ông cảm nhận rõ một sức hút nhẹ như có bàn tay vô hình cố giữ quả trứng. Hai
tốp thợ thay nhau đào. Đầu tiên là lớp đất màu nâu. Sâu chừng 1,2m thì đến lớp
bùn đen pha cát. GS Phương nhắc nhở mọi người rà soát từng xẻng cát xem có lẫn
xương cốt không? Nhưng đào mi• đến độ sâu 1,5 m vẫn không thấy gì. Anh Nhã
hướng dẫn qua điện thoại: phát triển về hướng Nam, đào sâu thêm 4 cm nữa. Hố
đào lập tức được mở rộng thêm nửa mét ra phía bờ ao. Chiều sâu thì đến 2,8 m mà
vẫn không có tín hiệu gì. Trời sập tối. Mọi người buộc phải ngừng tay. Nỗi buồn
xen lẫn thất vọng hiển hiện rõ trên khuôn mặt già nua của GS Phương. Tuy vậy,
ông vẫn quyết định ngày mai đào tiếp.
Kỳ 12: Ngày thứ 3 tìm mộ: Soát đống cát đen, thu dọn “chiến trường”
Giáo sư Trần Phương và Bích Hằng
Suốt hai ngày trời, dậy từ 4h sáng, mướt mải tìm kiếm, đào bới đến 11h đêm mới
về nhà, cái tuổi 72 của GS đã cảm thấy đuối sức. Niềm tin cũng giảm sút. Sáng
ngày thứ 3, GS uỷ nhiệm cho các con, cháu, người chị ruột và anh Tân Cương đi
tiếp. Ông dặn: Không đào sâu thêm nữa, chỉ soát lại đống cát đen đào xới lên hôm
qua, hoạ may nhặt được mẩu xương nào thì đem về. Nếu không thì “thu dọn chiến
trường”.
Mọi người thực hiện đúng lời dặn, hì hụi bới tìm gần hết buổi sáng chẳng thấy gì.
Nhiều cụ già trong làng đến xem, xúm lại bài bác: “Đã bảo mà! Tìm ở ngoài đê,
quanh cái vụng Quạ thì không, lại cứ cắm đầu tìm ở trong đê. Làm gì có xác nào
trôi sông mà lại vượt qua được con đê để tận vào trong đồng”. Đúng lúc ấy, anh
Thìn, hiệu trưởng trường trung học cơ sở La Tiến đến xem kể: Hồi trước, bố anh
làm nghề đơm đó, đánh dậm, có vớt được 3 cái xác: 2 nam, 1 nữ trôi dạt vào vụng
Quạ. Ông đã kéo qua đê rồi chôn ở cánh đồng này. Bố anh rất nghèo nhưng bạo
gan. Trong làng, nhà ai có việc đào huyệt hay bốc mộ, đều đến nhờ cụ. Cả những
cháu bé bị chết đuối, xác trương lên, cụ cũng sẵn sàng vác lên vai đi chôn giúp.
Hồi kháng chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở vụng Quạ, làng giao hết
cho cụ vớt lên chôn cất. Sau này, cụ còn được chính phủ tặng bằng khen vì những
thành tích trong kháng chiến chống Pháp. Chỉ tiếc, cụ đã mất 18 năm rồi.
Lại loé lên những tia hy vọng. GS Phương vội điện cho anh Nhã. Từ Sài Gòn, anh
bảo: “Biết gia đình tìm được đầy đủ các tín hiệu, tôi mừng lắm tuy cự ly có phần
không đúng. Có điều, bây giờ phải lật cái bản đồ mà xem từ âm bản”. GS Phương
ngạc nhiên hỏi: “Như vậy có nghĩa là phần mộ cô Khang sẽ nằm ở bên kia sông,
tức là trên đất Thái Bình à?”. Anh Nhã gật đầu: “Đúng thế”. Rồi anh dặn: Phải tìm
đến một cái vụng xoáy dọc bờ sông. ở đó có một xóm dân cư mới, ra lập nghiệp
được khoảng 20 năm. Trong đó có cô Nhường, ông An. Mộ cô Khang nằm trên đất
cô Nhường. Trên mộ vẫn đầy đủ những dấu hiệu như đã chỉ”.
Ngày thứ tư tìm mộ: Vô vọng , nghi ngờ “cái trận đồ bát quái”
Hầu hết các thành viên trong gia đình GS Phương, vốn đã không tin vào chuyện
tâm linh thần bí, nay thấy sự việc đi vào bế tắc, đều không muốn đi nữa. Bản thân
GS thì mệt mỏi rã rời. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững lòng tin vì chính anh đã
nhờ các nhà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên. Ngày hôm sau, anh cùng anh
Đạt vượt bến đò La Tiến sang đất Thái Bình. Anh cứ dọc bờ sông Luộc mà đi,
những mong tìm được cái vụng xoáy. Đi mãi. Đi cho tới khi xế chiều, anh bắt gặp
một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ bảo: “Phía Thái Bình không có cái vụng xoáy nào
đâu. Vì con sông đến đoạn này thì quật sang đất Hưng Yên”. Nói rồi cụ chỉ sang
vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. (Gọi thế vì bà Khán Mỹ đã nhiều năm sinh sống
trên vụng đó bằng thuyền đánh cá). Vậy là lại phải qua sông để trở về đất Hưng
Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên đất bãi, có một xóm mới. ở đó, có một chị tên
Nhường và một anh tên An. Có mấy ngôi mộ vô thừa nhận. Nhưng tìm kiếm mãi
vẫn chẳng thấy tín hiệu nào trùng khớp với bản đồ của anh Nhã.
Không nản, anh Tân Cương đi tiếp một ngày nữa. Từ vụng bà Khán Mỹ, anh đi
ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ vô thừa nhận là anh đến. Nhưng càng đi tìm
lại càng tuyệt vọng. Cuộc tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây coi như lâm vào
ngõ cụt. Cái tính hoài nghi khoa học vốn có trong con người GS Phương giờ “nổi
loạn”. Ông nghĩ: Lão Nhã này, hắn đày ải, đánh đố mình đây. Hắn bày ra cả một
“trận đồ bát quái”, nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người, tên đất… rồi bảo mình phải
đi tìm cho đủ. Lục tìm cả cái đất nước này, chưa chắc đã có nơi nào khớp được.
Nghĩ thế nhưng ông lại tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận đi theo thầy Nhã mà
tỷ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì hà cớ gì, trường hợp của mình lại không rơi vào
40% kia? Đã xác định tìm đến con đường thần bí như nguồn hy vọng mỏng manh
cuối cùng thì lý gì lại đòi hỏi phải lý giải ngọn nguồn cái trận đồ bát quái ấy?
Theo đuổi đến tận cùng hai nhà ngoại cảm nổi tiếng đã vẽ trúng hàng ngàn ngôi
mộ liệt sĩ nhưng đến lượt mình thì không có “duyên”, GS Phương bèn bàn với anh
Tân Cương chỉ còn cách là tìm đến những người có khả năng gọi hồn. Chị Tuyết
Nga cũng ủng hộ cách làm ấy. Chị đưa cho GS địa chỉ, điện thoại của một nhà
ngoại cảm nổi tiếng khác. Điều tra ra thì đó chính là điện thoại của Phan Thị Bích
Hằng. Chị nhận lời giúp GS vào chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 tại nhà riêng của
ông. Cuộc gọi hồn kéo dài gần hai tiếng đồng hồ với nhiều chi tiết vừa xác thực,
vừa ly kỳ, xúc động cùng rất nhiều nước mắt đã hé ra một cách tìm mới về mộ cô
Khang và điều đặc biệt nhất là xé toang nỗi nghi ngờ như làn sương bao phủ trong
đầu vị GS “vô thần” Trần Phương.
Trò chuyện với… linh hồn
Cuộc trò chuyện với linh hồn cô Khang trong buổi chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999
ấy, cho đến tận bây giờ, vẫn là nỗi ám ảnh lớn trong tâm trí của GS Phương. Bởi
đó không chỉ là cuộc hội ngộ đầy nước mắt giữa những người thân sau mấy mươi
năm sinh ly tử biệt mà đó thực sự là bước ngoặt lớn trong nhận thức của GS về thế
giới tâm linh, thế giới của những linh hồn. GS vẫn còn nhớ rất rõ, trong lúc nhà
ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đang lúi cúi sắp đặt một cốc nước, một cốc gạo,
nến, tiền vàng và bức ảnh của cô Khang lên bàn thì GS cố lục tìm trong trí nhớ
những vụ việc rất bí mật mà chỉ GS và cô Khang biết để kiểm tra xem có đúng là
linh hồn người em gái đang trò chuyện với ông không? Và điều quan trọng hơn, có
thật là linh hồn còn tồn tại sau khi con người đã chết? Cảnh giác, GS còn dặn cả
nhà tham dự buổi gọi hồn phải tỉnh táo, không được nói hớ, để lộ thông tin cho
“thầy bói nói dựa”.
Thắp hương và đốt nến xong, Bích Hằng thành kính chắp tay trước ngực, khấn mời
cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ rồi quay sang nói với GS Phương: “ở căn phòng
này bác không thờ cúng bao giờ, có thể vong linh cô Khang sẽ khó về”. Nghe vậy,
GS đâm hoang mang quá. Đúng là ở căn nhà này, GS chưa thờ cúng ai bao giờ,
thậm chí, 10 năm nay, ông không ở đây vì đã bàn giao cho con. GS đảo mắt nhìn
quanh, thấy bốn bề cửa kính đóng kín mít, máy điều hoà chạy mát lạnh. Mùi hương
không lọt ra ngoài thì cô Khang làm sao nhận biết được? Cả tiếng khấn nhẹ như
gió thoảng của Bích Hằng nữa? Cô có nghe thấy không? Mà có nghe thấy thì làm
sao tìm được địa chỉ này giữa lòng thành phố ồn ào chin chít nhà cửa? Và lách qua
kẽ hở nào mà vào?
GS bỗng thấy ngột ngạt, căng thẳng quá. Bên cạnh, Bích Hằng vẫn chăm chắm
nhìn tấm ảnh cô Khang. Một phút chờ đợi chậm chạp trôi. Hai phút… Rồi 3 phút.
Chợt Bích Hằng reo khẽ: “Cháu chào cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần
Phương có nhờ cháu mời cô về để hỏi xem hài cốt cô hiện ở đâu ạ?”. Nói đoạn,
Bích Hằng vội quay sang G.S Phương, hạ giọng nói: “Cháu nhìn thấy một thanh
niên đi cùng với cô Khang”. Tim GS Phương đập thình thịch như muốn nhảy ra
khỏi lồng ngực. Ông cố đoán xem người đàn ông ấy là ai trong khi Bích Hằng vẫn
chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại “Vâng! à thế ạ. Cô Ngân hay là cái gì ngân ạ?
…” Một lúc sau, Bích Hằng quay sang GS Phương, nói: “Cô Khang bảo: Người
thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Anh ấy vẫn thường xuyên đến thăm
em”. G.S Phương giật mình. Ôi! Anh Sơn. Người anh ruột hơn G.S Phương 4 tuổi
nhưng cũng là người bạn, người đồng chí thân thiết. Anh từng là uỷ viên thường vụ
tỉnh Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông (cũ). Rồi khi thành lập Đại đoàn 320, anh được
điều làm Trưởng ban tuyên giáo của đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà
Nam Ninh tháng 6 năm 1951. G.S Phương muốn reo lên, gọi thật to tên anh.
Nhưng sực nhớ Bích Hằng ngồi cạnh, ông cố kìm cảm xúc lại, chờ xem.
Bích Hằng nói tiếp: “Anh không có duyên rồi. Đi tìm em, đối mặt với em rồi mà
không đến được với em. Từ hôm anh đến, mấy chị em trong đội du kích Hoàng
Ngân cứ bảo: sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm chỉ cách chỗ
anh đào 3 sải chân ra phía bờ ao thôi”. G.S Phương vội ngắt lời: “Vậy em nằm trên
vườn hay dưới ao?”. Cô Khang bảo (qua Bích Hằng, từ đây gọi là cô Khang –
PV): “Đến bờ ao cũng còn 3 bước chân nữa. Phía trên em chừng 2 m là chị Nguyễn
Thị Bê, đội viên đội du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cũng cách
chừng 2m về phía Đông là một người đàn ông, bị bắt từ Hải Dương về, em không
biết tên. Hai người bị giết cùng một ngày với em. Chúng cột tay chúng em lại rồi
vất xác xuống sông vào nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng không thấy. Mãi
mấy ngày sau, xác mới nổi lên. Dân vớt được, đưa về đây chôn nên 3 mộ gần sát
nhau, gần như nằm trên một đường thẳng. Xa hơn, còn mấy người nữa. Chỗ này cả
thảy 7 người cơ”. G.S Phương hỏi: “Chôn em có quan tài không?”. Cô Khang cười
buồn: “Mấy người nổi lên trước thì dân còn cho được manh chiếu mà bó. Còn nổi
lên sau thì đến manh chiếu cũng không có, nói gì đến quan tài”.
Qua Bích Hằng, cô Khang chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm với các đặc điểm về cây cỏ
xung quanh. G.S Phương nhận ra ngay vì đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, bữa
trước ông đã ngồi ở đó để theo dõi việc đào mộ. G.S Phương hỏi: “Em có biết chỗ
em nằm thuộc về đất của ai không?”. Cô Khang đáp: “Em cũng không biết nữa.
Địch đánh em gãy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải,
gãy hai chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện
nay vẫn còn nhưng đã mủn vì chôn có quan tài đâu nên khi đào, anh phải cẩn thận,
chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngay. Anh chú ý ở tay em vẫn còn cái còng
bằng sắt. Địch khoá tay em vào tay người đàn ông bị bắt ở Hải Dương bằng cái
còng ấy. Răng hàm dưới đã rụng ra nhưng rất may, hàm trên vẫn còn nguyên vẹn.
ở đấy có mấy anh chị, nếu anh có đào nhầm sang mộ người khác thì vẫn có thể
nhận ra ngay. Ngày xưa, mọi người hay trêu đùa em là có hàm răng đẹp nhất, trắng
nhất, tươi tắn nhất đội du kích. Nhưng bây giờ răng em đã chuyển sang màu đen
rồi, đen xỉn ấy do bùn đất lâu năm ngấm vào chứ không phải đen hạt na đâu”. Một
niềm xót thương chợt trào dâng khiến nước mắt G.S Phương lưng tròng. Mặc dù
chỉ nói một cách kín đáo nhưng ông nhận ra ngay vẻ đẹp mặn mòi rất đặc trưng
của em Khang. Ôi! Người con gái đã lìa đời hơn 50 năm mà vẫn thầm tự hào về
nhan sắc, về hàm răng trắng như ngà khiến biết bao chàng trai ngưỡng mộ.
Cố kìm nén niềm xúc động, G.S Phương hỏi: “Nếu tìm được hài cốt em thì đưa về
quê mình, cạnh mộ bố mẹ hay đưa em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, nơi anh Sơn
đang nằm?”. Cô Khang đáp: “Mẹ bảo em: Con là phận gái chết trẻ, không chồng
con gì. Về với bố mẹ để sau này cháu chắt còn thăm viếng, hương khói cho con.
Nhưng anh Sơn thì bảo: Em là đội trưởng đội nữ du kích Hoàng Ngân. Em cứ về
nghĩa trang liệt sĩ cho có anh có em. Tổ quốc ghi công mình cơ mà. Anh Sơn hôm
nay cũng về cùng với em đấy”. Suốt nửa tiếng đồng hồ cố nén niềm xúc động, giờ,
không kìm được nữa, G.S Phương khóc oà: “Trời ơi! Anh Sơn”. Ông lẳng lặng rút
từ trong túi ra một bức ảnh, đưa cho Bích Hằng. Nhìn qua, Bích Hằng bảo: “Đúng
đây là ảnh bác Sơn rồi. Nhưng trông bác già và gầy hơn trong ảnh”. G.S Phương
gật đầu xác nhận. Bức ảnh chụp từ năm 1948, khi anh Sơn đang công tác ở Sơn
Tây nên trông rất điển trai.
Anh Sơn trách G.S Phương: “Chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu.
Lần sau, chú báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Ai khoanh
cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong lại, xác
em mình mới dạt vào. Nếu không đã trôi tuột mất rồi. Mẹ khóc thương em Khang
nhiều lắm. Cứ muốn đưa em về bên mẹ để mẹ ôm ấp. Nhưng anh lại khuyên em
Khang về nghĩa trang liệt sĩ vì đấy là vinh dự của em mình, của cả gia đình mình
cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời nhân dân thắp hương cho mình chứ đâu chỉ
có con cháu trong gia đình. Vả lại, đời anh chị em mình đã vậy chứ đến đời thằng
An thì nó còn biết gì.”. G.S Phương lại giật mình. An là con đẻ của ông. 10 năm
sau khi anh Sơn hy sinh, An mới ra đời.
“Hôm chú đi tìm mộ em Khang, anh cũng có theo dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp
đất nguyên thuỷ. Em Khang đâu có nằm sâu thế. Chỉ hơn 1m là đến lớp cát đen rồi.
Em mình chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi
mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô
tình như đánh dấu cho mình”. G.S Phương hỏi: “Anh bảo sẽ dẫn đường cho em.
Vậy làm cách nào mà em nhận biết được?”. Anh Sơn: “Anh không thể nắm tay chú
mà dẫn đi như người trần được. Nhưng anh sẽ sai khiến một con vật nào đó như
con ong, con bướm chẳng hạn, dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm
là khó đấy nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật, chú gọi nó lại rồi đi theo nó, đến chỗ
nó đậu. Hôm nào đi, chú mua ít hoa quả thắp hương mời chị em. Người ta chết
cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em mình thì người ta cũng tủi. Phía trên mộ em
Khang là mộ một chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương, nên
báo cho gia đình chị ấy biết mà đến tìm. Chú kiếm cho anh mấy bao Cáp-tăng để
anh mời anh em. Bây giờ anh cũng chỉ huy cỡ trung đoàn đấy”.
G.S Phương hỏi đôi điều về “đời sống” của anh Sơn và cô Khang. Cô Khang bảo:
“Có lần, em về thăm chị Nghĩa mà không vào được, chỉ đứng ngoài nhìn
vào”. (Chị Nghĩa là chị cả của gia đình GS Trần Phương – PV). Anh Sơn vội giải
thích: “Em Khang bị chết trôi sông. Đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì
chỗ nào cũng vào được. Bây giờ, cuộc trò chuyện ở đây tạm kết thúc. Cô Khang đi
với anh đến nhà Quỳnh chơi”. (Quỳnh là em út của GS Phương – PV). Nói rồi biến
mất. Cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa vặn hết.
Sau này, GS Phương đã nghe đi nghe lại cuộn băng ghi âm nhiều lần. Qua những
tên người trong gia đình được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự
hiểu biết tính cách từng người còn sống, cách xử sự và tâm tư tình cảm của người
nói, GS Phương tin chắc rằng: đó là vong linh của anh Sơn và em Khang. Người
khác, dù biết rõ gia đình GS đến mấy, cũng không thể sáng tác ra một kịch bản như
thế, huống hồ Bích Hằng là người mà hoàn toàn xa lạ, lần đầu tiên được gặp GS.
Song điều khiến GS băn khoăn là: “Nếu đúng là khi người ta chết đi, vẫn còn lại
một cái gì đó mà người đời thường gọi là linh hồn thì linh hồn là gì? Nó phải tồn
tại dưới một dạng vật chất nào đó thì Bích Hằng mới có thể nhìn thấy và nhận diện
qua ảnh. Phải phát ra tiếng nói qua một tần số nào đấy thì Bích Hằng mới có thể
nghe thấy và nói lại cho tôi nghe. Đối với tôi, nó là vô hình nhưng đối với Bích
Hằng, nó là hữu hình. Đối với tôi, nó là câm lặng nhưng đối với Bích Hằng, nó lại
phát ra âm thanh với đầy đủ những sắc thái sống động của tình cảm, tư duy, hệt
như tiếng nói của người đang sống. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Nếu linh hồn là một
dạng vật chất có hình thù và khả năng phát ra âm thanh thì, theo cách nói của triết
học, nó thuộc phạm trù tồn tại mang tính khách quan chứ không thuộc phạm trù ý
thức mang tính chủ quan. Nhận biết được nó hay không là tuỳ khả năng của từng
người. Đối với tất cả những gì ta chưa có khả năng nhận biết được mà đã vội vất
vào cái sọt rác mê tín dị đoan thì khoa học còn việc gì để nghiên cứu? Lâu nay, tôi
cứ đinh ninh cho mình là duy vật, hoá ra chính mình lại là duy tâm chủ quan: cái gì
mình cho là nó tồn tại thì nó tồn tại. Cái gì ta cho là nó không tồn tại thì nó không
tồn tại, nó chỉ là mê tín dị đoan”.
Lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với linh hồn, GS Phương nhận ra như thế.
Song những thông tin do linh hồn cung cấp đúng hay sai thì phải chờ vào kết quả
cuộc đào bới. Điều kỳ thú là thông tin do Bích Hằng cung cấp về vị trí hài cốt lại
trùng khớp với tấm sơ đồ do nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã vẽ trước đây nên GS
Phương vô cùng háo hức, coi đây cũng là dịp để kiểm nghiệm lại “cái trận đồ bát
quái” của anh. Hy vọng xen lẫn hoài nghi, ông nóng lòng chờ ngày hẹn Bích Hằng
về La Tiến. Và cuối cùng, ngày hẹn được ấn định: 17 tháng 8 năm 1999.
Kỳ 13: Chuẩn bị cho cuộc tìm mộ lần thứ 5
GS Trần Phương
Ngày 13 tháng 8 năm 1999, tức 4 ngày trước khi tiến hành cuộc đào bới, GS
Phương đã cử người em ruột là chú Quỳnh cùng anh Tân Cương về La Tiến làm
một số công việc chuẩn bị. Trên đường đi, anh Tân Cương gọi điện thoại cho nhà
ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, thông báo toàn bộ sự việc. Biết tin Bích Hằng vào
cuộc, anh Nhã rất mừng. Từ Sài Gòn, anh cho một tín hiệu: “Khoảng 10h sáng, sẽ
có hai con bướm màu sắc sặc sỡ bay lượn quanh mộ rồi đậu lại. Hãy đánh dấu lấy
chỗ đó”.
Đến nhà ông Điển, đúng 10h, anh Tân Cương ra vườn ngồi chờ dưới gốc nhãn.
Bỗng hai con bướm đen đốm hoa từ đâu bay tới lượn tung tăng. Anh Tân Cương
nín thở dán mắt nhìn. Rồi một con bay đi, một con đậu lại trên cành nhãn. Anh Tân
Cương vội chạy lại, chiếu thẳng từ cành nhãn xuống đất, cắm một cây que đánh
dấu. Cây que cách chỗ đặt quả trứng bữa trước 2m ra phía bờ ao. Ông Điển đứng
bên tường hoa theo dõi cứ tủm tỉm cười. Lúc vào nhà uống nước, ông mới kể: Sau
lần đào bới thứ 4 không thấy, ông có mời thầy về cúng. Thầy chỉ mộ cô nằm đúng
vào vị trí của cây que đó.
Rời nhà ông Điển, anh Tân Cương đến thẳng Uỷ ban xã để điều tra xem trong danh
sách liệt sĩ, có ai là Nguyễn Thị Bê không? Tìm đi tìm lại đống sổ sách, lần hỏi
từng cụ già trong làng mà chẳng ai biết cái tên như thế. Điều đó lại khiến GS
Phương hoang mang. Vậy là em Khang nói sai? Cả anh Sơn nữa. Anh còn nói cụ
thể chị Bê là liên lạc, cấp dưỡng của đội du kích nữ Hoàng Ngân nữa cơ mà?
Chẳng nhẽ người nói chuyện với mình bữa trước không phải là em Khang, anh
Sơn?
Cuối cùng, ngày 17 tháng 8 năm 1999 cũng đến. Đêm hôm trước, GS Phương
không sao chợp mắt được. Lòng dạ cứ bồn chồn. Ruột nóng như có người hơ lửa.
Nửa đêm, ông lụi cụi dậy thắp hương, báo cáo với anh Sơn việc tìm em Khang
ngày mai. Ông vừa khấn vừa run. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong đời, vị GS tóc hoa
râm mới tự mình làm cái việc tâm linh huyền bí đó.
Em của anh đây rồi!
Thực hiện đúng lời dặn của anh Sơn, ngày 17 tháng 8 năm 1999, gia đình GS Trần
Phương chuẩn bị đầy đủ lễ vật gồm: hương hoa, tiền vàng, nải quả và mấy bao
thuốc lá Cáp-tăng, thẳng đường xuống La Tiến. Vừa tới nhà ông Điển, bà chị của
GS đã phăm phăm bước ra vườn, bày biện lễ vật lên chiếc mâm rồi đặt lên tường
hoa để nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng khấn mời. Cả nhà thành tâm chắp tay
cầu nguyện. Khấn khứa một hồi, Bích Hằng cầm bó hương nghi ngút khói đi thẳng
ra gốc cây vải, gần cây nhãn sát bờ ao, ngắm ngắm nghía nghía rồi cắm bó hương
xuống đất. Lấy đó làm tâm, chị vạch một hình chữ nhật rồi bảo với GS Phương:
“Lúc cháu đang chắp tay khấn đã thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải
vẫy cháu lại rồi chỉ cho cháu chỗ cắm hương này, cả đầu và chân ngôi mộ nữa”.
Nhìn bó hương Bích Hằng cắm, GS thấy nó cách quả trứng bữa trước chừng 3m ra
phía bờ ao và hình chữ nhật nằm ngoài hình tam giác đào lần trước, cạnh của nó là
cạnh đáy của hình tam giác nối dài ra phía bờ ao. Trong khi tốp thợ thuê đào tay
cuốc, tay xẻng chuẩn bị khai quật thì Bích Hằng khẽ khàng đặt bức ảnh cô Khang
dưới gốc cây vải. Mắt nhìn vào tấm ảnh, chị chắp tay trước ngực nói bằng một
giọng nhẹ như gió thoảng: “Thưa cô! Chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo đúng như cô
chỉ. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu nhìn thấy, còn rất ít, khi bốc lên có thể
mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không được đầy đủ
mong cô thông cảm cho”. Cô Khang bảo: “Lần này nhìn thấy cậu Quỳnh là chị
phấn khởi rồi. Cậu Quỳnh mà đi thì chắc là được (Quỳnh là em ruột cô Khang, vốn
là người tin vào thần phật, lần trước không đi – PV). Còn anh Phương thì thần
thánh anh ấy cũng chả sợ, có khi chỉ nhiễu quan trần, còn quan âm thì chẳng ai
giúp. Anh Sơn cũng ở đây suốt từ sáng. Anh ấy trách cháu An. Nếu mà lần trước
nó kiên trì, bình tĩnh thì đã đưa được em về rồi”. Bỗng Bích Hằng gọi: “Ai là Hậu?
Cô Khang muốn gặp chị Hậu”. Bà Hậu, chị của GS Phương, đang ngồi uống nước
trong nhà ông Điển nghe vậy vội lập cập chạy ra. Cô Khang nói tiếp: “Chị đã cất
công xuống tận đây mà không ra với em, lại cứ ngồi lỳ trong đấy. Hài cốt của em
không còn nguyên vẹn. Nhưng chị bốc cho em dù chỉ một nắm đất về quê mình là
em cũng mừng rồi. ở đây tuy có nhiều chị em đồng đội nhưng không phải là ruột
thịt, cả năm chả ai thắp cho một nén hương, em tủi lắm. Chả lẽ cứ ở đây quấy quả
ông An mãi”. Bác Sơn nói chen vào: “Mọi người cứ bốc cho bằng hết. Dù ít dù
nhiều cũng là máu thịt của em mình. Không bỏ vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho
em”. Anh Tân Cương hỏi: “Cô có biết cháu không ạ?”. Cô Khang cười: “Nếu tôi
không biết anh Tân Cương thì hoá ra tôi vô tình quá. Anh lặn lội vất vả với tôi quá
nhiều”. Anh Tân Cương lại hỏi: “Cô có biết, ai mai táng cho cô không ạ? Nhiều
người không tin là thi thể cô có thể trôi dạt vào đây. Cháu vừa nghe thấy cô nhắc
đến ông An là ông An nào? ở đâu ạ?”. Cô Khang: “Nếu có cách gì làm cho cụ
Đặng Đình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi phải mất công tìm kiếm. Rất tiếc
đã gặp cụ dưới âm phủ mất rồi. Lúc giết em xong, giặc ném xác em xuống sông.
Mấy ngày sau xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh. Cụ Giám
nhìn thấy, vớt lên, kéo qua một cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo: Mấy vị chết ở
đây, nếu đói khát, khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc”. Rồi cô
Khang chỉ cho Bích Hằng ngôi mộ người đàn ông Hải Dương, ngay liền kề phía
chân cái hố sắp đào. Bích Hằng bảo: Người đàn ông ấy đứng bên cạnh cô Khang,
xưng tên mình và có nói mấy câu nhưng nói nhỏ quá, chị không nghe thấy. Phải
đến lúc cô Khang nói, chị mới nghe được. Khi cô Khang chỉ ngôi mộ, chị nhìn thì
thấy rõ một bộ hài cốt không đầu.
Tốp thợ bắt tay đào. Đào hết lớp đất “vượt thổ” thì Bích Hằng bảo “dừng lại”. Chị
nhảy xuống hố, lấy tay gạt nhẹ từng lớp cát đen. Sâu thêm chừng một gang tay thì
vướng vào thanh củi mục. Nạy lên, thả vào nước. Mọi người chợt ồ lên khi nhận ra
đó là một khúc tre già, thịt tre đã phân huỷ hết nhưng xơ và đốt tre vẫn còn nguyên.
Khúc tre dài hơn một gang tay, to bằng cổ tay người lớn, không thể tra vừa bất cứ
một loại xẻng hay cuốc nào, chỉ có thể tra vừa thuổng (Loại thuổng hình lưỡi mai,
mặt phẳng, bề ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, có nơi gọi là mai). Mọi người vô cùng
kinh ngạc khi thấy lời dặn của bác Sơn trong buổi gọi hồn chiều ngày 9 tháng 8:
“Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán
thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô tình như đánh dấu cho
mình” đã linh ứng một cách kỳ lạ. Riêng GS Phương thì vui mừng khôn xiết. Vì
đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để chứng minh đó chính là mộ của em gái mình.
Cái cán thuổng đã bị vùi sâu dưới lòng đất ngót 50 năm rồi, không ai có thể nguỵ
tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại do chính linh hồn anh Sơn mách bảo cách đó 9
hôm, người đời bằng con mắt trần không ai nhìn thấy mà mách bảo được.

Nhà ngoại cảm Bích Hằng


Sau khi tìm thấy cán thuổng, Bích Hằng chỉ gạt vài lớp đất mỏng nữa thì bắt gặp
hài cốt của cô Khang. Trùm lên sọ là một mảng tóc đen nhánh. Những đốt xương
cổ hiện lồ lộ trên nền cát đen. Nhưng khi bàn tay Bích Hằng vừa chạm đến, mớ tóc
vủn ra luôn còn những đốt xương thì gãy ra như chiếc bánh quy thấm nước. Qua
hình dáng hài cốt, có thể mường tượng ra, khi chôn, người ta đã đặt cô Khang nằm
nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu hướng về Tây Bắc, chân về
hướng Đông Nam. Bích Hằng khẽ khàng bốc tất cả số bùn đất theo hình nằm cong
ấy cho vào tấm vải đỏ. Chị hỏi cô Khang: “Thưa cô! Răng cô ở đâu để cháu mang
đi đãi ạ?”. Bốc vài nắm đất tìm bới, cuối cùng tìm được 5 chiếc. GS Phương cho
lên lòng bàn tay nhìn kỹ thì thấy đúng là những chiếc răng trắng nhưng do ngâm
quá lâu trong bùn đất nên đã ngả sang màu xám và đen xỉn. Thấy vậy, mấy người
đứng trên bờ nhắc Bích Hằng tìm móng tay. Chị bèn hỏi cô Khang: “Thế còn
móng tay cô ở chỗ nào, cô chỉ cho cháu?”. Bỗng thấy Bích Hằng khóc nấc lên. Một
lát sau, chỉ nghẹn ngào kể lại với GS Phương: “Cô Khang giơ hai bàn tay toè toẹt
máu ra trước mặt cháu, bảo: Chúng nó rót hết móng tay của cô rồi, còn đâu nữa mà
tìm hả cháu”. GS Phương chết lặng. Một nỗi niềm chua xót, buốt lòng dâng lên
khiến ông đứng lặng, không nói nên lời. Ông chợt nhớ lại. Ngày ấy, sau khi em
Khang bị giặc giết, huyện uỷ Phù Cừ có gửi riêng cho ông bản báo cáo, kể rõ em
Khang bị địch bắt, tra tấn dã man và bị giết đau đớn như thế nào. (Vì ngày ấy, ông
là Phó bí thư tỉnh uỷ Hưng Yên, có nhiều gắn bó với huyện Phù Cừ). Chúng dùng
kìm, rút từng chiếc móng tay của em Khang rồi cắm kim vào đó cho mưng mủ, lấy
giày đinh giẫm lên mặc cho em Khang giãy giụa, quằn quại. Dã man hơn, chúng
còn dí điện vào hai đầu vú, thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây như bị cát
rồi thoả sức đấm, đá Những chuyện buốt lòng ấy, GS Phương đã chôn kín trong
lòng, không hé lộ cho bất kỳ ai trong gia đình. Ông sợ mọi người không chịu đựng
được nỗi đau ấy. Nay, thấy Bích Hằng nói vậy, ông vô cùng xúc động. Và càng tin
chắc chắn rằng, bộ hài cốt kia đích thị là người em gái xinh đẹp và kiên trung của
mình.
Bích Hằng vẫn lúi húi dưới hố tìm kiếm và chỉ đạo mấy người giúp việc. Chị tìm
mãi chiếc còng sắt vẫn không thấy. Hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. GS
Phương bảo: “Có thể nó đã bị rỉ thành đất qua 50 năm ngâm trong bùn”. Thỉnh
thoảng, Bích Hằng lại nhô đầu lên nói chuyện với gia đình GS Trần Phương. Bỗng
chị bảo: “Có một cụ cứ ngồi nhìn rồi tủm tỉm cười. Không biết có phải cụ Giám
không?”. Rồi chị cất giọng lễ phép hỏi: “Cháu chào cụ ạ! Cụ cho phép cháu được
biết quý danh của cụ?”. Lắng nghe hồi lâu, Bích Hằng nói như reo lên: “Cụ An”.
Nói đoạn, Bích Hằng tự giới thiệu mình cùng gia đình đi tìm hài cốt cô Khang và
đề nghị cụ giúp đỡ. Cụ An bảo (qua Bích Hằng): “Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ
đê. Lần nào các bác về đây tìm mà tôi chả biết. Tôi còn nhớ như in, đêm hôm ấy,
vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà tôi hỏi mượn cái mai. Tôi hỏi để làm
gì? Ông ấy giơ ngón tay lên miệng: “suỵt! Để chôn người chết trôi”. Tôi nhìn kỹ
thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách mạng. ở chỗ kia trước là cái
rãnh nước. Ông Giám kéo mấy cái xác qua đó, đến đây là chân ruộng mạ. Ông
Điển mới ở đây thôi chứ ngày xưa là ruộng mạ, thuộc chủ khác”. Bích Hằng bèn
đưa ảnh cô Khang, hỏi: “Cụ có nhận ra ai đây không ạ?”. Cụ An bảo: “Bà này là
thân nhân của một ông cán bộ tỉnh uỷ ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào thì cả tôi,
cả ông Yên, ông Trọng đều không biết gì đâu. Chỉ có mình ông Giám là biết thôi.
Để tôi đi tìm ông Giám cho”.
Chờ một lúc lâu, Bích Hằng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đi cùng cụ An về. Cụ
An cười bảo: “Tất cả những chuyện cô cần biết, chỉ có mình ông Giám này là giúp
được thôi”. Bích Hằng nhỏ nhẻ giới thiệu và nêu ra đề nghị với cụ Giám: nhận diện
người chết qua tấm ảnh và chỉ dùm cái còng sắt nằm ở chỗ nào? Cụ Giám nói:
“Đêm ấy trời tối đen như mực nên tôi chỉ nhìn thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm
dưới nước lâu ngày đã trương lên rồi, mặt mũi nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như trong ảnh thế này đâu mà cắt ngang gáy như cô bây giờ. Nhưng xoã xượi dưới
nước. Lần ấy, tôi đem về không phải một người mà những 3 người cơ. Tôi kéo
người phụ nữ lên trước nhưng cứ thấy vương vướng. Nhìn kỹ hoá ra tay trái của cô
ấy bị xích vào tay người đàn ông. Khi chôn, chẳng nhẽ lại chôn hai người một hố
nên tôi phải tuột tay một người đàn ông ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở
đây còn người đàn ông ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được có thế. Khi chôn, vì
xác bị trói đã cứng lại, không nắn thẳng ra được nên tôi đành đặt nằm nghiêng, mặt
hướng ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia, chỗ gốc cây
nhãn ấy. Nhưng bây giờ thì đã tụt xuống ao mất rồi. Hình như lúc chết, bà ấy đang
mang thai hay sao ấy”. Anh Tân Cương hỏi: “Một số người thắc mắc, không hiểu
được tại sao xác chết trôi sông lại có thể dạt vào đây được?”. Cụ Giám gắt: “Cái
con mẹ Tiến nó cứ mồm năm miệng mười chứ làm sao mà nó biết bằng tôi được. ở
ngoài kia nước cả, không đem vào đây thì vùi ở đâu”. Ngừng một lát, cụ nói tiếp:
“Điều này thì tôi chỉ nghe phong thanh thôi. Tụi lính dõng ở đồn nó bảo người phụ
nữ bị giết đêm hôm ấy (cô Khang – PV) là bà bé của tay xếp bốt”. Cụ An cãi lại:
“Ông thì chỉ được cái ăn no vác nặng, có biết gì đâu. Có lần ông chôn một anh bộ
đội, ông lại bảo là thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông nhưng
việc này thì tôi biết rõ. Có một người nữ du kích bị bắt (cô Khang – PV), thằng xếp
Bách dụ làm vợ bé không được, nó đã giết đi. ở bốt này có một thằng quan Tư là
quan thày người Pháp còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng cũng được gọi là xếp.
Thằng Bách lấy vợ người La Tiến làng mình, ai mà chẳng biết rõ về nó”.
Trời đã xế chiều. Mọi người hối hả thu dọn. Bác Sơn bảo (qua Bích Hằng): “Còn
cái chân của cô, moi sâu vào mà bốc. Được bà chị xuống với em, chẳng giúp được
việc gì, chỉ ngồi khóc”. Anh Tân Cương tưởng bác Sơn nói đến cô Nam (chị gái
của cô Khang) đa cảm, hay xúc động liền nói chêm vào: “Sáng nay, bà ấy cứ nhất
định đòi đi”. Bích Hằng thấy vậy, liền cải chính: “Không phải thế đâu. Bác Sơn nói
đến bà chị là bác Nghĩa (đã mất) cơ. Từ nãy, bác ấy cứ ngồi khóc một chỗ. Bác ấy
bảo: Nhà có 6 chị em gái, ai nấy đều có phận. Riêng em tôi giỏi giang xinh xắn
nhất nhà thì lại chịu cảnh thế này. Không tìm được xác em, lúc tôi chết cũng không
nhắm được mắt. Bây giờ tìm được em thì mình đã thành người thiên cổ rồi”. GS
Phương nghe thấy bác Nghĩa nhắc đến 6 chị em, vội giơ đốt ngón tay đếm. 6 hay 5
nhỉ? Đúng là 6 thật! Bác Sơn như hiểu ý của anh Tân Cương, nói: “Uí giời! Cho
cái cô Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được cái bù lu bù loa chứ giúp được gì. Tính
cái con ấy nó vậy”. Cô Khang nói: “Buồn cười quá! Sau lần gặp cô em, về đến nhà,
ông anh Phương vội vàng bốc cát lập ngay… 7 bát hương. Mỗi người một bát.
Đúng là một cuộc cách mạng. Em Khang cảm động ghi nhận tấm lòng của anh
Phương, chị Thuỷ”. (Bà Thuỷ là vợ của GS Phương – PV). GS Phương giật mình.
Quái lạ! Việc ông lập đến 7 bát hương, thờ phụng ở nhà, (một bát thờ tổ tiên, một
bát thờ cụ nội, một bát thờ ông bà nội, một bát thờ bố mẹ, một bát thờ anh Sơn,
một bát thờ cô Khang, một bát thờ người con giai chết trẻ – thế cô Khang mới
buồn cười) chỉ có mình ông và vợ biết, có nói với ai đâu. Tại sao Bích Hằng lại nói
đúng thế nhỉ?
Cụ An bảo: “Cô Khanh là liệt sĩ, sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về
quê?”. Bác Sơn vội giải thích: “Hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp.
Hôm tới đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện sẽ làm lễ truy điệu sau”. Cô Khang
bảo: “Cậu Quỳnh còn giữ những giấy tờ, bằng khen của chị không?”. Chú Quỳnh
đáp: “Bằng khen và Huân chương của chị, em vẫn giữ”. Cô Khang: “Hôm này làm
lễ truy điệu chị ở nghĩa trang liệt sĩ, cậu nhớ mang theo nhé”. Chao ôi! Người con
gái đã hy sinh ngót 50 năm mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần
thế – GS Phương ngậm ngùi nghĩ mà lòng thì rưng rưng xúc động.
Nói đoạn, cô Khang quay lại nhìn cụ Giám, cười bảo: “Cụ Giám ạ! Vừa rồi cụ nói
oan cho tôi quá. Tôi đã được làm vợ bé ngày nào đâu”. Bích Hằng thông dịch đến
đây, mọi người trên bờ cười ồ cả lên. “Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng
gọi tôi là cô Khang tóc dài. Nhưng khi bị bắt, giặc đã cắt cụt hết. Trong việc chôn
cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công lớn nhất. Chúng tôi vô cùng biết ơn cụ.
Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh Sơn. Nằm lại đây còn một bộ hài cốt, gia
đình người ta cũng sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không còn gì. Nhờ bác
Điển hương khói cho vong hồn chị. Chị ấy sẽ phù hộ cho bác. Hồi đi hoạt động
cách mạng, chị lấy tên là Nguyễn Thị Bê nhưng tên thật của chị là Nguyễn Thị út.
(Mấy người trong làng đứng xem chợt ồ lên: Ôi! Bà út. Thế mà con cháu cứ tìm
kiếm mãi). Nhờ bác Điển đem mâm lễ phát lộc cho các cháu”.
Mặt trời khuất hẳn sau luỹ tre ven sông thì công việc thu vét hài cốt cũng xong.
Mọi người vây quanh gốc cây vải, nơi đặt bàn thờ tạm. Bích Hằng bảo: “Suốt ngày
cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó. Buổi chiều, bác Nghĩa cũng ngồi ở đó ôm
lấy tấm ảnh cô Khang mà khóc. Cụ An và cụ Giám thì ngồi ở phía tường hoa”.
Trời nhọ mặt người, gia đình GS Trần Phương mới đưa hài cốt của cô Khang về
nhà. Hai ngày sau, lễ truy điệu người nữ du kích anh hùng Trần Thị Khang đã diễn
ra trọng thể tại nghĩa trang liệt sĩ của Huyện với sự có mặt của hơn 300 người gồm
các Ban, ngành, chính quyền, đoàn thể cùng đông đủ họ hàng nội ngoại. Người xúc
động nhất buổi hôm ấy, có lẽ là GS Trần Phương. Sau 24 ngày mò tìm trong bí ẩn,
nhiều lúc tưởng chừng như tuyệt vọng, cuối cùng, hài cốt của người em gái thân
yêu đã tìm thấy. Đó là một kết thúc có hậu. Đó cũng là hành trình đưa GS đến với
thế giới tâm linh đầy huyền hoặc với những khám phá bất ngờ, thú vị và cả những
day dứt, trăn trở
GS Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng chính phủ, hiệu trưởng trường Đại
học kinh doanh và công nghệ Hà Nội: “Hài cốt em tôi đã tìm thấy nhưng cách
thức tìm của các nhà ngoại cảm, với tôi, vẫn còn là bí ẩn. Khám phá ra bí ẩn
này, như tôi biết, không phải là điều dễ dàng gì. ở đây, tôi chỉ xin đề xuất một số
vấn đề để các nhà nghiên cứu xem xét:
1. Tôi có căn cứ để tin rằng: Tôi đã gặp linh hồn em Khang, anh Sơn, thậm chí, cả
linh hồn cụ Giám, cụ An, Bích Hằng đã nhận dạng được linh hồn qua tấm ảnh, đã
nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy, linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật
chất nào đó thì mới có hình thù và khả năng phát ra tiếng nói như vậy. Đã là một
dạng vật chất thì vật lý học, hoá học, sinh học, y học… với những phương tiện
quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Vậy các nhà khoa học Việt
Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?
2. Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn thể hiện những tình cảm vui buồn, ước
muốn, vẫn kể lại rành rọt, chính xác những việc đã qua, kể cả những sự việc sau
khi mình đã chết, vẫn theo dõi những việc mà người sống đang làm. Như vậy, linh
hồn đâu phải là vật thể vô tri vô giác mà là những vật thể sống, có tư duy và tình
cảm. Điều này, đặt ra một loạt câu hỏi: “Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới
của chúng ta đang sống không? Nó hoạt động như thế nào, tác động gì đến thế giới
của chúng ta? Linh hồn có mất đi hay tồn tại mãi?Người sống dâng cúng đồ lễ, tiền
vàng là đúng hay nhảm nhí? Tìm lời giải cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào
suy luận thì sẽ dẫn đến những cuộc tranh cãi bất tận. Vấn đề mấu chốt là phải
chứng minh.
3. Hầu hết mọi người đều không nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh
hồn. Ngoại trừ một số hiếm hoi là các nhà ngoại cảm. Vậy khả năng đặc biệt ấy là
do cấu tạo sinh lý?
4. Để nghiên cứu lĩnh vực này, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
đã lập ra Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người (Bộ môn cận tâm lý). Song
quyền hạn, phương tiện nghiên cứu, tài chính hoạt động còn hạn hẹp. Nên chăng,
thành lập một viện nghiên cứu có sự hỗ trợ về kinh phí của nhà nước, có sự quyên
góp tự nguyện của những người quan tâm? Nếu nghiên cứu thành công không
những có ý nghĩa nhân văn mà còn giúp ích nhiều mặt, kể cả về mặt điều tra hình
sự (nếu vong hồn người bị giết nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?).
5. Trong khi chờ đợi kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, cần có những chính
sách, chế độ ưu đãi cho các nhà ngoại cảm để họ có thể phát huy cao hơn nữa khả
năng đặc biệt vào việc tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ, thoả lòng mong ước của hàng
chục vạn gia đình. Tránh những lời bổ báng vội vã, tránh vơ đũa cả nắm giữa các
nhà ngoại cảm có khả năng thực sự với những kẻ buôn thần bán thánh, lợi dụng mê
tín dị đoạn để loè bịp, trục lợi.
* Trong bài viết này, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu của gia đình GS Trần
Phương
Kỳ 14: HÀNH TRÌNH TÌM MỘ CHỊ GÁI CỦA GIA ĐÌNH TƯỚNG TRẦN
ĐỘ
“Bác Câu tôi hy sinh được 13 năm, tôi mới cất tiếng khóc chào đời. Nhưng hình
ảnh của bác, cuộc đời hoạt động cách mạng đầy chông gai và cả cái chết đầy
thương cảm của bác vẫn mãi sống trong tâm trí tôi qua lời kể của bà, của cha.
Tôi vẫn nhớ như in hồi còn nhỏ ở với bà, vào những đêm trăng sáng, bà thường
kể cho tôi nghe về bác Câu. Có những chuyện, bà kể đi kể lại nhiều lần như một
niềm thôi thúc. Và lần nào cũng thế, câu chuyện đều bị bỏ giữa chừng vì tiếng
khóc tắc nghẹn của bà. Bà vừa nghẹn ngào khóc, vừa xót xa kể lể: Bác Câu tôi
từ lúc sống cho đến lúc chết, chưa một ngày được an nhàn, sung sướng. Mới tẹo
tuổi đầu đã phải lam làm suốt ngày để giúp mẹ nuôi các em. Lớn lên đi theo
cách mạng rồi biền biệt không về. Rồi tù đày, bị đánh đập, tra tấn dã man. Đến
lúc chết cũng cô độc một mình trong tù. Mồ mả mất tích nơi nào chẳng ai rõ.
Khổ thân bác, không chồng con, chẳng ai hương khói. Tiếng khóc tắc nghẹn
của bà khiến tôi cũng sụt sùi khóc theo. Nghĩ mà thương bà, xót thương cho bác
Câu quá. Tôi an ủi bà: “Bà ơi! Bà đừng khóc nữa. Sau này lớn lên, cháu sẽ đi
tìm mộ bác Câu về cho bà”. Thế mà, cũng phải ngót 50 năm sau, lời hứa ấy, tôi
mới thực hiện được”. Câu chuyện về hành trình đi tìm mộ nữ liệt sĩ Tạ Thị Câu
được bắt đầu bằng những dòng hồi ức buồn, đầy tâm trạng của ông Trần Toàn
Thắng, con trai cả của tướng Trần Độ.

Di ảnh LS Tạ Thị Câu


Bà nội tôi sinh hạ được 4 người con. Cha tôi, tướng Trần Độ (tên thật là Tạ Ngọc
Phách – PV), thứ 3. Chị thứ hai giáp cha tôi là bác Tạ Thị Câu. Cô Tạ Thị Xuyến
là út. Ông nội mất sớm, bà ở vậy, một nách nuôi 4 con. Bác Câu hơn cha tôi 4 tuổi,
thường đi buôn bán các chợ xa phụ giúp bà. Bác Câu yêu quý cha tôi lắm, thường
mua quà và kèm cặp cha học hành. Bác hay khoe với bạn bè về cha với một niềm
tự hào rất lớn. Ngay từ năm 17 tuổi, khi phong trào dân chủ vừa nổ ra, bác đã tham
gia hoạt động cách mạng. Cho đến năm 1939, bác đã là Tỉnh uỷ viên tỉnh Thái
Bình. Chính bác là người đã dìu dắt cha tôi đến với cách mạng, trực tiếp thử thách,
khuyến khích rồi giới thiệu cha tôi vào Đảng. Năm 1940, ở làng tôi (thôn Thư
Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải, Thái Bình) nổ ra cuộc mít tinh ở cánh đồng
Đông Lang. Bị lính phủ và tuần phiên khủng bố đẫm máu, Bác Câu và cha tôi nửa
đêm vượt cánh đồng đi làm cách mạng chuyên nghiệp. Nghe đâu, bác làm việc cho
xứ uỷ Bắc Kỳ nhưng cụ thể làm gì thì tôi không được rõ.
Năm 1941, cha tôi bị giặc bắt, chịu án 15 năm tù rồi bị đày lên Sơn La. Cũng thời
gian đó, bác Câu bị bắt. Giặc giam bác ở nhà tù Hoả Lò cùng với nhiều chiến sĩ
kiên trung, trong đó có bác Nguyễn Thị Minh Thái (Vợ trước của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp), bác Trương Thị Mỹ (sau là chủ tịch liên đoàn lao động Việt Nam)
và bà Nguyễn Thị Hằng (sau này lấy cha tôi). Trong suốt mấy năm trời, hai chị em
vẫn thường xuyên liên lạc thư từ. Và bác Câu, vẫn là người chị thảo hiền, yêu em
hết mực, thỉnh thoảng vẫn gửi quà và xé áo của mình khâu những chiếc khăn gửi
lên cho cha để chống trọi với cái giá lạnh miền sơn cước. Thế rồi, năm 1944, trên
đường bị giặc giải từ Sơn La về Hoả Lò (Hà Nội) để đầy đi Côn Đảo, cha tôi được
Chi bộ nhà tù tổ chức cho trốn thoát. Từ đấy, hai chị em bặt tin nhau. Sau này, cha
tôi nghe mọi người kể lại, bác Câu bị ốm chết trong nhà tù Hoả Lò. Giấy báo tử
của chính quyền Pháp gửi cho bà nội tôi ghi: bác mất ngày 29 tháng 9 năm 1944.
Cái chết của bác khiến cả nhà khóc thương, nhất là cha tôi. Ông xót xa bảo: Nếu
bác Câu sống thêm mấy tháng nữa, bác sẽ được chứng kiến ngày cách mạng thành
công. Bác chết trẻ quá, 25 tuổi đầu, hình như trong đời chưa một lần được yêu.
Càng xót xa hơn khi không biết hài cốt bác giặc chôn ở nơi nào?
Chưa kịp đi tìm mộ bác thì cả nước lại bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến
chống Pháp, bụi trường chinh cuốn cha đi. Thỉnh thoảng, cha về, cả nhà lại sụt sùi
khóc nhớ thương bác. Cha bảo: “Bác Câu bị ốm đau chết trong tù, chắc là Pháp
chôn qua quýt ở đâu đó. Rất có thể là ở khu vực trường bắn của Pháp ở Hoàng
Mai, nơi bác Hoàng Văn Thụ bị bắn”. Sau này, vào đầu những năm 90 của thế kỷ
20, khi những thông tin về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của các nhà ngoại cảm Việt
Nam đăng rầm rộ trên các báo, đài, nhất là khi được nghe Giáo sư Trần Phương kể
tường tận hành trình đi tìm mộ người em gái vốn là đội trưởng đội nữ du kích
Hoàng Ngân, cha tôi và cả gia đình mới loé lên hy vọng tìm thấy mộ bác Câu. Tôi
nhớ, khoảng năm 1997, qua một người quen giới thiệu, cha tôi đã liên lạc được với
nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, người đang nổi tiếng với việc chỉ dẫn tìm kiếm
hàng ngàn hài cốt liệt sĩ. Qua điện thoại, cha tôi nói: “Tôi có một người chị gái bị
tù ở Hoả Lò rồi ốm chết trước cách mạng tháng Tám. Không biết bây giờ mộ ở
đâu?”. Anh Liên bảo: “Còn mộ đấy, có thể tìm được. Ông đứng trước cửa Hoả Lò,
chiếu thẳng về hướng Nam, cách khoảng 2 km, mộ sẽ nằm ở đó. Nhưng tôi sợ bây
giờ nhà cửa của dân xây san sát như thế, mộ nằm phía dưới sẽ rất khó tìm đấy”.
Cha tôi đối chiếu bản đồ, thấy rõ khu vực ông Liên chỉ là vùng Bạch Mai, Hoàng
Mai bây giờ. Cha tôi sực nhớ đến thiếu tướng Chu Phác, người đồng đội cũ, hiện là
Chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người).

Thiếu tướng Chu Phác


Ông quen biết khá nhiều nhà ngoại cảm nổi tiếng như Nguyễn Văn Liên, Phan Thị
Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thuý Hoàn, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn
Văn Nhã, Nguyễn Thị Phương. Cha tôi liền tìm đến thiếu tướng nhờ giúp đỡ. Ông
vui vẻ nhận lời và lên kế hoạch tìm mộ gồm 2 bước:
Bước một, nhờ một số nhà ngoại cảm, hoạt động độc lập, bằng khả năng đặc biệt,
rất riêng của mình, thu nhận thông tin về bác Câu. Sau đó, sẽ đối chiếu các thông
tin ấy với nhau, tìm ra một đáp số chung nhất.
Bước hai, từ đáp số chung ấy sẽ tiến hành làm các thủ tục khai quật. Khi khai quật
vẫn phải có sự tham gia của các nhà ngoại cảm trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện
thoại), theo dõi, hướng dẫn và điều chỉnh cho đến khi tìm được hài cốt.
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, thiếu tướng Chu Phác cùng nhà ngoại cảm Nguyễn
Khắc Bảy đến nhà tôi ở Trần Hưng Đạo (Hà Nội). Anh Bảy ngồi đối diện với cha
tôi, chăm chú nhìn vào trán ông, miệng hỏi, tay vẽ sơ đồ. Anh Bảy cho biết: Mộ
bác Câu tôi hiện vẫn còn, nằm gần mộ ông Hoàng Văn Thụ, trong vùng bãi bắn
Hoàng Mai. Mộ bác ở cạnh một vũng nước, trong khu vực có nhiều mộ. Có những
bộ hài cốt đã chuyển đi. Khu vực này có những công trình kiến trúc lớn như đình,
chùa, trường học, xưởng máy. Đường xá vào đó khá ngoằn ngoèo.
Ngày 25 tháng 11 năm 2000, thiếu tướng Chu Phác lại dẫn một nhà ngoại cảm
khác là Nguyễn Mạnh Hùng đến gặp cha tôi.

Nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng


Anh Hùng sinh ngày 15 tháng 6 năm 1959 trong một gia đình làm nghề đông y lâu
đời ở 35 phố Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội). Anh đã từng tốt nghiệp trường
trung cấp y học Tuệ Tĩnh, có tay nghề bốc thuốc. Được ông cha truyền thủ thuật
bắt mạch bệnh nhân, đặc biệt là bắt mạch thái tố, Dương Mạnh Hùng thấy dần hình
thành trong mình khả năng ngoại cảm. Qua việc đặt 3 ngón tay lên mạch ở cổ tay
đối tượng, Hùng có thể thấy một phần quá khứ, hiện tại và tương lai của họ, thấy
một số điều về tổ tiên, cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái, thấy địa hình, địa vật
nơi mồ mả cần tìm Với cha tôi, anh cũng làm vậy. Bắt mạch thái tố cho cha tôi,
anh hỏi: “Trong nhà bác có người phụ nữ nào chết từ lúc còn rất trẻ không?”. Cha
tôi trả lời: “Có anh ạ! Đó là bà chị tôi. Hiện tôi đang muốn tìm mộ chị ấy”. Cha tôi
vừa nói dứt lời, anh Hùng đã nhìn xoáy vào góc phòng, miệng lẩm bẩm: “Đã xuất
hiện rồi”. Cha tôi sốt sắng hỏi: “Anh nói cái gì. Ai xuất hiện cơ ạ?”. Anh Hùng vẫn
khẽ khàng: “Chị gái bác ấy”. Nói đoạn, anh bảo cha tôi đưa cho tờ giấy trắng và
cái bút rồi phác thảo ngay một khuôn mặt phụ nữ. Cha tôi nhìn, giật mình thấy
khuôn mặt trong giấy giống chị Câu như đúc. Từ đấy, anh Hùng cứ nắm chặt lấy
cổ tay cha tôi, mắt nhìn chăm chú vào góc phòng và bắt đầu trò chuyện. Cha tôi
muốn rút tay ra nhưng anh Hùng bảo: “Cháu rời tay bác ra là bà ấy biến mất ngay”.
Anh Hùng cứ thủ thỉ trò chuyện như thể bác Câu tôi đang đứng ngay trước mặt
anh. Cuộc nói chuyện khá dài, tôi không nhớ hết. Tóm tắt những thông tin thu
được là: Bà Câu là một người con gái trẻ đẹp, to cao, bị ốm phù nề rồi chết. Mộ
bây giờ ở một nơi giống bãi tha ma. Muốn đi tới đó, phải qua những con đường
ngoằn ngoèo có tên là Bạch Mai, Trương Định, Hoàng Mai. Mộ ở gần một ngôi
chùa và đình, gần một hàng nước mà ông chủ hàng là một ông già độ 60 tuổi tên
Trúc có bà vợ tên Thu. Vong bà Câu hay về nhà ông Trúc. Dân quanh vùng làm
nghề đậu phụ, gần một cái chợ. Gần mộ bà Câu có một cây hoa râm bụt đỏ, một
cây hoa trinh nữ trắng, cạnh một bãi phẳng như sân bóng. Bà Câu chết vào năm
Giáp Thân (1944), vào mùa thu, tháng 8, đêm 26 rạng ngày 27 âm lịch. Cứ như trí
nhớ của mẹ tôi (bà Nguyễn Thị Hằng – PV), người đã ở tù cùng bác Câu thì một
buổi sáng, mẹ đến làm vệ sinh cho bác đã thấy bác nằm chết cứng. Có thể, bác chết
lúc gần sáng. Bác chết năm trước thì năm sau Nhật đảo chính Pháp. Vì thế, mẹ cứ
tiếc bác Câu tôi không sống thêm mấy tháng để trốn khỏi nhà tù. Năm sau là năm
1945, vậy năm trước đúng là năm 1944 (Giáp Thân).
Anh Hùng cho biết thêm: Hài cốt của bác Câu còn có một chứng tích, đó là hàm
răng đen của bác bị gãy mất một cái. Bác đồng ý cho gia đình tôi bốc hài cốt bác
đưa về quê. Anh Hùng hai lần hỏi bác câu này và cả hai lần, bác Câu gật đầu.
Trong suốt hai ngày, 26 và 27 tháng 11 năm 2000, thiếu tướng Chu Phác đã đưa 3
nhà ngoại cảm là Nguyễn Khắc Bảy, Dương Mạnh Hùng và Thẩm Thuý Hoàn đi
thực địa. Họ đến làng Hoàng Mai, tìm đến chùa Nga My và ngôi đình làng, nơi thờ
tướng quân Trần Khát Chân, ra khu vực nghi ngờ có mộ bác Câu tôi. Điều kỳ lạ là
tất cả những gì hiện hữu trước mặt lúc ấy đều trùng khớp với những thông tin mà
các nhà ngoại cảm cung cấp từ trước. Đình, chùa, bãi đất phẳng như sân bóng, một
khu đất trống rộng chừng mấy chục m2 có rất nhiều mộ. Mộ bác Câu tôi nằm bên
cạnh một vũng nước, cách cây hoa đại trắng chừng 3-4m. Cây đại cao hơn bức
tường bao quanh, cạnh một bụi cỏ khô mọc trên một chiếc thùng phuy đã hoen rỉ.
Mộ chỉ là một mô đất cao độ 10 -20 cm, bên cạnh con đường xi măng nhỏ, phía
sau đình và gần chùa. Nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn còn cung cấp thêm thông
tin: mộ bác Câu nằm chếch, đầu gối vào cột trụ, bị cột trụ đè lên một ít, chân
hướng về phía đường đi.
Cũng trong ngày 26 tháng 11, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã có cuộc gọi
hồn bác Câu tôi tại văn phòng của Bộ môn cận tâm lý ở 46 Nguyễn Văn Ngọc (Hà
Nội). Thông tin Bích Hằng nhận được là: Đến làng Hoàng Mai hỏi chùa Nga My,
cách một khu vườn vài chục mét. Mộ nằm ở nơi đất bằng phẳng, cạnh gốc cây
chuối gần chùa Nga My và đền thờ Trần Khát Chân. Có cây hoa đại, mộ nhìn lên
hàng rào dây thép gai ở đầu nhà dân. Bác Câu mặt bị sưng to và nằm nghiêng, sâu
độ 70 -90cm. Mộ không có tiểu, khi đào phải cẩn thận.
Như vậy, các thông tin mà các nhà ngoại cảm thu nhận được về phần mộ bác Câu
tôi khá đầy đủ, chi tiết. Điều đặc biệt là tuy các nhà ngoại cảm làm việc độc lập với
nhau song các tín hiệu đưa ra có nhiều điểm trùng hợp. Điều đó khiến cả nhà tôi
vui mừng và tràn đầy hy vọng, nhất là cha tôi. Ngày 13 tháng 12 năm 2000, cha tôi
điện thoại vào thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu tôi thu xếp công việc ra Hà Nội để
thay cha tìm mộ bác. Cha tôi lúc này đã 78 tuổi, lại đang vào giai đoạn cuối của
bệnh tiểu đường nên sức khoẻ sa sút trầm trọng. Tôi là con trưởng, lại sẵn tình cảm
xót thương bác Câu nên nhanh chóng sắp xếp hành lý ra Hà Nội ngay. Trước khi
lên máy bay, thiếu tướng Chu Phác có điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi liên lạc với
nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã ở thành phố Hồ Chí Minh.

Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã


Qua điện thoại, anh Nhã cung cấp thông tin:
– Vị trí mộ đúng như các nhà ngoại cảm ở Hà Nội đã xác định.
– Cách mộ hơn 3m về phía tây có một cây hoa đại trắng cao hơn 3m.
– Cách mộ chừng 1,5m có bụi cỏ khô cao hơn 1m.
– Trên mộ có 3 mảnh thuỷ tinh hoặc sành lấp lánh.
– Mộ gần vũng nước.
– Năm ngày nữa anh đến, cách mộ mấy mét có con gà trống kiếm ăn ở đó.
Kỳ 15: TRỞ VỀ QUÊ MẸ

Bà Tạ Thị Xuyến, em gái LS Câu bên bàn thờ chị gái


Đặt chân đến Hà Nội hôm trước, ngày hôm sau, tôi xuống thẳng Hoàng Mai để
khảo sát địa hình, đồng thời, để kiểm chứng tính xác thực của những thông tin mà
các nhà ngoại cảm Bích Hằng, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thúy
Hoàn, Nguyễn Văn Nhã… cung cấp. Tôi thấy mộ bác Câu tôi là một mô đất đen,
nằm cạnh con đường xi măng nhỏ, gần một vũng nước dài đến 2m, rộng chừng
1m. Mộ nằm trong khoảnh đất trống rộng độ 30m2, xung quanh là nhà dân với
tường bao quanh che kín hết. Muốn ra mộ, tôi phải đi qua nhà chị Ngà. Gia đình
chị ở đây đã lâu nên quá quen thuộc với các cuộc tìm kiếm, bốc mộ. Chị đã cho tôi
nhiều lời khuyên bổ ích. Quan sát kỹ, tôi thấy cái khoảnh đất mấy chục mét vuông
này còn rất nhiều ngôi mộ khác, trong đó, có chừng 10 ngôi đã dựng bia. Bất chợt,
mắt tôi bị hút vào ngọn cây đại nhô lên từ bức tường hướng tây, cách mộ bác Câu
hơn 3m. Tôi thấy cả lùm cỏ khô ở trên cao hơn 1m vì lùm cỏ này mọc trên một cái
ống xi măng dựng đứng. Điều đặc biệt là ngày 18 tháng 12 năm 2000, tức là đúng
5 ngày sau cuộc điện đàm với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, tôi cùng thiếu
tướng Chu Phác xuống thực địa lần nữa thì bất ngờ gặp một con gà trống mào đỏ
au đang tha thẩn đào bới kiếm mồi ở gần mộ bác Câu. Kỳ lạ hơn nữa khi chị Ngà
cho biết, con gà này là của chị, vốn thường ngày chị nhốt ở trong chuồng. Nhưng
không hiểu sao, sáng nay đã bảnh mắt rồi mà nó cứ đập cánh gáy ran rồi lồng lộn
trong chuồng. Bực mình, chị mở cửa chuồng cho nó ra đúng lúc tôi và thiếu tướng
Chu Phác đến. Tôi vô cùng ngạc nhiên về chuyện này. Điều đó càng khẳng định
thêm độ chính xác cho thông tin của anh Nhã.
Đến lúc này, gia đình tôi xác định với thiếu tướng Chu Phác: vị trí mộ bác Câu
chính xác đến hơn 90% rồi. Tất cả những thông tin của các nhà ngoại cảm về địa
hình, địa vật, đường dẫn đến ngôi mộ hầu hết trùng khớp, tuy cách diễn đạt có
khác nhau và có đôi chút sai lệch. Cần phải tổ chức bốc mộ sớm vì đã năm cùng
tháng tận, vả lại, tôi cũng không thể ở Hà Nội lâu được. Sau khi cân nhắc kỹ, gia
đình tôi quyết định chọn ngày 27 tháng 12 (tức mồng 2 tháng chạp) sẽ tiến hành
khai quật mộ bác Câu.
Chờ đợi 9 ngày trời mà sao tôi thấy dài đằng đẵng như 9 năm. Để khỏi sốt ruột, gia
đình tôi về quê làm việc với huyện Tiền Hải, đào và xây sẵn mộ trong nghĩa trang
liệt sĩ của huyện, chuẩn bị cho lễ truy điệu bác Câu. Cuối cùng, ngày 27 cũng đến.
Tôi vẫn nhớ, trời hôm đó tuy cuối đông nhưng rất ấm áp, nắng vàng như mật. Cả
gia đình tôi kéo xuống làng Hoàng Mai. Cha tôi tuy đau yếu cũng cố đi. Cha muốn
tận tay thắp hương và khấn người chị yêu quý của mình. Những thủ tục tâm linh
cần thiết đều làm trọn vẹn. Đúng 9 giờ sáng, những nhát cuốc đầu tiên bập vào ụ
đất thấp lè xè bên đường. Bỗng dưng tôi thấy hoang mang lạ. Vì lúc này, không có
một nhà ngoại cảm nào bên cạnh chúng tôi. Bích Hằng thì đang ở tít tận Tây
Nguyên. Các nhà ngoại cảm khác, người thì bận đi học, người thì đi công tác. Tìm
hiểu về các vụ tìm mộ trước đó, tôi biết, không phải trường hợp nào cũng tìm thấy
hài cốt. Bởi khi đào thực địa, có thể có những sai lệch. Biết đâu, trường hợp bác
Câu tôi cũng thế thì sao?
Đào bới chừng hơn một tiếng đồng hồ thì tốp thợ buộc phải dừng lại vì mặt trời đã
lên gần đến đỉnh đầu, ánh nắng quá rực rỡ sợ làm tổn thương hài cốt. Chờ đến tận
4 giờ chiều, công việc khai quật mới lại tiếp tục. Hố đào sâu chừng 70 cm rồi mà
vẫn chưa thấy dấu tích gì. Nước mạch tràn vào ào ạt khiến tốp thợ phải hì hục vừa
đào vừa tát. Thiếu tướng Chu Phác vội điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn
Nhã. Từ thành phố Hồ Chí Minh, anh Nhã chỉ dẫn:
– Đào sâu thêm 60 – 70 cm nữa.
– Đào chếch về phía người thợ mặc áo xanh nhạt.
– Đào về phía rãnh nước.
Anh Nhã còn nhắc nhở cần phải khấn các vong linh xung quanh đó phù hộ cho bớt
nước ở các mạch tràn vào huyệt. Tôi vội vàng thắp hương khấn vái. Và kỳ lạ thay,
chừng 10 phút sau, lượng nước chảy giảm hẳn, công việc đào bới trở nên thuận lợi
rất nhiều.
Cũng qua điện thoại, nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn chỉ dẫn thêm:
– Đào về phía rãnh nước.
– Đào sâu đến 2m.
– Đào vuông thành sắc cạnh, đừng đào lòng chảo.
Thực hiện đúng như chỉ dẫn, tốp thợ đào miết đến 21h 30, độ sâu chừng 2m thì
lưỡi xẻng chạm vào một cái tiểu sành. Tôi càng hoang mang. Vì trước đó, không
một nhà ngoại cảm nào nói bác tôi nằm trong tiểu. Bích Hằng chỉ nói bác tôi chết
trong tình trạng người bị phù, chôn trong tư thế nằm nghiêng. Các nhà ngoại cảm
khác, người thì nói bác tôi được chôn trong hòm gỗ, người thì bảo không có hòm.
Cha tôi còn hoang mang hơn. Ông suy luận: khoảng những năm 1940, thân phận
một người tù, hơn thế, một người tù cộng sản như bác tôi, không thể được chôn cất
chu đáo, tử tế như thế. Cùng lắm thì được chôn trong chiếc quan tài bằng gỗ tạp,
còn thường thì bó chiếu. Bởi vậy, cha tôi nghĩ, hài cốt bác Câu chỉ là những mẩu
xương nằm lẫn trong bùn đất đen. Khi tìm thấy, phải nhặt kỹ càng cho bằng hết.
Bỗng dưng tôi sực nhớ đến lời anh Nhã nói qua điện thoại hôm tôi ở sân bay chuẩn
bị ra Hà Nội: “Tôi linh cảm thấy hài cốt của bác Câu còn nguyên vẹn vì tín hiệu
phát ra mạnh lắm. Chính vì tín hiệu mạnh này mà nhiều nhà ngoại cảm đều có thể
tìm thấy mộ”. Tôi vội vàng điện thoại ngay cho anh Nhã, thông báo đã chạm tiểu.
Anh bảo: “Đúng là hài cốt của bác Câu rồi. Trước đây, có một gia đình đã đào để
tìm mộ nhưng thấy nhầm lẫn nên họ đã đưa hài cốt bác Câu vào tiểu và chôn cất lại
cẩn thận. Đó là nghĩa cử thường thấy ở nhiều địa phương”. Những người dân xung
quanh đứng xem từ chiều cũng khẳng định: ở khu đất trống này do có nhiều mộ
nên chuyện đào nhầm thường xảy ra. Và để tạ lỗi với người đã khuất, bao giờ khổ
chủ cũng đưa hài cốt vào tiểu sành chôn lại tử tế. Trường hợp bác Câu không phải
là cá biệt.
Mộ phần LS Tạ Thị Câu tại quê nhà
Chiếc tiểu đựng hài cốt bác Câu tôi có tuổi thọ khá tốt. Vùi sâu dưới lòng đất mấy
chục năm rồi mà thành tiểu vẫn rắn như đanh. Khi mở nắp tiểu, tôi đã bật khóc vì
xúc động và sung sướng khi thấy hài cốt của bác gần như còn nguyên vẹn. Xương
sọ còn nguyên. Những người thợ đào nhận xét: xương chân tay to thế này chứng tỏ
người mất rất cao lớn. Cha tôi gật đầu xác nhận. Và khi đưa ảnh của bác Câu cho
họ xem để đối chiếu với xương sọ, họ bảo rất khớp. Đây đúng là mộ bác Câu.
Riêng tôi, có một bằng chứng khiến tôi hoàn toàn tin tưởng đây chính là hài cốt
của người bác ruột mình. Đó là hai hàm răng đen gần như còn nguyên vẹn, chỉ
thiếu duy nhất một chiếc, đúng như tín hiệu mà nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng
đã cung cấp.
22h30, việc chuyển hài cốt bác tôi sang tiểu mới, có rửa nước thơm, ướp trà thơm,
bọc trong vải đỏ đã xong. Tôi và Quang, người em ruột vội về nhà lấy ảnh, bia
khắc sẵn và bát hương rồi ngay đêm hôm ấy, đưa bác tôi về Tây Giang, huyện Tiền
Hải, tỉnh Thái Bình, về chính mảnh đất mà bác tôi đã sinh ra và lớn lên. Ngày 28
tháng 12 năm 2000, lễ truy điệu bác tôi được cử hành trọng thể và hài cốt được đưa
vào yên nghỉ tại nghĩa trang của huyện, chấm dứt 56 năm bơ vơ nơi đất khách quê
người.
H.A.S
Ông Trần Toàn Thắng: Qua hành trình tìm mộ liệt sĩ Tạ Thị Câu, tôi thấy khả
năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là có thật. Tuy nhiên, các thông tin họ đưa
ra, không thể lúc nào cũng chính xác 100%. Vì sự thu nhận của họ (trông thấy và
nghe thấy) có nhiều yếu tố thời gian và không gian tác động. Bởi vậy, Bộ môn cận
tâm lý đã có một cách làm rất khoa học, đó là lựa chọn các thông tin trùng khớp
nhau của nhiều nhà ngoại cảm để tìm ra những thông tin gần với sự thật nhất.
Việc làm của họ có ý nghĩa rất lớn, giúp bao gia đình xoa dịu nỗi đau vì mất người
thân. Tôi thấy đó là những năng lực lớn. Tôi ủng hộ họ và ủng hộ cách làm có tính
khoa học dựa vào các tiềm năng con người vì con người.
Kỳ 16: Cuộc trò chuyện đặc biệt giữa nhà báo Hoàng Anh Sướng và nhà văn
hoá tâm linh Phan Oanh xung quanh những vấn đề về thế giới tâm linh:
“ĐI ĐÂU TÔI CŨNG CHỈ XIN CHO DÂN VIỆT NAM SÁNG ĐẠO”
Kỳ 16: Trò chuyện cùng nhà văn hoá tâm linh Phan Oanh:
“ĐI ĐÂU TÔI CŨNG CHỈ XIN CHO DÂN VIỆT NAM SÁNG ĐẠO”
Nhà báo Hoàng Anh Sướng thực hiện

“Chúng ta phải rà soát lại toàn bộ phong thuỷ của Việt Nam. Đó là đất đai, sông
núi. Chúng ta phải xem tất cả những đại huyệt ấy, đại huyệt nào tắc, huyệt nào
bị yểm, huyệt nào chưa thông, bị phá, chỗ nào phải phục long, đảo long, khai
long…”
Tôi gọi bà là nhà văn hoá tâm linh không chỉ bởi bề dày 25 năm hoạt động, cống
hiến cho đời sống tâm linh nước nhà mà còn bởi những chiêm nghiệm, đúc kết,
kiến giải đầy sức thuyết phục của bà về thế giới tâm linh đầy huyền bí. Nguyên là
giáo viên dạy triết học ở Hà Nội, có khả năng ngoại cảm sau một cơn đột biến, bà
là một trong những nhà tâm linh đầu tiên hoạt động ở Hà Nội. Cuộc trò chuyện
với bà kéo dài gần 5 tiếng đồng hồ trong một buổi chiều mùa hạ mưa dầm sùi sụt
về hiện tượng “bùng nổ” các nhà ngoại cảm, về nhu cầu bức xúc thời hậu chiến:
đi tìm hài cốt liệt sĩ, về “cơn sốt” lễ bái cầu cúng đền chùa hiện nay và cả chữ
“Đạo” mà người đời đang hiểu sai lệch đã gây cho chúng tôi rất nhiều bất ngờ và
hứng thú. Tính thuyết phục trong cách nhìn, cách kiến giải của bà có lẽ lấp lánh
bởi cái nhìn sâu sắc của một người thấm nhuần triết học, sự trải nghiệm của một
người đã bước qua tuổi “tri thiên mệnh” và trên hết bởi chính những nếm trải của
người trong cuộc đã… 25 năm làm tâm linh..
P.V: 25 năm hoạt động trong lĩnh vực tâm linh, có bao giờ bà dừng nhịp để ngẫm
về những điều mình đang làm?
Bà Phan Oanh: Có chứ. Ngay từ những ngày đầu bùng nổ về khả năng ngoại cảm,
tôi đã ngộ ra một điều: Khó nhất ở trên đời là sống ở dương phải làm việc
âm. Không biết lấy cái gì để mà đo. Những người làm việc âm tìm ra được một cái
thước chuẩn để đo là một công việc không dễ chút nào. Tìm hoài, tìm mãi, tìm ở
đâu? Cuối cùng, tìm ngay trong ta chứ không phải ở đâu xa lạ. Bởi nó chứa đựng
tất cả. Những cái gì tinh tuý nhất, ô trọc nhất, quỷ quái nhất đều tồn tại trong con
người ta. Cho nên khi thực hành tâm linh, điều quan trọng nhất là tâm pháp. Và cái
cao nhất cũng là tâm pháp. Ví như Bùa ngải xứ Mường mà tôi đã có dịp đọc trên
Tạp chí Thế Giới Mới mà anh là tác giả. Bùa ngải không có tội, chỉ có người thực
hành phương pháp này sinh công hay sinh tội mà thôi. Bản thân nó rất vô ngã. Và
nếu như cái nghiệp nhà anh mà nó hợp với cái pháp này thì cái duyên pháp ấy nó
hợp nhau để tạo nên một sự lợi lạc. Và chính cái bùa ngải này là hóa giải, là
chuyển nghiệp. Vậy thì muốn chuyển nghiệp có ngàn vạn cách. Nhà Phật có tám
vạn bốn ngàn pháp môn cơ mà. Nhưng tại sao anh chọn một pháp tu, anh lại bảo
chỉ pháp tu anh mới đúng còn pháp kia là sai, là xấu, là lệch. Cái đó là do nhận
thức của chúng ta quá chật hẹp.
PV: Bà quan niệm thế nào về chữ Đạo? Và những người làm tâm linh như bà có
cần có Đạo không?
Bà Phan Oanh: Tôi có một quan niệm thế này: Đạo xếp đường tròn. Và nếu trên
hành tinh chúng ta có 7 – 8 tỷ người thì cái hành tinh tưởng là to, vĩ đại nhưng so
trong thiên hà nó mảnh mai, bé xíu, chứa đựng 7 – 8 tỷ người sẽ có một đường tròn
khổng lồ cho 8 tỷ chỗ đứng. Và mỗi người chỉ được đứng một vị thế trên cái
đường tròn khổng lồ ấy, không ai tranh của ai. Vì vậy, tôi rất muốn mọi người khi
có nhân duyên để làm công việc tâm linh thì phải xích lại gần nhau. Hội được cái
tâm, chụm đầu vào nhau mà phát huy hết sức mạnh. Tôi cho đó là những quà tặng
mà hồn thiêng của trời đất, của sông núi, của liệt tổ liệt tông trao tặng. Và ai đó có
duyên lành từ kiếp trước và ngàn vạn những mối nhân duyên nữa được tiếp nhận
cái này thì phải làm cho cái duyên đó toả sáng, làm lợi lạc cho chúng sinh. Có lần
tôi đã nói với nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Hằng ạ! Trời đất và liệt tổ liệt
tông ban cho Hằng một bảo bối để Hằng đi tìm mộ. Và cái bảo bối này sẽ giải
quyết được một nhu cầu bức xúc vô cùng sau chiến tranh. Hằng phải sử dụng bảo
bối này với cái tâm phải sáng, đức phải rộng. Nếu như tâm mà mỏng, đức mà sơ,
không may thiên nhiên trời đất thu lại, cô cháu mình sẽ trở thành… “ông lão đánh
cá”. Cái lẽ hiển nhiên ấy, không phải ai làm tâm linh cũng hiểu được đâu. Họ cho
rằng khả năng ấy là của họ, cho nên cái tôi của họ đã lấn lướt.
Khi thành lập Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người (năm 1997), 3 buổi
chiều, ông Ngô Đạt Tam, giám đốc Trung tâm lên nhà tôi trao đổi, đàm đạo. Tôi
bảo với ông ấy rằng: “Anh Tam ạ! Cái mừng nhất là Trung tâm này ra đời, có
nghĩa là thông tin của tôi bắt được cách đây 15 năm (1982) là đúng. Rằng nó phải
là một ngành khoa học. Và nhà nước sẽ quan tâm đến. Bây giờ nhân danh một nhà
khoa học, tập hợp các nhà ngoại cảm, nếu như các anh không vững vàng về lý của
trời đất thì cái trung tâm ấy sẽ trở thành nơi các nhà ngoại cảm… tỷ thí tài năng.
Bởi vì tôi biết, trong cái môn này thì chả có ông nào bé cả. Thầy nào cũng là số
một.
P.V: Có một thực tế là dân ta hiện nay đổ xô đi lễ. Có lẽ chưa bao giờ, các đình,
chùa, miếu mạo lại đông con nhang đệ tử đến xì xụp khấn vái nhiều như bây giờ?
Đó phải chăng vì dân ta mộ Đạo? Đạo ở Việt Nam đang thịnh?
Bà Phan Oanh: Ngày 14 tháng 2 năm 1982, tôi bùng nổ hiện tượng này. Tôi nhận
được một thông tin: “Con ơi! Dân sính lễ là điềm suy xã tắc. Bao giờ dân giác ngộ
đạo mới là điềm thịnh của quốc gia. Ta báo cho con biết trước, từ 1985 trở đi,
những thành phố lớn, những người có học sẽ đua nhau đi lễ”. Càng ngẫm tôi càng
thấy đúng. Song lúc ấy, tôi cứ tự hỏi: “Tại sao sính lễ là điềm suy?. Mãi sau này tôi
mới hiểu được.
Ngạn ngữ dân tộc ta có câu: “Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu
chùa”. Có nghĩa: Thứ nhất tu tại gia không phải là lễ tại nhà. Đó là mối quan hệ
giữa người với người trong huyết tộc. Ví như cha mẹ tôi sinh hạ được 5 người con.
Nhưng bố mẹ nói: chỉ thích ở với cô Oanh thôi. Thì tôi nuôi mẹ, đó là nhân duyên,
cái lý của nhà Phật. Lúc khỏe cụ trông nhà cho tôi là duyên. Lúc ốm thì là nợ. Cụ ở
với tôi thì dứt khoát nhân tài, vật lực, công hạnh, bản thân tôi phải cống hiến 70%
còn bốn vị kia chỉ có 30% thôi. Nếu tôi ngộ đạo thì tôi làm bằng sự tự nguyện, tôi
được công đức. Đấy mới là tu. Còn nếu vô đạo, tôi sẽ bảo: Cụ đẻ ra được 5 người
chứ không phải mình tôi, các ông bà chia nhau đến để mà hầu cụ. Một ví dụ nữa.
Có một người bạn rất giỏi về mảng dự báo bảo: “Oanh ơi! Cẩn thận không năm
nay nhà Oanh mất xe đấy”. Và nếu như người dự báo ấy giỏi, tháng 10 tôi bị mất
xe thật. Nếu ngộ đạo, tôi sẽ nói với chồng: “Chắc nó vào chương trình rồi anh ạ!”
thì xe mất nhưng vợ chồng tôi không cãi nhau, tinh thần nhà tôi không nát. Và
tuyệt vời hơn nữa khi tôi nhận được một câu: “Thôi em ạ. Năm ngoái các cụ cho
mình 10 cái xe, năm nay mất 1 cái, yên tâm đi”. Đấy mới là tu. Chứ không phải
rằm, mồng một, con không đến chùa, con lễ ở nhà là tu tại gia.
Thứ hai tu chợ. Đó là mối quan hệ ngoài huyết tộc nhưng diễn ra sắc tục. Chị tử tế
chị đi chợ đoan trang. Bà nhẹ nhàng đi chợ ý nhị. Tôi tham, tôi mua một cái cải
bắp, bằng được tay nem tay chanh thêm cho bác củ hành. Qua hành vi mua bán bộc
lộ hết tính nết, bao nhiêu nọc độc có cơ lộ rõ. Đi đến công đường không nghĩ
chuyện làm chỉ nghĩ chuyện lật đổ. Trong khi đó, trong số mệnh mình, nếu mình
hiểu mình chỉ là quân xe thì làm sao mình lên tướng được. Vốn của mình nó thế,
nó phải thế. Phật nói rất rõ ràng, nó là nhân quả. Còn nếu hiểu, kiếp này mình rất
giỏi nhưng chỉ làm trợ lý, làm quân xe thì mình làm hoàn thành công việc của xe,
mình đã đắc đạo.
Thứ ba tu chùa. Có nghĩa là tu ở nhà cho tâm sáng, ứng xử ở ngoài cho đức rộng
thì anh đến chùa là báo công với người Mẹ thiên nhiên. Mà một là công, hai là
tội.
ở Việt Nam bây giờ, người hư đi lễ nhiều. Tôi cam đoan đánh đề ngày nào cũng đi
lễ. Cà phê bóng đá ngày nào cũng đi lễ. Chạy trốn pháp luật, buôn gian bán lận đi
lễ. Còn những người đổ mồ hôi sôi nước mắt, đầu tắt mặt tối làm quần quật thì
thời gian đâu mà đi lễ. Cho nên dân sính lễ là điềm suy xã tắc. Cho nên phải tốt từ
nhà, tốt đến xã hội con ơi mới đi lễ. Một câu đơn giản vô cùng mà tôi thấm thía.
Càng ngẫm càng hay, càng đúng.
Cho nên chữ đạo là một vòng tròn khép kín không đầu. Dân tộc Việt Nam có
câu “thứ ba tu chùa” nhưng lại có câu “Tiên học lễ”. Đấy là khởi đầu. Khởi đầu
chính là nó và kết thúc cũng chính là nó.
P.V: Nói như bà thì ở Việt Nam, dân ta đang thiếu Đạo?
Bà Phan Oanh: Đúng! Việt Nam thiếu Đạo. Đức, bây giờ chúng ta dạy đức quá
nhiều. Thế hệ chúng tôi trước đi học cũng vậy. Những tiết luân lý nhiều lắm.
Nhưng người ta dạy Đức mà không dạy Đạo. Cho nên lớn bé, già trẻ, đạo đức
cứ xuống cấp. Và cái buồn da diết là hễ khi nhắc đến chữ Đạo, người ta lại có
một khái niệm là: cậu này có đạo là nghĩ cậu hay đi lễ. Tệ hơn, người hay đi lễ
là xếp vào dạng kém hiểu biết. Theo tôi, nếu nói người ấy có Đạo, có nghĩa là:
Người ấy có văn hoá. Và hiện nay, chúng ta đang nhầm lẫn giữa tri thức với
văn hoá. Người tri thức bây giờ hơi đông nhưng người có văn hoá bây giờ hơi
hiếm.
Từ cái chữ Đạo, thước Đạo này, tôi mới giật mình, ông trời chỉ cho tôi cái thước
này, tôi mới đem mọi việc âm, dương soi vào đây, thấy sai nhiều quá. Cũng phải
sau 7 năm tôi tiếp nhận, thể hiện, 7 năm tôi tu, học, rèn, và đến năm thứ 7, tôi mới
đủ trí tuệ thắp một nén nhang thưa với trời đất rằng: Con lạy ngài, con xin khước
từ tất cả công danh sự nghiệp đời thường để con đổi lấy hai chữ… học trò. Vì sao?
Vì trong 7 năm ấy tôi thấm thía cái thước đo vô hình, đó là thước Đạo. 7 năm ấy
tôi thấm thía cái chúng ta bị thiếu hụt, đó là thiếu Đạo. Lạy Phật, đạo cao nhất và
đạo cần thiết nhất, đó là Đạo làm người. Làm người chưa xong thì làm sao
thành thánh, thành Phật, thành tiên được.
Tôi luôn nói với những người đến với tôi rằng, nếu như ai thích hiểu thì đến với
tôi, còn nếu ai thích biết (muốn biết mình sướng hay khổ?) thì mời đi nơi khác.
Đến với tôi mà muốn hiểu trong đời sống tâm linh có bao gồm những nội dung gì
thì xin mời lưu lại ở đây, tôi hết lòng hết dạ đàm đạo. Vì sao? Vì trong đời sống
tâm linh có đời sống vật chất, đời sống tinh thần. Cho nên con số 1 là con số vũ trụ,
con số 2 là con số biến và con số 3 là con số hoá. Hiện nay chúng ta đang bị nhầm
đời sống tâm linh với hiện tượng tâm linh mà ta qưen gọi là các nhà ngoại cảm.
Bây giờ có rất nhiều nhà ngoại cảm lấy vợ bé, họ không tu đức, họ chẳng tu tâm.
Họ cho rằng: giời cho tôi lộc, tôi được hưởng. Họ quên mất rằng, giời cho họ cái
lộc ấy để họ là tấm gương sáng cho trăm họ soi. Họ quên mất rằng: Trời cho họ cái
lộc này để họ làm phúc chứ không phải để họ lấy phần. Vì lộc có hai thứ: giá trị
tinh thần là phúc âm. Giá trị cụ thể là phần. Mà lấy phần thì hết phúc. Lấy phúc
phải nhẹ phần. Vì thế, bây giờ, có những cửa điện cửa đền người ta gọi là cái máy
chém tiền. Một ngày họ thu vài chục triệu là chuyện thường. Và tôi sợ những
người này, thương những người này, lo cho họ. Tôi không hiểu họ cần nhiều tiền
thế để làm gì vì tôi cam đoan, họ có ăn yến đi chăng nữa, ngày họ cũng chỉ ăn đến
ba bữa. Một bữa cơm ngon ăn quá thành bội thực. Trời cho lộc, làm việc âm phải
lấy lộc âm là phúc. Chứ làm việc âm mà lấy lộc trần là phần thì xin lỗi, “lộc phật
có gai”. Con cháu nay mai tha hồ trả không biết bao nhiêu cho kể.
P.V: Có phải vì thế mà người đời thường nói: “Làm việc âm bạc phúc lắm” phải
không, thưa bà?!
Bà Phan Oanh: Anh nghĩ như vậy hay anh trăn trở?
P.V: Tôi nghĩ như vậy và chiêm nghiệm như vậy.
Bà Phan Oanh: Đạo học phương Đông giống như cái tam giác cân. Tôi dùng từ
đạo học phương đông chứ không dùng từ triết học phương đông. Nó có 3 đỉnh.
Người được gọi là ngoại cảm phải học đủ 3 thứ này. Nếu không sẽ sai phạm. Thứ
nhất, giới pháp luật, tức là anh phải hiểu. Hiểu rồi thì anh hãy biết. Biết rồi anh
phải dạy cho trăm họ tu. Nhưng bây giờ tất cả thầy đồng, thầy bói, thầy cúng.. làm
mỗi cái đỉnh biết này thôi. Chẳng hạn một ông thầy số bảo: năm nay anh năm tuổi
phải làm lễ giải hạn đi. Thế là hì hà hì hụp lễ như tế sao. Không ai hỏi: “Tại sao
phải lễ giải hạn?”. Hỏi sợ phạm thượng, sợ ông thầy đuổi thẳng cổ về: “Vớ vẩn,
năm nay sao La hầu, Kế đô, không lễ chết. Bỏ tiền đây lễ”. Người lễ hoàn toàn
không hiểu nhưng cứ phải lễ. Tức là lễ này không có nghĩa. Lễ phải đạt đến cái
nghĩa cơ. Cho nên hiểu rồi hãy nên biết. Biết rồi thì phải tu. Còn lễ chỉ là một
phương pháp cực kỳ nhỏ: một là báo công, hai là kêu cứu, ba là chắp tay trước
ngực nói: “Mẹ ơi! Phúc nhà con thì mỏng, đức nhà con thì sơ nhưng kiếp này con
đã thay cả nhà giác ngộ được Đạo rồi. Con nguyện từ nay cho con khoẻ để con lập
công chuộc tội, con làm nhiều việc thiện”. Cái tu này, nói như dân gian là “đức
năng thắng số” hay ý thức tác động trở lại. Và người làm ngoại cảm phải học đủ 3
cái này. Cái hiểu là lý, là ánh sáng để rọi đường. Cái biết là anh thực hành. Cái dạy
cho trăm họ tu là anh tạo ra pháp có để anh lấy một chút công đức. Nếu anh làm đủ
3 cái này, không lo bạc phước.
“Mãi mãi tôi chỉ là một con tốt vô danh làmcông việc dẫn đường”
P.V: Như tôi được biết, có lẽ không có một quốc gia nào trên thế giới này lại sản
sinh ra nhiều nhà ngoại cảm như ở Việt Nam. Bà lý giải gì về điều này?
Bà Phan Oanh: Ngay từ những ngày đầu có khả năng ngoại cảm, tôi đã nhận được
thông tin: “Con ơi! Cuối thế kỷ 20 các nhà ngoại cảm Việt Nam sẽ nổi lên như
mưa rào. Và những người tìm mộ sẽ rất đông để thoả mãn một nhu cầu bức thiết
sau chiến tranh. Ngẫm đến bây giờ thấy hoàn toàn đúng. Như lúc đầu tôi đã nói, đó
là những quà tặng mà hồn thiêng của trời đất, của sông núi, của liệt tổ liệt tông trao
tặng. Và các nhà ngoại cảm là những người có duyên lành từ kiếp trước và ngàn
vạn những mối nhân duyên nữa được tiếp nhận cái này.
P.V: Hiện nay, chúng ta chưa có một con số thống kê chính xác về số hài cốt liệt sĩ
chưa tìm thấy sau chiến tranh nhưng ước chừng còn khoảng 300.000 hài cốt còn
vùi xác thân trong rừng sâu, núi thẳm. Ngày ngày, vẫn còn hàng ngàn người mẹ,
người vợ, người con đau đáu, khắc khoải, để rồi bằng mọi cách đi tìm hài cốt của
chồng, con mình. Những cuộc đi tìm ấy vô cùng gian nan và tốn kém. Là người
trong cuộc, bà nghĩ gì về điều này? Có cách nào giải quyết bằng tâm linh không?
Bà Phan Oanh: Có lẽ việc tìm mộ này sẽ diễn ra trong một thời kỳ lịch sử kéo dài
từ 50 năm đến 70 năm. Sau 70 năm, chúng ta nên lập các đàn, không chỉ có cầu
siêu mà xin cho các liệt sĩ đầu thai, chuyển nghiệp để đừng có lấn quấn với cái thân
tứ đại làm gì. Bởi vì cái này nên rời bỏ, nên về các cảnh giới khác dù rằng cõi
trung giới hay thượng giới mà làm cái công việc nó ân nghĩa hơn là cứ luẩn quẩn
trong rừng sâu, khe đá cũng chỉ là ma mường, ma xó mà thôi. Và ước gì, dân tộc
chúng ta, có một ngày 27 tháng 7 nào đó, chùa chùa, nhà nhà, cùng một lúc làm
được việc này để cho cái sự rung động được cộng hưởng, nhân lên gấp nhiều lần.
Trong đó, những người là nhân chứng lịch sử còn lại được hưởng những đặc ân, họ
khởi được tâm, họ làm được. Và những chùa lớn đánh cùng một lúc tiếng chuông,
chuông hiệu triệu, chuông cầu siêu, chuông hoá giải tất cả mọi nghiệp ai oán, ân
oán, hờn oán, hận oán trong chiến tranh và xin với trời đất, xin Phật độ để cho
những vị có công với quốc gia sớm được chuyển nghiệp đầu thai, làm những công
việc lợi ích. Năm 2000, năm chuyển giao thế kỷ, ngày mở đạo của tôi, tôi đã viết
những câu thơ thế này:
“Canh Thìn tiếng trống âm vang
Mẹ ơi! trống dậy thế gian chuyển mình
Lẽ trời sự biến sự sinh
Qua cầu binh lửa hiểu mình, hiểu ta
Chúng con kết một đàn hoa
Tạ ơn vũ trụ ông bà, tổ tiên
Tạ ơn triệu triệu người hiền
Đã dâng đã hiến đã yên lặng rồi.
Đã thành nhựa sống cho đời
Để cho cây đạo đâm chòi nảy hoa
Vinh quang bách họ tạo ra
Người còn tưởng nhớ người xa ân tình”
Tôi ước ao đội quân binh hùng tướng mạnh ấy vẫn là binh hùng, ngọn lửa chiến
tranh ấy vẫn là lửa thiêng. Cho nên đi đâu tôi cũng chỉ cầu xin Việt Nam sáng đạo.
Và trong dân có đạo để dân tộc chúng ta hưng đạo. Và tôi vô cùng thấm thía những
khi tiếp nhận được những thông tin từ cụ Trần Hưng Đạo. Cụ nói: “Con ơi! Ta yêu
cái dân tộc này. Cho nên ngay cả khi ta về với gió, với mây, ta vẫn để lại một cái
hiệu mà không biết bao nhiêu người hiểu được lòng ta: là Trần – Hưng – Đạo. Một
nguyện ước thật là chân chính, giản đơn mà trong sáng vô cùng. Một con người
bằng xương bằng thịt. Một vị thánh nhân và ngài đã thành bật tử.
Cho nên sẽ phải có cách hoá giải. Tôi cho rằng, những người dễ tính khi thác, họ
về luôn với gió núi mây trời. Chỉ những người khó tính khi mất mới đòi tìm mộ.
Người ta chấp, hận thì bắt phải tìm. Cho nên xin các ngài đại xá cho, cụ nào thiêng
thì xếp vào loại khó tính. Có những gia đình đến đây, tôi có thể dự báo, không nên
đi tìm. Vì người trong gia đình đó đã hết duyên, chẳng nợ, đừng đi tìm nữa. Nhưng
có người ốp hẳn vào anh chị em, con cháu trong nhà, dẫn đi tìm bằng được.
P.V: Là một trong những người có khả năng ngoại cảm đầu tiên ở Việt Nam, tại
sao khi Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thành lập, bà lại không tham
gia?
Bà Phan Oanh: Trước khi thành lập Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người,
các anh trong Ban giám đốc có đến mời tôi tham gia. Tôi nói với các anh ấy là:
“Tôi luôn là người bạn tốt của các anh. Còn các nhà ngoại cảm, họ là những bậc
thầy, xin các anh cứ rước họ vào. Tôi chỉ là bạn của các anh và lúc nào cũng xin
sẵn lòng chia sẻ và đàm đạo”.
Có lần, tôi nói với anh Chu Phác (Thiếu tướng Chu Phác, chủ nhiệm Bộ môn cận
tâm lý) rằng : “Anh Phác ơi! Trời sinh anh làm tướng, trời lại khai mở cho ông
tướng có duyên tâm linh thì anh phải làm các việc lớn hơn những công việc đi tìm
hiểu “mấy con ma”. Vì xin lỗi! Gọi hồn có hàng ngàn năm nay rồi, trong khi chúng
ta còn quá nhiều những việc lớn phải làm. Ngay từ ngày đầu, tôi đã nói với anh
Ngô Đạt Tam (Giám đốc Trung tâm): “Khi các anh thành lập một trung tâm nghiên
cứu tiềm năng lớn như thế này, thì việc số một các anh có thể giúp được dân tộc
này là nhân danh làm khoa học, các anh tìm hiểu và hiệu triệu đủ cho tôi 10 nhà
phong thuỷ. 5 người giỏi bằng sách, 5 người giỏi bằng duyên trời để giúp dân tộc
này bước vào thời kỳ phục hưng dựng nước. Chúng ta phải rà soát lại toàn bộ
phong thuỷ của Việt Nam. Đó là đất đai, sông núi. Chúng ta phải xem tất cả những
đại huyệt ấy, đại huyệt nào tắc, huyệt nào bị yểm, huyệt nào chưa thông, bị phá,
chỗ nào phải phục long, đảo long, khai long… Nhưng họ đã không làm được. Toàn
mất thời gian đi xem gọi hồn gọi cốt, tìm mộ tìm mung. Tôi còn dặn thêm: Anh ơi!
Mời các ông này để phục vụ sơn hà xã tắc nhưng phải mở ngoặc đơn, nói với các
ông bà ấy đứng trong hậu trường. Chứ đừng đòi ngồi vào ghế Bộ chính trị. Có
nhiều người lầm tưởng, tôi được nhà nước trọng dụng, nay mai được ngồi vào ghế
này, ghế kia, thế là tự nhiên họ thành ra mặc cả. Đã âm thì phải ẩn, đã dương thì
được hiện. Đó là luật. Tiếc rằng, bây giờ không ai hiểu luật. Họ quay sang pháp
quyền. Đạo có 2 phần luật và pháp. Bây giờ người ta thiên về pháp, thích quyền
năng. Còn luật chính là ánh đuốc để soi đường thì người ta lãng quên. Ngay cả tu
phật cũng vậy. Người ta cũng thích pháp quyền hơn. Chứ còn cái giáo lý để giúp
cái tâm đạt đến thông giác ngộ thì lại quá ít.
P.V: Không tham gia Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, vậy bà đứng ở
vị trí nào trên bàn cờ tâm linh Việt Nam?
Bà Phan Oanh: Chức năng của tôi mà tôi thu nhận từ người Mẹ thiên nhiên là:
Mãi mãi con chỉ là một con tốt vô danh làm công việc dẫn đường, một công việc
thật tầm thường nhưng rất khó. Người dẫn đường phải hiểu rõ trước mặt mình là
vực thẳm hay núi cao, bên cạnh mình là hổ phục hay rắn leo. Con dẫn đường lạc
đạo cho bách gia trăm họ, con đắc tội với trời. Con dẫn đúng đường, con được
công được đức. Con khắc cốt ghi xương điều này. Sống, tu cho ra trò. Chết hãy ra
thầy. Ngần ấy từ là toàn bộ ván cờ của tôi. Các ngài đã bày cờ rồi. Đã tiểu tốt lại vô
danh thì có nghĩa trên bàn cờ tôi không có chỗ nào đứng cả. Có một nhà ngoại cảm
trong Sài Gòn 3 lần hỏi tôi: Chị Oanh ơi! Chị có sứ mệnh bày cờ không?”. Tôi bảo:
“Không”. “Chị có chỗ đứng trên bàn cờ không?”. Tôi bảo: “Càng không có”. Các
bạn đi trên đường đạo, có thể đến ngã 3, ngã 5, có thể đến lối rẽ, các bạn có thể
dừng một nhịp. Nếu Oanh có duyên thì chúng ta gặp nhau. Và chức năng của Oanh
là chỉ đường. Và khi Oanh chỉ đường, mời các bạn cứ việc đi. Và nếu như đến cái
chỗ bày cờ, các bạn ngồi vào vị thế, Oanh không có chỗ ngồi trên bàn cờ. Và
không có trên bàn cờ thì người chỉ đường mới có một chút giá trị. Chứ tôi vừa chỉ
đường xong, rồi bảo bây giờ các anh ngồi vào đây nhớ, còn chỗ này là của tôi nhớ
thì chả còn là Oanh nữa rồi.
P.V: 25 năm làm tâm linh, điều gì khiến bà đau đáu, trăn trở nhiều nhất?
Bà Phan Oanh: Điều khiến tôi xót xa là nhà nước Việt Nam thả nổi mảng này. Chả
có ai hướng dẫn. Biết bao người có duyên vì không có người hướng dẫn mà họ đi
lạc đạo, biến luôn Phật thánh thành hàng hoá. Có một chị làm công việc tôn giáo
của sở văn hoá Hà Nội đến gặp tôi để đàm đạo. Tôi có hỏi một câu: “Hỏi thật em
nhé. Nhân danh em làm văn hoá, phụ trách tôn giáo của thủ đô, đã bao giờ em tập
hợp tất cả những bà đồng cao thủ của Hà Nội để nghe người ta nói về đaọ thánh
chưa em?”. Cô ấy đáp: “Em chưa làm”. Tôi bảo: “Thế bây giờ bản thân em quản lý
về tôn giáo mà không nghe người ta nói thì làm sao hiểu được. Không hiểu mà lại
đề ra phương án, hướng dẫn người ta thì càng thật là vô duyên. Cứ mời người ta
đến theo tinh thần học hỏi. Các ông bà cứ nói thoả mái những cảm nhận của mình
về đạo mẫu, đạo bản địa của Việt Nam. Và chúng tôi, nhân danh những người quản
lý của nhà nước, xin chân thành cầu thị học hỏi để xem, để thấy sức mạnh của
đạo Mẫu. Và các vị có thể hiến kế làm thế nào để đưa đạo Mẫu thật trật tự. Và cuối
cùng là giữ được cái cốt cách thanh cao, những giá trị rất quý của đạo Mẫu”. Thế
nhưng cô quản lý tôn giáo ấy đã không làm. Chỉ làm một việc này: “Xem ông này
có khả năng tâm linh, ngoại cảm, có đơn vị, cá nhân nào tài trợ không? Có làm gì
ảnh hưởng đến chính trị, an ninh của sơn hà xã tắc không? Có tổ chức phản động
nào núp sau không? Nếu không thì thôi. Chấm hết. Tôi cũng từng được người ta
xem như vậy.
Nếu nhìn đủ một vòng tròn, chúng ta sẽ nhìn được giá trị của các bậc thầy đó. Họ
là con tốt, con mã, con xe, pháo trên bàn cờ thì ta vẫn trân trọng. Nếu tôi là nhà
nước, tôi phải xếp như thế nào để họ có chỗ đứng. Và phải hướng dẫn như thế nào
để trăm họ đừng lạc đường, cứ chớm một tý lại đến thầy bói để hỏi. Khi chơi cờ
mà anh không đủ trí tuệ đánh là anh bí cờ. Bí cờ mà đi hỏi là đánh cờ rất dốt. Cho
nên cái việc đạo, nó chứa đựng những công việc như thế. Chứ việc đạo không phải
là việc xem tướng, xem số, gọi hồn, cầu cúng, tế lễ, giải hạn, ngồi đồng Đó chỉ là
phương pháp thôi. Mà trong cái bầu hồ lô này có hàng tỷ pháp. Lúc nào cần, am
hiểu, anh sẽ nhờ pháp ấy, đó là kẻ thông minh. Chứ nếu không nó nhiễu loạn sẽ vô
cùng khó cho mọi người.
P.V: Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện thú vị này!

You might also like