You are on page 1of 194

Lời nói đầu

LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................. 1

VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI) ................................................................................. 2

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN) ...................................................... 23

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (NGUYỄN MINH CHÂU) ...................................... 47

VỢ NHẶT (KIM LÂN) .............................................................................................. 66

VIỆT BẮC (TỐ HỮU) ................................................................................................ 66

ĐẤT NƯỚC (NGUYỄN KHOA ĐIỀM) ................................................................. 107

SÓNG (XUÂN QUỲNH) ......................................................................................... 133

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (HỒ CHÍ MÌNH).......................................................... 155

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG) ............. 167

TÂY TIẾN (QUANG DUNG) .................................................................................. 185

MỤC LỤC

1
VỢ CHỒNG A PHỦ
(TÔ HOÀI)

Đề bài : Cho đoạn trích sau:

Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các
nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều quanh nương để sưởi
lửa. Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết thì gặt hái vừa xong, không kể
ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới.
Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất
dữ dội.

Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm
đá xòe như con bướm sặc sỡ. (…) Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân
chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị
nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người
đang thổi.

"Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu".

Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.

Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai
gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.

Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ĩ,
người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay
cuộc rượu bên bếp lửa.

2
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say,
Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang
sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước,
Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc
lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày
đêm thổi sáo đi theo Mị.

(Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb
GD,2008, tr 6,7)

Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp bức tranh thiên thiên, cảnh sinh hoạt và
nhân vật Mị ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét chất thơ trong sáng tác của
nhà văn Tô Hoài.

Bài làm:

Tây Bắc là mảnh đất hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả
năng sản sinh ra năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà
văn, nhà thơ để họ viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. “Người mẹ của
hồn thơ ấy” đã phả hồn vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh
“chất vàng mười” trong hình tượng người lái đò của cụ Nguyễn Tuân và phả vào
trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó
là sức sống bền bỉ, tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Phạm Xuân Nguyên từng nói: “Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học
Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng
góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối
lượng tác phẩm đồ sộ”. Quan điểm sáng tác của Tô Hoài: “Viết ăn là một quá
trình để nói ra sự thật, đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ
thần tượng trong lòng người đọc”. Những năm 1952, nhà văn đã có chuyến đi
dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Thấu hiểu tận cùng nỗi khổ
đau của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của phong kiến thực dân miền núi,
cũng như sức sống mãnh liệt của họ. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được ra đời
như một lời tri ân mà nhà văn gửi lại mảnh đất này. Tác phẩm được in trong tập
“Truyện Tây Bắc” năm 1953. “Vợ chồng A Phủ” có thể nói đó là sự vận động
cuộc sống của những con người nô lệ, sự vận động của cả dân tộc “Đi từ thung
3
lũng đau thương, đi đến cánh đồng vui” (Chế Lan Viên). Tác phẩm gồm 2 phần,
phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ ở nhà
thống lí Pá Tra. Phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ trở thành vợ
chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội
trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích trong trên thuộc
phần thứ nhất của tác phẩm, khắc họa chân thực nhất vẻ đẹp bức tranh thiên
thiên, cảnh sinh hoạt và nhân vật Mị.

Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi lá hay như thổi sáo, được
nhiều người yêu mến theo đuổi, lẽ ra cô phải được sống một cuộc sống tự do,
hạnh phúc, thì trái lại Mị lại khổ từ trong trứng nước. Bố mẹ nghèo, cưới nhau
không có tiền, phải vay nợ nhà thống lí 100 đồng bạc trắng, đến khi mẹ Mị mất,
cha Mị đã già, số nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con
dâu gạt nợ. Lợi dụng tục lệ cướp vợ của người Mèo, cho cướp Mị về. Vậy là
không cần cưới hỏi, không cần tình yêu vẫn là hợp lẽ. Đáng nói ở đây chúng cho
bắt Mị về để cúng trình ma nhà thống lí, Mị sẽ chết rũ ở trong cái nhà này, sống
không bằng chết. “Con ma nhà thống lí” là một nỗi ám ảnh suốt cuộc đời Mị,
bọn phong kiến đã cao tay đến mực “ngu dân” để dễ trị. Chẳng ai dám lên tiếng
bênh vực cô Mị xinh đẹp, nết na vậy mà Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột
ẩn sau những phong tục tập quán. Mị sống cuộc sống địa ngục trần gian, bị bóc
lột như nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua mà vẫn có quyền hành hạ
“không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào
công việc”. Dần dần Mị cũng quên luôn cả việc mình là người. Kết quả trong
hoàn cảnh sống tù túng ấy thật chua xót “ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi” cố
nhẫn nhục để rồi tê liệt về ý thức, chai lì về cảm xúc. Dù chịu nhiều bất hạnh,
đau khổ nhưng Mị là người có phẩm chất tốt đẹp, có sức sống tiềm tàng, khao
khát tự do, điều đó được nhà văn thể hiện ở sức sống mãnh liệt của Mị trong
đêm tình mùa xuân…

Nếu như truyện ngắn chỉ dừng lại ở việc khắc họa số phận bi thương của
những con người bị dồn đường cùng thì đã là một thành công rất lớn. Nhưng tác
phẩm của Tô Hoài được ra đời vào những năm sau Cách mạng, một thời đại
mới, một trang sử mới, bởi vậy tác giả không hề cho nhân vật của mình lao vào
bóng tối như chị Dậu, cũng chẳng để nhân vật giết người, rồi giết mình trong
một tiếng kêu đầy ai oán như Chí Phèo. Ông đã để cho nhân vật Mị thực sự trỗi

4
dậy, sống với một sức phản kháng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân. Đọc tác
phẩm ta thấy có ngọn núi quanh năm đọng tuyết, nơi có sương mù bao phủ,
những cánh rừng bát ngát bạt ngàn nương rẫy, khi thì xanh mướt lúa ngô, khi thì
sặc sỡ ẩn hiện. Nơi có làng bản tụ quanh nguồn nước, chiều về cảnh vật hiện ra
trong hơi sương, tối đến lại bập bùng quanh ánh lửa.

Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với
quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: “Trên đầu núi, các nương ngô,
nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ,
tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa”. Ở Hồng Ngài người ta
thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như
thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Cái tết ở Hồng Ngài năm
ấy đến vào lúc thời tiết khắc nghiệt, gió thổi và rét rất dữ dội nhưng không ngăn
nổi những sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, không ngăn nổi cái rạo rực của lòng
người. Cả bản làng sáng bừng trong sắc vàng, đó là màu vàng của ngô, lúa, của
trái bí đỏ, của cỏ gianh cùng với những sắc màu rực rỡ của “những chiếc váy
hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ.” Đám trẻ đợi Tết,
chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai
thổi sáo rủ bạn đi chơi.

Ngoài sắc màu, bức tranh xuân vùng miền núi Tây Bắc còn rộn rã với
thanh âm. Đó là âm thanh của tiếng khèn, của tiếng nói cười của trẻ con, tiếng
chó sủa xa xa và đặc biệt hơn cả là tiếng sáo. Nhà văn Tô Hoài rất dụng công
trong mô tả tiếng sáo bởi tiếng sáo mùa xuân được xem như linh hồn của đời
sống tinh thần nhân dân vùng Tây Bắc. Tiếng sáo là sự mã hóa vẻ đẹp tâm hồn
nhân dân Tây Bắc, là phương tiện giao tiếp của đồng bào nơi đây “Anh ném
pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”.

Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình
ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa
của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của
đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình
đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa... Những đêm tình mùa xuân đã tới. Sức sống tưng
bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc
này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến

5
mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy,
trào dâng trong lòng Mị.

Vẻ đẹp của bức tranh sinh hoạt, phong tục miền núi, đặc biệt là cảnh ngày
tết của người Mèo, qua ngòi bút của Tô Hoài, thực sự có sức say lòng người.
Đoạn trích giúp chúng ta ít nhiều có thể hình dung về phong tục đón Tết của
người Mèo (H'Mông): người Mèo đón Tết khi vụ mùa gặt hái đã xong, mọi
người thường tập trung ở một không gian thoáng, rộng, thường là mỏm đất
phẳng ở đầu làng để thổi khèn, thổi sáo, đánh quay, ném còn. Ngoài đầu núi lấp
ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Từ láy lấp ló gợi âm thanh tiếng sáo lúc
ẩn lúc hiện. Thanh âm ấy tạo không gian mênh mông, được nhà văn miêu tả từ
xa đến gần, là biểu hiện của sinh hoạt mang nét đặc trưng của con người Tây
Bắc. Đây cũng là dịp để các chàng trai cô gái trẻ kiếm tìm người yêu, người tâm
đầu ý hợp với mình. Mùa xuân là mùa của hò hẹn, mùa của tình yêu, của hạnh
phúc. Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, quyến rũ và say mê, nổi bật con
người Tây Bắc đa tình, nghệ sĩ.

Nhà văn tập trung tả lễ hội diễn ra ở Hồng Ngài vào mùa xuân, trong đó
phần Hội được nhấn mạnh hơn cả. Trong đêm tình mùa xuân, ông tả Hội trước:
ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết.
Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và
nhảy. Về dung lượng, chỉ có ba câu văn tả trực tiếp Lễ cúng ma ngày Tết diễn ra
trong không gian nhà thống lý: Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết
cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên
xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa. Hai
đoạn văn gần nhau, tự nó toát lên cái nhìn so sánh của tác giả và khơi gợi ý so
sánh ở người đọc. Nhìn ở góc độ vật chất, đó là thế giới của nghèo và giàu; nhìn
ở góc độ địa vị, đó là thế giới của dân dã và chức sắc; nhìn ở góc độ phong tục,
đó là thế giới của bên vui chơi và bên thờ cúng; nhìn từ góc độ tuổi tác, bên
thường gắn với trẻ, bên gắn với già; nhìn từ tính chất của hoạt động thì một bên
trần tục và một bên linh thiêng. Nhìn từ thân phận Mị, thế giới trần tục ở ngoài
kia trở thành thế giới của tự do - thế giới Mị khao khát, thế giới linh thiêng ở
trong này biến thành thế giới của giam cầm - thế giới Mị muốn chối bỏ.

Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị nào có biết xuân là gì? Nhưng thật
bất ngờ, những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã làm cho tâm hồn Mị hồi
6
sinh trở lại. Có thể nói, tâm trạng và hành động của Mị đã được Tô Hoài thể
hiện một cách tinh tế và xúc động. Tâm hồn Mị tha thiết bổi hổi khi nghe tiếng
sáo từ đầu núi vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo.

"Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu".

Sau bao nhiêu ngày câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ này
đã khẽ hát, dù chỉ là nhẩm thầm. Mị nhẩm thầm (không phải là “hát thầm”), tức
là khẽ khàng nhắc lại theo sự hồi tưởng, thậm chí không liền mạch, lúc nhớ lúc
quên lời bài hát của người đang thổi. Có lẽ trước đây Mị cũng đã từng thổi sáo
hoặc hát bài này rồi. Giờ nghe tiếng sáo ngoài đầu núi vọng lại, lúc ẩn lúc hiện,
trong Mị đã thức dậy điều gì đó quen thuộc, lâu nay bị lãng quên.

Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống
lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa
xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: “Ngày Tết, Mị
cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị uống rượu mà
như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say
để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác
thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.

Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu
lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi
nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình
văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân
căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi
sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Bao kỉ niệm đẹp
thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi... có biết bao nhiêu người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con
gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như
ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

7
Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp, cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa
thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi
Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây
oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ,
với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?

Leonit Leonop: “Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là một phát minh về hình
thức và khám phá mới về nội dung”. Tác giả đã sử dụng các từ ngữ địa phương
gợi những hình ảnh gần gũi đặc trưng cho miền núi Tây Bắc: nương ngô, nương
lúa, vỡ nương, lều canh nương, cùng những sinh hoạt độc đáo: hái bí đỏ chơi
quay, thổi sáo. Từ ngữ miêu tả chi tiết đẹp và giàu sức sống: cỏ gianh vàng ửng,
những chiếc váy đem ra phơi trên mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ,
tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi. Đoạn miêu tả giàu tính nhạc thơ, trữ tình gợi cảm.
Âm điệu câu văn êm ả, ngắn và đậm phong vị Tây Bắc (kiểu cách nói năng của
người miền núi: nương ngô, nương lúa đã gặt xong, lúa ngô...). Đi sâu vào khai
thác diễn biến tâm lí nhân vật Mị rất tự nhiên, chân thực và sâu sắc thông qua
hành động và tâm trạng, chủ yếu thể hiện nội tâm tinh tế, xúc động.

Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên
nhiên vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được
với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen,
hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Đoạn trích cũng miêu tả rất tinh tế một
phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân tràn ngập
màu sắc và âm thanh, ấn tượng nhất về màu sắc là vẻ đẹp của váy hoa, của âm
thanh là tiếng sáo. Nét đặc sắc nhất của chất thơ biểu hiện ở tâm hồn nhân vật
Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một
cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm
lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ngôn ngữ nghệ thuật của nhà
văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và
đậm màu sắc. Chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài được tạo nên bởi sự kết hợp
nhuần nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt
mà của một văn phong điêu luyện. Bên cạnh nghệ thuật sử dụng ngôn từ, Tô
Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi khả năng diễn đạt tài
tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới đa cung bậc và muôn vàn sắc
thái của tình cảm. Chất thơ trong đoạn trích không những bộc lộ tài năng nghệ

8
thuật của nhà văn Tô Hoài mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng
nhân đạo của ông với con người Tây Bắc, góp phần làm sáng tỏ cảm hứng lãng
mạn cách mạng của văn xuôi Việt Nam 1945-1975.

“Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì
cuộc sống mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”.
Trong tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao cho rằng: “Một tác phẩm thực giá trị
phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả
loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa
phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người
gần người hơn”. Để tác phẩm văn học trở thành bất hủ, mỗi nhà văn cần tạo cho
mình sự kết hợp giữa thực tại và nghệ thuật, giữa tiếng nói thực với tiếng nói
khát vọng sâu xa đang ẩn kín.

Đề bài: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt
pao nào!" Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không
nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng
yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu,
rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.

Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau
nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa
xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm sâm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng
im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động.
Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà,
không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi
hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết. Ðời người đàn bà lấy chồng
nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.
Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có
người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Mị
9
sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây
trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.

(Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 8,9)

Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài.

Bài làm

Tô Hoài đã có lí khi cho rằng “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết
thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu
sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư
của những con người được nhà văn thể hiện. Và hình tượng nhân vật Mị trong
tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn ấy khi
mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp của tính
nữ. Đặc biệt khi khắc họa nhân vật Mị, nhà văn bộc lộ năng lực khám phá chiều
sâu nội tâm con người sâu sắc và tinh tế, đồng thời thể hiện cái nhìn mới mẻ về
người nông dân. Cụ thể ở đoạn trích: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng […]. Cổ
tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”

Tôi nghĩ rằng mỗi người nghệ sĩ khi bước lên văn đàn sẽ có góc sân và
khoảng trời riêng. Nó là vùng đất, là lăng kính người nghệ sĩ nhìn vào ô cửa hiện
thực. Và có lẽ Tô Hoài cũng mang góc sân và khoảng trời riêng về chính mình.
Ở Tây Bắc, ông đã gặp được một lúc hai mùa: mùa tình dân và mùa văn học. Có
mùa tình dân thì mới có mùa văn học. Và Tô Hoài đã viết lên “Vợ chồng A
Phủ” với những tình cảm thường trực và tha thiết. Tác phẩm được viết vào
những năm 1952 nhà văn đã có chuyến đi dài tám tháng cùng bộ đội vào giải
phóng Tây Bắc. Thấu hiểu tận cùng nỗi khổ đau của đồng bào Tây Bắc dưới ách
thống trị của phong kiến miền núi, cũng như sức sống mãnh liệt của họ. Tác
phẩm “Vợ Chồng A Phủ” đc ra đời như một lời tri ân mà nhà văn gửi lại mảnh
đất này. Tác phẩm được in trong tập truyện Tây Bắc 1953. Vợ Chồng A Phủ có
thể nói, đó là sự vận động của những con người nô lệ, sự vận động của cả một
dân tộc, “Đi từ thung lũng đau thương, đi đến cánh đồng vui” (Chế Lan Viên).
Đoạn trích trên là cảnh Mị bị trói đứng trong đêm tình mùa xuân.

Tô Hoài đã từng viết như một sự sẻ chia: “Sáng tác chính là tái hiện sự
sống nhưng không phải là là sống lại một sách tự nhiên mà trong nhiệm vụ sáng
10
tác còn mang phần “trang điểm cho sự sống”. Hiểu được điều này nên khi miêu
tả nhân vật Mị, Tô Hoài đã cho ta đã thấy được Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu
đời, chăm chỉ lao động, nhà nghèo và rất hiếu thảo. Do món nợ truyền kiếp của
cha mẹ, Mị phải làm dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, sống cuộc đời trâu ngựa
khổ đau. Nhưng tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói tia lửa sống, chỉ chờ
dịp là bùng lên mạnh mẽ. Dịp ấy đã đến trong đêm tình mùa xuân phơi phới mà
tiếng sáo gọi bạn đầu làng đã làm xao động lòng người phụ nữ trẻ. Khi mùa
xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu
đèn lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ực từng bát.
Mị bổi hổi nghe tiếng sáo. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Trông thấy Mị, A
Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay
ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm
cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…Và ta thấy được cái khoảnh
khắc đậm nét nhất, làm nổi bật lên sức sống tiềm tàng trong Mị đó là đêm Mị bị
A Sử trói đứng, A Sử không cho Mị đi chơi xuân. “Trong bóng tối, Mị đứng im
lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe
tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”. Mị như quên hẳn
mình đang bị trói, quên những đau đớn về thể xác. Phải chăng Mị quên đi nỗi
đau này là do men rượu vẫn còn? Men rượu không chỉ làm cho Mị quên đi việc
mình đang bị trói mà nó làm cho Mị tỉnh ra, ý thức được sự ham sống của tuổi
trẻ. Mị muốn đi chơi như bao cô gái đã có chồng khác. “Mị còn trẻ, Mị muốn đi
chơi.” Và ta cũng thấy một Chí Phèo tìm đến rượu để giải tỏa nỗi đau bị Thị Nở
cự tuyệt; nhưng càng uống Chí Phèo càng tỉnh ra càng nhận thấy sự thật đắng
cay rằng đến cầu nối giúp Chí Phèo trở về bờ bến lương thiện đã mất. Chí Phèo
bị cự tuyệt làm người, bị cả cộng đồng làng Vũ Đại xa lánh và không bao giờ
được hòa nhập lại nữa. Chí Phèo uống rượu và có lẽ đó là lúc Chí Phèo tỉnh táo
nhất, Chí Phèo nhận ra kẻ thù đã đẩy mình đến bước đường cùng này không ai
khác chính là Bá Kiến. Tuy mồm chửi cô cháu Thị Nở, nhưng bước chân lại dẫn
Chí Phèo cầm dao tới nhà Bá Kiến và đâm chết kẻ thù đã hại mình. Nếu như Mị
uống rượu và ý thức được sự sống, sự sống trong Mị luôn cháy âm ỉ chờ ngày
bùng cháy để tương lai một ngày nào đó sẽ thoát ra khỏi đc cuộc sống tăm tối
hiện tại.

Không ý thức được việc mình đang bị trói, Mị thả hồn theo những cuộc
chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong
11
không gian mà còn tồn tại trong chính tâm hồn Mị. Ngay cả khi cô bị trói đứng
thì âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát
yêu, khao khát sống. Mị cởi sợi xích ràng buộc ra để sống thật với chính mong
muốn của mình. Có thể thấy chi tiết tiếng sáo là một chi tiết nhỏ nhưng đã “làm
nên bụi vàng của tác phẩm”. Nếu như Tô Hoài thâm nhập vào mê cung tâm
trạng của Mị để thổn thức với tiếng sáo gọi bạn tình rập rờn, thiết tha, bổi hổi thì
Nam Cao xây dựng chi tiết Chí Phèo thức dậy sau cơn say dài và nghe được âm
thanh của cuộc sống đời thường rất đỗi bình dị. Cùng viết về âm thanh của sự
thức tỉnh nhưng cả hai nhà văn đã thổi hồn vào tác phẩm của mình một âm
thanh. Đó là những âm thanh hết sức diệu kỳ, nó len lỏi vào tận sâu trong tâm
hồn vốn tưởng như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và
khao khát sống mãnh liệt, giả dụ không có tiếng sáo ấy, Mị vẫn chỉ là cô gái
ngồi quay sợi gay bên tảng đá, mãi vô cảm, vô hồn như "cái vỏ không có ý
nghĩa gì hết", thế nhưng âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức cô Mị
ngày xưa, đã đưa cô đến với những phút giây hồi sinh mãnh liệt. Hay nếu như
không có âm thanh ấy, Chí Phèo đã triền miên trong cơn say dài để chẳng bao
giờ biết mình có mặt trên cõi đời này. Nhà văn đã nói rất rõ, rất sâu sức sống
mãnh liệt đang bùng cháy trong tâm hồn của Mị. Nó khiến Mị quên đi thực tại,
quên đi nỗi đau đớn đang cứa nhức thể xác. Sức mạnh của cường quyền chỉ trói
buộc được thể xác nhưng không thể dập tắt được khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc của con người. Đỉnh điểm của sức sống là: “Mị vùng bước đi. Nhưng
chân tay đau không cựa được.” Tiếng sáo của những đôi lứa yêu nhau và của cả
những người lỡ duyên đã có sự tác động lớn lao tới tâm hồn Mị. Nó thôi thúc
Mị, khiến Mị vùng bước đi, quên thực tại đau khổ trước mắt. Chi tiết Mị “vùng
bước đi” đã minh chứng được sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Tâm hồn ấy
đang đến với tự do, đang tràn trề nỗi yêu đương của tuổi trẻ. Nhưng cũng chính
lúc này, khi “vùng bước đi” theo tiếng sáo, sợi dây trói thắt vào “tay chân đau
không cựa được”, Mị mới trở lại với hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã. Lòng Mị
đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Nếu tiếng sáo là biểu tượng
cho khát vọng sống, cho hạnh phúc, cho tình yêu, quá khứ tươi đẹp thì tiếng
chân ngựa đạp vào cách là biểu tượng cho cuộc sống thực tại về thân phận trâu
ngựa của mình. Tiếng sáo tượng trưng cho tình yêu, hạnh phúc đột ngột biến
mất, “Mị không nghe thấy tiếng sáo nữa”. “Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa”, tiếng
chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là những âm thanh của thực tại, đưa
12
Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống “không bằng con ngựa” của
mình. Sau bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của
mình, đã thổn thức khi thấy mình “không bằng con ngựa” nhà thống lí. Hình ảnh
so sánh con người với con vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm. Khi về
làm vợ A Sử chắc chắn nhiều lần Mị đã bị hắn đánh đập, hành hạ. Nhưng có lẽ
đây là lần đầu tiên Mị thổn thức nghĩ không bằng con ngựa. Bởi những lần trước
Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa thì đó là ý nghĩ của con người cam
chịu, quen khổ. Còn giờ đây, nó là cái thổn thức của tâm hồn bị vùi dập.

Dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn
“nồng nàn tha thiết” trong nỗi nhớ của Mị với “hơi rượu toả, tiếng sáo dập dờn,
tiếng chó sủa xa xa. Đêm khuya là lúc trai đến bên vách làm hiệu rủ người yêu
dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi. Mị phải sống trong sự giằng
xé giữa khao khát cháy bỏng, hiện tại tàn nhẫn. Tâm trạng Mị đồng hiện giữa
quá khứ, hiện tại, chập chờn giữa tỉnh và mê. Mị vẫn nhớ về quá khứ nồng nàn
da diết với “hơi rượu tỏa”. Tới đây, hơi rượu lại được xuất hiện thêm một lần
nữa đã cho ta thấy một cháy xúc tác tác động vô cùng to lớn với tới tâm trạng
của Mị.

Bởi vậy có thể nói cả tiếng sáo và rượu đều vô cùng quan trọng, là chất
xúc tác giúp Mị thức tỉnh để nhận ra những bất hạnh, những cay đắng trong thân
phận trâu ngựa của mình. Khi nhận ra thì cảm nhận về sự khổ ải sẽ càng thấm
thía. Từ nay, có lẽ Mị sẽ không thể yên ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam
chịu của mình. Khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc, khát vọng tuổi trẻ đã
hồi sinh nhưng cũng đã bị vùi dập. Và nó đang chờ ngọn gió để thổi bùng lên.

Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn
bà khốn khổ sa vào nhà quan. Cô Mị của ngày xưa - một người sống như đang
chết, sống trong cảm giác chờ đợi sự giải thoát từ cái chết, giờ đây lại biết xót
thương cho người khác, biết sợ hãi trước cái chết. Mị thấy sợ khi nhớ tới từng có
người đàn bà cũng bị đánh, bị trói đã chết đứng chính căn buồng này. “Mị sợ
quá, Mị cựa quậy” như để chứng minh mình vẫn còn sống. Mị sợ chết vì ám ảnh
bởi bóng ma của thần quyền. Mị sợ chết cũng chứng tỏ Mị khao khát sống. Chết
lúc này là chết oan uổng. Chính tiếng sáo, tiếng gọi tình yêu đã giúp Mị nhận ra
sự sống đáng quý: phải sống để được yêu, được đón nhận hạnh phúc tuổi trẻ…
Một khi biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy. Và Van
13
Gogh cũng từng cho rằng: “Trái tim của con người thật ra rất giống biển, ở đó
có gió, có song và trong sâu thẳm là những hòn trai lấp lánh”. Như vậy rõ ràng
là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh
phúc, tình yêu nơi Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng nó đã cho
người đọc thấy sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong những người nông dân tưởng
chừng như nhỏ bé, khốn khổ nhất.

Nhà văn Nga Lêônit Lêônốp có nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh
về hình thức và một khám phá về nội dung”. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm
trước hết được thể hiện ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Mị rất sâu sắc. Mị
là người phụ nữ có bề ngoài nhẫn nhục, âm thầm nhưng bên trong lại có sức
sống tiềm tàng mãnh liệt, một niềm ham sống, niềm khao khát tự do và hạnh
phúc. Tác giả sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp, giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp
trong đời sống nội tâm của nhân vật, nghe được tiếng nói bên trong tâm hồn
nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm giữa nhà văn, nhân vật và người đọc. Với
cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên, giọng trần thuật của tác giả hòa vào
những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc.
Đặc biệt, Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị điển hình cho người nông dân trong xã
hội phong kiến miền núi, đồng thời khơi dậy và khẳng định sức sống tiềm tàng
của họ.

Tô Hoài từng viết như một sự sẻ chia: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông
xuống những trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do
phong cách văn chương của mình mà có. Trang sách mà không có ngọc, trang
bản thảo mà không có chữ thần, không có tinh hoa, thì cái hồn tác phẩm, từ tư
tưởng đến nhân vật, cả bao nhiêu ước vọng và khát khao mà ta gửi gắm vào sáng
tác biết lấy gì cho sống được”. Chính những sự đúc rút như vậy mà ta thấy nhà
văn nhìn người nông dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi
đã bị chà đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu tâm hồn
của họ vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt của khát vọng sống, khát vọng hạnh
phúc, tình yêu và khát vọng tự do. Tuy sống trong thân phận trâu ngựa, bị đọa
đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng số phận, mà
vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần, tâm hồn được hồi sinh. Đó còn là cái nhìn lạc
quan, tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân trong tư tưởng tiến bộ của
nhà văn cách mạng Tô Hoài. Cách nhìn mới mẻ, tình yêu về người nông dân cho

14
thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt khả
năng diễn tả quá trình phát triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên, phong phú,
phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà
văn, người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc.

Nhà văn Tô Hoài từng nói: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để
nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên...Hình ảnh Tây Bắc đau thương và
dung cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.” Gấp
lại trang văn “Vợ chồng A Phủ” với muôn phần xót xa, ta thấy hiện lên khung
cảnh của một xã hội muôn màu, nhiều góc khuất đắng cay; một thời đại với
những cuộc đời, số phận và bi kịch qua từng câu chuyện, hòa quyện sâu đậm và
chua chát vào lòng người hôm nay. Đặc biệt, đoạn văn miêu miêu tả tâm trạng
nhân vật Mị trong đêm xuân khi bị trói thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô
đậm tính cách nhân vật Mị. Và qua đây, ta cũng thấy tác phẩm thể hiện một cách
chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ”.

Đề bài:

Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập
bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh
như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng
thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau
đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi,
nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật
độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị
phảng phất nghĩ như vậy.

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời
mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn
được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói

15
thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm
sao Mị cũng không thấy sợ...

Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng
Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa,
cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần,
đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì
thào được một tiếng “Đi ngay...”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống,
không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức
vùng lên, chạy.

Mị đứng lặng trong bóng tối.

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A
Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh
buốt:

- A Phủ cho tôi đi.

A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

- Ở đây thì chết mất.

A Phủ chợt hiểu.

Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.

A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.

(Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008)

Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét về tấm lòng của nhà văn Tô Hoài dành cho nhân dân Tây Bắc.

Bài làm:

Nguyễn Khắc Phi đã từng cho rằng “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ
thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật ở đời sống.
Nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào một thế giới khác của cuộc
sống”. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc
thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn
thể hiện. Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà
16
văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc cuộc
đời của một con người lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng vẫn sống, âm thầm, tiềm
tàng mãnh liệt. Từ đó, tác giả gửi gắm tình yêu thương, cảm thông và niềm trân
trọng dành cho nhân dân Tây Bắc. Tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc trong đoạn
trích cuối của tác phẩm khi nhà văn đi sâu vào khám phá tâm lí phức tạp của
nhân vật Mị khi cứu A Phủ và quyết định giải thoát cuộc đời mình.

Tô Hoài là cây đại thụ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với quan
điểm sáng tác “Viết văn là 1 quá trình đấu tranh để nói ra sự thật, đã là sự thật
thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ thần tượng trong lòng người đọc”.
“Cái đẹp của văn chương…. Sự thật của đời sống”. Năm những năm 1952 nhà
văn đã có chuyến đi dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Thấu
hiểu tận cùng nỗi khổ đau của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của phong
kiến miền núi, cũng như sức sống mãnh liệt của họ. Tác phẩm “Vợ Chồng A
Phủ” đc ra đời như một lời tri ân mà nhà văn gửi lại mảnh đất này. Tác phẩm
được in trong tập truyện Tây Bắc 1953. Vợ Chồng A Phủ có thể nói, đó là sự
vận động cuộc sống của những con người nô lệ, sự vận động của cả một dân tộc,
“Đi từ thung lũng đau thương, đi đến cánh đồng vui” (Chế Lan Viên). Tác
phẩm gồm có 2 phần: Phần đầu kể về cuộc sống khốn khổ của nhân vật Mị và A
Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra, rồi Mị cứu A Phủ và cùng A Phủ
chạy trốn khỏi Hồng Ngài và phần sau kể về cuộc sống tươi sáng của Mị, khi
được giác ngộ cánh mạng ở Phiềng Sa, hai người họ trở thành vợ chồng và cùng
trở thành du kích. Đoạn trích thuộc phần cuối trong phần một của truyện Vợ
chồng A Phủ, kể về diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong
đêm đông cứu A Phủ.

Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc
thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn
thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng “Nhân vật là nơi duy nhất tập
trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Mị là một cô gái xinh
đẹp, tài năng, hiếu thảo. Vì món nợ truyền kiếp của gia đình và sự tàn ác của
bọn chúa đất miền núi Tây Bắc mà Mị trở thành nạn nhân của chế độ cho vay
nặng lãi. Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra. Trong đêm tình mùa
xuân, nhờ tác động bởi ngoại cảnh, men rượu, tiếng sáo, Mị có sức sống tiềm
tàng, khao khát hạnh phúc, tình yêu. A Phủ là một thanh niên có thân phận như

17
Mị, cũng phải ở nhà thống lí Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này
sang đêm khác, ngày này sang ngày kia. Hai con người đau khổ không hẹn mà
gặp nhau tại nhà thống lí Pá Tra trong đêm đông nơi núi cao lạnh lẽo.

Mị có thói quen thức sưởi lửa suốt đêm, đêm mùa đông trên núi cao dài
và buồn. Lúc đầu, Mị có trạng thái thản nhiên đáng sợ. Sau sự nổi loạn ở đêm
tình mùa xuân không thành, Mị đã bị cường quyền, thần quyền nhà thống lý Pá
tra vùi dập, chà đạp, để bị rơi vào trạng thái tê liệt còn đáng sợ hơn cả trước đây.
Điều đó thể hiện trong cách Mị nhìn A Phủ bị trói đứng. Mị trơ lì tê liệt đến mức
vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế
thôi. Ba chữ cũng thế thôi tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái
hiện chính xác thái độ lạnh lùng của nhân vật. Nghĩa là cô không chỉ khước từ
quyền sống của chính mình mà còn không quan tâm đến cả sự sống của đồng
loại. Tuy có lúc A Sử đi chơi đêm về, ngứa tay ngứa chân, “đánh Mị ngã ngay
xuống cửa bếp”, nhưng đêm sau Mị vẫn gan lì, lặng lẽ phản kháng, tiếp tục ra
sưởi lửa như đêm trước. Bởi lẽ ngọn lửa đã là người bạn, là cứu cánh của Mị -
“Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Đó là thái độ thản nhiên đáng sợ vì không
có tình đồng loại. Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần
nên cô đã trở nên chai sần vô cảm, khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ
khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Mị chẳng khác gì “tảng đá”.

Những dòng nước mắt của A Phủ làm Mị có nhu cầu được hi sinh:
Nguyên nhân quan trọng nhất đã tác động đến tâm lý của Mị để từ sự chai sạn
vô cảm đã sống dậy những cảm xúc mãnh liệt, đã bừng dậy khát vọng tự do đó
chính là dòng nước mắt của A Phủ. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen của A Phủ đã tác động mạnh đến tâm lý của Mị, đưa cô từ cõi
quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị A Sử trói đứng
như vậy, nước mắt chảy xuống mà không thể lau đi được. Chính việc sống lại
những kí ức đó đã khiến Mị nhận thấy sự đồng cảm, đồng cảnh giữa mình và A
Phủ, để từ lòng thương mình, cô đã thương người và cuối cùng là hành động cứu
người.

Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật nửa trực tiếp để cho người đọc
thấy rõ cảm xúc của Mị: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết”. Dạng thức
cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm

18
hồn cô đã dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất
nhân hậu tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ cùng khổ.

“Văn học là nhân học” (M. Gorki). Cùng với lòng thương người, Mị đã
nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân đạo của cha con nhà thống lý: chúng nó thật
độc ác. Từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn đọa đày ở nhà thống lý
đến chỗ cảm nhận được điều này là một bước tiến trong nhận thức và tình cảm
của nhân vật. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế
của thần quyền và cường quyền nữa.

Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ. Vì tin là mình đã bị ma


nhà thống lý Pá Tra nhận mặt nên cô ý thức được sự ràng buộc của đời mình, chỉ
còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Còn với A Phủ, Mị nhận rõ sự bất công:
Người kia việc gì mà phải chết? Ý thức rõ được hậu quả khi một ngày kia A Phủ
trốn được rồi thì mình sẽ bị trói và chết bên cái cọc ấy nhưng Mị không thấy sợ.
Dù không nói ra một cách rõ ràng nhưng những suy nghĩ của Mị đã cho thấy cô
chấp nhận cái chết về phía mình để tìm cách cho A Phủ được sống. Đến đây có
thể thấy lòng thương người đã lớn tới mức Mị quên đi sự sống của bản thân để
đổii lấy sự sống cho người khác. Tâm lý này đã ánh lên vẻ đẹp cao thượng vị tha
trong tâm hồn Mị.

Tô Hoài đã khám phá bề sâu trong tâm hồn con người để đem đến cho
bạn đọc những bài học trông nhìn và thưởng thức. Đặc biệt là khi tác giả miêu tả
khoảnh khắc kỳ diệu của Mị trong giây phút quyết định chạy trốn cùng A Phủ.
Ban đầu, Mị hoảng hốt “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách ra một
dòng riêng nằm chơi vơi giữa những câu chữ ngổn ngang. Nó chơi vơi như cuộc
đời và số phận của Mị. Trong tâm trí Mị nổi lên một cuộc đấu tranh tâm lí dữ
dội: đi hay ở, sống hay chết, tự do hay mãi làm con ma nhà Thống lí? Cuối
cùng, Mị đã chạy theo tiếng gọi của tự do, của tình yêu, lòng khao khát sống. Mị
chạy theo A Phủ. Nếu như trong đêm tình mùa xuân, sự trỗi dậy của Mị là một
tia lửa nhỏ thì hành động Mị chạy theo A Phủ là một đám cháy lớn. Sau bao
ngày im lặng kéo lê những ngày chưa chết, giờ đây khát khao sống của Mị đã
bật thành tiếng: “A Phủ, cho tôi đi. Ở đây thì chết mất”. Cùng với lời nói là hành
động quật sức chạy theo A Phủ, cùng với A Phủ chạy theo tiếng gọi tự do, hạnh
phúc. Ta thấy được khát khao sống mãnh liệt toát ra từ vẻ ngoài yếu đuối của cô
gái ấy. Quả thực, Tô Hoài đã thành công trong việc phân tích tâm lí nhân vật.
19
“Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua
hình thức nghệ thuật độc đáo”.

“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Tô Hoài đã hoàn
thành sứ mệnh của mình khi đã dẫn đường cho người đọc đến với vẻ đẹp của
hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm nói chung và đoạn trích cởi trói cho A
Phủ nói riêng. Ông đã đặt một niềm tin mãnh liệt vào con người lao động, tin
vào sức sống tiềm tàng của con người qua nhân vật Mị. Giây phút Mị cắt dây
cởi trói cho A Phủ cũng chính là giây phút Mị cởi trói, giải thoát bản thân mình.
Mị chạy theo A Phủ tới Phiềng Sa. Nếu ở Nam Cao, ta thấy một Lão Hạc chấp
nhận ăn bả chó để bảo vệ danh dự, một Chí Phèo tự kết liễu mình để tìm lại sự
lương thiện thì ở đây, Tô Hoài đã để cho nhân vật của mình một cái kết mở, để
nhân vật tìm tới ánh sáng của Đảng, của Cách Mạng. Hành động cắt dây trói cứu
A Phủ và chạy theo A Phủ là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, mới mẻ đầy nhân văn của Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau Cách Mạng
nói chung. Qua diễn biến tâm lí của nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng
định: bạo lực không thể đè bẹp, hủy diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh
phúc.

“Văn học là nhân học” (Maxim Gorky). Thông qua diễn biến và hành
động của Mị, Tô Hoài đã thể hiện sự đồng cảm, xót thương trước nỗi khổ đau
của com người dưới ách thống trị của thực dân phong kiến miền núi. Qua tác
phẩm, nhà văn cũng bày tỏ tình yêu thương, trân trọng, tự hào trước vẻ đẹp
không chịu khuất phục và khát vọng sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao
động. Bằng cái nhìn yêu thương và đầy lãng mạn, Tô Hoài viết về hành trình của
cuộc đời Mị là hành trình đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, từ
thân phận nô lệ đến với cuộc đời tự do.

Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng
tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu). Thành công đặc sắc
nhất của tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Đặc biệt là nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật. Cả Mị và A Phủ đều mang những nét điển hình của người dân
lao động miền núi. Vợ chồng A Phủ là thiên truyện tràn đầy chất thơ, chất thơ
chính là những rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục tập
quán, cuộc sống, con người, là sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật, là sức sống
mãnh liệt của con người nơi cao nguyên đá mờ sương. Nghệ thuật trần thuật vừa
20
mang tính truyền thống, vừa uyển chuyển sáng tạo tạo ra sự hấp dẫn thú vị cho
người đọc. Ngôn ngữ giản dị, phong phú đầy sáng tạo, lời văn mượt mà sâu
lắng, trữ tình, giàu tính tạo hình và sức truyền cảm sâu sắc, ngôn ngữ có sự vận
dụng, cách nói hồn nhiên giàu hình ảnh của người miền núi vừa giữ được tính
chuẩn mực của ngôn ngữ văn học. Tác phẩm đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, mới mẻ mang ý thức giai cấp rõ nét, lên án những thế lực phong kiến thực
dân, áp bức tàn bạo cuộc sống con người, cảm thông thương xót trước số phận
đau khổ của người dân miền núi trước cách mạng, khẳng định ngợi ca và thể
hiện niềm tin vào những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng và con đường đến
với cách mạng của họ, đề cao tình hữu ái giai cấp và sự đồng cảm của những
con người nghèo khổ.

“Công việc của nhà văn là phải phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ
tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học
trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam). Hiểu được điều này Tô Hoài đã để Mị
hồi sinh. Ở lần miêu tả thứ nhất, Mị là một con người luôn mang một nỗi buồn
da diết, sống cam chịu, nhẫn nhục, bị chà đạp tàn nhẫn về thể xác và tê liệt tinh
thần phản kháng. Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa, giống như
con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. Nhưng đến lần thứ hai, Mị đã cảm nhận được
mọi thứ, tự tưởng nhớ lại đời mình, hình dung hậu quả khi bị phát hiện sẽ trả giá
bằng mạng sống. Thế nhưng Mị không thấy sợ thế lực cường quyền và thần
quyền. Điều đó chứng tỏ sự thay đổi, phát triển nhận thức của nhân vật Mị, từ
cam chịu đến vùng lên, từ vô cảm đến đồng cảm, từ cõi chết trở về sự sống…
“Tấm lòng yêu thương của nhà văn vẫn nhận ra: bên trong hình ảnh của một con
rùa nuôi trong xó cửa kia, đang còn một con người” (Đỗ Kim Hồi). Thông qua
đoạn trích cuối, nhà văn đã chứng minh được một chân lý: trong đau thương cơ
cực không bao giờ con người miền núi mất đi tình yêu sự sống, lòng ham sống.
Sự thay đổi của nhân vật Mị góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của
truyện Vợ chồng A Phủ. Nhà văn tố cáo đanh thép tội ác của bọn chúa đất miền
núi Tây Bắc áp bức, bóc lột người dân lao động nghèo, chúng dồn đẩy con
người vào đường cùng nhưng lại không cho người ta được chết. Mặt khác, tác
giả thể hiện niềm cảm thông, xót xa trước bất hạnh của con người, phát hiện, ca
ngợi và tin tưởng vào sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do và khả năng đấu tranh
để thoát khỏi xiềng xích nô lệ. Để từ trang văn, người đọc thêm tin vào bản chất

21
tốt đẹp trong mỗi con người, tin rằng khi nó được thức tỉnh, nó sẽ không ngừng
hành động hướng đến một cuộc sống nhân văn và tươi sáng.

“Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn,
phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác
ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.” (Nam Cao). Khép lại
những trang văn của Tô Hoài, người đọc như vẫn cảm nhận được đâu đó hình
ảnh nhân vật Mị, hình ảnh chạy ra khỏi cái bóng tối của Hồng Ngài để tìm đến
tự do. Tô Hoài đã xây dựng thành công sự thay đổi của nhân vật Mị, truyền đến
cho người đọc một nguồn sức sống mãnh liệt, niềm tin vào bản thân, niềm tin
vào cuộc sống giữa cái bóng tối, giá rét của Hồng Ngài. Những cảm xúc ấy sẽ
còn vẹn nguyên mãi trong trái tim bạn đọc.

22
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(NGUYỄN TUÂN)
Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về nét tính cách hung bạo của sông Đà
trong đoạn văn sau. Từ đó nhận xét về cảm hứng của Nguyễn Tuân khi
sáng tác tùy bút Người lái đò sông Đà: “đi tìm chất vàng trong thiên nhiên
Tây Bắc”

“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá
bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ
này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên song bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy;
cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y
như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu,
những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những
thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào
23
muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái
thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái
hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhau tới một cột nước cao đến vài sải.”

BÀI LÀM

Vũ Ngọc Phan đã từng nói: “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới
thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng
thức”. Thật vậy, đọc văn Nguyễn Tuân ta thấy, chỉ đọc một lượt không thể cảm
nhận được điểm hay, điểm nổi bật và khác biệt của tác phẩm. Ông mang một nét
ngông rất lạ, rất khác người, bởi ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan
niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp, “suốt đời tôn thờ và phụng
sự cái đẹp”. Nếu như trước cách mạng, Nguyễn Tuân mang đến cho người đọc
một vẻ đẹp tài hoa, uyên bác của những con người “vang bóng một thời” như
Huấn Cao (Chữ người tử tù) thì sau cách mạng, ông lại khiến cho độc giả phải
“choáng váng”, rung động khi vẽ ra bức tranh thiên nhiên đa màu sắc của mảnh
đất Tây Bắc. “Người lái đò sông Đà” đã miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, nhưng rất đỗi
dịu dàng, gần gũi và bình dị của đất trời, của con người, sông nước. Đây cũng là
tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân thời điểm sau
cách mạng tháng Tám.

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” năm
1960, gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết
trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến
đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là
chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau,
ông đến để sống cùng người dân, sống cùng bộ đội, công nhân các đồng bào dân
tộc, để từ những trải nghiệm của mình, viết ra những tác phẩm thực tế, theo sát
và miêu tả được chân thực về cuộc sống thời kì đổi mới. Ông còn có khát vọng
thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao, chính khát vọng này đã đem đến
cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu
thích cái đẹp, nhưng không phải là nét đẹp tầm thường và bình thường. Đối với
ông, vẻ đẹp phải là đẹp một cách tuyệt mĩ, một cách dữ dội, sự tài năng thì phải
đến mức siêu phàm. Thật trùng hợp khi con sông Đà của miền Tây Bắc rất phù
hợp với mỹ cảnh, với những điều mà nhà văn mong muốn. Nó làm khơi lên sự
24
hứng thú của ông, khiến ông đã có những tháng ngày ăn ngủ cùng vùng đất ấy,
để không bỏ sót những chi tiết, những vẻ đẹp của thiên nhiên. Bằng sự quan sát
tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc của
mình, Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật
hấp dẫn, từ một sự vật vô tri, vô giác thành một sinh vật có sức sống, có tâm
trạng và có tính cách. Sông Đà hiện lên trong tùy bút với hai nét tính cách đối
lập, tưởng chừng như chẳng thể hòa hợp nhưng lại có thể tồn tại trên một dòng
sông: khi hung bạo, lúc trữ tình. Đoạn trích trên nằm trong phần miêu tả sự hùng
vĩ, hung tợn của Đà giang. Ở đầu tác phẩm, lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu
– Đà giang độc bắc lưu” thể hiện việc tác giả đặc biệt nhấn mạnh cá tính độc
đáo, sự riêng biệt của dòng sông. Sông Đà có đặc điểm khác hẳn với các dòng
sông khác. Nó chảy về hướng Bắc, trong khi mọi dòng sông đổ theo hướng
Đông, có lẽ sự khác biệt ấy đã khiến cho cá tính của nó có thể thu hút được
Nguyễn Tuân. Ngay từ những từ ngữ đầu tiên đã thể hiện được một sự đặc biệt
mà tác giả chú ý, là một sự khá lạ đúng như mong muốn của ông: “đẹp là phải
đẹp một cách tuyệt mĩ”.

Nhận xét đầu tiên của nhà văn về sông Đà: “Hùng vĩ của sông Đà không
phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định dòng sông này là dòng sông
hùng vĩ, sự hùng vĩ, dữ tợn ấy đã thu hút Nguyễn Tuân, khiến ông không thể
chối từ. Nhìn thấy dòng sông, ấn tượng đầu tiên đã khiến ông quyết định miêu
tả, tìm hiểu rõ về nó. Chi tiết đầu tiên nói về sự dữ tợn ấy là “những thác đá”
trên sông. Tô điểm góp phần khiến cho dòng sông “đáng sợ” hơn là “những
cảnh đá bờ sông”, “dựng vách thành”, những ghềnh sông, hút nước được tác giả
miêu tả trong đoạn trích. Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc
và hình ảnh “vách thành” đã thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí
ẩn đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã sử dụng những
chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ
hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá, khiến cho người đọc chỉ cần đọc những
trang văn cũng có thể hình dung ra sự dữ dội và đáng sợ của con sông này.
Chẳng hạn, “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, những vách đá
dựng đứng, hiên ngang sừng sững với độ cao khủng khiến cho ánh sáng mặt trời
không thể chiếu được tới lòng sông, chỉ đến khi buổi trưa, mặt trời lên đến đỉnh
đầu mới có thể trông thấy. Cách miêu tả trên tạo được sự ấn tượng khá đậm nét
về con sông. “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”, động
25
từ “chẹt” cùng với cách nói “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách” hay “có con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” đã gây ấn
tượng mạnh về độ hẹp của lòng sông. Cách tác giả sử dụng biện pháp so sánh
khiến cho người đọc tưởng tượng ra độ hẹp đến mức đứng một bên bờ ném nhẹ
viên đá cũng có thể qua bên kia. Từ “chẹt” đã miêu tả về lưu tốc nước chảy
mạnh khi bị vách đá hai bên chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của
những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả mọi vật thông qua cảm giác, ông
như muốn hòa mình vào với thiên nhiên, để cảm nhận dòng sông một cách chân
thực nhất. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh”, dòng nước chảy qua, kết hợp cùng diện tích nhỏ hẹp, vách đá cao vút đã
khiến cho nhiệt độ của “quãng” ấy cũng giảm theo, khiến cho ông khi ông trên
con đò cũng cảm giác được sự lạnh lẽo, heo hút của dòng sông Đà. Kết hợp các
giác quan để quan sát và cảm nhận chân thực nhất, ông còn có ấn tượng về thị
giác được thể hiện khi lấy hình ảnh hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao tầng
để gợi tả hình ảnh vách đá. “Cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt vụt đèn
điện”, sự so sánh ấy truyền cho người đọc những hình dung về cái tối tăm, ẩm
thấp đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách
thành. Cách miêu tả khôn ngoan để người ta có thể dễ tưởng tượng bằng những
hình ảnh đời thường nhất là “khung cửa sổ” trên cao vụt tắt điện. Vách thành
dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức
chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.

Nói đến sự hung bạo của sông Đà, tất nhiên phải nói đến cái dữ dằn của
con thác, của dòng nước cuồn cuộn. Còn nhớ Quang Dũng đã từng nói trong
“Tây Tiến”:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét”

Tưởng chừng nét hung tợn của Tây Bắc đã được Quang Dũng lột tả qua hình
ảnh dòng sông Mã, thế nhưng những trang thơ của ông chưa thấm thía gì so với
dòng sông Đà mà Nguyễn Tuân đã lựa chọn. Sự hung hãn, cuồng nộ của con
sông được ông miêu tả: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số
nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.
Dòng nước chảy xiết, dài hàng ngàn cây số, cùng với những ma trận đá, những
sự vật tồn tại trên dòng sông đều mang một vẻ dữ dội, dọa nạt, như muốn gào
26
thét đe dọa. Đá, nước, sóng kết hợp cùng nhau, “nước xô đá”, “đá xô sóng”,
“sóng xô gió”, cách nhà văn sử dụng các câu ngắn, nhịp nhanh, kết hợp cùng với
các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ cho nhau trong các cụm
từ ngữ đã tái hiện sinh động một quần thể những sức mạnh thiên nhiên. Nó
khiến cho người đọc có cảm giác dồn dập, mọi thứ xô nhau, nhanh chóng và
chồng chất lên nhau. Những sự vật vô tri mà thiên nhiên ban tặng, là nước, là đá
như đã có linh hồn của một sinh vật, nó tỏ ra rất hung bạo, như muốn đe dọa con
người, muốn thể hiện vẻ đẹp của tự nhiên một cách mạnh mẽ. Từ láy “gùn ghè”
và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt
ghềnh Hát Loóng. Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh cũng đã từng được nhắc
đến trong các câu ca dao:

“Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”

Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể tên vanh vách hơn bảy
mươi cái thác trên sông Đà, điều này đã cho thấy rằng tác giả thực sự muốn đắm
chìm mình vào trong thiên nhiên Tây Bắc để tìm hiểu kĩ lưỡng về dòng sông này
đến mức nào. Ông đã so sánh, thổi hồn vào con sông bằng việc cho rằng sóng và
gió “lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua
đấy”, chi tiết này đã thể hiện sinh động sự hung hãn, tàn ác, lì lợm của dòng
sông. Qua từ “nợ xuýt”, nhà văn đóng góp thêm vào từ điển một từ ngữ mới mẻ,
vì ở đây nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình cảm, mà tàn ác
hơn hết là đòi bằng mạng sống của con người. Những người lái đò qua đây phải
rất cẩn trọng, rất bản lĩnh mới có thể vượt qua quãng sông này, nếu không cẩn
thận sơ xuất tay lái sẽ bị “lật ngửa bụng thuyền ra”.

Trên sông Đà còn có những hút nước vô cùng nguy hiểm. Những cái hút
nước được tác giả miêu tả qua một loạt những hình ảnh nhân hóa sống động, đặc
sắc. “Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những
cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu”. Biện pháp tu từ so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng, khiến cho những
xoáy nước trên sông trở nên hung tợn hơn, nó giống như cái miệng giếng, hút
nước rất sâu xuống dưới. Cùng với các âm thanh “nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang lừ lừ những cánh

27
đàn quạ.” Những hình ảnh được thổi hồn một cách sống động, nước biết “thở”
và “kêu” to như tiếng của “cửa cống cái bị sặc”, từ láy “lừ lừ” … Tất cả đã góp
phần làm hiện ra âm thanh, dáng vẻ của những cái hút nước, nó trông như một
con quái vật đang giận dữ, muốn nuốt trôi tất cả vào bụng mình. Nó đáng sợ,
cuồng nộ, kinh khủng đến mức mà “không con thuyền nào dám men gần những
hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô
sang số ấn ga cho nhanh để vứt qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ
vực”. Mỗi người lái đò, thuyền đều có lòng dũng cảm và sẵn sàng chiến đấu với
cơn thịnh nộ của thiên nhiên, ấy nhưng mà khi mọi thứ quá hung bạo, mạnh mẽ,
sức mạnh của con người vẫn không thể thắng được thiên nhiên, nó vẫn khiến
cho con người phải lùi bước, khiếp sợ. Đến những đoạn hút nước ấy, người lái
đò đều “không dám men gần” hoặc nếu có phải đi qua thì cũng “chèo nhanh để
lướt qua quãng sông”, thật chẳng dễ dàng gì khi con người nhỏ bé phải tự gồng
mình để chống trả với những cơn thịnh nộ của sông nước. “Chèo nhanh và tay
lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào”, nếu muốn đi qua những cái hút nước, con người phải
chèo thật nhanh và đòi hỏi một tay lái vững vàng để phóng qua cái giếng sâu
hút, nếu không muốn bị hút vào vực sâu thẳm như những “bè gỗ rừng đi nghênh
ngang” vô tình bị hút tuột xuống. Từ tượng thanh “ặc ặc” cùng với phép so sánh
“như vừa rót dầu sôi vào” càng làm người ta ấn tượng về sự chân thực đến mức
ghê rợn của dòng sông nơi cội nguồn Tây Bắc. Những cái hút nước ấy còn đáng
sợ hơn, khi nhà văn miêu tả cho ta thấy kết quả của những con thuyền đã bị nó
hút xuống, “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Ôi thật
không dám tưởng tượng một con người nhỏ bé nếu không may rơi xuống chiếc
“giếng” sâu hun hút ấy sẽ ra sao, khi mà chiếc thuyền to lớn gấp nhiều lần con
người vô tình bị hút xuống cũng bị “xé” tan tành và chỉ được buông tha khi đã
“tan nát” ở mãi “khuỷnh sông dưới”. Vậy mới thấy thiên nhiên thật đáng sợ đến
dường nào, nó sẽ tàn phá chẳng cần biết đó là con người, hay là đồ vật vô tri, chỉ
cần bị cuốn vào, tất cả sẽ có một “cái kết” không thể lành lặn. Dường như miêu
tả bằng hình ảnh, âm thanh, ví von chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng những kiến
thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để
miêu tả về những sức nước trên sông Đà. Nhà văn đã liên tưởng đến việc có một
anh quay phim táo bạo, liều lĩnh: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay
28
phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi
vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút sông Đà”. Đây chính là một chi tiết bất ngờ, một chi tiết đặc
sắc mà ông khiến người đọc không thể tưởng tượng đến. Miêu tả hình ảnh, âm
thanh một cách chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ đã là khó, tưởng tượng ra một thứ
không có thật nhưng mang cảm giác như thật lại càng khó hơn. Đây hẳn là một
giả tưởng rất li kì, dẫn dụ người đọc vào một trò chơi cảm giác, tác giả đã kéo
họ xuống tận đáy cái hút nước xoáy tít, sâu hoắm khi dẫn theo một anh bạn để
họ hòa làm một, cùng tưởng tượng ra cảnh quay phim táo tợn của anh ta. Từ
hình ảnh ấy, ta có thể thấy được sự cống hiến hết mình vì nghệ thuật của cả anh
bạn giả tưởng và của cả Nguyễn Tuân. Phải chăng tác giả dùng hình ảnh của anh
bạn ấy để ẩn dụ cho chính mình, đã không ngại vượt suối thác, đến nơi hoang sơ
hùng vĩ để làm nghệ thuật, để chinh phục cái đẹp. Những thước phim mà anh
quay phim thu được từ sự mạo hiểm, dám cho máy quay theo sát cái hút mà “từ
đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước
cao đến vài sải”, sức trẻ cùng sự nhiệt huyết đã khiến anh quay phim liều mình,
để thu ra được những hình ảnh ấy. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện
ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một
“thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh
ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi “cái
thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít”. Những hình ảnh về con
sông Đà hẳn sẽ rất giá trị, khi nó là cả một sự hi sinh về nghệ thuật, bất chất khi
cái xoáy nước sắp vỡ tan, nó như “khối pha lê xanh” sắp vỡ tan, “ụp cả máy cả
người quay cả người đang xem”. Thước phim làm cho người xem như thể hòa
mình vào dòng sông, có cảm giác như trải nghiệm phim 3D, sống động và rất
thực tế. Với màu nước “pha lê xanh” thật huyền ảo, diệu kì, không biết các bạn
thấy sao, nhưng khi đọc đoạn văn này tôi cảm thấy rất muốn đến tận nơi để trải
nghiệm cảm giác được chứng kiến tận nước dòng sông hùng vĩ ấy. Đây chính là
một điểm thành công lớn của “anh bạn giả tưởng” cũng như của Nguyễn Tuân
khi thành công lôi cuốn được người đọc vào chính tác phẩm của mình.

Cũng là về dòng sông, nhưng dòng sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, nó không mang vẻ đẹp dữ dội, gào thét như sông Đà, mà có những nét
đẹp rất dịu dàng và nhẹ nhàng. Ở tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, người
thả hoài niệm vào những dòng sông đã viết: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của
29
sông Hương, như triết lí, như cổ thi…”, “Sông Hương là vậy, là dòng sông của
thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Khác với sự hung
hãn dọa người của con sông miền Tây Bắc, dòng sông của xứ Huế xinh đẹp lại
mang nét đẹp yêu kiều, đôi lúc có sự cổ kính, khiến cho người ngắm nhìn nó
phải hoài niệm về một thời xa xưa. Sông Hương mang một vẻ đẹp trầm mặc,
một vẻ đẹp không ồn ào, chỉ lặng lẽ như chứng nhân của một thời lịch sử đã qua
đi, nó như một triết lí đã cổ xưa, nhưng vẫn luôn đúng với thời hiện đại, để khi
tham quan, ngắm nhìn nơi này, người ta có thể hồi tưởng về những ngày tháng
đã qua, những thăng trầm đã đến. Mỗi con sông đều mang một vẻ đẹp của riêng
mình, mỗi tính cách khác nhau. Dù cho khác nhau một trời một vực nhưng nó
không khiến người đọc nhàm chán, nó làm cho người ta hứng thú với mỗi đặc
điểm riêng, khiến người đọc phải cố gắng đi sâu tìm hiểu nó. Đây chính là sự
thành công rực rỡ của cả hai tác giả khi chọn cho mình những cái đẹp riêng biệt.
Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc sự hài lòng, hình dung chân thật về
con sông Đà. Đoạn trích là khúc cả ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của
dòng sông, biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó
chính là sức mạnh của tự nhiên mà con người cần chinh phục, cũng là niềm tự
hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp. Qua đó ta có thể nhìn thấy được
những vất vả, gian lao mà những người lái đò, những người kiếm sống trên sông
phải vượt qua, khiến ta càng thêm khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài chí
của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho
cuộc sống của con người.

Nguyễn Tuân mang một phong cách sáng tác đặc biệt, không giống bao
người khác. Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi
con sông đã được tái hiện trong văn học, đó chính là nhờ cảm quan sáng tác của
Nguyễn Tuân, khi ông chỉ hứng thú với những vẻ đẹp vượt lên mức bình
thường, gây ấn tượng mãnh liệt. Ông mang một phong cách tài hoa, uyên bác,
không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện,
những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tìm cách tiếp cận sự vật ở phương diện
văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những cảm giác mạnh. Vậy nên con sông Đà
mới có thể “lọt vào tầm mắt’ của ông. Nguyễn Tuân có xu hướng muốn tô đậm
cái cá tính, phi thường của dòng sông Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác
giả luôn bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn
từ bay bổng, lại tinh tế, kết hợp các biện pháp tu từ một cách độc đáo và khéo
30
léo. Một cái tôi uyên bác khi huy động kiến thức trên nhiều lĩnh vực khác nhau,
vừa là quan sát, lại có thêm cả cảm quan, các giác quan thay nhau làm việc để
khắc họa nên hình tượng sông Đà. Nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên
bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng dòng sông Đà trở nên
hùng vĩ và đặc sắc, đáng nhớ. Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn
Tuân là nhà văn có ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ
ông chính là một người có lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời
lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Ông đã hết mình
vì nghệ thuật, vì niềm tự hào dân tộc để tự mình cho người đọc thấy được sự đẹp
đẽ và hào hùng của thiên nhiên nơi ta sinh sống. Người đọc càng yêu hơn, trân
trọng hơn những cốt cách đáng quý của con người này.

Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng
của một nghệ sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con
sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ
nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả “Người lái
đò sông Đà”, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên
nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.

Đề bài: “Mặt sông trong tích tắc lòe sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa
xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân
vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung,
đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của
nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy
ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận
vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ
hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần
đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng
đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm
lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa
con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác
Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.

31
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái
bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng
mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy.
Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi
vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng
tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh.
Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở
cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào
cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ bà nữa. ít cửa hơn, bên phải bên trái
đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu
vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút
qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ
động lái được lượn được. Thế là hết thác”

Phân tích nhân vật Người lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái
nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

BÀI LÀM

“Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu

Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát”

Những dòng sông yêu thương của quê hương, đất nước Việt Nam từ lâu
nay đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi
nhà văn lại có một dòng sông để thương, để nhớ của riêng mình. Nguyễn Hoàng
Cầm với dòng sông Đuống thân thương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đắm đuối với
sông Hương thơ mộng, kiều diễm, còn Nguyễn Tuân lại say đắm vẻ đẹp hung
bạo, cũng không kém phần trữ tình của sông Đà. Với niềm say mê cùng vốn trí
thức tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo nên trang văn độc đáo, gây ấn tượng mạnh cho
người đọc với tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Là cây đại thụ của rừng đầu
nguồn văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê những cái phi thường,
tuyệt đỉnh, tuyệt đối, thích cảm giác mạnh mẽ và vĩ đại. Ông ưa khám phá hiện
tượng, sự vật đến tận chân tơ kẽ tóc, trang văn của Nguyễn Tuân phô diễn kiến
thức hết sức uyên bác về nhiều khía cạnh: lịch sử, âm nhạc, địa lí, văn chương,
32
thể thao, quân sự… Nguyễn Tuân quan niệm về cái đẹp rằng đã đẹp thì phải đẹp
một cách hoàn mĩ. Ông không thích những thứ tầm thường và bình thường, có lẽ
chính vì vậy ông mới chọn miêu tả dòng sông Đà dữ tợn, những con người mưu
sinh trên con sông này, để lột tả được những vẻ đẹp và nét đặc sắc mà không ai
làm được.

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” vào
năm 1960, gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ dạng phác thảo. Tác phẩm được
viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của
chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc
biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác
nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Ở nơi đây đem đến
cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận. Có lẽ chính điều đó khiến ông đã
quyết định tìm hiểu sâu xa hơn về dòng sông Đà. Ngay ở đầu tác phẩm, Nguyễn
Tuân đã nêu ra lời đề từ: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Có ý kiến đã
cho rằng lời đề từ này là để ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà.
Nhưng không chỉ vậy, nó còn gợi liên tưởng về hình ảnh con người lao động
trên dòng sông. Tiếng hát ở đây là lời ngợi ca con người trong lao động, chinh
phục tự nhiên để xây dựng cuộc sống. Lời đề từ còn gợi hình ảnh đẹp về con
người trong lao động, sản xuất mà ở đây nhà văn muốn nhắc đến chính là hình
ảnh người lái đò trong tác phẩm. Câu đề từ thứ hai nhấn mạnh vẻ đẹp đầy cá
tính, dữ dội của dòng sông Đà để từ đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao
mà những người lái đò phải vượt qua, khiến ta càng thêm khâm phục hơn ý chí
kiên cường và tài chí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy
phục, cống hiến cho cuộc sống của con người.

Nhân vật ông lái đò không có tên tuổi, lai lịch cụ thể mà chỉ được xưng
danh bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ đi tên tuổi của nhân vật để khái
quát vẻ đẹp của con người Tây Bắc, làm nổi bật lên nét đẹp lao động, sự cống
hiện và chăm chỉ, cần cù, bình dị nhưng lại rất phi thường. Nguyễn Tuân giới
thiệu: “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi” khoảng 70 tuổi. Ông đã làm nghề lái đò
trên sông Đà được hơn mười năm, đã xuôi ngược trên dòng sông Đà hàng trăm
chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng đã không
lái đò được khoảng mười năm rồi. Ở tuổi 70, ngoại hình của ông lái đò được tác
giả miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, đôi

33
chân khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, nhãn giới
vòi vọi như lúc nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù,
giọng nói ào ào như nước mặt ghềnh… Có thể nói ngoại hình của ông lái đò là
ngoại hình của một người lao động trên sông nước. Trên ngực ông nổi một số
“củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất ngưỡng mộ, trân trọng đặt cho nó cái
tên “thứ huân chương lao động siêu hạng”. Điểm này giống như những nét viết
rồng bay phượng múa của nhân vật Huấn Cao mà ông miêu tả trong “Chữ người
tử tù”, nó như một vết tích nói lên cái hoài bão tung hoành của cả đời người, là
những chiến tích in hằn trên cơ thể, nhắc nhở rằng họ đã trải qua những gian
truân như thế nào, giống như một ông cụ thức dậy từ tờ mờ sáng đã pha trà để
nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một triết lý”. Hình tượng ông lái đò Tây
Bắc cũng chính là một người nghệ sĩ, người nghệ sĩ trong công việc nghệ thuật
là vượt qua thác, qua ghềnh. Ông là tay lái ra hoa, là một người tài hoa trong
việc việc thác. Để làm nổi bật được tình huống nghệ thuật ấy, Nguyễn Tuân đã
sáng tạo ra việc ông lái đò vượt thác trên sông Đà, là một cuộc thủy chiến có
một không hai trong lịch sử văn học, giữ một bên là thủy quái sông Đà với sức
mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng
nhưng lại đơn độc một mình trong cuộc chiến gay go, quyết liệt, đầy nguy hiểm
này.

Dòng sông Đà hung bạo và nguy hiểm, rất dữ dội. Khi đi trên dòng sông,
còn rất xa mới đến cái thác bên dưới mà đã nghe thấy tiếng nước “réo to mãi
lên”, nó như muốn hù dọa những người đang di chuyển trên dòng sông này. Ấy
vậy mà ông lái đò lại thấy đó chỉ là chuyện hàng ngày, bởi ông đã quá quen với
việc dòng sông ấy điên cuồng, mạnh bạo và muốn nuốt trôi mình đến mức nào.
Các thạch trận đá, những tiếng nước như “khiêu khích”, “gằn giọng” chế nhạo
con người nhỏ bé, những trận địa hung tàn mà con sông đã bày sẵn để làm bẫy
con người, tất cả đều như muốn bắt nạt ông lái đò. Trải qua các ma trận của đá,
của nước, rồi đến “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai
chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi
lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.” Sông Đà bày ra ba trùng vi
thạch trận, nó tinh vi và dữ dội đến mức “nước trên mặt sông lòa sáng lên” như
hàng ngàn con đom đóm kết hợp với nhau. Nước phải mạnh mẽ, sóng phải
cuồng nộ đến mức nào mới khiến mặt sông như sáng lòa lên đến mức vậy.
34
Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ so sánh, điều
này làm cho những vật vô tri trở nên có cảm giác, như được thổi hồn vào cả một
bài viết, nó khiến cho dòng sông hung hãn, hùng hồn hơn, điều đó cũng khiến
cho người đọc có cảm giác sợ hãi, tưởng tượng ra con sông một cách cụ thể hơn.
Mặc cho sự tấn công dồn dập, nguy hiểm ấy, dù đã bị thương nhưng ông đò vẫn
cố nén vết thương, “mặt méo bệch đi”, nhưng vì tính mạng của mình, ông vẫn
cố gắng giữ vững tay chèo của mình, “hai chân kẹp chặt cuống lái”. Đến đây ta
mới thấy khâm phục sức mạnh của ông lái đò, một người nhỏ bé nhưng vẫn rất
kiên cường trước những thử thách của thiên nhiên, của dòng sông cuồng nộ như
muốn nuốt trôi mình. Ông vẫn cố gắng chống lại, còn con sông vẫn ra những
đòn hiểm, đòn đánh tỉa vào những chỗ hiểm. Phải có kinh nghiệm lâu lắm rồi,
mới có thể tự tin và bình tĩnh để vượt qua. Nhà văn đã rất tinh tế khi lồng ghép
hình ảnh ông lái đò ở đây, để thấy được sự đối lập rõ ràng trước con người yếu
ớt và thiên nhiên hùng vĩ, nó càng làm hiện lên vẻ kiên cường, không chịu thua
để có thể làm chủ được mọi thứ, làm chủ được vạn vật của con người. Bằng thể
chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường, bằng sự tự tin, bình tĩnh,
dù bị thương nhưng “trên chiếc thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy
ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”. Vậy là đã qua được trùng vi thạch trận thứ
nhất. Câu văn này như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi vượt qua được “một
con quái vật”, nhưng ông lái đò vẫn không dám nghỉ tay, bởi dùng sống vẫn
đang gào thét dọa nạt bên cạnh, ông không thể một phút mất cảnh giác. “Không
một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến
thuật”. Nguy hiểm vẫn đang cận kề khiến ông không thể dừng quan sát, bằng
kinh nghiệm hơn mười năm chinh chiến với con sông, ông đã “nắm chắc được
binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước
hiểm trở này”, điều đó đã cho ta thấy ông lái đò trải qua biết bao nhiêu lần “đánh
nhau” với nước, với đá. Phép nhân hóa “thần sông”, “thần nước” làm cho người
đọc tưởng tượng ra sự dữ dội và hùng mạnh của con sông như thế nào, nó khiến
cho người đọc thôi cũng cảm thấy khiếp sợ trước sức mạnh ấy, nhưng người lái
đò thì không, ông vẫn phải hàng ngày chiến đấu, vượt qua nỗi sợ hãi này. Ở
vòng thạch trận thứ hai, sự nguy hiểm ngày càng tăng lên, hù dọa những người
đi trên sông, buộc người ta phải bỏ cuộc nơi này: “Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn
sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và
35
cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi
đến cùng như là cưỡi hổ.” Vượt qua thạch trận thứ nhất với nhiều nỗ lực thì đến
thạch trận thứ hai phải cố gắng gấp đôi sức mạnh, khi lũ đá, nước đã tinh vi hơn
bằng cách “mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh” mà cửa sinh lại
nằm “lập lờ phía tả ngạn sông”. Thật chẳng dễ dàng gì đối với một xác suất và
sự phân bố không cân đối như vậy, cửa tử nhiều hơn cửa sinh, đây chính là một
trận chiến không cân sức của ông lái đò và dòng sông hung dữ. Những động từ
mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng
thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là
mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Quyết định rất khó khăn, chỉ cần sai lệch một
lần cũng có thể khiến cho ông lái đò rơi vào một trong bốn cửa tử trên dòng
sông. Phải thật tinh mắt và thông minh mới có thể chỉ huy được con thuyền vượt
qua ải khó khăn này. Nhưng bằng nghệ thuật lái đò điêu luyện, ông lái đò chủ
động thế tấn công, ông cưỡi trên sóng thác sông Đà như là cưỡi hổ, “nắm chặt
lấy bờm sóng”, “ghì cuống lái”, “lái biết một đường chéo để phóng nhanh vào
cửa sinh”. Hàng loạt động từ được nhà văn huy động như một đội quân ngôn từ
hùng hậu để miêu tả khí thế xung trận của ông đò: nắm, ghì, phỏng, lái, tránh,
ráo, đè, chặt… Cho thấy được sự quyết tâm bằng mọi cách phải giữ thế chủ
động, không được khuất phục và để cho con sông nắm thóp được mình. Điều
này càng làm cho hình ảnh của người lao động được hiện lên rõ hơn, được miêu
tả kĩ lưỡng và khiến người ta khâm phục hơn rất nhiều. “Bốn năm bọn thuỷ quân
cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông
đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến.” Dù những “thủy quân” ấy rất lươn
lẹo, nhanh chóng bám lấy ông nhưng bằng sự mưu trí, khôn ngoan, ông vẫn có
thể thoát khỏi vòng vây thạch trận ấy mà bỏ lại đằng sau thuyền những luồng tử.
Đã vượt qua được hai thạch trận, “chỉ còn lại văng vẳng reo tiếng hò của sóng
thác luồng sinh”. Đã qua được ải thứ hai, điều ấy khiến cho bọn đá không khuất
phục, chúng vẫn không ngớt hò reo tiếng khiêu khích ông, khiến cho thằng đá
tướng đứng chiến ở của đá này mặt xanh lè, tiu nghỉu vì thất trận. Các dòng
nước, thạch trận đá được ông nhân hóa và thổi hồn vào nó, khiến cho dòng sông
như có sức sống thật sự, khiến cho sự hung tàn, sợ hãi của người đọc được nhấn
mạnh hơn rất nhiều, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là
mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai
36
Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông
lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra
hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết”,
không còn những đường lui cho ông, mà bắt ông lái đò phải xuyên qua cả hai
luồng mới có thể tìm đến được cửa sinh, khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng
nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô
tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”. Những động từ mạnh “vút”
hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với
nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh
mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách
tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn
toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình. Quả đúng như Phan Huy Đông đã từng nhận định, “Đọc người
lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng
hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ”. Ngôn từ của Nguyễn Tuân không
hề đơn giản, đọc một lần có thể khiến người ta nhàm chán đến mức không muốn
đọc, nhưng để hiểu thì cần phải nghiền ngẫm và suy nghĩ rất nhiều. Qua cách
miêu tả ông lái đò, ta thấy được Nguyễn Tuân đã thực sự đầu tư vào trong tác
phẩm này nhiều đến mức nào. Đến đây, người lái đò đã khiến nhà văn, khiến
người đọc và có lẽ là cả quân đội đá trên sông Đà phải hoàn toàn tâm phục khẩu
phục. Ông đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ chèo lái điêu
luyện, dạn dày, siêu phàm như đua tài cùng tạo hóa. Tài nghệ đến mức điêu
luyện của ông đã khiến việc lái đò như biến thành một môn nghệ thuật: “Thuyền
vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự
động lái được lượn được. Thế là hết thác…” Động từ “vút” đã làm cho các hành
động của ông đò và chiếc thuyền như nhanh hơn, hành động một cách mạnh mẽ,
đầy quyết đoán, không nhân nhượng của ông đò. Vậy là hết thác, là vượt qua
được những thử thách mà thiên nhiên tạo ra. Có thể nói quy luật trên sông Đà là
một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ
tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân
sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có
mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.

37
Giáo sư Trần Đình Sử đã từng nói: “Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn
giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình”. Thật vậy, Nguyễn
Tuân là một người nghệ sĩ ý tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý
thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông
luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo
“xưa nay chưa từng có”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của
con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với con sông hung bạo,
Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca
ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông. Nguyễn Tuân quan niệm
“mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, con người trong tác phẩm của ông dù
làm bất cứ công việc gì, ở tầng lớp nào đều là bậc nghệ sĩ trong công việc, nghề
nghiệp của mình. Qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, công việc lái đò đã trở
thành một nghệ thuật và trình độ lái đò của ông lái đò đã đạt đến sự siêu phàm.
Ông lái đò rất am hiểu về dòng sông Đà. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm
trở này”, ông cũng nhớ mặt của từng thằng đá với những âm mưu của chúng nên
rất ung dung chủ động. Hình ảnh ông lái đò vì thế được đánh giá “trên thác hiên
ngang người lái đò có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được quy luật tất yếu của
dòng nước sông Đà”. Ông lái đò trở thành một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ
thuật vượt thác qua ghềnh, một tay lái ra hoa. Việc đưa con thuyền tìm đúng
luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ
thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện. Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn
phong cách Nguyễn Tuân bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng
nghề nghiệp của mình lên thành một môn nghệ thuật. Và điều đáng chú ý ở đây
là những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người
vĩ đại, phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí là vô danh.

Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng
cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tính, các phép liên tưởng
độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ,
sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật
xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động,
biến hóa phong phú, những câu văn nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà
nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói “tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp
phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài hoa trí dũng của
38
nhân vật”. Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát
hiện về người lao động mới: ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của
người lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã
làm nên những kỳ tích lớn lao trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ.
Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca
ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong công việc lao
động chinh phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thông qua hình
tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự chân trọng, cảm phục, ca
ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng
thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước. Qua
nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn
Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người của ông hướng tới ca ngợi
những con người đặc tuyển, những tính cách phi thường thì sau cách mạng, nhân
vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu,
lao động hàng ngày của nhân dân.

Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công
trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến
thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ..., tác
phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp
một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người lái đò
Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi
ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.

Đề bài: “Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách.
Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã
hơi lâu đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình
sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ
con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe
lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm

39
đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm
bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình
vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên
Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm
chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hưu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: hỏi
ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.
Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt song bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá
đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.”

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nêu
ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tùy bút “Người lái
đò sông Đà”

BÀI LÀM

Theo Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ -
“suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Tác phẩm của ông là những trang viết
sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò
sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn.
Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái
nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân
Tây Bắc. Đoạn văn ta sắp phân tích sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ
tình, thơ mộng đó của Đà giang.

Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” được trích trong tùy bút sông Đà
(1960). Tác phẩm này là kết quả của chuyến đi dài tám tháng mà Nguyễn Tuân
đã đến với Tây Bắc. Tây Bắc hùng vĩ mà dạt dào chất thơ đã tạo ấn tượng cho
nhà văn, nhất là con sông Đà. Nguyễn Tuân sau khi trở về Hà Nội đã bắt tay vào
sáng tác tùy bút Sông Đà. Tác phẩm nhanh chóng đến với bạn đọc và được đón
40
nhận nồng nhiệt. Tùy bút đã thật sự gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi chất
liệu ngôn từ phong phú và đa dạng. Nhà văn đã huy động cả kho tàng tiếng Việt,
cả nhiều ngành nghề, lĩnh vực để tái hiện một sông Đà hung bạo, trữ tình và một
người lái đò mang cốt cách nghệ sĩ.

Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ,
hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh
đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”,
cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao
cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của
dòng sông. Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc
khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất.
Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu
nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến
của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ.
Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ
dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian
liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh. “Con sông Đà
gợi cảm” là ấn tượng đầu tiên của ông về vẻ đẹp dịu dàng ấy, đối với mỗi người
sẽ có cảm nhận khác nhau, thế nhưng đối với Nguyễn Tuân, đã có lần ông nhìn
nhận sông Đà như một cố nhân. Trong lần mải đi theo gót chân của anh liên lạc,
ông đã quên mất rằng mình đang chuẩn bị đổ ra sông Đà. Lần đó giống như
khiến ông được mở mang tầm mắt hơn về dòng sông. Lần đầu ông được cảm
nhận về nét đẹp dịu dàng, không hung dữ dọa người như những lần mà mình đã
thấy, hình ảnh này của sông Đà lay động tâm hồn ông biết bao nhiêu. Nó yên
bình, trầm lặng, không còn là con sông có thể nuốt bất cứ ai nữa, nó là những
thứ bình dị, như “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương
vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn
người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng
sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi
thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch
sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ” của cảnh sông.
Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy
trăm năm cộng lại. Đi qua những sự dữ tợn, đáp trả lại sóng gió là khoảng trời
41
khó thấy, mà chỉ khi ta vượt qua sự khó khăn kia mới thấy được. Nếu ví người
lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt
ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn
văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở
những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây
là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả
ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai
con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ
thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc
cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh. Ở đây ông cảm nhận được cái “nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Thật yên bình, nhẹ
nhàng làm sao!

“Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao
ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm
đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm
bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay
đấy.” Khung cảnh nên thơ, khiến cho ai đặt chân đến đây đều không muốn phá
hỏng nó, chuồn chuồn bươm bướm tự do bay bổng, trông vui vẻ và giản dị biết
bao. Nguyễn Tuân đã ví sông Đà như một “cố nhân”, đơn giản chỉ vì nó trầm
lặng, làm cho người ta có cảm giác hồi tưởng, bâng khuâng về nét xưa cũ. Đôi
lúc có sự gắt gỏng, là những lúc hung bạo, muốn bắt nạt người, nhưng đôi lúc
dòng sông ấy lại chỉ muốn ngồi lặng lẽ để nhìn lại về những gì đã trải qua,
những thăm trầm cuộc đời. “Dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng” thật
buồn cười khi ta tưởng tượng ra cảnh “sớm nắng chiều mưa” này. Nhưng chính
vì điểm hay khi Nguyễn Tuân thổi hồn vào dòng sông vô tri, khiến nó biết nói,
biết cười, biết vui buồn, cũng có khi lại biết gắt gỏng khiến cho người đọc càng
bị cuốn hút, làm cho người ta muốn tìm hiểu, muốn khám phá hết các khía cạnh
của con sông. Đúng là một nhà văn có suy nghĩ không tầm thường, ít ai có thể
cảm nhận được con sông có tính cách như con người, bởi con người cũng đã rất
phức tạp, vậy con sông sao có thể sống như con người. Ấy vậy mà chính ông lại
làm cho dòng sông này như sống hòa mình với con người, với người lao động.

42
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Câu văn ngắn chỉ gồm sáu âm tiết, mà lại
đều là thanh bằng, điều đó làm gợi sự nhẹ nhàng êm ái đã tạo nên một không
gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du, dẫn họ đến một
không gian nên thơ, cổ tích. Mặt khác, nó cùng cho thấy Nguyễn Tuân là một
người ưa những điều mới lạ và muốn khám phát một cách tường tận vẻ đẹp của
dòng sông Đà. Nhà văn quan sát và miêu tả dòng sông đà từ nhiều điểm nhìn
khác nhau nên nếu ở đoạn văn trước đó, ông cảm nhận vẻ đẹp trữ tình thơ mộng
của dòng sông từ điểm nhìn trên cao là từ tàu bay nhìn xuống, hay cái nhìn gần
hơn là đi từ rừng ra bắt gặp sông Đà thì ở đoạn văn này, điểm nhìn lại càng gần
hơn khi ngồi trên con thuyền trôi chầm chậm trên sông để quan sát và miêu tả về
dòng sông mà ông thương nhớ như một cố nhân. Ngay ở đầu đoạn trích, Nguyễn
Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc về vẻ đẹp ấn tượng của sông Đà ở dọc đôi
bờ sông. Không dữ dội như quãng thượng nguồn, cảnh vật thiên nhiên sông Đà
ở đây thật tĩnh lặng và hoang sơ. Sự tĩnh lượng của không gian, cảnh vật sông
Đà được nhà văn miêu tả: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.” Ngồi trên khoang đò
quãng ấy, nhà văn có cảm giác mình đang đi ngược trở về quá khứ xa xưa, trở
về những Thời Lý, thời Trần, thời Lê. Nhắc đến các triều đại ấy là tác giả muốn
gợi lịch sử thời dựng nước, giữ nước và thể hiện lòng tự tôn dân tộc, cũng là một
cách để nhà văn tô đậm vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Cảnh vật tĩnh lặng đến
mức nhà văn chợt ao ước có một âm thanh của con người, để cảm nhận được
cuộc sống xung quanh vẫn đang diễn ra theo quy luật của nó, khao khát được
cảm nhận những thành tựu của con người trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên, xây dựng một cuộc sống mới trên miền Tây Bắc. “Chao ôi, thấy thèm
được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu.” Cảnh vật bờ sông Đà không chỉ tĩnh lặng mà
còn hoang sơ đến kì lạ. Sự tĩnh lặng, hoang sơ ấy hiện lên rõ nét hơn qua các
phác họa: “tịnh không một bóng người”, “hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ
sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Có thể nói qua phép so sánh đầy
sức gợi tả và các nét gợi tả của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà ở hạ lưu vẫn giữ
nguyên vẻ đẹp nguyên sơ như thể hàng ngàn năm, vạn năm hay hàng tỷ năm nay
nó vẫn nguyên sơ như thế. Với cách liên tưởng và ví von ấy, tác giả dường như
muốn cho ta thấy sông Đà có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua tháng
năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Đặc biệt hai câu “bờ
43
sông hoang dại”, “bờ sông hồn nhiên” khiến ta liên tưởng đến sự dịu dàng, nhẹ
nhàng, thơ mộng quá đỗi. Nghệ thuật điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành
một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ mà ra đã bắt gặp ở
người nghệ sĩ một thời vang bóng này. Nguyễn Tuân đã tìm về vẻ đẹp xưa trong
cái ngày hôm nay để bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở.

Dường như chưa bằng lòng với vẻ đẹp nhợt nhạt, dịu dàng ấy, tác giả đã
vận dụng tối đa bút mực để phác họa thêm vào bức tranh cảnh vật sông Đà, hệt
như một người nghệ sĩ tài hoa. Thế giới thiên nhiên sông Đà qua sự miêu tả của
ông cũng thật sinh động, kỳ ảo, lý thú nhưng cũng tràn đầy sức sống. “Con hươu
thơ ngộ ngẩng đầu những khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn tôi không chớp
mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như
hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: hỏi ông khách Sông Đà, có phải
ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Hình ảnh con hươu thơ ngộ bình
dị, nhẹ nhàng thưởng thức những ngọn cỏ xanh bên ven bờ sông thật sinh động.
Những hình ảnh về “một nương ngô mới nhú lên mấy là ngô non đầu mùa”, “cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp” cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ
đẹp của sự non tơ, tươi mới và căng tràn sức sống, kéo dòng sông từ thuở còn
hồng hoang đến gần với thực tại hơn. Giữa không gian thơ mộng, đàn hươu “cúi
đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm”. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi,
thần thái trần trề sức sống của của cảnh vật và bắt trọn mọi khoảnh khắc, chuyển
động: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu những khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò”, cuộc đối thoại giữa ông khách
sông Đà với con vật “lành đích thực là một bài thơ trữ tình sống động, nó chập
chờn, chơi vơi. Hươu hỏi người hay người tự hỏi, đó chính là một nét độc đáo,
một giả tưởng vừa thực vừa ảo. Hình ảnh đầy chất thơ này gợi ra cho ta nhớ đến
chú nai vàng trong câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Trọng Lư:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Thiên nhiên sông Đà với sự sống nguyên sơ còn được miêu tả qua hình
ảnh đàn cá dầm xanh trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: “Đàn cá dầm
xanh quẫy vọt lên mặt song bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông
đuổi mất đàn hươu vụt biến.” Đây là những câu văn đẹp, khi nó vừa có âm

44
thanh, lại có cả màu sắc, vừa nghe được, lại vừa nhìn thấy. Hình ảnh “đàn cá
bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng ở “bạc”, lại chỉ rõ
được dáng hình thon dài “như thoi” của đàn cá dầm xanh. Biện pháp nghệ thuật
so sánh cùng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên không gian tĩnh mịch đến
độ người ta có thể nghe thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật mình
và ông khách sông Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.

Bên cạnh đó, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện
qua việc miêu tả sắc nước. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà
trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích
“chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc
bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành.
Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da
trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu
văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”
chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc
đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng
tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông. Đến đây, ta lại nhớ đến một
dòng sông được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc đến, ông cũng miêu tả sắc nước:
“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Mỗi con sông đều mang một vẻ đẹp khác
nhau, sông Hương êm đềm, nhẹ nhàng, như cố nhân chứng kiến biết bao thăng
trầm lịch sử, thì sông Đà cũng vậy. Cũng nhẹ nhàng, êm ái, trữ tình, tuy nhiên
nó còn mang một khía cạnh tính cách rất hung dữ và tàn bạo. Nhưng cũng không
khó để nhận ra rằng, cả hai con sống đều có điểm chung, nó đi qua hàng ngàn
năm, chứng kiến và gắn liền với cuộc sống của con người ở mỗi vùng miền.
Bằng những cảm nhận tinh tế, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình
sắc của nước sông Đà bằng những đường nét uyển chuyện, bằng những màu sắc
biến ảo lung linh. Nếu ví sông Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác
phẩm hội họa tuyệt mỹ.

Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự
sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc thì ở đây Nguyễn Tuân cũng vậy.
Ông đã sử dụng mọi kiến thức về hội họa, thơ ca, để miêu tả, vận dụng các biện
pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc

45
đáo, bất ngờ vào thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức
gợi cảm cao, lời văn bay bổng, phóng túng, viết không theo nguyên tắc các dấu
chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng, uyển chuyển liền mạch của dòng
chảy sông Đà. Trong đoạn trích, người đọc có thể cảm nhận được cái tôi uyên
bác, tài hoa của một người nghệ sĩ suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn
Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật, sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm
cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi thường để tạo cảm
giác mãnh liệt, gây ấn tượng, làm nổi bật lên sự cao cả từ những nét đẹp giản dị.
Nguyễn Tuân có một cái tôi âm tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên
nhiên, đất nước là cái tôi yêu nước mà sau cách mạng ông có thể tìm thấy, từ đó
ông thấy được, và luôn cố gắng để hòa nhập với cuộc sống mới, với con người
mới. Từ đó cũng thấy được lòng yêu nước, sự ham muốn giúp cho người dân
vùng Tây Bắc có thể xây dựng một cuộc sống tốt hơn, đầy đủ hơn sau cách
mạng.

Khúc vĩ thanh của dòng sông Đà đã in đậm dấu ấn cái “tôi” Nguyễn Tuân.
Tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của sông Đà dưới nhiều góc nhìn khác
nhau, qua đó thể hiện sự tài hoa, uyên bác của tác giả trong sự nghiệp văn
chương. Nhà văn đã vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật để khắc họa
về một dòng sông mạnh mẽ, dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng, trữ tình. Khi miêu
tả về đối tượng, Nguyễn Tuân đã sử dụng tinh hoa trong ngòi bút của mình với
hàng loạt biện pháp tu từ như liệt kê, so sánh, nhân hóa kết hợp với miêu tả tỉ
mỉ, sinh động để làm nổi bật vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).

Có lẽ khi đem lòng yêu một dòng sông, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy vẻ đẹp của
nó ở nhiều khía cạnh khác nhau. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà trong “Người lái
đò sông Đà” quả là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” mà người cầm bút tài hoa
Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công.

46
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(NGUYỄN MINH CHÂU)
Đề bài: Phân tích phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích:

“Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước
sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn
màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt
tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn
ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay
lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp
mắt nhìn xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một
chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau
họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách
dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền
rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.

Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ
đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy
ảnh xuống đất chạy nhào tới.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác -
thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy
một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như
một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề
ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức
nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc
này tôi biết là nó khỏe đến thế!

47
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết
làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc
khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông
đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại
chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai
cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.”

Bài làm

“Văn học ra đời để gìn giữ trong từng con người - một cái gì hết sức
mong manh và luôn luôn run rẩy. Một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó
trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người
được và trở thành một tai họa cho loài người” (Nhật kí - Nguyễn Minh Châu).
Được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc) “trong
cơn trở dạ nhiều đau đớn” của văn học thời kì đầu, Nguyễn Minh Châu đã thể
hiện bản lĩnh của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương
cần phải khác. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác
điển hình của ông, đặc biệt, truyện đã xây dựng vô cùng thành công phát hiện
thứ hai của nghệ sĩ Phùng, thể hiện rõ qua đoạn trích: “Từ chỗ chiếc xe tăng….
dúi xuống cát.”

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời năm 1983. Đây là thời điểm đất
nước đã kết thúc chiến tranh, hòa bình và thống nhất. Tuy nhiên những vấn đề
của thời hậu chiến vẫn vô cùng nhức nhối. Lúc này, quyền sống của dân tộc đã
được giải quyết nhưng những giá trị của con người đang trở thành mối quan tâm
hàng đầu. Tác phẩm được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987), mang
đậm phong cách tự sự - triết lí của nhà văn. Với ngôn từ dung dị, đời thường,
truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm
nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời. Đoạn trích thuộc
phần đầu của truyện, kể lại bức tranh đời sống mà nhiếp ảnh Phùng trực tiếp
chứng kiến khi chiếc thuyền vào đến bờ.

Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể
loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến
cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng
được bộc lộ sắc nét nhất hay nói cách khác tình huống truyện như một thứ nước

48
rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa, Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ những suy tư về nghệ thuật cùng cách nhìn
nhận đánh giá về hiện thực và con người của mình qua tình huống truyện đầy
nghịch lý. Nghệ sĩ Phùng đến vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh
cho bộ lịch năm sau. Tại đây, anh bất ngờ phát hiện một cảnh đẹp “trời cho” -
cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm hết sức thơ mộng, khiến cho tâm
hồn anh như được thăng hoa trong cái đẹp. Nhưng rồi cũng chính chiếc thuyền
ấy, anh lại chứng kiến bao ngang trái, nghịch lí của cuộc sống, đó là cảnh bạo
hành trong gia đình hàng chài, làm cho chàng nghệ sĩ phải sững sờ, kinh ngạc.
Có thể thấy, tác giả đã tinh tế xây dựng một tình huống nhận thức, gây ấn tượng
mạnh đối với mỗi một độc giả.

Ngược lại với phát hiện trước đó, chỉ cần chưa đầy mấy phút sau, Phùng
lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng mà trước hết là cảnh gã
đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Con thuyền
lưới vó ở đằng xa ấy, rõ ràng là một sự hòa hợp đến toàn bích, từ màu sắc đến
ánh sáng, từ đường nét đến bố cục, nó đẹp như “một bức tranh thủy mặc của một
danh họa thời cổ”. Ấy vậy mà, cũng bức ảnh ấy, cũng những con người ấy, cũng
cái thuyền mui khum khum ấy, khi nó “tịnh tiến một khoảng gần lại” thì lại
không phải như thế. Nó không đẹp được như vậy mà mang đậm dấu ấn của cái
ác. Lão chồng không hiểu vì ly do gì mà “lập tức trở nên hùng hồ, mặt đỏ gay,
lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa”, xả cơn giận như
lửa cháy của mình, “quất tới tấp vào lưng người đàn bà”, lão “vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két.”

Từng cử chỉ, lời nói, thái độ, nét mặt của ông đã khiến ta hãi hùng về cuộc
sống mà người đàn bà hàng chài đang chịu đựng và nhẫn nhục qua ngày. Ta
nghe tim mình ứa tràn nỗi đau bởi “cú mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa
bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ!”. Nhưng kỳ lạ là trước trận đòn như thế, người đàn bà chỉ im lặng,
nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn dù cho cái trận bạo
hành mà mình vừa hứng chịu không phải đến từ những người xa lạ, mà đến từ
chính người chồng của minh. Trước trận đòn roi này, người đọc cũng đã nhìn
thấy sự bất lực, buông xuôi và cam chịu của người đàn bà, thể hiện rõ qua từng

49
hành động, cử chỉ: “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc
nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.

Từ đó, người đọc càng thêm trăn trở và ngẫm nghiệm về cuộc sống của
người phụ nữ nói riêng, của con người nói chung trong thời kì hậu chiến lúc bấy
giờ. Để ta dễ dàng phát hiện ra, cảnh bạo lực gia đình này diễn ra ngay sau chiếc
xe rà phá mìn của Mĩ và người đàn ông đã lấy chiếc thắt lưng da của lính Ngụy
để đánh vợ. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không
khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình,
hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập
lại!? Câu trả lời vẫn còn đó nhưng có một điều chắc chắn rằng: dẫu chiến tranh
đã qua đi, con người vẫn phải đối diện với một cuộc chiến khác không kém phần
khốc liệt, dai dẳng-cuộc chiến chống đói nghèo, tha hóa.

Không chỉ dừng lại ở đó, Phùng con nhìn thấy cảnh thằng Phác đánh cha
nó - gã đàn ông. Thằng con “nhảy xổ vào cái lão đàn ông”, “nó giảng chiếc thắt
lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần
vạm vỡ cháy náng của bố nó” để che chở cho người mẹ đáng thương. Rồi người
đàn ông phản ứng bàng cách “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến
thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ
mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo” (Nguyên Ngọc). Nhưng
cũng chính vì sự vươn tới và cố gắng níu giữ cái đẹp mà con người ta lại vô tình
quên rằng: “không có gì là mãi mãi" và bức ảnh “đắt trời cho” sẽ luôn là sự
“vươn tới, là “sự níu giữ mãi mãi” nếu như nhân vật Phùng, hay chính nhà văn
không phơi bày cho chúng ta cảnh tượng “chồng đánh vợ”, “con đánh bố”, “bố
tát con” này, mà theo như nhà văn Tô Hoài thì đó là quá trình “đập vỡ những
thần tượng trong lòng người đọc”.

Những cảnh tượng đó khiến cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi:
Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà kinh ngạc, đau lòng, nhận
ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái
ác. Phùng là một người lính, đã từng vào sinh ra tử biết bao trận mạc, đã từng
đứng trước ranh giới của sự sống và cái chết. Thế nhưng khi đứng trước cảnh
bạo lực gia đình anh bị choáng ngợp mà “há hốc móm đứng nhìn”. Bởi anh hiểu,
trong cuộc sống vợ chồng, nhất là ở cái xã hội vẫn còn “trọng nam khinh nữ” thì

50
chuyện xô xát, to tiếng hay nặng lời, hay có chút “thượng cẳng chân hạ cẳng
tay” cũng là chuyện không quá là khủng khiếp.

Nhưng cái lạ ở đây là “người chồng đánh vợ như một thứ bản năng”: lão
có thể trở nên hùng hổ một cách nhanh chóng mà không cần một tác nhân nào,
và “có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết”. Ngay đến cả A Sử,
độc ác đến thế mà nó trói Mị còn có nguyên do, có tác động vì Mị không trả lời
nó. Thế mà, ở hai con người này, họ còn đủ bình tĩnh để đi khuất ra phía sau bãi
xe tăng hỏng rồi người chồng mới đánh vợ. Nghĩa là câu chuyện đánh vợ này
không phải là đột ngột, không phải là do người đàn bà đã “làm nên tội với
chồng”, cãi chóng mà bị đánh. Nó như là một nghi thức, một thói quen, một cái
nếp cần phải có trong cuộc sống hàng ngày của họ. Thế nên, dù có nằm mơ
Phùng cũng không thể nào tưởng tượng được.

Anh kinh ngạc đến độ vứt cả chiếc máy ảnh xuống: “Tất cả mọi việc xảy
đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra
mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy
nhào tới”. Cái hành động vứt chiếc máy ảnh hay ở chỗ: bên trong đó chứa đựng
cái “bức ảnh đất trời cho”, chứa đựng toàn bộ những gì tâm huyết nhất mà nghệ
sĩ Phùng đã cất công lắm mới có thể thu được; nó là tất cả cơ nghiệp mà nghệ sĩ
Phùng có, là công cụ để anh có thể tạo ra những bức ảnh đẹp. Tuy vậy, đứng
trước cảnh bạo lực, anh không còn nghĩ gì đến nghệ thuật mà chỉ hành động để
cứu người đàn bà hàng chài đang bị đánh. Dù không thể ngăn chặn được sự tiếp
diễn của câu chuyện nhưng phản ứng của Phùng đã cho thấy sự nghiệm ra của
nghệ thuật. Cái thứ nghệ thuật đẹp như “mơ” của mình hóa ra lại được phủ một
lớp sơn màu quá bóng, quá ảo diệu, ảo diệu đến mức che khuất đi hết tất thảy
hiện thực gai góc, nghiệt ngā, những góc khuất u uẩn, khó có thể giãi bày.

Từ tình huống nhân thức mới mẻ, độc đáo này, không chỉ riêng nghệ sĩ
Phùng mà những người yêu văn, yêu cái đẹp đã có những chuyển biến sâu sắc
trong suy nghĩ của mình. Nghệ thuật hay cuộc sống, hiện thực hay văn chương
đều có những khoảng lặng, có những bóng tối mà ta phải ngụp lặn sâu vào nó
mới có thể hiểu được. Và bản chất của cuộc sống vốn dĩ chứa đầy những nghịch
lí, nếu cứ nhìn cuộc đời một cách trực diện, đơn giản thì không bao giờ ta có thể
là người nghệ sĩ chân chính, không bao giờ ta có thể khám phá ra bản chất thật
của đời sống.
51
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ
giữa hiện thực đời sống và nghệ thuật. Nghệ thuật và hiện thực là một sự tương
phản. Nghệ thuật sẽ không phải là nghệ thuật, nếu nghệ thuật chỉ vị nghệ thuật.
Nghệ thuật sẽ chỉ là một sự đối chọi, va chạm nếu không xuất phát từ hiện thực,
dẫu no có đau đớn, trần trụi thế nào. Như Nam Cao từng nói: “Nghệ thuật không
cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 - 1975, khi để cập đến số phận
con người thì bao giờ các nhà văn cũng để cao vào khả năng con người vượt qua
nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con
người tìm thấy hạnh phúc. Nguyễn Minh Châu đã không đi theo con đường mòn
đó. Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với hình ảnh chi
tiết chân thực, giàu ý nghĩa biểu tượng và giọng văn nhỏ nhẹ, thấm thía triet lý
nhân sinh sâu sắc, điểm nhìn linh hoạt, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại
như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người cùng với đó là những cuộc
chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo sau khi đất nước thống nhất. Từ đó, tác
giả thể hiện sự chia sẻ cảm thông của mình với những số phận đau khổ tủi nhục
của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội, lên án, đấu tranh với
cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình và đồng thời phát hiện, ngợi
ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Ngoài ra, nhà văn cũng gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp có
chiều sâu.

Tình huống nhận thức trong tác phẩm được Nguyễn Minh Châu xây dựng
là một tình huống vô cùng nghịch lý. Đó là tình huống nhân vật Phùng đang
trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người
đàn ông đánh vợ một cách vô lý, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con
người, về cuộc sống của Phùng có những thay đổi: từ chỗ khám phá cái đẹp của
bức tranh thiên nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát hiện ra những
nghịch lí của cuộc đời: nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi, bi
đát của cuộc sống, nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ
chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không
bỏ vợ để rồi cuối cùng nhận thức được nhiều điều. Với tình huống truyện, nhà
văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan

52
hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thuật là một cái gì xa vời
như chiếc thuyền ngoài xa trong màn sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất
gần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, Nguyễn Minh
Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh
chân thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn.

Có những câu chuyện không chỉ được tạc dựng bằng tấm lòng của nhà
văn hay tiếng nói của thời đại, mà còn được lớn lên, được sống tiếp đời xanh của
một tác phẩm bằng những trăn trở, thổn thức để lại nơi tâm can người đọc. Sứ
mệnh của văn chương chính là như thế - giúp người đọc hiểu được muôn mặt
của đời sống và tìm ra cách ứng xử trước cuộc đời rộng mở ấy. Có thể khẳng
định, truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
trở thành một viên ngọc quý của văn học Việt Nam.

Đề bài: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích:
“Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một
chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau
họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách
dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền
rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc xảy đến khiến
tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế
rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác -
thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy
một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như
một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề
ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức
nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
53
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc
này tôi biết là nó khỏe đến thế!

Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết
làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc
khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông
đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại
chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai
cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về
phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng
khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang
đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu
trên bãi cát hoang vắng.

Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô
cùng xấu hổ, nhục nhã.”

Bài làm:

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng chiêm nghiệm rằng “Văn học và đời
sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Bao giờ cũng vậy,
văn học - đời sống - con người là những yếu tố không thể tách rời, nghĩa là bóng
dáng, hơi thở của triệu triệu sự vật, hiện tượng trên trang văn và cuộc đời phải
hòa làm một và cái đích đến của cuối cùng của văn chương là con người, văn
học sẽ không còn ý nghĩa khi văn học chỉ là nghệ thuật cứng đơ trên trang giấy
mà một tác phẩm thoát khỏi sự nghiệt ngã của thời gian phải là một chiếc gương
phản chiếu cuộc sống và hướng đến con người, đấy mới chính là thứ văn học
đáng thờ. Chiếc thuyền ngoài xa của tác giả Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm
đáng thờ như thế khi ông đã dấn thân, ngụp lặn vào cuộc sống của nhân dân lao
động để tái hiện lại cuộc sống khốn khổ của nhân dân sau chiến tranh đồng thời
vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về người dân lao động qua nhân vật người đàn bà
hàng chài, đặc biệt là qua đoạn trích “Lão đàn ông...xấu hổ, nhục nhã.”

Chiếc thuyền ngoài xa ra đời năm 1983. Đây là thời điểm đất nước đã kết
thúc chiến tranh, hoà bình và thống nhất. Tuy nhiên những vấn đề của thời hậu
chiến vẫn vô cùng nhức nhối. Lúc này, quyền sống của dân tộc đã được giải
54
quyết nhưng những giá trị của con người đang trở thành mối quan tâm hàng đầu.
Tác phẩm được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987), mang đậm phong
cách tự sự - triết lí của nhà văn. Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại
chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của
người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời. Bên cạnh nghệ sĩ Phùng, người đàn
bà hàng chài cũng là nhân vật để lại trong người đọc nhiều chiêm nghiệm sâu
sắc về cuộc sống.

Từ bức ảnh “toàn bích” cho bộ lịch năm sau theo yêu cầu của trưởng
phòng mà mình chụp được, nghệ sĩ Phùng đã khám phá được bao ngang trái,
nghịch lí của cuộc sống. Trong câu chuyện éo le ấy, hình tượng người đàn bà
hàng chài hiện lên là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh, của đói nghèo và bạo lực
gia đình nhưng hơn hết, vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng nơi chị vẫn luôn toả
sáng mạnh mẽ. Đoạn trích nói trên đã tái hiện lại cảnh người đàn bà kế cho
Phùng và Đầu nghe về câu chuyện của cuộc đời mình. Bằng bút pháp tả thực,
dung lượng dồn nén của một truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu đã gói gọn số
phận của người phụ nữ Việt Nam nói chung và của người đàn bà nói riêng từ
thời chiến đến thời bình.

Nếu như nhân vật Mị xuất hiện một cách ấn tượng trong đoạn mở đầu
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ thì người đàn bà hàng chài lại xuất hiện trong một
tình huống đặc biệt, gắn với phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng. Vừa xuất hiện,
Phùng gọi người đàn bà hàng chài lúc thì là mụ rồi đến chị ta, khác hoàn toàn
với Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” được khắc hoạ là một nhân vật hoàn
mỹ, lý tưởng, đẹp từ tên gọi cho đến đôi gót chân bóng hồng sạch sẽ, từng sợi
tóc lấp lánh dưới ánh trăng thượng huyền. Cách gọi ấy cũng đã gợi lên thân
phận bé nhỏ của con người lao động thời hậu chiến, tăng tính khái quát cho hình
tượng đặc biệt này. Và không phải ngẫu nhiên mà cho đến khi kết thúc câu
chuyện, người đọc vẫn không biết tên của chị. Là một người vô danh như bao
người đàn bà vùng biển khác nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập
trung thể hiện và được người đọc quan tâm, ít nhiều gợi ta nhớ đến nhân vật Thị.
Phải chăng, họ đều đại diện cho những người đang sống giữa cuộc đời mà số
phận lại mỏng manh.

Người đàn bà trên chiếc ngoài xa có lẽ đã sống trọn một kiếp đời éo le,
bất hạnh, bởi chị không chỉ là nạn nhân của cái nghèo, cái đói mà còn là nạn
55
nhân của bạo lực gia đình. Với ngoại hình của mình thì rõ ràng chị ta bị thua
thiệt về nhan sắc. Giống như quy luật nhân quả, sự thua thiệt về nhan sắc ấy sẽ
dẫn đến sự hẩm hiu về duyên phận. Vì xấu nên chị mãi không lấy được chồng,
trót có mang với anh hàng chài và bén duyên, trở thành vợ chồng.

Ngỡ rằng cuộc sống từ đây sẽ bước sang một trang mới, thế nhưng, người
đàn bà hàng chài đã bị chồng đánh liên tiếp một thời gian dài, chị phải chịu đựng
sự tồi tệ của người chồng mà chị hết mực yêu thương và trân trọng. Ta tự hỏi
trong tâm trí người đàn ông hàng chài có còn xem chị là vợ hay người vợ hiển
ấy trong mắt lão chỉ còn là một “bao bột” để lão trút hết mọi oán hờn với cuộc
đời: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra
một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với
nhau họ đã nói hết, chàng nói chẳng ràng lao trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa
thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két.”

Những trận đòn roi ấy đã tiếp diễn từ ngày này qua ngày khác, người đàn
ông không tiếc sức lực mà “quật” mạnh như lửa cháy vào lưng vợ mình, từng cử
chỉ, lời nói, thái độ, nét mặt của ông đã khiến ta hãi hùng về cuộc sống mà người
đàn bà hàng chài đang chịu đựng và nhẫn nhục qua ngày. Ta nghe tim mình ứa
tràn nỗi đau bởi “cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyễn rủa bằng cái giọng rên
rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhỏ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Đó
là câu nói mà một người vợ hiền, chịu thương chịu khó đáng phải nhận được hay
chăng?

Từ đó, người đọc càng thêm trăn trở và ngẫm nghiệm về cuộc sống của
người phụ nữ nói riêng, của con người nói chung trong thời kì hậu chiến lúc bấy
giờ. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng
khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình, hay đó
là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại!? Câu
trả lời vẫn còn đó nhưng có một điều chắc chắn rằng: dẫu chiến tranh đã qua đi,
con người vẫn phải đối diện với một cuộc chiến khác không kém phần khốc liệt,
day dẳng - cuộc chiến chống đói nghèo, tha hoá.

Với sứ mệnh “đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bể sâu tâm hồn con
người”, Nguyễn Minh Châu không chỉ đơn thuần phác họa số phận của người

56
đàn bà hàng chài mà ông còn đi sâu khám phá những phẩm chất đáng trân trọng
của chị. Nổi bật lên trong nét tính cách ấy chính là sự cam chịu, nhẫn nhục đến
mức lạ kỳ. Cái cách đánh của người chồng mới xót xa làm sao! Ấy vậy mà, chị
“không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”,
chị chọn cách im lặng, nhẫn nhục chịu đòn. Lạ kì hơn, khi bị đánh, người đàn bà
hàng chài đã bình tĩnh để đón nhận đòn roi mà không rơi một giọt nước mắt dù
cho cả trái tim và thân thể đã vỡ tan thành từng mảnh. Chị cũng là con người,
thậm chí là một người phụ nữ chân yếu tay mềm thế mà đứng trước những trận
đánh, chị lại tỏ ra không hề hấn gì. Độc giả có thể nhận ra dường như chị đã quá
quen với những sự dày vò này và xem đó là một việc hiển nhiên, là một phần
trong cuộc sống bi thảm của mình.

Ở tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thực sự lách vào rất sâu
giữa những mảng hiện thực còn nhiều nham nhở tăm tối của cuộc đời, để khám
phá con người cá nhân trong sự đa chiều và phức tạp, trong những vấn đề nhìn
vậy, tưởng vậy mà không hẳn là vậy vì “cuộc sống vốn đa sự mà con người lại
quá đa đoan. Nhờ đó ông mới phát hiện ra, lòng vị tha, giàu đức hi sinh và hơn
hết là tình yêu thương vô bờ bến dành cho con - vẻ đẹp truyền thống của người
phụ nữ Việt Nam bao đời nay khuất lấp và ngời sáng ở người đàn bà. Ngày xưa,
nàng Kiều cũng “thân lươn bao quản lấm đầu" để giữ lấy sự trinh bạch, còn
người đàn bà hàng chài thì cam chịu tất cả vì không muốn ai biết chuyện mình
bị bạo hành, vì không muốn những đứa con thơ ngây phải chứng kiến cảnh bố
đánh mẹ. Và quan trọng hơn tất thảy, người đàn bà ấy muốn giữ cha cho con,
muốn giữ một người đàn ông chèo chống lúc phong ba, kiếm kế sinh nhai, nuôi
những đứa con khôn lớn từng ngày.

Bạn đọc yêu văn khó có thể tưởng tượng ra chị ta đau đớn đến nhường
nào, xấu hổ, nhục nhã đến nhường nào khi để cho đứa con mà mình hết mực yêu
thương chứng kiến hành động vũ phu của chồng, khi nhận ra bao nhiêu cố gắng,
nỗ lực của chị vẫn không thể cứu vớt một gia đình tan vỡ, khi bất lực nhìn đứa
con mình yêu thương nhất đi vào con đường sai trái chỉ bởi nó muốn giải thoát
cho mẹ. Bao nhiêu trận đòn roi cũng không thể so sánh với nỗi đau này. Để từ
đó, ta phần nào hiểu được vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng:

“Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng

57
Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời.”

(Tố Hữu)

Ngoài ra, người đàn bà hàng chài còn có một triết lý sống cao cả. đó là
sống vì con. Chị sẵn lòng hy sinh hạnh phúc cá nhân để quên đi cả vui buồn, cay
đắng mà bản thân phải chịu, mặc đời mình thả trôi theo cơn lũ kinh hoàng của
đau khổ và rạn nứt chỉ vì con. Đó cũng chính là bóng dáng cuộc đời của biết bao
người vợ, người mẹ, người phụ nữ Việt Nam nhẫn nại cay đắng mà vẫn trong
trẻo một tấm lòng vị tha, nhân hậu, giàu đức hy sinh.

Không chỉ dừng lại ở tình yêu thương con, người đàn bà hàng chài cũng là
một người vợ sống hết mình vì chồng. Chị cam chịu lão chồng vũ phu, vì dù gì
thì cũng nhờ có lão, chị mới có một mái ấm gia đình. Chị thấu hiểu điều đó và
còn hiểu nhiều hơn nữa khi trong chị đức hy sinh luôn đập song hành với nhịp
đập trái tim ấm áp của một người làm mẹ. Đồng thời, chị có cách riêng của mình
để san sẻ với chồng-chịu đánh. Từ đây, ta càng thêm ngậm ngùi bởi tấm lòng
rộng lớn của một người vợ dành cho người bạn đời bên cạnh mình, họ đã sống
mà không còn nghĩ riêng cho mình.

Qua đoạn trích, có thể thấy, nhân vật người đàn bà hàng chài đã góp phần
làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Trước hết, nhân
đạo gắn với cái nhìn mới, đầy phát hiện về hiện thực cuộc sống sau 1975, trong
khi các nhà văn đang hân hoan ngợi ca chiến thắng thì Nguyễn Minh Châu rẽ
ngoặt đề tài, khuynh hướng để đến với những phận người đau khổ, hiếu thấu và
chia sẻ, bênh vực họ. Nhân đạo còn gắn với cảm hứng ca ngợi con người. Nếu
trước 1975 những con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu lồng lộng vẻ
đẹp mang tính lý tưởng hóa, thì nhân vật người đàn bà hàng chài hoàn toàn
ngược lại, đó là những phận người bé nhỏ, mong manh, tội nghiệp nhưng nếu
chúng ta khám phá với cái nhìn trân trọng sẽ phát hiện những phẩm chất rất đẹp
đẽ. Nhân vật người đàn bà thật sự đã đánh dấu sự chuyển đổi đề tài, cảm hứng,
cách viết của giai đoạn văn học thời hậu chiến.

Bức chân dung của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích được tác giả
xây dựng bằng nghệ thuật đậm nét sự sáng tạo. Với cách xây dựng đoạn đối
thoại rất tự nhiên và có ý nghĩa, nhân vật hiện lên không chỉ qua ngoại hình mà
còn qua lời nói, cử chỉ từ đó làm nổi bật tính cách riêng, tiêu biểu, ngôi kể, điểm

58
nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết
phục kết hợp với ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách, lời văn
giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa, tác giả đã làm nổi bật số phận đắng cay, vất vả và
vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài. Đó là một vẻ đẹp khiêm nhường,
bình dị như hạt ngọc giữa đời thường mà nhà văn đã đi sâu khám phá và thể hiện
một cách xúc động.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 - 1975, khi để cập đến số phận con
người thì bao giờ các nhà văn cũng để cao vào khả năng con người vượt qua
nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con
người tìm thấy hạnh phúc. Nguyễn Minh Châu đã không đi theo con đường mòn
đó mà phong cách của ông mang đậm triết lí nhân sinh với cảm hứng thế sự đời
tư, quan tâm đến số phận con người. Để rồi, qua đoạn trích, ông thật sự cảm
thông, đau xót trước tình trạng bạo lực, trước bi kịch gia đình khủng khiếp,
trước thân phận của người phụ nữ miền biển; bày tỏ tình yêu thương đối với
những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, nhọc nhằn.

Đặt nhân vật trong toàn bộ tác phẩm, ta thấy hình tượng người đàn bà
hàng chài đã góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề tác phẩm. Và trong sự nghiệp
văn chương của Nguyễn Minh Châu, nhân vật người đàn bà là một sự tiếc nuối
trong dòng cảm hứng, suy tư của tác giả về người phụ nữ Việt Nam. Đó là Quỳ
trong người đàn bà trên chiếc tàu tốc hành, Liên trong tác phẩm Bến quê, Huệ
trong Phiên chợ giáp, Em trong Miền cháy-họ đều là những người đàn bà chịu
bao vất vả, cực khổ nhưng vẫn luôn ánh lên những vẻ đẹp đáng trân trọng, nhất
là thiên chức của một người mẹ hết lòng vì con. Đồng thời, đặt nhân vật trong
dòng chảy văn học sau 1975, nếu Ma Văn Kháng viết về sự tấn công của nền
kinh tế thị trường làm đảo lộn mọi giá trị, Lưu Quang Vũ phát hiện những điều
lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với chế độ thì Nguyễn Minh Châu viết về
những phận người trăm đắng ngàn cay trong gánh nặng mưu sinh với niềm
mong mỏi họ phải giữ được tình người, tính người. Sự chuyển đổi đề tài, cảm
hứng bằng cách viết này đã góp phần khẳng định tài năng của nhà văn khi đi
một lối đi riêng.

Có những câu chuyện không chỉ được tạc dựng bằng tấm lòng của nhà
văn hay tiếng nói của thời đại, mà còn được lớn lên, được sống tiếp đời xanh của
một tác phẩm bằng những trăn trở, thổn thức để lại nơi tâm can người đọc. Sứ
59
mệnh của văn chương chính là như thế - giúp người đọc hiểu được muôn mặt
của đời sống và tìm ra cách ứng xử trước cuộc đời rộng mở ấy. Có thể khẳng
định, truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
trở thành một viên ngọc quý của văn học Việt Nam.

Đề bài: Phân tích phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng.

Bài làm

Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng
đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh
biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu
năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến
trường cũ của anh thời chống Mĩ. Ở đây anh đã có hai phát hiện thật kì lạ. Phát
hiện thứ nhất được đoạn trích trên ghi lại chính là cảnh chiếc thuyền ngoài xa-
bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ.

Đoạn trích mở đầu bằng lời khẳng định của Phùng về khoảnh khắc có một
không hai trong cuộc đời cầm máy ảnh của mình, đó là khoảnh khắc anh phát
hiện ra bức ảnh nghệ thuật-một tuyệt tác của thiên nhiên tạo vật lúc bình minh:
“Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời
cho như vậy”. Cảm xúc phấn khởi, phấn chấn, sự xuýt xoa, hân hoan của người
nghệ sĩ khi bắt gặp đối tượng thẩm mĩ được gợi ra qua cụm từ “có lẽ suốt một
đời”, rồi “chưa bao giờ”. Đồng thời, từ “đắt” cùng cách nói “cảnh “đắt” trời
cho” đã cho thấy niềm vui sướng vô bờ của nhiếp ảnh gia Phùng bởi lẽ đối với
người làm nghệ thuật, việc chụp được một tấm ảnh mình tâm đắc có lẽ là diễm
phúc chỉ bắt gặp một lần. Đây có thể nói là cơ hội, là khoảnh khắc có một không
hai trong cuộc đời cầm máy ảnh của Phùng. Chữ “đắt” còn cho thấy sự quý giá
của khoảnh khắc - một khoảnh khắc hiếm hoi, hi hữu, kỳ diệu.

Trong cảm nhận của Phùng, cảnh trước mặt anh giống như “bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ”. Trang bằng mực tàu là tranh thủy mặc - một
loại tranh có sự kết hợp hài hòa giữa thơ ca, hội họa và thư pháp. Đó là bức
tranh đẹp có thần sắc, vừa hiếm lại vừa quý. Hơn tất thảy, bức tranh đó là bức
tranh của một danh họa thời cổ. Cách cảm nhận đó vừa làm toát lên được giá trị
của bức tranh vừa nhấn mạnh khoảnh khắc đắt giá tạo nên kiệt tác của Phùng.
60
Qua đó nhà văn ngầm khẳng định: những tác phẩm nghệ thuật vô giá không phải
tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của một hành trình đi tìm cái đẹp, một quá trình
lao động miệt mài của người nghệ sĩ chân chính. Với người nghệ sĩ, không niềm
vui nào so sánh được với việc khám phá được vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên và
cuộc sống.

Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” hiện lên trên trang văn trước hết là một
bức ảnh giản dị. Đó là tấm ảnh của những điều thật, một chiếc thuyền lưới vó
bình thường như bao con thuyền khác trên bãi biển này, có “vài bóng người lớn
lån trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên mui khum khum hướng vào bờ”.
Tưởng chừng như đây cũng là một bức ảnh như bao bức ảnh ngoài kia, thế
nhưng, dưới đôi mắt của người nghệ sĩ, nó lại đẹp đến lạ. Từ láy “phăng phắc”,
“khum khum” trong sự kết hợp nhuần nhị với phép so sánh độc đáo đã mang
đến nét đẹp tĩnh tại, thanh tịnh, lắng đọng. Và nó quả thật là một khoảnh khắc
tuyệt diệu, một “cảnh đắt trời cho” như chính Phùng thú nhận. Bình dị là thế,
bức ảnh cũng hết sức lãng mạn và thơ mộng trữ tình. Khung cảnh thiên nhiên
hiện lên huyền ảo: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.”
Không gian là mặt biển sương mù, thời gian là lúc sáng sớm bình minh. Trong
không gian, thời gian ấy chiếc thuyền ngoài xa hiện lên “lòe nhòe”- từ láy gợi tả
sự hư ảo, mơ hồ và có chút gì đó mơ màng trong sương khói. Phép so sánh “bầu
sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào” đã làm nổi bật hai tông màu chủ đạo của bức tranh là màu trắng như sữa và
màu hồng, tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật đặc sắc. Màu trắng là gam màu lạnh
trong khi màu hồng là gam màu nóng, cứ tưởng rằng hai màu sắc ấy sẽ đối lập
nhau, ấy vậy mà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Minh Châu, nó lại hài hòa
đến lạ, khiến cho bức tranh trong trẻo, thanh khiết, tinh khôi như cõi ảo huyền,
thần tiên. Nhạy cảm trước cái đẹp, Phùng đã nhanh chóng chọn bố cục cho tấm
ảnh: “tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa
hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cảnh một con dơi”. Trong hình
dung ấy chiếc thuyền sẽ nằm gọn trong tâm điểm của ống kính nghệ thuật và
trong sự lộng lẫy kỳ diệu của ngoại cảnh. Phép so sánh “y hệt cảnh một con dơi”
cùng cách miêu tả “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe” tạo sự sự sống động
cho bức tranh cũng như sự hài hòa của “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến
ánh sáng”.
61
Có thể thấy, ngòi bút một thời lãng mạn nổi tiếng vẫn còn dồi dào men
say để tụng ca cái đẹp. Không có gì gợi hơn bức tranh của ngôn ngữ tài hoa,
những câu từ lãng mạn ấy đã khơi gợi trong chúng ta một hình ảnh cảnh biển
buổi sáng có sương mù thật tuyệt đẹp: vừa có nét cổ điện vừa có nét hiện đại,
vừa tĩnh tại lại vừa sống động, “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Trong
con mắt của người nghệ sĩ, cái đẹp “đơn giản” là cái đẹp đời thường còn đẹp
“toàn bích” là cái đẹp hoàn hảo trong sáng. Điều đó giúp ta ý thức được rằng:
những kiệt tác nghệ thuật không phải tìm kiếm ở đâu xa mà nó có ngay trong
cuộc sống đời thường, trong những điều giản đơn nhưng để khám phá nó thì
người nghệ sĩ phải có trái tim nhạy cảm trước cái đẹp. Đó có lẽ cũng là cảm
nhận của nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu. Về
cuối đời, Nhĩ mới nhận ra cái đẹp không phải thuộc về những nơi anh từng đến
mà cái đẹp thuộc về căn nhà nhỏ của anh với sự tần tảo của người vợ, sự đáng
yêu của những đứa con, cái đẹp có bên khung cửa sổ mỗi ngày.

Đoạn trích trên không chỉ mang đến cho chúng ta hình ảnh thiên nhiên
tuyệt mĩ, mà còn cho chúng ta được khám phá một người nghệ sĩ vô cùng tâm
huyết, yêu nghề, có năng lực, vô cùng tinh tế nhạy cảm và đặc biệt là hết lòng
yêu cái Đẹp. Quá trình “bắt được cảnh đẹp” của Phùng cũng trải qua khá nhiều
gian truân. Mặc dù, đã lên kế hoạch rất kỹ càng, “phục kích” suốt cả một tuần
nhưng Phùng vẫn chưa thu được bức ảnh nào ưng ý. Lần thứ nhất Phùng không
lấy “cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước” vì “cảnh đẩy thuyền đầy
không khí vui nhộn, thật hùng tráng” này lại có gì “hơi thô lỗ”. Lần thứ hai
Phùng cũng không lấy cảnh “thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng”
vì đó là “một cảnh chết” do có quá nhiều người đã khai thác. Lần thứ ba, Phùng
cũng không lấy cảnh “đằng đông đã trắng sáng, trên một nửa vòm trời sao đã lặn
hết. Những đám mây hình vỏ sò cứ hồng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã
sáng rõ, đến cái mức trong bờ cũng đã nhìn thấy từng đường nếp gấp lăn tăn trên
mặt tấm thép dát màu xám đục”, Phùng cho “cảnh này sao mà tẻ nhạt”. Phải mất
một tuần lễ, đến lần thứ tư này, Phùng mới chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp -
cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, bức ảnh mà Phùng thu được, bộ ảnh và
cả phòng Phùng thực hiện năm đó không phải là sự ăn may, không phải là sự
“làm cho có”, thực hiện cho xong. Mà đó, là kết quả của một sự lao động hết sức

62
tận tâm, là thành quả lao động rất miệt mài, nghiêm túc của những người nghệ
sĩ, trong đó có Phùng. Đó là một sự đến bù xứng đáng cho công sức của Phùng,
của những người nghệ sĩ chân chính, là cái tâm trong công việc của những người
nghệ sĩ, những con người suốt đời cám ống kính thu vào lăng kính của minh cái
đẹp của cuộc đời. Và đó, cũng là lời nhắn nhủ của Nguyễn Minh Châu cho
những ai đam mê theo đuổi “cái đẹp”. Cái đẹp là thế giới của cái “chân - thiện -
mỹ”, cái đẹp là cái tiếng nói của lương tri. Vậy nên, đã quyết đi theo cái đẹp là
phải mang theo mình tư tưởng “tìm cái đẹp trong sự vật ấn lấp”, phải sống hết
minh để cống hiến cho cái đẹp. Nếu cái đẹp mà hời hợt, mà sáo rỗng, mà cho có
thì chỉ là cái đẹp “do bán”.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi chia sẻ: “Nói đến nghệ thuật tức là nói đến sự
cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả”, và bức ảnh “đất trời cho” mà
Phùng vừa thu được từ bãi xe tăng hông cũng được coi là một định nghĩa về cái
đẹp thực sự. Bởi trước khung cảnh tuyệt đẹp này, Phùng đã có những cảm xúc
và suy nghĩ thật đặc biệt của một người nghệ sĩ hết mình yêu cái Đẹp. Anh là
người cả đời đi săn lùng cái đẹp, đi thu vào ống kính chiếc Pra-ti-ca của minh
những vẻ đẹp của cuộc sống. Cho nên, anh cũng không lạ lùng gì trước những
cảnh đẹp, nhưng khi thu duoc cảnh “đất” này, trong Phùng lại xuất hiện những
cảm xúc ngỡ như lần đầu. Đó còn là những cảm xúc mãnh liệt: “Trong giây phút
bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, “cái khoảnh khắc hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn mình”, Phùng xúc động vô cùng trước cái Đẹp - một nguồn
cảm xúc trong trẻo, dạt dào. Người nghệ sĩ ấy đã thực sự đắm mình cùng nghệ
thuật. Anh đã bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc
Pratica cái hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình. Đồng thời Phùng suy nghĩ:
“chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái Đẹp chính là đạo đức,
Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là sức mạnh của cái Đẹp.
Cái khả năng kì diệu của nó trong việc thanh lọc tâm hồn con người.

Và lần đầu tiên, Phùng phát hiện ra “cái đẹp chính là đạo đức”, cái đẹp
chính là cái thiện, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự
toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc của tâm hồn”. Nó đã làm cho người
nghệ sĩ như Phùng cảm thấy thấm thía cái nghề cao quý của mình, và chúng ta
nhận ra rằng: Khi cái đẹp trở thành đạo đức, và đạo đức chính là cái đẹp thì đó

63
đích thực là đạo đức. Đứng trước cái đẹp, chúng ta cảm thấy tâm hồn mình như
được gột rửa, thanh tao và nhẹ nhàng hơn, không phải vướng bận hay hoài nghi
về những chuẩn mực thì đó chính là cái đẹp, cái đạo đức thực sự. Con người đôi
khi để thực hiện đạo đức cũng phải có những quy định, những áp chế, những
khuôn mảu. Nếu không đúng cái đạo đức sẽ khống chế, sẽ nhắc nhở, sẽ áp đặt.
Những sự thật rằng, nếu cú khuôn máu như vậy, người ta sẽ thực hiện đạo đức
không hản là vi người đó đạo, mà người ta sợ mà phải thực hiện theo đúng
chuẩn mực mà thôi! Tình huống trên bãi biển mà Phùng chứng kiến là một tình
huống khám phá. Anh không thể mơ mộng như trước đó, giờ đây anh nhận ra
đằng sau bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm mà anh tình cờ chụp
được là số phận đau đớn và bao ngang trái của gia đình hàng chài kia. Nghệ
thuật vốn dĩ sinh ra từ cuộc đời nhưng không phải cái gì của cuộc đời cũng là
nghệ thuật. Cái bên ngoài có khi rất đẹp nhưng che lấp các bên trong nó vô cùng
xấu xa. Từ đây Nguyễn Minh Châu đã ngầm đặt ra vấn đề là người nghệ sĩ nên
đứng xa xa mà nhìn cuộc đời cho nhẹ nhõm tâm tư hay lại gần mà mua phiền
chuốc não?! Câu trả lời đã hiện rõ trong trong cách xây dựng tình huống này.

Đốtxtôiepxki đã từng nói “cái đẹp cứu vớt nhân loại”. Nguyễn Tuân cũng
đã từng say mê, tôn thờ cái Đẹp như một tôn giáo vạn năng. Và bao nhiêu người
nghệ sĩ từ xưa tới nay nghiêng mình trước cái Đẹp để tôn thờ cũng như là đích
tìm kiếm của cảm hứng sáng tạo trong nghệ thuật. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài
xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp
nghệ thuật. Cũng như là một biểu tượng của cái Đẹp nghệ thuật. Để rồi sau đó
nhận ra giá như cuộc đời chỉ có như vậy thì thật nhẹ nhõm biết bao! Giá như chỉ
có phát hiện thứ nhất như vậy thì hẳn rằng cuộc đời này chỉ là màu hồng đẹp đẽ,
nhẹ nhàng, thanh thoát không làm ai ưu sầu!

Để làm nổi bật phát hiện thứ nhất Nguyễn Minh Châu đã kỳ công trong
xây dựng tình huống truyện - phát hiện thứ nhất mang tính luận đề, làm nổi bật
phát hiện thứ hai, cảnh đời đen tối trái ngang. Cùng với đó là ngôn ngữ mộc
mạc, giản dị, chắt lọc, giọng điệu trầm lắng, trăn trở suy tư, nhiều dư vị, liên
tưởng bất ngờ kết hợp với tâm lý nhân vật được miêu tả tinh tế, chân thực, việc
lựa chọn điểm nhìn nghệ thuật đã làm nổi bật bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ.

Nhìn lại lịch sử văn học dân tộc, những nhà văn chân chính luôn xác định
“chuyên chú ở con người”. Vở bi kịch lịch sử Vũ Như Tô đã từng triết lý về mối
64
quan hệ giữa cái đẹp và cái thiện, giữa nghệ thuật và cuộc sống nhân dân. Trăng
sáng của Nam Cao là sự đoạn tuyệt với ánh trăng xanh lừa dối của nghệ thuật
mà đến với túp lều dột nát với những số phận cần chia sẻ,…Thực ra thiên chức
của người nghệ sĩ chính là vậy: “ Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì
thế, để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị
cái ác hoặc số phận đen đủi dồn người ta đến chân tường, những con người cả
tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết niềm tin
vào con người và cuộc sống, để bênh vực cho những con người không có ai để
bênh vực”. (Nguyễn Minh Châu).

65
VỢ NHẶT
(KIM LÂN)
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong đoạn trích “Bà lão
cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi,
người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà
rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không?

Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay
vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ
được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra
mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó,
chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết
được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:

- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng
bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra
may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có
ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng
sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà
có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão
nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài
dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn
bố mẹ trước kia không?...

66
Bài làm

Nam Cao đã từng viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,
nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ
kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Thật vậy, hiện thực cuộc sống chính là cái
nền cho những cảm hứng sáng tác chắp cánh và đâm chồi, nghĩa là nghệ thuật
phải phản chiếu cuộc sống của con người, là lời ca tụng hân hoan, giọt nước mắt
đắng cay hay tiếng đau khổ thoát ra từ kiếp lầm than. Vợ nhặt của Kim Lân là
một tác phẩm như thế, được xây dựng từ những chất liệu nguyên sơ của cuộc
sống, là chuyện đời cũng là chuyện người. Tác phẩm đã len lỏi vào sâu trong trái
tim mỗi một độc giả về một giai đoạn tang thương trong lịch sử với những thân
phận khốn khổ trước nạn đói. Viết về những người nông dân khốn khổ ấy, nhà
văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ, diễn biến tâm trạng
nhân vật ấy được nhà văn tập trung xây dựng quan đoạn trích “Bà lão cúi đầu
nín lặng...trước kia không.”

Là một trong những nhà văn sống trọn những năm tháng chứa đựng nhiều
biến cố lịch sử của nước nhà và trải qua hai giai đoạn lớn trong nền văn học Việt
Nam, Kim Lân đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ
bởi kho tàng truyện ngắn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” của mình mà Vợ nhặt
chính là mốc son chói lọi không chỉ trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân mà
còn trong cả văn đàn Việt Nam. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư” viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Nhưng do thất lạc bản thảo,
tới năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết “Vợ nhặt”, in
trong tập truyện ngắn "Con chó xấu xí" (1962). Tác phẩm vì thế không chỉ là kết
quả của quá trình suy ngẫm, gọt giũa cả về nội dung và nghệ thuật mà còn mang
âm hưởng lạc quan của thời đại mới.

Lấy cảm hứng từ câu chuyện về đời sống của người nông dân Việt Nam
trước cách mạng tháng 8/1945, nhà văn Kim Lân đã phác họa thành công bức
tranh về cuộc sống khó khăn, lay lắt đến thê thảm của người nông dân ở làng
quê Việt Nam. Cùng viết về cái đói, nhưng không như các nhà văn khác khai
thác về những khía cạnh tối tăm và bất lực, ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phát hiện
ra vẻ đẹp kỳ diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt và ông luôn
muốn cho độc giå thấy rằng “dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn
vượt lên trên tất cả”, rằng “có tình người là có cuộc sống, có tình người là có hi
67
vọng vào tương lai" (Kim Lân). Đoạn trích thuộc phần giữa truyện, diễn tả tâm
trạng của bà cụ Tứ khi Tràng dẫn người vợ nhặt về và khi bà nói chuyện với
nàng dâu mới.

Bà cụ Tứ là một nhân vật có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư
tưởng chủ đề tác phẩm. Hình tượng bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ lao động
nghèo nhưng hơn hết, vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng nơi bà vẫn luôn toả sáng
mạnh mẽ. Đó là tấm lòng nhân hậu, giàu lòng vị tha và có niềm tin hy vọng
mãnh liệt vào sự sống, vào tương lai. Xây dựng nhân vật này, tác giả chủ yếu đi
sâu vào miêu tả tâm lí xoay quanh tình huống Tràng nhặt được vợ. Và bà cụ Tứ
cũng là hình ảnh của rất nhiều người phụ nữ Việt Nam luôn hết lòng yêu thương
con, gánh vác bao nhiêu gian khổ, khó khăn.

Trong tác phẩm, Kim Lân chỉ giới thiệu sơ lược về diện mạo, ngoại hình,
hoàn cảnh để từ đó khái quát số phận bà cụ Tứ. Nhưng chỉ thông qua một vài chi
tiết chọn lọc như dáng đi lọng khọng, đôi mắt kèm nhèm và tiếng húng hắng ho
cùng hình ảnh về ngôi nhà nghèo nàn xơ xác, người đọc đã đủ hình dung về số
phận của một người mẹ ngụ cư khốn khổ mất đi chồng cùng đứa con gái trong
nạn đói khủng khiếp. Người mẹ ấy đã bị cái đói đeo bám, truy đuổi trong suốt cả
cuộc đời dài đằng đẵng. Chính vì lẽ đó, ngay từ những ấn tượng ban đầu, Kim
Lân đã gợi rất nhiều sự thương cảm xót xa từ hình ảnh bà cụ Tứ.

Trong đoạn trích, ngay sau sự ngạc nhiên, bà cụ Tứ có tâm trạng xót
thương cho con mình. Khi nghe lời giải thích đồng thời cũng là lời giới thiệu
ngắn gọn nhưng đầy ý nhị của Tràng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u
ạ!”, bà chỉ “cúi đầu nín lặng”. Kim Lân không diễn tả thêm những căn vặn trong
thâm tâm của nhân vật hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn
giản là hành động cúi đầu. Thế nhưng phản ứng không lời ấy lại chất chứa đầy
cảm xúc, những suy nghĩ bộn bề trong sâu thẳm tâm hồn bà. Đó là sự im lặng tủi
phận, im lặng cam chịu, im lặng chua cay.

Bà mẹ nghèo như đã “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình”. Sự im lặng chứa đẩy nội tâm ấy là sự hòa
trộn của biêt bao thanh âm đang giằng xé trong lòng bà lão đáng thương: có
buồn vui, có đau xót, có thương yêu, lại có cả những lắng lo lẫn lộn. Bởi bà mẹ
đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm của một cuộc đời đã trải qua

68
bao gió sương, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn với anh con trai
đón lấy hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng mơ ước tinh thần phơi phới. Đó còn
là khi con trai bà vốn không phải một người xuất chúng, kỳ tài, lại ngay giữa
nạn đói mòn mỏi như cơn lũ ác liệt đang từng ngày từng giờ cuốn trôi bao sinh
mạng thoi thóp ngoài kia.

Vì lẽ đó, bà lão không tài nào giấu nổi sự ngỡ ngàng, xót đắng đang dâng
tràn lên trong tim: “Chao ôi, người ta dựng vợ gã chồng cho con là trong lúc nhà
đang ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình
thì...”. Dấu chấm lửng đã thay nhà văn Kim Lân lẫn bà cụ Tứ diễn tả hết sự chua
xót não nề nghẹn lại nơi cuống họng. Lúc này đây, dường như bao nhiêu cay
đắng của một cuộc đời đoạn trường với bao khó nhọc chồng chất như cùng một
lúc ùa về. Bà không đau lòng sao được bởi dựng vợ gả chồng vốn là việc hệ
trọng cả đời người, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, còn con bà lấy vợ trong hoàn cảnh đói khát cùng đường. Tấm lòng
người mẹ ấy ta cũng đã từng bắt gặp ở nhân vật người đàn bà hàng chài trong
trang văn của Nguyễn Minh Châu. Khắc hoạ trọn vẹn những tấm lòng ấy, nhà
văn vẫn muốn ca ngợi về vẻ đẹp của người mẹ, của người lao động thời bấy giờ.

Nỗi lòng của người mẹ nặng trĩu âu lo khi cái nghèo dồn dập và cái tình
người thì vẫn còn đong đầy: “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng
nước mắt...”. Đây là giọt nước mắt cố kìm nén, tuy nhiên nó chỉ “rỉ” ra cũng bởi
cả đời ba đã phải cạn khô nước mắt vì những năm tháng đói khổ. Giọt nước mắt
ấy vừa là nước mắt của bao đau khổ lẫn mừng vui cho đứa con trai. Bà hạnh
phúc khi từ nay con trai có người nâng khăn sửa túi, có một tổ ấm của riêng
mình. Thế nhưng trong niềm vui ấy bà cũng đau lòng biết bao, bà cụ càng thêm
nghẹn ngào khi nghĩ về những bổn phận chưa làm tròn cho con trai. Những
nghèo túng. Những thiếu thốn. Những khắc khổ, lo toan giữa cuộc đời xoay vần
ngoài kia đã vắt kiệt sức của bà. Người mẹ đáng thương của Tràng đã tự trách
mình vì không thể lo cho con được một cuộc sống trọn vẹn, một đám cưới tươm
tất, chin chu, có mâm cao cỗ đầy giúp con ngẩng cao đầu và nắm lấy hạnh phúc.
Phải rất tinh tế Kim Lân mới bắt được khoảnh khắc tâm lý tưởng như rất tĩnh
nhưng thực chất lại đầy phức tạp, uẩn khúc này của bà cụ.

Sau phút cúi đầu nín lặng với nhiều cảm xúc trái chiều, bà cụ đã trở về với
thực tại, nhìn vào thực tế đói khổ nghiệt ngã để trong lòng trào lên sự lo lắng,
69
thương xót cho hai đứa con khi nhìn về tương lai: “Biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.” Trong câu hỏi chất chứa nỗi
hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn, không lối thoát và sự rình rập trước ngõ
của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế. Đồng thời, ngay từ
trong thâm tâm của bà lão, với hai tiếng “chúng nó”, ta hiểu rằng bà đã chấp
thuận người con dâu mới. Rồi nỗi lo xa cho tương lai lại bủa vây tâm tri người
đàn bà: “chẳng may ra ông trời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà
lo cho hết được?”. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn
thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn.

Và rất tự nhiên từ tình thương, từ sự lo lắng dành cho đứa con trai, bà cụ
chuyển sang nhìn người con dâu cũng bằng ánh mắt đầy xót xa, thương cảm. Dù
Tràng không hề đề cập đến việc nhặt vợ ở đầu đường, xó chợ qua loa và chóng
vánh như thế nào, nhưng bằng kinh nghiệm sống của một người đã đi gần hết cả
cuộc đời, bà cụ hoàn toàn hiểu được sự thật trần trụi, đắng chát của cuộc hôn
nhân đó, bà cụ đã nhìn thị một cách đầy bao dung và cảm thông: “bà lão khẽ thở
dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà” đang cúi mặt. Từ “tà áo đã rách
bợt”, bà cụ hiểu rõ thị cũng chỉ là nạn nhân tội nghiệp của nạn đói ác liệt ngoài
kia. Bà như tự bào chữa cho chính đứa con dâu: “Người ta có gặp bước khó
khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ
được”. Bà cụ Tứ không hề xem nhẹ thị vì hoàn cảnh trớ trêu của chị, không tỏ ra
xa cách hay dùng uy quyền của một người mẹ chồng để thị uy, trái lại, bà cụ Tứ
đã dành tấm lòng thương xót cho thị nhiều hơn, bởi bà hiểu, người phụ nữ ấy đã
bị cái đói dồn vào bước đường cùng. Ngoài ra, chi tiết này còn cho thấy, nhân
vật bà cụ Tứ hiện lên không chỉ là hình ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng cao cả
mà còn là biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung. Bằng sự nhân hậu, vị tha,
bà đã sẵn sàng mở rộng lòng và dang đôi bàn tay để cưu mang, che chở, nâng đỡ
những kiếp người khốn khổ hơn mình. Ở đó, truyền thống đạo lý tốt đẹp của
người Việt Nam: “Lá lành đùm lá rách” đã được thể hiện rất rõ.

Ta nhận ra, điều đáng lưu ý và cũng đáng trân trọng nhất ở bà cụ Tứ là dù
có xót xa, đau đớn và lo lắng nhưng tất cả đều được bà mẹ này giữ kín trong cõi
riêng của mình còn những điều bà nói ra đều là sự vui mừng, tốt đẹp. Bà cụ nói
với thị: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng...” câu nói đơn giản nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó vừa giúp cả

70
ba người thoát khỏi tình thế ngượng nghịu, khó xử, vừa là sự chào đón ấm áp,
đôn hậu với nàng dâu mới. “Phải duyên phải kiếp" chính là cách bà đã công
nhận và trân trọng nhân duyên giữa Tràng và thị, bởi lẽ trong số phận hữu hạn
của con người, ai tránh khỏi duyên kiếp mình mang, cũng như nếu bỏ lỡ duyên
phận, ta sẽ bỏ lỡ cả một hạnh phúc dài. Người mẹ già yếu đã đi hơn nửa cuộc
đời, nhìn bao thế sự đa đoan, bà hiểu rằng trong khốn khó có cơ hội, trong mầm
ly biệt lại có hợp duyên, bà “mừng lòng" xoa dịu tất thảy ngổn ngang trong lòng
đôi vợ chồng mới.

Tuy vậy, niềm vui ấy chỉ như tia sáng le lói vụt qua cuộc đời u tối của bà,
bởi liền ngay sau đó, bà lại tiếp tục ngập chìm trong niềm suy nghĩ, lắng lo về
tương lai mờ mịt như màn đêm của những đứa con. Thế nhưng để động viên
con, bà lão cố nén những niềm xót xa trong lòng mà từ tốn cất tiếng: “Vợ chồng
chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá. Biết thế nào
hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?” truyền cho những đứa con thêm sức mạnh
và niềm tin. Tinh tế biểu hiện tâm trạng và tấm lòng của người mẹ trong từng lời
thoại, từng cách gọi “các con - u”, “vợ chồng - chúng mày", nhà văn Kim Lân
đã kín đáo thể hiện niềm thương và tấm lòng bao dung vô bờ của cụ Tứ. Tình
thương giúp bà cụ vượt qua mọi nghi lễ, định kiến và mặc cảm để chấp nhận và
nhẹ nhàng xem thị là con mình, là vợ của con trai bà một cách danh chính ngôn
thuận.

Thậm chí bà còn nhắc đến cả những chuyện vui vẻ của mai sau: “Có ra thì
rồi con cái chúng mày về sau”. Một người đã đi qua biết bao đau khổ của cái đói
- cái nghèo, hiểu rõ sự đáng sợ và tàn nhẫn của nó rộng dài đến bao nhiêu, vậy
mà chính bà cụ tóc điểm hoa râm ấy lại chính là người nhắc đến chuyện của
tương lai, chuyện con cái Tràng, nghĩ tới viễn cảnh gia đình đầm ấm với con,
cháu mà không mảy may nghĩ về cái chết của nạn đói đang cận kể trước mắt. Ta
có tự hỏi rằng, phải chăng hạnh phúc và ấm áp nhất thời đã choáng ngợp tâm trí
cụ Tứ, khiến bà quên nhìn về hiện thực, hay đó chính là niềm mong môi tận đáy
lòng của bà - niềm khát khao đẹp đẽ nơi người mẹ Việt Nam?

Nén lòng để tạo tâm lý thoải mái cũng như sự khởi đầu tốt đẹp nhất cho
hai đứa con nhưng bà lão không thể quên đi những ám ảnh về đói rét, chết chóc.
Có thể nói, đây là một nét tâm lý rất phức tạp và sâu kín của bà cụ Tứ. Khi trở
về cõi riêng của mình, lòng người mẹ quặn thắt với những đau đớn, xót xa. Điều
71
đó được thể hiện rõ qua chi tiết: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm
lấy hai con mắt...mình.” Kim Lân đã thấu suốt vào cái nhìn của bà cụ Tứ để
nhận thấy trong đó sắc màu chủ đạo là màu đen đặc của bóng tối. Cái bóng tối ở
đây không chỉ là bóng tối của đêm mà còn là bóng tối của đói nghèo, của cực
khổ đã bao trùm lên toàn bộ cuộc đời bà, là bóng tối của sự chết chóc, ám ảnh
qua nỗi nhớ về những người thân đã khuất. Bóng tối này đã đè nặng lên ánh
nhìn, đè nặng lên tấm lòng của người mẹ nghèo để trong lòng bà dâng lên một
nỗi xót xa cho số phận mình nhưng lớn hơn và sự lo lắng cho tương lai các con.

Bằng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật xây dựng nhân
vật đặc sắc, đối thoại sinh động, hấp dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gắn với
khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể kết hợp với nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo, Kim Lân đã thành công trong việc
dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ
trong trận đói khủng khiếp năm 1945” - bà cụ Tứ. Ngoài ra, chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn ngủi là buổi tối khi Tràng đưa vợ nhặt về nhà, Kim Lân
đã xoáy sâu, đã nhập thân gần như làm một với nhân vật bà cụ để đi vào những
ngõ ngách sâu kín, những uẩn khúc khó nắm bắt trong tâm lý nhân vật. Một loạt
những phản ứng tâm lý phức tạp nhưng vẫn hết sức tự nhiên, hợp lý đã được
Kim Lân khai thác thành công để làm nổi bật tấm lòng ở một bà mẹ giàu tình
thương con và ở một người nông dân chan chứa tình người. Dẫu không cố ý vẽ
lên hình tượng nhân vật bà cụ Tứ thành một nhân vật điển hình nhưng bằng tài
năng, bằng vốn sống, bằng tình cảm thiết tha, trìu mến đối với tấm lòng người
mẹ đã khiến hình ảnh bà cụ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết.
Chính người mẹ già ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn, đằng sau cả bóng tối
bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện trở
nên thấm thía, cảm động, nâng truyện ngắn “Vợ nhặt” lên tầm cao, mang chiều
sâu của một truyện ngắn hiện thực -nhân bản.

Có những câu chuyện không chỉ được tạc dựng bằng tấm lòng của nhà
văn hay tiếng nói của thời đại, mà còn được lớn lên, được sống tiếp đời xanh của
một tác phẩm bằng những trăn trở, thổn thức để lại nơi tâm can người đọc. Sứ
mệnh của văn chương chính là như thế - giúp người đọc hiểu được muôn mặt
của đời sống và tìm ra cách ứng xử trước cuộc đời rộng mở ấy. Và có thể khẳng

72
định, truyện ngắn “Vợ nhặt” cùng nhân vật bà cụ Tứ của nhà văn Kim Lân đã
vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian để ở lại với đời.

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong đoạn trích
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm
ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn
vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè
sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy
cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ,
khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc
nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã
kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn
quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật
đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên
hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che
nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con
sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà.”

Bài làm

Đến với mảnh đất văn chương, nếu Nguyễn Công Hoan coi “đời là mảnh
ghép của những nghịch cảnh”; Nam Cao thì coi “cuộc đời là tấm áo cũ bị xé
rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận”, thì Kim Lân lại
không nhìn đời bằng con mắt “đau thương” như thế. Là nhà văn nhân đạo, ông
như loài ong suốt đời đi tìm mật ngọt của cuộc đời để viết nên những trang văn
đầy xúc động về những người nông dân tuy khốn khổ, thiếu thốn nhưng vẫn lạc
quan và chan chứa tình người. Điển hình cho phong cách ấy là tác phẩm “vợ
nhặt”. Vợ nhặt vừa là bức tranh miêu tả thảm cảnh của người nông dân nước ta
73
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi niềm tin và sức sống
của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khao khát tổ ấm
gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Viết về những người nông dân khốn
khổ ấy, nhà văn đã tập trung xây dựng hình tượng nhân vật “Tràng”. Và bài ca
ấy được nhà văn gửi gắm ở nhân vật Tràng thông qua việc miêu tả sự thay đổi
về tâm trạng của anh trong đoạn trích “sáng hôm sau...căn nhà”.

Là một trong những nhà văn sống trọn những năm tháng chứa đựng nhiều
biến cố lịch sử của nước nhà và trải qua hai giai đoạn lớn trong nền văn học Việt
Nam, Kim Lân đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ
bởi kho tàng truyện ngắn “quý hồ tinh bất quý hồ đa" của mình mà Vợ nhặt
chính là mốc son chói lọi không chỉ trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân mà
còn trong cả văn đàn Việt Nam. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư” viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Nhưng do thất lạc bản thảo,
tới năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết “Vợ nhặt”, in
trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm vì thế không chỉ là kết
quả của quá trình suy ngẫm, gọt giũa cả về nội dung và nghệ thuật mà còn mang
âm hưởng lạc quan của thời đại mới.

Lấy cảm hứng từ câu chuyện về đời sống của người nông dân Việt Nam
trước cách mạng tháng 8/1945, nhà văn Kim Lân đã phác họa thành công bức
tranh về cuộc sống khó khăn, lay lắt đến thê thảm của người nông dân ở làng
quê Việt Nam. Cùng viết về cái đói, nhưng không như các nhà văn khác khai
thác về những khía cạnh tối tăm và bất lực, ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phát hiện
ra vẻ đẹp kỳ diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt và ông luôn
muốn cho độc giå thấy rằng “dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn
vượt lên trên tất cả”, rằng “có tình người là có cuộc sống, có tình người là có hi
vọng vào tương lai” (Kim Lân).

Anh cu Tràng là nhân vật chính, tập trung thể hiện tư tưởng chủ đề tác
phẩm. Hình tượng nhân vật ấy hiện lên là một người dân lao động có cảnh ngộ,
thân phận đáng thương nhưng hơn hết, vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng nơi anh
vẫn luôn toả sáng mạnh mẽ. Giữa nạn đói Ất Dậu 1945 - nỗi kinh hoàng của lịch
sử, vết thương lòng không bao giờ phai mờ trong trái tim mỗi người dân Việt
Nam, Tràng gặp được thị - một nạn nhân của cái đói và chỉ qua bốn bát bánh
đúc, một vài lời bông đùa biếm họa người phụ nữ ấy lại đồng ý theo không anh
74
về nhà. Thế là Tràng “nhặt" được vợ và tình huống “nhặt vợ” ấy đã diễn tả một
cách đặc sắc bước ngoặt thay đổi trong cuộc đời của Tràng, thổi vào cuộc sống
của anh một làn gió mới mang tên hạnh phúc và hy vọng. Qua đó góp phần cho
thấy tài năng nghệ thuật của bậc thầy Kim Lân.

Trong buổi sáng đầu tiên có vợ, Kim Lân đã tập trung miêu tả niềm hanh
phuc cua nhân vật Tràng. Tràng thức dậy khi “mặt trời lên độ con sào”, thường
lệ, anh cũng như bao người nông dân chân lấm tay bùn, cần cù, chăm chỉ khác
phải dậy từ sớm để làm lụng nhưng hôm nay, đêm tân hôn ngọt ngào, đắm say
đã cho anh một giấc ngủ thật sâu như thế. Tác giả miêu tả cái cảm giác vui
sướng, hạnh phúc đến tột độ của Tràng bằng hai từ láy rất gợi cảm: êm ái, lửng
lơ. Êm ái là cảm xúc nhẹ nhàng, ngọt ngào, lửng lơ là sự bay bổng. Cái “êm ái
lửng lơ” ấy hoàn toàn đối lập với cảnh Tràng của những buổi chiều trước đây đi
làm về với dáng điệu “nặng nề, khật khưỡng, cái lưng to rộng như lưng gấu và
cái đầu chúi về đằng trước cùng đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều.” Lúc này
đây, Tràng nhẹ nhõm, khoan khoái biết bao! Tuy vậy, sự thay đổi bất ngờ ấy đến
ngay cả bản thân Tràng vẫn cảm thấy không thể tin được, bởi bao nhiêu năm
sống trên cõi đời, bao nhiêu lần chứng kiến người đời sẻ chia hạnh phúc, Tràng
vẫn chưa từng dám nghĩ rằng mình sẽ có cơ hội được được yêu thương. Mái ấm
gia đình đầm ấm vẫn luôn là khát khao cháy bỏng được ủ kín trong lòng anh.
Vậy mà trong buổi sáng ấy, chính Tràng đã cảm nhận được dư vị ngọt ngào của
thứ gọi là tình cảm gia đình, điều đó khiến anh hơi ngỡ ngàng “êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra.”

Từ niềm vui sướng hạnh phúc ấy, Tràng bắt đầu có những chuyển biến
sâu sắc trong suy nghĩ. “Hắn lũng thững bước ra sân”, tựa hồ thật chậm, để cảm
nhận được hạnh phúc đang len lỏi vào từng ngõ ngách trong trái tim mình, cảm
nhận được những êm đềm, ấm áp của gia đình thân thương. Sau những mịt mù
của đói khát, ánh nắng rực rỡ của ban mai đã chiếu rọi xuống cuộc đời của
Tràng, hay chính trong khoảnh khắc đón nhận hạnh phúc này, Tràng mới lặng
lại để nhấm nháp từng dư vị yêu thương và bắt đầu cảm nhận cuộc sống, đón
nhận ánh nắng buổi sớm tươi đẹp mang đầy hy vọng - điều mà trước nay Tràng
thường không buồn để ý đến. Một sức sống mới, mãnh liệt đang trỗi dậy trong
lòng anh. Anh bắt đầu chú ý ngôi nhà của mình. Tác giả đã đặt điểm nhìn của
người kể chuyện bằng điểm nhìn của Tràng, nghĩa là đôi mắt của Tràng nhìn đến

75
đâu thì mọi đồ vật, cảnh vật sẽ hiện lên đến đó. Tràng nhận ra “xung quanh
mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ”. Từ dáng về của ngôi nhà, từ những đổi
thay của nhà cửa, sân vườn, đến không khí đầm ấm, tươi mới của gia đình mình.
Trong lòng Tràng bỏng dâng lên niềm cảm động khi nhìn ngắm sự vật xung
quanh cũng đang vươn dậy đón sinh khí, hào hứng trước cuộc sống mới mẻ
cùng Tràng: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ
gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một
góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước văn để khô cong ở dưới gốc
ổi đã kín nước đầy ăm áp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch”.

Tràng nhìn mẹ nhổ cỏ dại rồi lại nhìn vợ quét sân, nghe rõ từng tiếng chổi
kêu sàn sạt. Không có câu chuyện cổ tích nào hiện lên ở đây, cũng không có cô
Tấm nào đi ra từ quả thị, điều mà Tràng đang nhìn thấy và nhận được chính là
sự vun vén, chăm sóc của hai người phụ nữ thân yêu. Từ ánh mặt trời mùa hè
chói rọi, từ những sự gọn gàng, ngăn nắp ... tất cả đều nhen nhóm lên một sự
sống mãnh liệt, một sự sống không còn xa xi, khiến Tràng thấy thấm thía, cảm
động. Tác giả đã lách sâu ngòi bút vào nội tâm Tràng, nhìn Tràng bằng cái nhìn
trân trọng, để rồi hạ hai từ “thấm thía, cảm động” thật tinh tế và sâu sắc.

Để từ đó, Tràng bắt đầu ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình
đối với mái nhà ấm êm này. Nếu như trước đó, ta bắt gặp một anh cu Tràng khờ
khạo, cười “hềnh hệch” với nghề đẩy xe bò thuê để kiếm sống, tưởng chừng như
“ngốc nghếch” và “dở hơi”, thì giờ đây, khi tìm được hạnh phúc của đời mình,
con người ấy lại trưởng thành đến lạ.

Tràng trở thành một người đàn ông biết chăm lo, suy nghĩ cho gia đình,
biết cảm nhận và chậm rãi quan sát cuộc sống xung quanh mình. Trong thiên
truyện “Chí Phèo” của Nam Cao, ta cũng từng bắt gặp những ước mơ giản đơn
và bình dị đến nao lòng của một “con quỷ dữ” về một mái nhà ấm êm. Thế
nhưng, đến với trang viết của Kim Lân, những dư vị ngọt ngào của tình cảm gia
đình thân thương ấy dường như chưa từng xuất hiện trong cuộc đời Tràng, bởi
giữa hiện thực đói nghèo, giua luc sự sống và cái chết hoá mong manh, người ta
có thể nghĩ được gì ngoài miếng ăn!? Tuy vậy, khi nhìn thấy những tia nắng ấm
áp chiếu rọi xuống căn nhà nhỏ bé của mình, cảm nhận được sự sống đang trỗi
dậy trong cuộc đời, một cảm giác khao khát được vun vén yêu thương đã được
nhen nhóm trong chính con người nhỏ bé ấy: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương
76
yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Tràng không còn ngỡ ngàng chưa tin,
cũng không còn nghi hoặc mơ hồ, anh đã thật sự cảm nhận được thứ hạnh phúc
của cuộc sống.

Trong giây phút hân hoan ấy, anh đã nghĩ đến một tương lai xa xôi; tất cả
sự buồn bã, chết chóc của nạn đói đã được đẩy lùi về sau, chỉ còn lại vầng
dương sáng chói tỏa khắp đất trời trong lòng nhân vật. Ta hiểu được, không giản
đơn chỉ là tình yêu thương, sự đồng cảm, cưu mang đơn thuần mà Tràng dành
cho thị, đó còn là cả những trách nhiệm, những băn khoăn dự định trong tương
lai, để bảo vệ mái nhà nhỏ an yên mà anh đã may mắn được có: “Hắn đã có một
gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con để cái ở đấy” rồi hắn nhận ra: “cái nhà như
cái tổ ấm che mưa, che nắng.” Những câu chữ của Kim Lân cứ nhẹ nhàng, bình
dị mà tinh tế, sâu lắng biết bao. Nó rung lên trong lòng người đọc những tình
cảm đẹp đẽ về gia đình. Phải rồi, ngoài kia bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu thị phi
của người đời, chỉ có “duy nhất gia đình là chốn nương thân giữa những tai
ương của số phận” (Anhxtanh). Cách nói hình tượng che mưa che nắng là như
vậy. Đó là không gian bình yên nhất, không gian ấm cúng nhất, tin tưởng nhất là
vậy. Đến đây ta mới hiểu vì sao trước đó tác giả tô đậm tính cách ngờ nghệch
của Tràng. Một người ngờ nghệch như Tràng cũng nhận ra điều đó hay niềm
hạnh phúc có vợ đã khiến Tràng không còn ngờ nghệch nữa?!

Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của cái tổ ấm che mưa che nắng, khiến ở
Tràng dâng lên “một nguồn vui sướng phấn chấn tràn ngập trong lòng”. Người
ta vẫn thường gán cùng từ trách nhiệm nhưng nặng lòng, bó buộc, không nguyện
lòng, còn với Tràng thì khác. Anh nhận lấy trách nhiệm của mình trong nguồn
vui sướng, phấn chấn khó tả, anh thấy mình trưởng thành, ý thức rõ bổn phận
của mình là phải “lo lắng cho vợ con sau này.” Gia đình nhỏ ấy đã tạo cho Tràng
một nguồn sức mạnh để “vùng mình” thoát ra khỏi những bất hạnh, tủi khổ và
đói nghèo của đời người. Quả thật, với những chuyển biến tâm lí mà tác giả kì
công miêu tả đã khiến tác phẩm toát lên vẻ đẹp rực rỡ, mang chiều sâu và sức
hút khó cưỡng.

Và ý thức trách nhiệm đã được anh cu Tràng hiện thực hóa bằng hành
động: “hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà.” Anh ta đã “xăm xăm” chạy đi, không e dè ngần ngại, anh muốn
góp sức mình để giúp mẹ và vợ dọn dẹp, sửa chữa lại căn nhà cho tươm tất, sạch
77
đẹp, anh không còn chấp nhận cuộc sống tạm bợ nữa mà chuẩn bị sửa soạn cho
một cuộc sống bền lâu, cho những tháng ngày hạnh phúc và bình yên phía trước.
Như vậy cùng một lúc, cảm xúc, ý nghĩ, hành động của Tràng đều thể hiện một
chuyển biến lớn, đều biểu đạt ở mức cao độ của hạnh phúc lớn, suy nghĩ sâu sắc
và hành động tích cực. So với cái dáng “ngật ngưỡng” ở đầu tác phẩm, hành
động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi
thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời
sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức trách nhiệm.

Và tất cả những điều này trong một lúc khiến người đọc quên hẳn đi cái
thảm cảnh đang bủa vây Tràng, quên đi cảnh đoàn quạ gào thê thiết trên không
trung, quên đi tiếng khóc não nề của những nhà xung quanh có người chết, quên
đi mùi gây của xác người, quên đi khuôn mặt lưỡi cày xám xịt của người vợ
nhặt. Qua đây, ta cung thấy được ở Tràng sự trưởng thành và chín chắn, bởi phải
trân trọng nhiều lắm, Tràng mới can đảm “Chậc, kệ!” mọi bủa vây của số phận
để cùng Thị dựng xây một khung cảnh tương lai ấm áp, ngọt ngào đến thế! Viết
về nạn đói nhưng văn Kim Lân lại khơi gợi nguồn vui sướng, phấn chấn, khơi
gợi ý thức sống và khao khát đổi thay số phận cảm động là vậy.

“Một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người
qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Thật vậy, bằng nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật tự nhiên, tinh tế và sâu sắc, đột phá qua lớp vỏ bên ngoài với con
mắt ti hí, cái đầu trọc, thân hình thô kệch của Tràng cùng nghệ thuật trần thuật
mới mẻ, ngôi kể theo cách truyền thống ở ngôi kể thứ ba, điểm nhìn của người
kể chuyện lồng trong điểm nhìn của nhân vật, cách miêu tả đồ vật làm cho tâm
trạng nhân vật càng hiện lên nổi bật hơn kết hợp với giọng điệu hóm hỉnh, đôn
hậu, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nôm na, tác giả đã thấu hiểu và dẫn giải nhân
vật với những diễn biến tâm lí rất logic, rất người.

“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó,
nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chú không
phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy.” (Nguyễn Khải). Truyện ngắn
“Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm như thê. Nhà văn đã dựng lại được bức
tranh hiện thực đương thời là con người trong nạn đói năm Ất Dậu, từ đó ông
thể hiện niềm trân trọng và cảm thông của mình trước những số phận bị thảm,
trước những ước mơ, những khao khát về hạnh phúc gia đình của người nông
78
dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện và khẳng định được vẻ đẹp của tình
người trong cơn lốc của sự đói nghèo. Thực trạng bi thảm của chế độ Việt Nam
trước cách mạng cùng số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói cũng
được thể hiện một cách rõ nét trong đoạn trích nói riêng và trong tác phẩm nói
chung.

Bởi vậy mà chị Dậu trước cảnh chồng bị trói chỉ biết bán con, bán chó
(Tắt đèn - Ngô Tất Tố). Lão Hạc của Nam Cao sau khi bán cậu vàng, khi không
còn củ ráy, quả sung để ăn, khi không muốn phạm vào những đồng tiền dành
cho con trai đã ăn bã chó để chết. Chí Phèo của Nam Cao khi cánh cửa hoàn
lương không được đời cho phép đã chết quằn quại trong vũng máu tươi (Chí
Phèo - Nam Cao) và biết bao nhiêu cảnh đời “đau đớn lòng” như thế trong văn
học trước 1945. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, dù nhà văn viết về đề tài cũ
nhưng cái nhìn mới, tư tưởng mới theo hướng cách mạng hóa. Giá trị tư tưởng
nổi bật của văn học cách mạng là vậy. Sứ mạng lớn lao của nhà văn cách mạng
cũng là vậy.

Có những câu chuyện không chỉ được tạc dựng bằng tấm lòng của nhà
văn hay tiếng nói của thời đại, mà còn được lớn lên, được sống tiếp đời xanh của
một tác phẩm bằng những trăn trở, thổn thức để lại nơi tâm can người đọc. Sứ
mệnh của văn chương chính là như thế - giúp người đọc hiểu được muôn mặt
của đời sống và tìm ra cách ứng xử trước cuộc đời rộng mở ấy. Và có thể khẳng
định, truyện ngắn "Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã vượt qua mọi sự băng hoại
của thời gian để ở lại với đời.

Đề bài: Phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn
“Kim Lân”.

Bài làm

Đi suốt chiều dài của tác phẩm người vợ nhặt quả thật chính là người phụ
nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh. Nhân vật ấy hiện lên trong tác phẩm không
tên tuổi, không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Kim Lân gọi
nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ - “Thị, ả, người đàn bà” cho thấy thân phận mờ

79
nhạt, đáng thương của nhân vật. “Thị” có thể là bất cứ người đàn bà khốn khổ,
nghèo đói nào ngoài kia, họ cũng đang chết dần chết mòn về cả hình hài và nhân
phẩm mà trong đó nhân vật Thị chính là đại diện cho hàng triệu con người bần
cùng, đói rách, tha phương cầu thực ngoài kia và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường
xó chợ.

Bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la
tháng ngày của thị không biết sẽ kéo dài đến bao lâu nếu như không có cái lần
anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình
không xinh đẹp, hấp dẫn, được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là
người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói
đã khiến Thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm
cho người phụ nữ ấy trở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Tưởng rằng chỉ thế thôi
đã là quá đau xót cho một kiếp người, nhưng không. Kim Lân vẫn tiếp tục đi sâu
khám phá, để cho người đọc thấy một bi kịch khác còn lớn hơn: thị bị cái đói
làm mất hết đi vẻ đẹp nhân cách. Vì đói mà Thị trở nên “chao chát”, “chỏng
lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói
chuyện. Cái đói đã xui khiến Thị quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái.
Được cho ăn, Thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc
liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao
hơn cả nhân cách bởi khi đã đến bước đường cùng, con người ta dễ dàng quên đi
giá trị của bản thân và thị cũng k ngoại lệ. Trong truyện ngắn “Một chuyện
Xuvơnia”, Nam Cao cũng đã từng chứng minh cho độc giả thấy rằng cái đói có
thể khiến con người vứt bỏ mọi thứ để đổi lấy miếng ăn: cô Tơ đã bán cả chiếc
khăn kỉ niệm tình yêu có lẽ chỉ để đổi lấy hai hào ăn bánh đúc. Có thể thấy, thị
chính là một nạn nhân tiêu biểu của nạn đói, bị cái đói dồn đến chân tường nên
phải vứt bỏ cả liêm sỉ, làm mọi cách để có cái ăn. Bằng ngòi bút hiện thực sắc
sảo cùng tài nắm bắt tâm lí nhân vật, Kim Lân đã khắc họa thành công bi kịch
về cả thể xác lẫn tinh thần của thị, từ đó xây dựng nên hình tượng một người
phụ nữ - nạn nhân khốn cùng của nạn đói.

Đúng như Thạch Lam từng nói: “công việc của nhà văn là phát hiện ra
cái đẹp ở chỗ k ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và bị khuất lấp của sự vật để cho
người đọc 1 bài học trông nhìn và thưởng thức.” KL đã khắc họa tấm chân dung

80
bi thảm của thị để làm đòn bẩy cho những nét đẹp tâm hồn bị khuất lấp ở nhân
vật này.

Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng
ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì khát khao, mong muốn được
sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được
ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống, bám lấy hy vọng dù chỉ là
một tia sáng nhỏ nhoi. Đến khi anh cu Tràng nói đùa “có muốn theo tớ về nhà
thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ đi theo về,
Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề băn khoăn hay phân vân gì cả,
dường như chuyện dựng vợ gả chồng lúc này đã trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn
bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ từ xưa đến nay ít nhất cũng là:

“Ba trăm một mụ đàn bà

Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”.

Nhưng ở đây, Thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một
thúng con. Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra
sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là Thị đã theo về làm vợ anh
ta. Có thể nói hành động theo Tràng của Thị chính là biểu hiện cho khát vọng
sống, khát khao được hạnh phúc, mong muốn có một tổ ấm gia đình để nương
tựa và che chở cháy bỏng của thị. Với một người không tên không tuổi, không
quê quán họ hàng thì còn gì quý giá hơn việc tìm được mái ấm gia đình. Bởi vậy
có thể nói quyết định theo tràng về làm vợ của thị không hoàn toàn là một lựa
chọn mang tính nhất thời, nông nổi mà đó là sự suy tính, sự khát khao mong mỏi
hạnh phúc đến cháy lòng. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông
xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên thảm cảnh để dựng xây mái ấm gia
đình. Tình yêu sự sống của Thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như
Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con
người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong
hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không
nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Nếu như khi gặp anh Tràng ở chợ, thị chua chát chỏng lỏn bao nhiêu thì
bấy giờ, lúc theo Tràng về, chị ta lại ngượng ngùng, rón rén bấy nhiêu. “thị cắp
cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất

81
đi nửa mặt”. Rồi khi bị đám trẻ con trêu chọc, thị “có vẻ khó chịu lắm”. Khi biết
mọi người xung quanh đang nhìn mình, Thị “ngượng nghịu chân nọ bước víu cả
vào chân kia”. Hoá ra, đằng sau vẻ ngoài rách rưới, xấu xí, Thị cũng có lòng tự
trọng. Thị hiểu vì sao người ta nhìn mình và xì xào bàn tán, bởi giữa cái trận đói
khát, khi tình yêu là thứ xa xỉ, họ lại dắt díu nhau về để rồi “biết có qua nổi cái
thì này không”. Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của Thị.
Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ
năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước
chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não
nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc Thị về đến nhà Tràng,
nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi cỏ dại”, Thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất
vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà Thị vừa bám vào lại là
một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai
ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của Thị về gia cảnh nhà
chồng, đó phải chăng là sự ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng
chồng chung tay gây dựng gia đình. Kim Lân đã thổi vào tâm hồn Thị niềm lạc
quan ấy để Thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật, Thị không thể
tìm thấy ở Tràng một chút gì để nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ
dựa tinh thần vững chắc nhất vào lúc này.

Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn,
Thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng
tự trọng. Vào trong nhà, Thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý
tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ đến hai lần. Lần thứ nhất bà cụ không nghe
rõ, có lẽ vì thị còn e dè nên chỉ dám nói lí nhí. Thị chào lại lần hai, lần này rõ
ràng hơn, chủ ý để bà cụ nghe thấy lời mình nói: “U đã về ạ!” Bốn chữ ngắn gọn
nhưng thể hiện tất cả thái độ lễ phép và lối cư xử lễ độ, biết điều của một nàng
dâu mới. Thị vẫn đứng “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tất cả sự
tự ti của người phụ nữ ấy có lẽ đều được bộc lộ rõ qua dáng đứng “cúi mặt” này.
Không tự ti sao được, vì thị đã ý thức rất rõ về thân phận “vợ nhặt” của mình:
một người đàn bà không rõ lai lịch, vất va vất vưởng nơi đầu đường xó chợ lại
được Tràng “nhặt” về. Chính sự biết điều, biết xấu hổ đã khiến thị tự ti, và đứng
yên lặng, cúi mặt chờ đợi phán quyết của người mẹ chồng. Có thể thấy, dù phải
vứt bỏ tất cả phẩm giá của một người phụ nữ để theo không Tràng, nhưng chính
82
điều đó lại đánh thức những phẩm chất tốt đẹp đang bị cái đói làm cho ẩn lấp,
khuất dấu của thị.

Không chỉ là một người phụ nữ ý tứ, biết điều, thị còn là một người con
dâu hiếu thảo, một người vợ đảm đang. Sáng hôm sau, Thị dậy rất sớm cùng mẹ
chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi
sinh. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã
thấy đem ra sân hong”. Những thay đổi ấy chắc chắn phải đến từ bàn tay người
phụ nữ, mà không ai khác khác chính là bà cụ Tứ và thị - vợ Tràng. Nếu người
xưa vẫn thường quan niệm: “Đàn ông coi nhà, đàn bà coi bếp” để nói rằng người
vợ chính là người chăm lo công việc gia đình, thì giờ đây thị chính là hình ảnh
của một người vợ đảm đang như thế. Thị dậy sớm dọn dẹp nhà cửa, “quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Khi bà cụ Tứ nhắc thị đi dọn
cơm, thị “Vâng” một tiếng, nhẹ nhàng và lễ phép, rồi lẳng lặng đi vào trong bếp.
Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: Bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của Thị
trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai
hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom Thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy
vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm
thay đổi con người Thị.

Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng
bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị
vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương
hơn bao giờ hết. Và thật không ngoa khi nói rằng thị là một nàng dâu hết mực
hiếu thảo, nết na, chịu thương chịu khó, bởi giờ đây người phụ nữ ấy đã rất tinh
tế để cảm thông, thấu hiểu cho hoàn cảnh của nhà chồng, thấu hiểu được cả tình
thương yêu của người mẹ già tần tảo. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào
cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục
mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà
“rạng rỡ hẳn lên”. Có thể thấy, dù người phụ nữ ấy chẳng thể kiếm được một nơi
có thể làm mình no bụng, nhưng đã may mắn gặp được những người thương yêu
mình bằng cả tấm lòng. Đó chính là niềm hạnh phúc, là điểm tựa tinh thần vững

83
chắc để thị trở về với con người thật của chính mình, để bộc lộ hết những vẻ đẹp
vốn có mà từ lâu đã bị cái đói che khuất. Qua đó, tấm lòng nhân đạo của nhà văn
lại được thể hiện rõ, truyền cho độc giả một thông điệp rằng: trong bước đường
cùng, chỉ có tình thương mới là vị cứu tinh thực thụ cứu rỗi con người.

Tất cả những thay đổi lớn lao ấy của thị đều xuất phát từ một nguyên nhân
sâu xa: thị là một người phụ nữ có niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc
sâu kín mà mãnh liệt. Có thể thấy, từ khi về làm dâu nhà Tràng, được mẹ con
anh đón nhận bằng tình thương chân thành của những con người cùng khổ
không có gì ngoài tình thương, thị đã thay đổi hoàn toàn. Giữa lúc cái chết có
thể đến bất kì lúc nào, thì hành động theo không Tràng chính là niềm tha thiết
bám víu lấy sự sống, là khát khao tột bậc của thị để được tồn tại trên cõi đời này.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở bản năng sinh tồn như thế thì chưa thể coi là “sống
cho ra con người” được. Thị không chỉ muốn sống, mà còn muốn “sống cho ra
con người”, vì thế cho nên thị khát khao hạnh phúc. Chính niềm khao khát được
đủ đầy về tình cảm mới là thước đo làm nên phẩm giá con người. Khi đã tìm
thấy hạnh phúc ở tình thương của mẹ con Tràng, thì những phẩm chất vốn có
của thị tất sẽ bộc lộ, để gìn giữ và vun vén cho hạnh phúc mà Thị vẫn hằng khao
khát. Có thể thấy, ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ đã đạt đến hàng đỉnh cao
trong việc nắm bắt và miêu tả tâm lí con người - những người nông dân cùng
khổ mà ông thấu hiểu và thương yêu hơn hết thảy. Từ đó, nhà văn bộc lộ niềm
trân trọng, ngợi ca những vẻ đẹp nhân bản không thể bị hoàn cảnh dập vùi. Đó
chính là ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả toát lên từ những trang hiện
thực tăm tối, đau thương.

Với ngòi bút hiện thực sắc sảo và tinh thần nhân đạo sâu sắc, Kim Lân đã
khắc họa thành công hình tượng nhân vật người vợ nhặt với số phận cùng khổ
nhưng lại mang những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Có thể nói, nhân vật thị đã làm
nổi bật giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm, cho người đọc thấy rõ tình cảnh
khốn khổ, thảm thương của những con người bị cái đói hành hạ. Từ đó, ánh sáng
của chủ nghĩa nhân đạo ngời lên rực rỡ, khi nhà văn ca ngợi những vẻ đẹp
không thể bị dập tắt ở con người, truyền đi thông điệp đáng quý về niềm tin vào
cuộc sống, vào phẩm giá con người. Qua nhân vật này, những nét đặc sắc về
nghệ thuật của ngòi bút Kim Lân cũng được thể hiện rõ nét. Ông đã xây dựng
thành công tình huống truyện độc đáo, như một thứ “nước rửa ảnh” để từ đó

84
hình tượng nhân vật và tư tưởng nhân đạo của nhà văn đều hiện lên rõ nét. Bên
cạnh đó cũng không thể không nhắc đến tài nắm bắt và miêu tả tâm lí bậc thầy
của Kim Lân, khi ông đã thấu hiểu được cả ước mơ sâu kín nhất của con người
ẩn sau vẻ ngoài tầm thường. Ngoài ra, nghệ thuật khắc họa nhân vật qua lời nói
và hành động, nghệ thuật tạo dựng đối thoại sinh động cùng văn phong dân dã,
đậm chất nông thôn Bắc Bộ đã tạo nên một lối kể chuyện rất hấp dẫn, rất đậm
chất riêng không thể trộn lẫn của nhà văn xứ Kinh Bắc. Tất cả đã góp phần làm
nên những thành công cả về nội dung và nghệ thuật cho tác phẩm.

85
VIỆT BẮC
(TỐ HỮU)
Đề bài: Cảm nhận đoạn thơ sau. Từ đó, nhận xét về tính dân tộc của bài
thơ.

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng,

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Bài làm

Như lời chiêm nghiệm đầy sâu sắc mà Tố Hữu từng viết “Thơ chỉ trào
ra khi trong tim anh mọi thứ đã thật ở đầy”. Thật vậy, thơ là tiếng nói của tâm
hồn, của những niềm mơ ước. Sự hiện diện của thơ ca như chiếc cầu gắn kết trái
tim với cuộc đời. Và có lẽ, “Việt Bắc” đã ra đời trong nỗi niềm ứ đầy như thế.
Đó là tình yêu, là lưu luyến nhớ thương trong buổi “chia tay lịch sử” giữa cán bộ
miền xuôi và nhân dân núi rừng Tây Bắc. Đặc biệt là ở vẻ đẹp của bức tranh tứ
bình.

Nhà thơ Xuân Diệu đã tâm sự về Tố Hữu như sau: “Thơ của chàng thanh
niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng
mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn,
86
thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khoá:
Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Quả thật, thơ Tố
Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc. Thường khai thác cảm hứng từ đời
sống chính trị, đời sống cách mạng, hướng tới cái ta chung và lẽ sống lớn, tình
cảm lớn, niềm vui lớn của cả dân tộc. Có thể nói “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ
ca Tố Hữu, một bài thơ ra đời được ví như là một bài thơ “không viết
không được”. Sau chín năm kháng chiến, hòa bình được lập lại trên miền Bắc,
nửa đất nước đã được tự do, cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới. Qua
một sự việc cụ thể lúc bấy giờ là những người kháng chiến từ miền núi trở về
đồng bằng, miền xuôi, Trung ương, Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc trở lại thủ
đô. Tố Hữu đã xây dựng một bài thơ nói lên tình nghĩa đối với quê hương
cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người không quên chặng đường gian
khổ đầy tình nghĩa đã trải qua cùng nhau trong suốt mười lăm năm. Đặc biệt qua
đoạn trích bức tranh tứ bình không chỉ bộc lộ được tình yêu thiên nhiên đối với
“Thủ đô gió ngàn” mà còn thể hiện tính dân tộc đậm đà.

Hai câu thơ đầu là lời hỏi của người cán bộ về xuôi, ta muốn hỏi mình:
Khi ta về xuôi rồi, mình “có nhớ ta” không? Hỏi để muốn biết lòng người ở lại
thế nào và cũng là lời tự bộc lộ tấm lòng của mình với người ở lại: Dù là về
xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó tha thiết với mảnh đất nơi đây. Câu
hỏi tu từ xuất hiện ngay đầu đoạn, tạo cảm giác bâng khuâng, lưu luyến thấm
vào hồn cả người lẫn cảnh:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Vẫn cách xưng hô “ta mình” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ
người đi, “mình” chỉ người ở lại. Điệp từ “ta” được nhắc đi nhắc lại bốn lần
khiến cho dòng cảm xúc của người đi bỗng trở nên mênh mang, sâu lắng hơn.
Điệp cấu trúc “ta về” mở đầu hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người
từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh, người về mang theo nỗi nhớ “những hoa
cùng người”. “Hoa” là vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc còn “người” là vẻ đẹp
của con người lao động nơi đây. Ta về, ta mang theo “hoa” và “người”, phải
chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh
“hoa” và “người” tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người.

87
Sau hình ảnh “hoa” và “người” là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra
hết sức chân thật cùng những gam màu tươi tắn và âm thanh rộn ràng. Trước
tiên, là bức tranh mùa đông mở ra một thiên nhiên núi rừng tràn đầy sức sống.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Bức tranh mùa đông của Việt Bắc được gợi nên từ màu xanh trầm tĩnh của đại
ngàn, màu xanh của sức sống chứ không phải là cánh rừng trụi lá, kém sức sống.
Nhà thơ Tố Hữu khắc họa bức tranh mùa đông trước, có lẽ là vì khi người cách
mạng đến đây cũng là lúc đất trời vào tiết đông và cũng chính thời điểm ấy sau
mười lăm năm, người cách mạng từ biệt Việt Bắc - cái nôi cách mạng để về
xuôi. Giữa cái nền xanh tươi của rừng thăm thẳm, nổi bật hình ảnh những
bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên
ấm áp, lạ thường. Cái tài của Tố Hữu là sử dụng những gam màu nóng để vẽ bức
tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa Đông thật đẹp và khiến chúng ta không thể
quên. Những bông hoa chuối ẩn hiện như những ngọn đuốc hồng soi sáng con
2 đường hành quân mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: “Mường Lát
hoa về trong đêm hơi”. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa nhòa đi cái lạnh
lẽo, u ám của vùng núi cao Việt Bắc khi sang đông. Giữa bức tranh thiên nhiên
ấy là nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên một cách rất độc đáo: “Đèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng”. Người dân Việt Bắc đi rừng núi làm nương rẫy bao
giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát chướng ngại và đề phòng thú dữ.
Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho dao gài ánh lên sáng rực, tô điểm hình
ảnh con người - trong một tư thế đẹp nhất là tư thế “trên đèo cao”, nơi hội tụ ánh
sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở
vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc như muốn nói: Con người nơi đây
đã vượt lên cả không gian, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước.

Đông qua rồi xuân lại đến, mùa xuân chiến khu Việt Bắc hiện lên với
sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

88
Nhắc đến mùa xuân, người ta nhớ đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá
tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc, xanh non mơn mởn. Ngày xuân của Việt
Bắc được Tố Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: “mơ nở trắng rừng”, bao trùm
lên mọi cảnh vật là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ. Nghệ
thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” với vai trò động từ chứ không còn
là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng,
lấn át sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa
mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn. Cách dùng từ tài hoa
của Tố Hữu gợi nhớ câu thơ tả mùa xuân khá độc đáo của đại thi hào Nguyễn
Du: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Giữa
nền bức tranh ấy, con người hiện lên với dáng vẻ tỉ mẩn trong động tác “chuốt
từng sợi giang” - đây là một nghề truyền thống, đan nón thủ công đòi hỏi bàn tay
người “nghệ sỹ” phải khéo léo, tỉ mỉ hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là những
phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa,
khéo léo.

Mùa hạ đến với tiếng ve kêu râm ran vang khắp núi rừng cùng sắc
vàng chủ đạo, khiến bức tranh mùa hạ tựa như một bức tranh sơn mài vừa có
nhạc vừa có họa, vừa cổ điển vừa hiện đại:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng như chỉ cần tiếng ve
ngân lên đã làm a tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Ta nhận thấy: “tiếng
ve” và “hoa phách” là hình ảnh đặc trưng của mùa hạ ở Việt Bắc. Chữ “đổ”
được dùng thật chính xác và tinh tế. Nó vừa gợi sự chuyển biến mau lẹ của sắc
màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa phách khi có ngọn gió thoảng qua,
vừa thể hiện chính xác khoảnh khắc hè sang. Đến đây, ta lại càng khâm phục tài
sử dụng ngôn từ của Tố Hữu: Khi ông sử dụng nghệ thuật dùng âm thanh để
khơi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian, làm cho khung cảnh
thực mà như lạc vào chốn bồng lai. Và trên cái nền vàng của hoa phách, không
gian ngập tràn tiếng ve kêu, là hình ảnh con người thật đáng yêu làm cho bức
tranh thêm phần nên thơ, trữ tình. Hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn “hái măng
một mình”, “một mình” nhưng không hề cô đơn, không hề lẻ loi bởi cô gái ấy

89
đang lao động giữa khúc nhạc rừng, “hái măng” để góp phần nuôi quân phục vụ
kháng chiến. Cô gái hái măng trẻ trung yêu đời là sự hiện thân cho vẻ đẹp của
người phụ nữ chịu thương chịu khó hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng
chiến. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông, cảm kích và trân trọng người Việt Bắc
của nhà thơ nói riêng và của cán bộ về xuôi nói chung, hình ảnh ấy người đi sẽ
không bao giờ có thể quên được.

Khép lại “Bức tranh tứ bình” đa sắc màu là bức tranh mùa thu ngập
tràn ánh trăng hòa bình, quyện vào tiếng hát ân tình, thủy chung của người Việt
Bắc làm nồng ấm cả lòng người:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, còn
trăng Việt Bắc trong thơ Tố Hữu lại là “trăng rọi hòa bình”. Chữ “rọi” rất hay,
nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la, đó là hình ảnh ánh
trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên núi rừng, lên từng bản làng
Việt Bắc. Giữa không gian bao la ánh trăng dịu mát ấy không có tin vui thắng
trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của g đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của
núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã, là tiếng hát nhắc nhở ân tình
thủy chung son sắt. Và giờ cũng chính tiếng hát “ân tình ân nghĩa” ấy đã khép
lại “bức tranh tứ bình” tuyệt mỹ về thiên nhiên và con người Việt Bắc, gợi cho
người đi và cả trong lòng độc giả những rung động sâu sắc về tình yêu quê
hương, đất nước, tình yêu Tổ quốc.

Có thể nói rằng phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ tình giàu sức
sống như cái nền tuyệt mỹ để làm nổi bật hình ảnh con người cần lao, giàu
tình nghĩa, thủy chung. Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị bức tranh tứ
bình đã được khắc họa với vẻ đẹp hòa quyện giữa nét cổ điển và hiện đại, giữa
hình ảnh con người và thiên nhiên hết sức độc đáo. Đồng thời đoạn thơ cũng
mang tính dân tộc đậm đà - một nét độc đáo trong phong cách thơ Tố Hữu. Tố
Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản đồng thời cũng là một hồn thơ giàu tính
dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm: ngôn ngữ, tư duy, trang phục, phong tục tập
quán, đặc điểm tính cách con người, thiên nhiên... Kế tục truyền thống thơ ca
dân gian và cổ điển, thơ Tố Hữu đã nhập vào nguồn mạch tâm hồn, điệu cảm

90
xúc dân tộc. Bản sắc dân tộc trong thơ Tố Hữu thể hiện ở cả nội dung và hình
thức. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra
đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt
Bắc quê hương của Cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ,
với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn. Sáng tác bài thơ
“Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thay lời nhân dân nói nên lòng biết ơn với Đảng,
với Bác kính yêu mà ông còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân
Việt Bắc.

Tuy có nhiều thành công trong các bài thơ theo thể 8 tiếng và tự do
nhưng Tố Hữu vẫn quen thuộc hơn cả với các thể thơ dân tộc truyền thống như
thể thơ lục bát (màu sắc chất liệu dân gian: ca dao, dân ca,…). Thơ lục bát kết
hợp giọng cổ điển và dân gian, thể hiện những nội dung tình cảm cách mạng có
gốc rễ từ truyền thống tinh thần dân tộc, làm phong phú cho thể thơ lục bát dân
tộc. Bài thơ sử dụng cách nói “mình – ta” và lối đối đáp của ca dao dân ca, tạo
nên một giọng thơ ngọt ngào thương mến, qua đó thể hiện những vấn để có ý
nghĩa trọng đại của dân tộc. Đọc thơ Tố Hữu, ta rất ấn tượng với cách sử dụng
cặp đại từ “mình”, “ta” giống như của ca dao xưa. Người cách mạng và đồng
bào Việt Bắc đã coi nhau như những người bạn đời gắn bó tri kỉ trong suốt 15
năm. Vì thế đại từ “mình” và “ta” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt, có lúc
phân định rõ nhưng có lúc “ta” và “mình” lại hòa làm một. Ngoài ra trong thơ
Tố Hữu còn sử dụng các biện pháp tu từ (đặc biệt là so sánh), lối tư duy cụ thể,
hồn nhiên của dân gian. Bài thơ sử dụng từ ngữ và lối nói quen thuộc của dân
tộc, những so sánh ví von truyền thống nhưng lại biểu hiện được nội dung mới
của thời đại. Bài thơ có sự chuyển đổi linh hoạt về ngôn ngữ, giọng điệu, tạo
nên hiệu quả biểu đạt cao. Chất thơ mang đậm sắc màu núi rừng và cuộc sống
của những người dân Việt Bắc. Chính vì thế, Việt Bắc nói chung và đoạn trích
bức tranh tứ bình đã đánh dấu một giai đoạn lịch sử của dân tộc, vừa nêu bật
phẩm chất truyền thống của con người Việt Nam trong chiến tranh. Tính dân tộc
và sự thể hiện phong cách thơ Tố Hữu: Sự gắn bó tha thiết giữa hồn thơ Tố Hữu
và ấn tượng thơ của ông.

Bài thơ “Việt Bắc” ngọt ngào, đằm thắm như một bài ca tâm tình, rất
tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình
cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách

91
mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học
người Pháp là Mireille Gansel, Tố Hữu tâm sự rằng: Anh “phải lòng” đất nước
và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà
mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và “Việt Bắc” trở thành
tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một
thời điểm rất đáng ghi nhớ ấy.

Đề bài:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

(Trích Việt Bắc, Tố Hữu)

Cảm nhận của anh/ chị về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt
trong đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét khúc hùng ca và tình ca của đoạn thơ.

Bài làm

Có lẽ trước và trong hành trình sáng tạo của mình, người nghệ sĩ đã
phải lắng nghe rất nhiều câu chuyện. Đó có thể là những câu chuyện gần gũi từ
chính ngôi làng, căn nhà anh ta, từ những người bà, người mẹ. Chẳng thế mà
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã từng thú nhận “Bà nội tôi chính là nhà văn đầu

92
tiên của tôi”. Một cách vô thức hay hữu thức, các dữ liệu mà nhà văn từng
thấy, được kể sẽ tự khắc ngưng tụ vật chưng cất vào bên trong anh ta, để khi đặt
bút viết, chúng bất ngờ tái sinh trở lại. Thế là một tác phẩm tự khắc ra đời. Việt
Bắc cũng vậy, Tố Hữu đã miệt mài sống, miệt mài nhớ thương và trân trọng
những kí ức tươi đẹp mà ông đã cùng dân tộc đi qua, để rồi bằng ngòi bút tài
năng của mình ông đã gửi lại vào thi đàn dân tộc một tiếng thơ - khúc hùng ca,
tình ca đậm đà tình quân dân.

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết: “Thơ hay - là thơ chín đỏ trong cảm
xúc”. Và nhà thơ Tố Hữu đã nung lên những vẫn thơ sáng ngời ý thức cách
mạng và tinh thần chiến đấu mãnh liệt trong xúc cảm “chín đỏ” như thế. Quả
thật, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc. Thường khai thác cảm
hứng từ đời sống chính trị, đời sống cách mạng, hướng tới cái ta chung và lẽ
sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của cả dân tộc. Có thể nói “Việt Bắc” là
đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu, một bài thơ ra đời được ví như là một bài thơ
“không viết không được”. Sau chín năm kháng chiến, hòa bình được lập lại trên
miền Bắc, nửa đất nước đã được tự do, cách mạng chuyển sang một giai đoạn
mới. Qua một sự việc cụ thể lúc bấy giờ là những người kháng chiến từ miền núi
trở về đồng bằng, miền xuôi; Trung ương, Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc trở
lại thủ đô. Tố Hữu đã xây dựng một bài thơ nói lên tình nghĩa đối với quê hương
cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người không quên chặng đường gian
khổ đầy tình nghĩa đã trải qua cùng nhau trong suốt mười lăm năm. Đặc biệt là
hào khí của cả non sông trong cuộc kháng chiến chống Pháp không chỉ thể hiện
ở sự chung sức đồng lòng giữa con người và thiên nhiên, mà hơn thế nữa, nó
được mình chứng một cách rõ ràng trong đoạn thơ mà Tố Hữu tái hiện lại bức
tranh ra trận của toàn quân, toàn dân ta:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

93
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Đoạn thơ là không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân
ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mở đầu đoạn trích là ẩn
tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong kháng chiến. Câu thơ
đầu tiên vang lên một cách rất đỗi tự nhiên tạo cảm giác khỏe khoắn, hùng tráng,
chứa chan niềm tự hào đầy kiêu hãnh:

Những đường Việt Bắc của ta

Hình ảnh những “đường Việt Bắc của ta” mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Con đường ấy là con đường thực đi tới muôn nẻo trên mảnh đất Việt Bắc hay
cũng chính là con đường đi đến mọi miền trên đất nước Việt Nam. Bước vào thi
ca, con đường ấy như được sáng tỏ bởi thứ ánh sáng Cách mạng kỳ diệu. “Của
ta” – một sắc thái hiên ngang, đầy kiêu hãnh của người nói. Ta cũng nhớ đến
những câu thơ khẳng định chủ quyền đầy rắn rỏi dưới ngòi bút của Nguyễn Đình
Thi:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngã đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa.”

Có thể nói, niềm tự hào tự tôn dân tộc đã đi vào thi ca từ rất sớm trở
thành một sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học nước nhà. Đó là bài Hịch của
Nguyễn Trãi, là bản Tuyên ngôn cổ phong uy nghi của Lý Thường Kiệt...Chúng
thể hiện rõ ý thức làm chủ đất nước của người kháng chiến, cũng như niềm tự
hảo về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ. Có sống trong những ngày kháng
94
chiến chống Pháp đầy gian khổ, ta mới thấm thía niềm tự hào kiêu hãnh của
người đã vào sinh ra tử. Để rồi từ đó quân dân ta nối tiếp nhau lên đường:

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Hình ảnh thơ đặc tả sự lớn mạnh nhanh chóng, vượt bậc và khí thế ra
trận hào hùng, ngắt trời của đoàn quân và dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà tác
giả lại chọn thời điểm ban đêm. Trong cuộc sống, đêm là lúc yên bình, tĩnh
mịch, vạn vật đã chìm vào giấc ngủ say nồng nhưng trong kháng chiến, đêm lại
là thời điểm thích hợp để hành động. Trong màn đêm yên tĩnh, đoàn quân ta ra
trận “rầm rập” khiến đất rung, trời lở. Kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp
càng làm tăng thêm sự khỏe khoắn, hùng tráng của đoàn binh. Tinh thần quật
khởi, ts chí ngang tàng ấy ta đã từng phải thốt lên tự hào trong tinh thần Sát Thát
của nghĩa quân Lam Sơn:

“Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông”

Để rồi hôm nay, Tố Hữu lại tiếp biến niềm tự hào to lớn đó bằng
những vần thơ:

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Bằng những từ ngữ tượng thanh và tượng hình liên tiếp như “điệp điệp”,
“trùng trùng” được vận dụng một cách tài tình đã diễn tả chính xác sự hồ
khởi của đoàn người nối tiếp nhau ra trận. Hình ảnh thơ “ánh sao đầu súng”
được đứng trong bối cảnh này hết sức lãng mạn - hình ảnh những người lính
trong đêm hành quân đi dưới trời sao, chiếu sáng lấp lánh cả ngôi sao trên mũ
các anh. Nơi “đầu súng" của người lính cụ Hồ cũng sáng ngời lí tưởng của cách
mạng, của hòa bình và của niềm tin chiến thắng. Hình ảnh "ảnh sao đầu
súng" gợi liên tưởng đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu. Hay Nguyễn Đình Thi cũng có những dòng thật thơ về sự
gắn bó giữa ánh sao và lòng người:

95
“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sỹ giữa đèo mây”

Không chỉ dừng lại ở đó, Tố Hữu đã tạc bức tranh đoàn quân chủ lực
bình dị mà cao cả ngay ở những dòng thơ tiếp theo:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Họ là những người dân công xẻ núi, phá bom, đắp đường...Cấu trúc đảo
“dân công đỏ đuốc từng đoàn” đã mở ra một sự nối tiếp nhau đến vô tận. Với
khát vọng giải phóng đất nước cháy bỏng, những đoàn quân lấy đêm là ngày,
từng đoàn, với bỏ đuốc rực cháy trên tay hối hả nối tiếp nhau ra trận. Hình ảnh:
“Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” sử dụng phép phóng đại. “Bước chân” là
hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những chặng
đường đấu tranh cách mạng. Ở đây, hình ảnh bước chân đã được thủ pháp phóng
đại, cường điệu làm bừng sáng lên sự lãng mạn nhưng đầy khí thế oai hùng, lẫm
liệt. Tố Hữu cũng nhiều lần dành những tâm tình sâu sắc với những người dân
công hoả tuyến, đặc biệt có một đoạn thơ trong “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”:

“Mấy tầng mây, gió lớn mưa to

Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh đèo chị hát

Dù bom đạn xương tan, thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.”

Đặc biệt ở hai câu thơ sau, đã xuất hiện một hình ảnh thơ rất mới - những
đoàn xe cơ giới ầm ầm kéo nhau ra trận với ánh đèn pha rực sáng xuyên thủng
màn sương đêm dày đặc:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” có thể hiểu là hiện thực khắc nghiệt
hiện tại trên mảnh đất vùng núi cao Việt Bắc, nhưng đó còn là một ẩn dụ cho
những ngày tháng nô lệ của cả dân tộc “nghìn đêm thăm thẳm”. Biện pháp nghệ
96
thuật tương phản một lần nữa lại được vận dụng tài tình giữa quá khứ “nghìn
đêm thăm thẳm” và “sang như ngày mai lên”. Chữ “bật sáng” đã nhấn mạnh
cái khoảnh khắc chói lóa, kháng chiến chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ vẻ
vang. Ánh sáng đoàn xe cơ giới, vừa nêu bật sự trưởng thành lớn mạnh của quân
đội ta, đồng thời, nó cũng thể hiện niềm tin vào một ngày mai huy hoàng.

Khúc hùng tráng ca về Việt Bắc ra trận được khép lại bằng không khí
chiến thắng đang dồn dập:

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Vẫn là thủ pháp nghệ thuật liệt kê những địa danh, nhưng lần này nhà thơ
không gắn với điệp từ “nhớ” như ở những dòng thơ mở đầu nữa mà gắn với điệp
từ “vui” để thấy tin vui đang như bay lên từ khắp trăm miền. Điệp từ “vui” được
điệp đi, tạo nên âm hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm “vui từ”, “vui về”,
“vui lên” tạo nên không khí phấn chấn, vui tươi, hồ hởi. Điểm đáng chú ý trong
đoạn thơ là việc liệt kê hàng loạt các địa danh mà không làm mất đi sự hấp dẫn.
Nếu ở “Tây Tiến”, những địa danh của Quang Dũng xuất hiện với niềm thương
nỗi nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh lừng lẫy chiến công làm bùng tinh
lỏng người. Có thể nói, đây là điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu.

Bên cạnh đó, Việt Bắc là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người
kháng chiến. Bên cạnh yếu tố trữ tình lãng mạn, bài thơ Việt Bắc còn quyện
hòa trong chất sử thi hùng tráng. Đó là khúc hùng ca kháng chiến mạnh mẽ tạo
nên những trang thơ đậm đà tính dân tộc. Phản ánh hết thảy khi thế anh hùng
của quân và dân ta trong những ngày cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống
Pháp. Mỗi câu thơ vang lên như biểu tượng cho tinh thần “quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh” được tạo nên bởi những người anh hùng dũng cảm. Đó là khúc hùng
ca có ý nghĩa biểu tượng ca ngợi tinh thần yêu nước quân dân đoàn kết một lòng
lại vừa là khúc tình ca về cách mạng, về con người kháng chiến trong sự yêu
thương, gắn bó chia sẻ ngọt bùi bên nhau. Tác phẩm xứng đáng trở thành bài
ca bất hủ trong văn học dân tộc viết về đất nước.

97
“Thời gian qua kẽ tay

Làm khô những chiếc lá

... Riêng những cầu thơ

Còn xanh...”

(Thời Gian, Văn Cao)

Những câu thơ còn xanh, những câu hát còn vang trong ta. Bởi tình cảm,
niềm thương nỗi nhớ của Việt Bắc, của khúc hùng ca ấy đã len lỏi và neo
đậu trong trái tim người đọc, đi đến khắp mọi miền không gian và trôi theo
dòng chảy miền viễn của thời gian.

Đề bài: Phân tích 8 câu thơ đầu của tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu

Nếu như Hoàng Cầm cả cuộc đời đắm đuối trong vùng đất Kinh Bắc đầy
thơ và mộng, Nguyên Ngọc cả đời trung thành với mảnh đất đỏ badan, với tiếng
cồng chiêng âm vang, với hạt bụi vàng lóng lánh thì Tố Hữu lại một lòng một dạ
với mảnh đất nghĩa tình Việt Bắc. Và quả thật “thơ chỉ trào ra khi trong tim anh
mọi thứ đã tràn đầy”, chính những niềm thương, nỗi nhớ khi rời xa nơi đây đã
tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc dẫn lối nhà thơ viết nên đoạn
trích Việt Bắc, trích trong tác phẩm cùng tên. Làm nên Việt Bắc-một bản hùng
ca, tình ca đậm đà tình quân dân không thể không kể đến tám câu thơ đầu của
bài thơ.

Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ , Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ
thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ
đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn
để về xuôi, mở ra một thời kì mới của cách mạng Việt Nam. Nhân sự kiện chính
trị có tính lịch sử này, Việt Bắc đã ra đời. Đoạn trích nằm ở 90 câu đầu là khúc
hát ân tình thủy chung giữa những con người cách mạng kháng chiến với Việt
Bắc, và giữa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, thể hiện truyền thống uống nước
nhớ nguồn của dân tộc. Ghi dấu trong lòng độc giả là 8 câu thơ đầu- khung cảnh
chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn của cả kẻ ở lẫn người đi.

Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ". Quả thật vậy,
với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện cũng như đời sống chính trị của đất nước , ông

98
đã vận dụng một cách sáng tạo lối kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên. Nếu
như trong ca dao là lời đối đáp tâm tình của một chàng trai và một cô gái trong
tình cảm lứa đôi thì Việt Bắc lại là cuộc đối đáp của cán bộ kháng chiến về xuôi
và đồng bào Việt Bắc ở lại khơi gợi những kỉ niệm về những ngày kháng chiến
gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm kia mà dựng lại quá trình trưởng
thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người
chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Thực chất của lối kết cấu này chính là sự
phân thân của nhân vật trữ tình, qua đó cho thấy tình cảm sâu nặng gắn bó cũng
như sự thấu hiểu hết sức chân thành của Tố Hữu đối với đồng bằng Việt Bắc.

Ngoài ra, nhà thơ đã sử dụng cách xưng hô ta-ý chỉ người ở lại, đồng bằng
Việt Bắc và mình-ý chỉ người ra đi, cán bộ kháng chiến để thể hiện sự gắn bó,
sắt son, thủy chung giữa đồng bằng Việt Bắc và cán bộ miền xuôi. Trong bài
thơ, chữ mình và chữ ta như có sự hoán đổi cho nhau, tuy hai nhưng lại là một,
tạo nên một sự gắn kết không thể tách rời, gợi người yêu nhớ đến những câu ca
chất chứa nặng ân tình:

“Mình nhớ ta như cà nhớ muối

Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”

Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại mà dòng thơ
đầu tiên ngân lên như một lời khắc khoải tự vấn cho bản thể tình yêu nhẹ nhàng,
tình tứ:

“Mình về mình có nhớ ta”

Thể thơ lục bát thấm đượm tính chất dân tộc đã đồng nhịp với những hứng khởi
nội sinh của tâm thức Tố Hữu. Nhịp điệu là lời nghi vấn nhưng hình thức đã bẻ
đi dạng thức đặc thù nên không xuất hiện dấu chấm hỏi ở cuối dòng thơ. Tố Hữu
đã thật tinh tinh tế gợi nên một lời thủ thỉ tâm tình nhẹ nhàng mà sâu lắng bằng
cách sử dụng câu hỏi tu từ và cặp đại từ nhân xưng mình-ta. Cách xưng hô ấy đã
gợi lên bao nhiêu lưu luyến, bịn rịn, yêu thương, từ đó đưa ta vào không gian
giao duyên của những lứa đôi trong ca dao xưa với chữ mình chữ ta thắm thiết,
ngọt ngào:

"Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ".


99
Cũng ngay câu thơ đầu tiên của bài thơ chữ “về” đã xác định tình huống chia li.
Cùng với từ “về” thì chữ “mình” chữ “ta” đặt hai đầu câu thơ như xác lập rõ
hơn nữa sự chia li cách trở. Có cuộc chia li nào là không nhớ nhung, bịn rịn ?!
Có cuộc chia li nào không để lại trống vắng, chênh chao?! Tuy vậy, sử dụng
cách xưng hô quen thuộc ấy cho thấy đây dường như đây không còn là cuộc chia
li giữa đồng bào và chiến sĩ cách mạng nữa mà nó đã trở thành buổi chia li của
đôi lứa yêu nhau mặn nồng da diết, của đôi bạn tâm tình thuở nào.

Ngoài ra, giữa khoảng cách vời vợi của ta và mình lại vang vọng một câu
hỏi tu từ xoáy sâu vào lòng cả kẻ ở lẫn người đi: “có nhớ”-xuất hiện ngay câu
thơ đầu tiên, thể hiện tâm trạng băn khoăn, trăn trở, lo âu của người ở lại, liệu
người ra đi còn nhớ Việt Bắc không. Có thể thấy, sự băn khoăn này là có cơ sở
bởi Tố Hữu đã từng viết:

“Mình về thành thị xa xôi.

Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông, còn nhớ bản làng.

Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Hỏi nhưng thực chất là lời gợi nhắc, nhắn nhủ chân thành không được quên Việt
Bắc, là lời bày tỏ nỗi nhớ đang trào dâng cuốn xoáy trong tim, là sự phân thân
của chủ thể trữ tình. Mượn câu chuyện ấy để tác giả khẳng định ân tình, ân
nghĩa của mình đối với cách mạng.

Và đó phải chăng cũng chính là cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ, gợi nhắc kỉ
niệm:

“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Thời gian “mười lăm năm” là chi tiết thực đưa ta trở về cội nguồn những năm
tiền khởi nghĩa sâu nặng biết bao ân tình: Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt
Minh, cho đến ngày cuộc kháng chiến thành công, gợi ta nhớ tới "cái thuở ban
đầu" của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Nghìn năm hồ dễ đã ai quên".

100
Đối với lịch sử dân tộc đây tuy không phải là một thời gian dài nhưng lại là
khoảng thời gian đã xảy ra biết bao biến cố làm thay đổi diện mạo dân tộc. Còn
đối với kẻ ở người đi thì đây lại là thời gian chứa đựng biết bao niềm vui, nỗi
buồn, chứa đựng biết bao kỉ niệm trong suốt gần hai thập kỉ. Tất cả đã làm nên
cái mặn và sâu, cái bền và chặt không phải đơn giản là của tình cảm lứa đôi mà
hơn thế nữa là tình yêu đất nước, yêu cội nguồn, dân tộc. Nhà thơ cũng đã rất
tinh tế khi chọn cách thêm vào sau mốc thời gian một chữ “ấy” để cá nhân hóa,
trữ tình hóa, cảm xúc hóa quãng thời gian của nhớ nhung, hoài niệm này.

Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương đã được cụ thể hóa trong
hai từ “thiết tha” và “mặn nồng”. Có thể nói đây là hai tính từ quen thuộc trong
việc tô đậm cảm xúc, khẳng định tình cảm gắn bó, chia sẻ, ân tình. Nếu như
“thiết tha” trong tiếng Hán là nỗi nhớ cồn cào, thấm thía như cắt như mài vào da
thịt thì “mặn nồng” gợi ta nhớ đến hình ảnh mang tính biểu tượng muối mặn
gừng cay, càng lâu càng mặn mà, nồng ấm. Nghe như ca dao, lại phảng phất âm
hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ đến câu thơ trong Truyện Kiều:

“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”

Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách
xưng hô đầy tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi
bao trùm cả không gian của cuộc chia tay

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Sự láy đi láy lại của hai câu hỏi tu từ như một nỗi niềm day dứt, khắc khoải của
người ở lại với người ra đi. Những tiếng “mình về” lặp lại nhằm khẳng định sự
xa cách, chia ly là điều chắc chắn và không thể thay đổi được, gợi nên một cảm
xúc khó tả đề rồi từ “có nhớ ta” đến “có nhớ không” trở thành điểm nhấn trong
câu thơ, như một sự ứ nghẹn trong lòng người ở lại. Và đó dường như cũng
chính là lời mà những cán bộ cách mạng muốn tự hỏi chính bản thân mình.
Cùng với điệp từ “nhìn” và “nhớ” được lặp hai lần, tiết tấu khi cất lên cứ như
phác thảo trong trí tưởng tượng của độc giả vào một buổi xa cách. Kẻ ở ngóng
vọng theo bước chân lơi nhịp của người đi, mắt “nhìn”, tâm “nhớ”, hồn còn
phiêu lãng trên những tầng bậc thiết tha, ân tình. Qua đó, tạo nên âm hưởng chủ
đạo của khổ thơ.
101
Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ
xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể
phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc hai câu thơ mà ta ngỡ như câu ca dao:

"Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”

Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca
dao, dân ca. Điều đó đã làm mềm hóa câu thơ, làm ngọt ngào thêm cho tình ý.
Không gian ở trong câu thơ cuối dưới ngòi bút tài ba của nha thơ đã được mở ra
vô cùng vô tận, không còn bó hẹp trong phạm vi của núi rừng Tây Bắc nữa mà
vượt hẳn ra bên ngoài, từ "cây", "núi", đến "sông", đến "nguồn". Đó vốn là
những hình ảnh đặc trưng của Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là hình ảnh quen
thuộc của miền xuôi. Hình ảnh “nguồn cội” cũng đã được Tố Hữu đặt vào bài
thơ một cách khéo léo, như một lời khẳng định của tác giả về cái nôi cách mạng
của dân tộc: Việt Bắc. Qua đó đã cho thấy luôn có một sự gắn kết vô hình tồn tại
đan xen giữa nhân dân và cán bộ kháng chiến, giữa miền ngược và miền xuôi
khiến cái đạo lí ân tình “uống nước nhớ nguồn” trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
4 câu đầu nói riêng và cả đoạn trích nói chung. Nhân dân Việt Bắc vẫn luôn là
hậu phương vững chắc của cách mạng cũng như thiên nhiên và con người Tây
Bắc luôn gắn bó mật thiết với nhau. Dù cuộc sống có đổi thay, dù phải sống
trong khó khăn, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là
không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.

Đáp lại tình cảm sâu nặng của người ở lại, những người ra đi, những
chiến sĩ Cách mạng cũng nói lên tiếng lòng mình, tạo nên sự cân đối, hài hòa với
4 dòng thơ mở đầu:

"Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi"

Đại từ phiếm chỉ “ai” đã tạo nên một sự mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ. Đó
chính là tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như muốn gọi người chiến sĩ
ở lại, hay là tiếng lòng của người chiến sĩ không muốn chia xa? Một chữ “ai”
thôi nhưng cũng đủ để làm xao động cả không gian. Tố Hữu không chú trọng
sáng tạo những từ ngữ mới, thay vào đó, ông tập trung tìm kiếm vẻ đẹp bên

102
trong của ngôn ngữ Việt Nam-“của cải vô cùng quý báu của dân tộc. Chính vì
thế, ta mới bắt gặp từ được sử dụng với mật độ dày đặc trong ca dao:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”

Tiếng hát ai văng vẳng lên bên "cồn" như lời đưa tiễn của người Việt Bắc dành
cho người ra đi. Ta có cảm giác như người ra đi đang chìm đắm, đang miên man
trong những dòng xúc cảm, những hoài niệm rồi chợt sực tỉnh, chợt nhận ra hiện
thực phúc phàng khi giây phút này họ phải chia tay nhau, không biết đến bao giờ
giờ mới được tương phùng. Từ “tha thiết” vốn để đáp lại “thiết tha” ở câu thơ
thứ hai như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho ta cảm
nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ cách mạng là vô cùng sâu nặng.
Người chiến sĩ phải về xuôi khi cuộc chiến kết thúc, chân bước đi nhưng lòng lại
không muốn tạo nên sự đối lập trong hành động và tâm trí của những người
chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ.

Và rồi, tình thương, nỗi nhớ như níu chân người ở lại. “Bâng khuâng” và
“bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui,
luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong lẫn lộn cùng một lúc. Vừa náo nức khi kháng
chiến thành công, muốn về với thủ đô thân yêu cũng chẳng muốn bước đi vì
mảnh đất này còn biết bao nhiêu kỉ niệm của mười lăm năm nghĩa tình gắn bó.
Cái vô hình của cảm xúc“bâng khuâng trong dạ” được hiện hình rõ nét qua bước
chân đi đầy những “bồn chồn”. Nội tâm thể hiện qua ngoại hình, tâm tư bộc lộ
qua hành động như một sự đồng nhất để thể hiện chính xác và đầy đủ qua nghệ
thuật đối mà nhà thơ sử dụng thật khéo léo. Điều đó khiến ta nhớ đến câu thơ
trong Chinh phụ ngâm: Bước đi một lát lâu lâu lâu lại dừng. Hai từ láy chỉ tình
cảm được đặt liên tiếp trong một câu thơ cho thấy sự lưu luyến, bịn rịn chứa
chan cảm xúc. Những tình cảm ấy như ngàn sợi tơ vấn vít bước chân người đi
tao thanh sức nặng kéo chậm lại giây phút chia ly.

Khúc thơ đầu khép lại bằng hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến sĩ
cách mạng và người Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."

103
Từ xa xưa tấm áo, chiếc khăn đã đi vào thơ ca với bao nồng nàn xúc cảm.
Va giữa bao sắc áo tác giả chỉ chọn tấm áo chàm- vừa cổ điển vừa hiện đại, là
biểu tượng riêng, gắn với bản sắc của đồng bào Việt Bắc. Không lộng lẫy như
những chiếc váy sặc sỡ sắc màu mà các cô gái vùng cao dùng thổ cẩm để dệt,
màu chàm là một màu rất bền chắc, không nhạt, không phai. Sử dụng hình ảnh
hình ảnh màu áo chàm, phải chăng người đi muốn khẳng định lại một lần nữa
tình cảm của mình dành cho VB mãi mãi không phai mờ. Hình anh áo chàm còn
gợi hình ảnh người dân miền núi nghèo khổ, bình dị đã từng hết mình vì cách
mạng, là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại vừa hào hoa:

“Lưng mang gươm ta mềm mại bút hoa

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”

Cái tài của Tố Hữu còn thể hiện ở chỗ ông đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử
của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đầu trước đó, tiếng hát đối đáp
như chỉ của "mình" với "ta", của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở
thành cuộc chia tay lớn của cả Việt Bắc đối với người kháng chiến từ một hình
ảnh hoán dụ: "Áo chàm đưa buổi phân ly" khiến cả Việt Bắc như "ngẩn ngơ"
trong cuộc chia tay lịch sử ấy.

Ngoài ra, tác giả đã khéo léo lựa chọn từ “phân li” để nói lên sự chia cắt.
Dường như họ không muốn rời xa nhau nhưng do hoàn cảnh bắt họ phải chia li,
xa rời nhau mỗi người một nơi. Qua đó thể hiện nỗi tiếc thương nhung nhớ,
khẳng định tình cảm gắn bó sâu đậm của người Việt Bắc và người chiến sĩ cách
mạng. Tình cảm ấy còn được khẳng định rõ hơn hơn trong câu thơ cuối: “Cầm
tay nhau biết nói gì hôm nay”. “Cầm tay” là một hình ảnh giản dị, mộc mạc, là
biểu hiện của tình yêu thương, đoàn kết, sự thủy chung, son sắt. Quả thực, trong
khoảnh khắc tất cả mọi thứ lùi xa chỉ còn nghĩa tình ở lại, cái nắm tay là điều vô
giá có sức mạnh to lớn gìn giữ trọn vẹn những phút giây. Quyến luyến, xúc động
nghẹn ngào,không nói nên lời, tình cảm ấy làm thay đổi cả nhịp thơ, từ 2/2/2/2
chuyển thành 3/3/2. Nhịp thơ đứt quãng như những tiếng nấc đang thổn thức,
nghẹn nơi lồng ngực của cả người tiễn lẫn người đi. Đây là một bước đi vô cùng
đúng đắn của Tố Hữu bởi lẽ câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái tiết
tấu quá đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.

104
Để rồi, khi cảm xúc trào dâng đến đỉnh điểm thì mọi ngôn từ đều trở thành vô
nghĩa. “Biết nói gì”-không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để
nói, không thể nói hết và cũng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Lời muốn
nói nghẹn ứ lại trong cổ họng nhường chỗ lại cho những giọt nước mắt. “Mười
lăm năm” ấy mang nặng quá nhiều ân tình. Trong giây phút chia ly ấy, người đi
kẻ ở với bao mối vấn vương còn chưa thể ngỏ cùng nhau nhưng rõ ràng, tình
người và tình yêu vẫn luôn thắm đượm, tràn vào từng kẽ hở tim ta. Ba dấu chấm
lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân
dài, sâu lắng mãi.

Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét về nét đặc sắc trong thơ Tổ Hữu: "Cái
hấp dẫn của thơ Tổ Hữu là tính dân tộc…”. Thật vậy, nổi bật lên trong đoạn thơ
trên là tính dân tộc. Tính dân tộc là khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng – thẩm
mỹ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc. Với những đặc sắc về
mặt nghệ thuật nói trên đã phần nào cho thấy dấu ấn của dân tộc trong 18 câu
thơ nói riêng, cả bài thơ nói chung. Ngoài ra, kết cấu đối đáp của ca dao trữ tình
với sự luân phiên của người ở lại và người ra đi cùng cách xưng hô mình - ta
quen thuộc trong ca dao đã góp phần tô đậm màu sắc ấy. Bên cảnh nghệ thuật,
nội dung cũng đóng một phần không nhỏ trong việc thể hiện tính dân tộc. Đoạn
thơ không chỉ khái quát rõ bức tranh thiên nhiên, cuộc sống, con người mà còn
thể hiện tình cảm, đạo lí chung của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”.

Tám câu thơ mở đầu đã diễn tả rất thành công cảnh chia tay bịn rịn, luyến
lưu quyện bao ân tình của nhân dân Việt Bắc và người chiến sĩ, cán bộ cách
mạng. Đoạn thơ gây ấn tượng với người đọc không chỉ ở nội dung thể hiện mà
còn thành công trong việc khẳng định tài năng của Tố Hữu. Với giọng thơ đong
đầy ân tình sâu lắng, nhà thơ đã sử dụng tài tình thể thơ lục bát kết hợp nhuần
nhuyễn với cách xưng hô, đối đáp mình-ta đậm phong vị ca dao để nói lên tình
cảm không phải của riêng bất kì cá nhân nào mà mang ý nghĩa cộng đồng, tạo
nên cái hồn cốt dân tộc. Không chỉ vật, nhà thơ còn khéo léo tài tình thổi chất
trữ tình vào chuyện kháng chiến, chuyện cách mạng, giúp cho vấn đề chính trị
trong bài thơ dễ đi sâu vào lòng người. Chính vì vậy mà đoạn trích nói chung, 8
câu thơ đầu nói riêng được xem là kết tinh của phong cách thơ trữ tình - chính
trị, là thứ văn chương cách mạng “chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ
nên nhạc…” (Xuân Diệu).

105
Có những câu chuyện không chỉ được tạc dựng bằng tấm lòng của nhà
văn hay tiếng nói của thời đại, mà còn được lớn lên, được sống tiếp đời xanh của
một tác phẩm bằng những trăn trở, thổn thức để lại nơi tâm can người đọc. Một
mai, hành trình sống của con người liệu có còn sự theo dõi của văn chương nghệ
thuật?-câu trả lời vẫn đó. Duy có thể khẳng định, Việt Bắc của Tố Hữu đã “nằm
ngoài mọi sự băng hoại của thời gian” để ở lại với đời.

106
ĐẤT NƯỚC
(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
Đề bài: Phân tích đoạn trích sau:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

Từ đó, nhận xét về quan niệm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

Bài làm

“Mỗi người có một quê

Ngày dại thơ để ở

Tuổi niên thiếu để yêu

Và suốt đời để nhớ”

Quê hương - Đất Nước - những nơi, những chốn thân thương nhất trong
cuộc đời mỗi con người. Ngày dại thơ, đó là nơi chào đón sự ra đời của chúng
ta. Lớn lên, đó là nơi luôn yêu thương, che chở, bảo vệ và đồng hành. Không
dừng lại ở đó, đây còn là nơi suốt đời ta mong ngóng, nhớ nhung và mong được

107
quay trở về, trở về với những ấp ôm kỷ niệm xưa cũ. Đã không có ít người hoạ
tâm mình trên dáng hình, núi sông của dân tộc, nhưng có lẽ, “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho ta thật nhiều ấn tượng, không phải bởi vì nó
xuất phát từ sự vĩ đại, lớn lao, mà bởi, nhà thơ đã viết về Đất Nước từ những gì
gần gũi nhất, giản dị nhất, thân thương nhất:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

Từ đó, đã cho ta thấy được quan niệm đầy độc đáo, mới mẻ về Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm.

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Ông sinh ra tại nơi đất Huế thân thương, bởi vậy, từng lời ăn tiếng nói nơi
xứ mộng mơ ấy cứ thấm dần, thấm sâu vào tâm hồn ông từ khi thơ bé để rồi sau
này, hòa cùng với những suy tư sâu lắng, logic rành mạch, nhà thơ đã có riêng
cho mình một phong cách viết: trữ tình - chính luận; một giọng văn đằm thắm,
thâm trầm, thiết tha,... “Đất Nước” trích trong “Mặt đường khát vọng” chính là
minh chứng cho phong cách nghệ thuật ấy. Bản trường ca ra đời là tiếng lòng
của một thanh niên thức tỉnh những thanh niên thành thị vùng bị tạm chiếm ở
miền Nam trước năm 1975. Viết bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gửi gắm
những tâm tư lúc “đương thời sôi nổi” của mình mà còn để truyền cảm hứng đến
cho thế hệ đồng trang lứa. Đồng thời, bài thơ cũng là niềm ca ngợi, tự hào, yêu
mến của tác giả với quê hương - đất nước - con người Việt Nam. Đoạn thơ trên
được đặt sau định nghĩa đầy chất thơ về Đất Nước, là những lời đầu tiên khi tác
giả bày tỏ tư tưởng mới mẻ, độc đáo của mình: Nhân Dân chính là người đã kiến
tạo nên Đất Nước.

Nhẹ nhàng, sâu lắng, bình dị mà dạt dào xúc cảm, Nguyễn Khoa Điềm đã
khẳng định nhân dân chính là người đã tạo thành dáng hình cho tổ quốc:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

108
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Nhà thơ đã liệt kê liên tiếp những địa danh trên khắp mọi miền tổ quốc như “núi
Vọng Phu”, “Hòn Trống Mái”, “đất tổ Hùng Vương”, “núi Bút, non Nghiên”,
“ông Đốc, ông Trang, bà Đen, Bà Điểm” ...Từ đó, nhà thơ đã khẳng định vẻ đẹp
đầy hùng vĩ với vô vàn địa danh phong phú của Đất Nước. Qua thơ của Nguyễn
Khoa Điềm, dáng hình của dân tộc vô cùng đẹp đẽ, ở nơi đâu cũng có những
thắng cảnh, những danh lam, có ngọn núi non hùng vĩ có biển khơi xanh thẳm,
có chốn gần gũi thân quen, có kiệt tác trong hình núi, dáng sông. Nghệ thuật liệt
kê không chỉ giúp cho người ta nhận thấy được sự phong phú đa dạng của cảnh
vật Việt Nam mà còn thể hiện niềm tự hào của nhà thơ nói riêng và của mỗi
người dân Việt Nam nói chung về non sông, đất nước. Viết về Đất Nước, đã
không ít các nhà thơ dành niềm tự hào, tự tôn dân tộc của mình để liệt kê ra
những địa danh đẹp của Tổ Quốc. Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng
đã từng vẽ hình Tổ quốc qua những nơi, những chốn đã từng in dấu chân người
lính:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hay Tố Hữu cũng đã từng bày tỏ niềm vui phơi phới vào ngày thắng trận nơi núi
rừng Việt Bắc:

“Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, Núi Hồng…”

Mỗi một địa danh là một nơi đã in dấu gương mặt, dáng hình, công lao của nhân
dân, đã "hóa tâm hồn", lưu giữ biết bao kỉ niệm một thời gian khổ mà hào hùng.
109
Nhưng, độc đáo hơn, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một nhà họa sĩ tài ba có
thể vẽ hình Tổ quốc bằng ngôn ngữ thơ mà còn đem đến một góc nhìn mới mẻ
bằng việc lý giải cội nguồn của vẻ đẹp đất nước. Mỗi câu thơ được chia làm hai
vế, đi liền với mỗi tên đất, tên sông là một sự tích, một liên tưởng thú vị. Nhà
thơ không lý giải cội nguồn Đất Nước như những nhà khoa học, coi hình sông
dáng núi là do thiên tạo mà khẳng định người tạo ra những thắng cảnh đó chính
là con người, là nhân dân. Đan xen hai vế câu thơ là sự điệp đi điệp lại động từ
“góp” như để nhấn mạnh hơn, tô đậm hơn vai trò của người đã kiến tạo nên Đất
Nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định không phải thiên
tạo, chính con người, chính nhân dân, những người bình dị, vô danh đã âm thầm
tạc nên dáng hình Tổ Quốc. Chính những người vợ nhớ chồng đã tạo thành núi
Vọng Phu, tạo nên hòn Trống Mái; gót ngựa Thánh Gióng tạo nên trăm ao đầm;
người học trò nghèo tạo thành núi Bút non Nghiên; biết bao người dân đã góp
tên mình để tạo thành ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Mỗi người dân
đã đem số phận cuộc đời của mình để tạo nên vẻ đẹp cho non sông tổ quốc. Đất
nước ba miền tươi đẹp như ngày hôm nay là bởi đã có sự “hóa thân” của nhân
dân, đã được nhân dân gửi trao linh hồn, tình cảm. Núi Vọng Phu đã đẹp lại
càng ý nghĩa hơn khi trở thành chứng nhân của nỗi nhớ da diết, cháy bỏng; Hòn
Trống Mái đã thi vị lại càng lãng mạn hơn bởi nghĩa tình thủy chung, gắn bó
mặn nồng… Tất cả danh lam mọi miền tổ quốc trường tồn mãi mãi với thời gian
là bởi sự kết tinh chiều sâu của văn hóa, vẻ đẹp truyền thống, lối sống của ông
cha. Không gợi dáng, gợi hình, gợi chiều sâu Đất Nước bởi những gì to tát, hùng
vĩ, mang tính chất sử thi, anh hùng như những nhà thơ trước đã từng thể hiện:

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả dập dờn

Mây mờ che đỉnh trường sơn sớm chiều”

(Nguyễn Đình Thi)

“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất


110
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…

(Tổ Quốc có bao giờ đẹp thế này chăng? - Chế Lan Viên)

Nguyễn Khoa Điềm đã chấm nghiên mực vào chất liệu văn học dân gian,
đã chọn lấy cái hồn cốt tinh túy nhất nhưng bình dị nhất của dân tộc mà đan dệt
nên gấm vóc non sông, đất nước. Nói về vai trò của nhân dân trong việc tạo
dựng nên Đất Nước không khô khan, sáo rỗng mà nhờ có ngôn từ đậm chất dân
gian cùng tình cảm đẹp đẽ mà lời thơ thêm phần thi vị, trữ tình, nói như Lưu
Quang Vũ:

“Hồn dân tộc dạy ta làm thi sĩ

Quá khứ nhiều nên ta chẳng già nua”

(Đất nước đàn bầu)

Cũng chính bởi một tình yêu dạt dào với quê hương, dân tộc, với ngọn nguồn
văn hóa dân gian mà Nguyễn Khoa Điềm, không chỉ đóng vai trò là một nhà địa
lí, nhà lịch sử mà còn là nhà văn hóa khi đã tạo nên một Đất Nước được kết tinh
bởi cái Tình - Nghĩa - Tầm của ông cha ta tự ngàn đời.

Từ những nét hoạ cụ thể về dáng hình Đất Nước, nhà thơ đã khái quát
thành mạch triết lý trong thơ:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

Nguyễn Khoa Điềm khẳng định không chỉ có những danh lam thắng cảnh,
không chỉ những mảnh đất đã được gọi thành tên là in dấu tích của ông cha mà ở
khắp mọi nơi, mọi chốn, khắp ruộng đồng gò bãi đều gắn liền với số phận, cuộc
đời, dáng hình của ông cha. Câu thơ “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi”

111
như một cách để nhà thơ khái quát thành mạch triết lí - tự sự trong thơ. Từ đó, ý
thơ như được mở rộng, được nâng tầm. Ở khắp mọi nơi trên Tổ Quốc này đều
ghi dấu, đều khẳng định, đều khắc ghi vai trò của nhân dân trong việc kiến tạo
nên “Đất Nước”. Đâu đâu trên dải đất thiêng này cũng mang linh hồn, dáng dấp,
lối sống ông cha. Hay nói cách khác, những ao ước, dáng hình lối sống của nhân
dân trong “phần đời” của họ đã “hóa thân”, đã “hoà nhập” để gửi trao đất nước
những gì tốt đẹp nhất. Suốt bốn ngàn năm lịch sử, dáng hình của Nhân Dân đều
luôn hiện diện và đồng hành tạc vào non sông những gấm vóc. Chữ “Ôi” đặt đầu
câu thơ như một niềm tự hào, một niềm vinh dự, một lần nhìn lại chặng đường
dài mà những “cuộc đời” ấy đã “hoá núi sông ta”. Chữ “hoá” hay còn là hoá
thân, là đem cả linh hồn, cả trí tuệ, tình cảm để dự một phần công sức của mình
vào sửa sang, xây dựng Đất Nước. Đó không chỉ là lời tự hào mà còn là một lời
gửi gắm cho thế hệ mai sau về trách nhiệm của mình trong việc dựng xây Tổ
quốc:

“Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”

Thông qua đoạn thơ trên, ta có thể nhận thấy một quan niệm thật mới mẻ
về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Nếu xưa kia, Đất Nước trong quan niệm
của người đi trước là của vua:

“Nam Quốc sơn hà Nam đế cư”

Đến Nguyễn Trãi dù đã có phần hướng về nhân dân nhưng vẫn một lòng tôn thờ
vua là người đứng đầu thì đến Phan Bội Châu đã có sự thay đổi:

“Dân là dân nước

Nước là nước dân”

Nhưng có lẽ, phải đến Nguyễn Khoa Điềm, ta mới thấy quan niệm ấy cụ
thể đến như thế nào. Nhà thơ cho ta thấy một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ mà về
dân tộc: Đất Nước là của Nhân Dân, do Nhân Dân, là của anh, của em, của
những người xung quanh chúng ta - con người vô danh, bình dị kiến tạo nên.

112
Không chỉ vậy, nhà thơ còn nhìn đất nước trên nhiều phương diện, nhiều góc độ:
Lịch sử - Địa lý - Văn hoá, để vừa có thể mở to tầm nhìn về Đất Nước nhưng
cũng lại để kéo gần hơn khoảng cách giữa Đất Nước và con người. Đây có thể
coi là một sự phát triển trong cái nhìn cũng như trong tư tưởng của nhà thơ.
Nguyễn Khoa Điềm đã một lòng tôn thờ, biết ơn, nâng niu, trân trọng công sức
của những con người bình dị, vô danh đã không tiếc đời mình để dựng xây Tổ
quốc. Quan niệm ấy vừa như một lời tri ân, vinh danh, nâng tầm Nhân Dân lại
vừa khẳng định dấu ấn, phong cách của tác giả. “Thơ ca là tiếng nói của trái
tim”, qua thơ, người ta có thể hình dung được khuôn mặt, dáng dấp của người
viết. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm không đơn thuần chỉ thấm đẫm chất trữ tình,
cái tài, cái riêng của nhà thơ chính là biến hoá một vấn đề mang tính chính trị trở
nên thấm đẫm cảm xúc, khiến cho nội dung bài thơ chẳng khô khan mà còn dễ
hiểu, dễ nhớ, nhẹ nhàng thấm dần và thấm sâu vào trái tim con người. Có lẽ,
phải là một người yêu Đất Nước nồng nàn, và một lòng trân trọng công lao của
những con người bình dị, vô danh, Nguyễn Khoa Điềm mới có thể chắt lọc
những gì đẹp nhất, thơ nhất mà thực nhất để hoạ nên những trang giấy của mình.

Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được công lao to lớn của nhân dân
trong việc kiến tạo nên Đất Nước, không chỉ ở chiều rộng của địa lí, chiều dài
của lịch sử mà còn ở chiều sâu truyền thống văn hoá. Đoạn thơ không chỉ thể
hiện tư duy logic, chất chính luận sắc sảo. từ cụ thể đến khái quát mà còn đan
xen yếu tố trữ tình, biện pháp liệt kê, điệp ngữ, từ đó góp phần tạo nên nét đặc
sắc cho thi phẩm. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ viết thơ bằng tài năng ngôn từ
mà còn bởi niềm tự hào, tình yêu quê hương - đất nước - con người một cách
mãnh liệt. Chính vì vậy, nhà thơ đã tạo nên được “chất” riêng, “vân chữ” riêng
cho sự nghiệp sáng tác của mình.

Bàn về thơ ca, Chế Lan Viên quan niệm:

“Cái kết tinh ở mỗi vần thơ và muối bể

Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bề sâu”

Mỗi vần thơ trong “Đất Nước” thực sự đã được kết tinh từ những ngôn từ giản
dị, lắng đọng cùng cảm xúc chân thật. Bởi vậy, trải qua bao nhiêu thử thách của
thời gian cùng quy luật đào thải khắc nghiệt của văn chương, “Đất Nước” vẫn
giữ vững vị trí đẹp nhất của chính mình, vẫn mãi là “sự thăng hoa của một tâm

113
hồn lãng mạn” (Đinh Minh Hằng). Mỗi vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm thấm
sâu vào tâm hồn tôi, sẽ mãi là “chất muối” ngưng đọng trong trái tim này với
những cảm xúc mãnh liệt nhất về “Đất Nước” không chỉ một thời mà mãi mãi
về sau…

Đề bài: Phân tích đoạn trích sau:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Từ đó, nhận xét về hiệu quả của việc vận dụng những chất liệu văn hoá dân
gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Bài làm

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ vươn lên phía trước"

Bốn câu thơ đã khơi gợi nên một chặng đường, một hành trình đầy xúc
động, đầy vất vả, gian lao nhưng cũng thực tự hào của Đất Nước. Đất Nước đó
trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vẫn ở đó, vẫn lớn mạnh và trường tồn theo
năm tháng. Viết về hành trình hình thành nên tổ quốc, ta không thể không kể

114
đến thi phẩm "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm, không tái hiện bằng gì to
lớn, vĩ đại, xa vời mà tác giả xuất phát từ những điều thật bình dị, gần gụi, thân
thương. Từ đó, nhà thơ còn cho ta được những giá trị lớn lao của những chất
liệu văn hoá dân gian để lại cho tác phẩm:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Ông sinh ra tại nơi đất Huế thân thương, bởi vậy, từng lời ăn tiếng nói nơi
xứ mộng mơ ấy cứ thấm dần, thấm sâu vào tâm hồn ông từ khi thơ bé để rồi sau
này, hòa cùng với những suy tư sâu lắng, logic rành mạch, nhà thơ đã có riêng
cho mình một phong cách viết: trữ tình - chính luận; một giọng văn đằm thắm,
thâm trầm, thiết tha,... “Đất Nước” trích trong “Mặt đường khát vọng” chính là
minh chứng cho phong cách nghệ thuật ấy. Bản trường ca ra đời là tiếng lòng
của một thanh niên thức tỉnh những thanh niên thành thị vùng bị tạm chiếm ở
miền Nam trước năm 1975. Viết bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gửi gắm
những tâm tư lúc “đương thời sôi nổi” của mình mà còn để truyền cảm hứng đến
cho thế hệ đồng trang lứa. Đồng thời, bài thơ cũng là niềm ca ngợi, tự hào, yêu
mến của tác giả với quê hương - đất nước - con người Việt Nam. Đoạn thơ trên
mở đầu cho tác phẩm, đã giới thiệu và lí giải về hành trình hình thành nên Đất
Nước bằng những chất liệu văn hoá đậm chất dân gian.

Trước hết nhà thơ đã thể hiện những chiêm nghiệm về thời gian hình thành
nên đất nước:

115
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"

Câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình, nhẹ nhàng nhưng dễ đi sâu vào lòng người
đọc. Nhà thơ không chọn những mốc thời gian chính xác hay khoảng cách sử thi
để nói về đất nước như các nhà sử học, nhà thơ cùng thời:

“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên)

Rất giản dị và gần gũi, Nguyễn Khoa Điềm chọn một cự ly gần, từ những điều
giản dị nhất để nói về đất nước lời thơ như một lời trò chuyện đầy tự nhiên, thân
mật để khẳng định: “Đất Nước đã có từ rất lâu rồi”. Câu thơ ngắn gọn mà như
mở ra chiều dài thời gian, đưa đất nước đến gần hơn với mỗi con người. Cộng
hưởng với hai chữ “có rồi” đầy thiêng liêng ở cuối câu thơ, tác giả đã khiến ta
nhận ra: Khi ta lớn lên, Đất Nước đã hình thành, đã hiện diện và đã hiện sinh
trong máu thịt, gắn với số phận của mỗi con người, gắn với tiềm thức của mỗi cá
nhân. Đất nước không hề xa lạ mà gần gũi thân thương, như Xuân Quỳnh đã
từng tâm sự:

“Mỗi người có một quê

Ngày dại thơ để ở

Tuổi niên thiếu để yêu

Và suốt đời để nhớ”

Quê hương - Đất Nước, những khái niệm khó có thể cắt nghĩa, định hình
nhưng lại trở nên thật gần gũi, thân thương. Bởi lẽ, nơi đó là nơi con người “sinh

116
ra đã có rồi”. Bỡi lẽ, nơi đó là nơi đã trở thành máu thịt, là nơi để ở, để lớn lên,
để yêu thương và để nhớ về…

Không chỉ vậy, nhà thơ còn lí giải quá trình hình thành nên đất nước:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Mỗi câu thơ được viết ra tương ứng với một chặng đường trong quá trình
hình thành nên Đất Nước. Từ “đã có” đến “có trong”, “bắt đầu” và “lớn lên” như
một sự phát triển trong tứ thơ, từ đó tạo nên mạch triết luận cho lời thơ. Lịch sử
dân tộc không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son
lịch sử chói lọi như trong thơ Nguyễn Trãi:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,

Mỗi bên xưng để một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có”

Sự hình thành của Đất Nước chính là sự bắt nguồn từ những điều giản dị
quanh ta. Từ câu chuyện thấm đẫm yêu thương “mẹ thường hay kể” hay “miếng
trầu bây giờ bà ăn”, từ khi “dân mình biết trồng tre đánh giặc”, từ những đĩa
117
muối, chén gừng mặn nồng... Không khô khan, không cứng nhắc mà qua những
kí ức được Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi, Đất Nước được cảm nhận thật dễ dàng,
nhẹ nhàng và gẫn gũi. Nhà thơ đã gắn liền sự hình thành của Đất Nước với sự
hiện diện của mỗi chúng ta từ thuở trong nôi với lời ru, câu hát của bà, của mẹ,
với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày để ta hiểu rằng Đất Nước có giá trị vô cùng
lớn lao với sự hiện sinh của mỗi người trong cuộc đời. Đất Nước ấy còn được tái
hiện, được hình thành trong chiều sâu văn hoá dân tộc. Những cái “ngày xửa
ngày xưa” ấy đã trở thành lời gợi mở những câu chuyện cổ tích, những câu
chuyện về nhân sinh thấm nhuần trong tư tưởng mỗi chúng ta từ thời thơ bé.
“Miếng trầu bây giờ bà ăn” ấy đã trở thành một nét đẹp văn hoá của nghĩa tình
thuỷ chung, son sắt trong câu chuyện “Trầu Cau”, là hình ảnh của miếng trầu
têm cánh phượng trong “Tấm Cám” hay trong những câu tục ngữ:

“Miếng trầu là đầu câu chuyện”

“Miếng trầu nên nghĩa nên tình”

Đất Nước ấy còn là một đất nước quật cường, bất khuất, nồng nàn tình
yêu Tổ quốc. Hình ảnh “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” đã diễn tả được
hết thảy ý chí kiên cường, bản lĩnh của con người Việt Nam, một lòng quyết tâm
để giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đặc biệt, vào thời điểm nhà thơ sáng tác
thi phẩm, hình ảnh ấy lại càng có giá trị hơn. Nó nhắc nhở mỗi con người, đặc
biệt là thế hệ thanh niên đô thị vùng tạm chiến miền Nam lúc bấy giờ cần phải
biết tự hào và biết noi theo truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lời
thơ vừa là nét vẽ lại dáng hình, hành trình, cội nguồn của Đất Nước lại vừa là lời
ẩn chứa bài học sâu xa cho những người con nước Việt. Không những vậy, hình
ảnh Đất Nước còn được hiện sinh qua “búi tóc” của mẹ, một hình ảnh đặc trưng
của người phụ nữ Việt. Đó là hình ảnh của những người phụ nữ truyền thống,
những người phụ nữ tảo tần, vất vả chăm lo, hi sinh cho chồng, cho con. Qua
“búi tóc của mẹ” mà ta thấy được hồn Việt, tình Việt được gửi gắm ở trong đó.
Qua hình ảnh “búi tóc” mà ta thấy được cả vẻ đẹp giản dị, tao nhã mà gần gũi,
thân thiết. Chỉ một hình ảnh búi tóc của mẹ nhưng ta có thể thấy cả hình hài, vóc
dáng những con người đất nước cần cù, chịu thương, chịu khó. Lí giải hành trình
kiến tạo nên Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng vô số chất liệu văn hoá
dân gian để khái quát nên một Đất Nước “trong ca dao, huyền thoại”. Vẽ nên cội

118
nguồn Đất Nước, nhà thơ còn khơi nguồn cảm xúc bởi một bài ca dao đậm chất
nghĩa tình, thuỷ chung:

“Tay nâng chén muối địa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

“Muối ba năm muối đương còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng quên”

Đất Nước không chỉ được khởi sinh từ những câu chuyện cổ tích xa xưa,
từ miếng trầu đỏ thắm, từ truyền thống yêu nước, từ sự tảo tần, chịu thương,
chịu khó, Đất Nước còn là nơi thấm đẫm nghĩa tình thuỷ chung, son sắt, là nơi
cha mẹ bắt đầu và nuôi dưỡng một nghĩa tình thắm đượm, là nơi Anh và Em “hò
hẹn”, là nơi “người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước mình núi Vọng Phu”, “cặp
vợ chồng yêu nhau góp nên Hòn Trống Mái”. Đất Nước to lớn, vĩ đại mà bắt
đầu từ những điều rất nhỏ bé, bình dị, gần gũi. Lối sống nghĩa tình thuỷ chung
ấy đâu chỉ một lần được gợi nhắc qua dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm,
ngay từ những năm tháng chống Pháp trước đây, Tố Hữu cũng đã gợi nhắc về
điều đó:

“Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Dường như, nghĩa tình thuỷ chung, son sắt, dù ở tình yêu, tình đồng bào
hay tình quân dân thì vẫn mãi in đậm, vẫn mãi nhắc nhớ cho con người về một
đạo lí, một lối sống tốt đẹp của Tổ quốc. Viết "Đất Nước", Nguyễn Khoa Điềm
đã dành tất cả niềm tự hào, trân quý của mình để nâng niu hai chữ viết hoa cao
quý, nâng niu truyền thống văn hóa, lối sống, nếp sống, tình dân tộc tự ngàn đời
để tạc nên hành trình kiến tạo Đất Nước. Đất Nước còn là những "Cái kèo, cái

119
cột thành tên". "Cái kèo", "cái cột" , đó là hình ảnh in đậm tư duy kiến trúc của
con người Việt, dân tộc Việt, là vật để chống đỡ nhà, để bao bọc, che chở cho
con người hay cũng chính là trụ cột của đất nước. Không những thế, "cái kèo,
cái cột" còn trở thành những cái tên quen thuộc của những người con nước Việt,
những cái tên nghe mộc mạc, chân phương, giản dị, ấy vậy mà lại chứa đựng ý
nghĩa lớn lao. Trong tên gọi, danh xưng của mỗi con người Việt Nam đều có
"Đất Nước". Cũng như trong phần đời của mỗi con người đều không thể thiếu
vắng bóng hình dân tộc:

"Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước"

Đất Nước vì thế tưởng giản dị mà thiêng liêng hơn bao giờ hết. Trên tất
cả, Đất Nước còn gắn liền với quá trình lao động đầy nhọc nhằn, vất vả mà công
phu của con người:

"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"

Câu thơ gợi nhiều liên tưởng thú vị đã tái hiện lại quá trình sản xuất nông
nghiệp của nền văn minh lúa nước, gợi nên quá trình lao động sản xuất và dựng
xây đất nước. Liệt kê các hoạt động "xay, giã, giần, sàng", Nguyễn Khoa Điềm
không chỉ thể hiện am hiểu sâu sắc của mình về hoạt động trồng lúa nước, ông
còn thể hiện khả năng quan sát tinh tế, sự thấu hiểu những giai đoạn đầy vất vả,
công phu của con người. Đất Nước ta để lớn mạnh, phát triển như ngày hôm nay
đã phải trải qua nhiều gian lao, qua chống giặc, qua lao động sản xuất, Đất Nước
ấy vẫn cứ vượt qua mọi khó nhọc để "vươn lên phía trước". "Đất Nước", mọi
khái niệm thật khó để cắt nghĩa, nay đã trở nên cụ thể hơn trong mỗi người đọc.
Đất Nước đã trải qua 4000 năm lịch sử gian lao mà tự hào, Đất Nước ấy là dặm
dài từ địa đầu Hà Giang đến tận cùng Cà Mau, và dưới ngòi bút của Nguyễn
Khoa Điềm, Đất Nước là một hành trình, không chỉ là "đất ở" mà đã "hóa tâm
hồn", dung chứa cả cuộc đời của những người con đất Việt, của biết bao truyền
thống văn hóa đáng tự hào. Không lí giải sự hình thành Đất Nước bằng việc
khám phá như các nhà khảo cổ học, cũng chẳng điểm lại những sự kiện lịch sử,
chỉ từ những chất liệu dân gian giản dị, Nguyễn Khoa Điềm đã khiến ta thêm
yêu, thêm tự hào về một Đất Nước đã gắn liền với sự ra đời - lớn lên - trưởng
thành của mỗi con người.

120
Sau khi đã tái hiện cụ thể hành trình hình thành Đất Nước, Nguyễn Khoa
Điềm kết lại đoạn thơ bằng một lời đầy giản dị nhưng thấm đẫm suy tư: "Đất
Nước có từ ngày đó…" "Từ ngày đó", kết hợp với dấu ba chấm cuối câu thơ đã
gợi ra chiều sâu suy tưởng và dòng mạch cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm. Có
sự tự hào, có sự xúc động và có cả những hoài niệm, nhớ thương. Từ ngày đó,
chẳng rõ cụ thể là bao giờ, nhưng lại thấm thía, lại nhắc nhớ con người về một
hành trình vất vả, gian lao, nhưng tự hào, nồng thắm. Dấu ba chấm cũng khiến
ta liên tưởng đến một hành trình dài hình thành nên Đất Nước. Đất Nước không
chỉ có ở câu chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, trong những cuộc kháng chiến,
trong những ngôi nhà, những búi tóc, những nghĩa tình nồng thắm, Đất Nước
còn hiện diện trong nhiều và nhiều hơn thế nữa. Đất Nước có lẽ được hình thành
là bởi trách nhiệm yêu thương, bao bọc những đứa con dân tộc; nhưng Đất Nước
trường tồn theo năm tháng có lẽ là bởi niềm tự hào, thủy chung, son sắt của con
người Việt Nam. Khi chiêm nghiệm về cội nguồn của Đất Nước, có thể nói 9
câu thơ là cách lý giải rất riêng và độc đáo về quá trình hình thành Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm.

Thông qua việc lí giải về việc hình thành nên Đất Nước nhờ những chất
liệu văn hóa dân gian, ta có thể thấy những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở
nên thật bình dị, nhẹ nhàng, đậm hồn dân tộc. Lí giải Đất Nước từ những câu
chuyện cổ tích, từ những cái “ngày xửa ngày xưa”, từ truyền thống chống giặc
ngoại xâm, từ “gừng cay - muối mặn” -lối sống ân tình, thuỷ chung, nhà thơ đã
mở ra những vẻ đẹp truyền thống ngàn đời của cha ông. Nhà thơ đã cất bút bởi
những chất liệu văn học dân gian, đã chọn lấy cái hồn cốt tinh túy nhất nhưng
bình dị nhất của dân tộc mà đan dệt nên gấm vóc non sông, đất nước. Như Lưu
Quang Vũ đã từng bình luận về hồn dân tộc đối với tâm hồn thi ca

"Hồn dân tộc dạy ta làm thi sĩ

Quá khứ nhiều nên ta chẳng già nua"

(Đất nước đàn bầu)

Những điều nhẹ nhàng, bình dị, đượm chất dân gian, đượm hồn dân tộc
mà Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi đã khiến ta thấy thêm yêu, thêm tự hào về một
đất nước được hình thành từ những điều giản dị mà tốt đẹp, một đất nước như
bước ra từ huyền thoại, luôn trọng nghĩa tình, luôn kiên cường, dũng cảm giữ

121
gìn và bảo vệ non sông. Chính cội nguồn văn hóa đó mới là mạch nguồn để khởi
sinh và hình thành nên đất nước. Và cũng bởi vì xuất phát từ những chất liệu dân
gian đó, nhà thơ đã lý giải về Đất Nước một cách thật độc đáo và mới mẻ, khiến
chúng ta thêm trân quý hơn những giá trị cốt lõi ấy.

Nguyễn Khoa Điềm đã lí giải một cách rất nhẹ nhàng, bình dị về quá
trình hình thành Đất Nước. Vượt qua chiều rộng của không gian, chiều dài của
thời gian, nhà thơ đã nhìn Đất Nước ở chiều sâu của văn hoá để khiến ta hình
dung về Đất Nước một cách đẹp đẽ nhất. Đoạn thơ đã sử dụng biện pháp liệt kê,
điệp ngữ, cùng những chất liệu văn hoá dân gian và sự vận động trong tứ thơ từ
đó góp phần tạo nên nét đặc sắc cho thi phẩm. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ
viết thơ bằng tài năng ngôn từ mà còn bởi niềm tự hào, tình yêu quê hương - đất
nước - con người một cách mãnh liệt. Chính vì vậy, nhà thơ đã tạo nên được
“chất” riêng, “vân chữ” riêng cho sự nghiệp sáng tác của mình.

Đọc từng dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta càng trân trọng hơn nơi
mình đang thuộc về. Bởi lẽ, chỉ có quê hương, chỉ có Đất Nước, nơi có sự ấp iu,
chăm lo của bà, của mẹ, của truyền thống đẹp đẽ. Mỗi vần thơ trong “Đất Nước”
thực sự đã được kết tinh từ những ngôn từ giản dị, lắng đọng cùng cảm xúc chân
thật. Bởi vậy, trải qua bao nhiêu thử thách của thời gian cùng quy luật đào thải
khắc nghiệt của văn chương, “Đất Nước” vẫn giữ vững vị trí đẹp nhất của chính
mình, vẫn mãi là “sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn” (Đinh Minh Hằng),
và vẫn mãi là bản trường ca đẹp nhất về Tổ quốc thân yêu.

Đề bài: Phân tích đoạn trích sau đây:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông


122
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Từ đó nhận xét về cách lí giải “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.

Bài làm

“Quê hương là gì hả mẹ

Mà cô giáo dạy hãy yêu?

Quê hương là gì hả mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều?

(“Quê hương” - Đỗ Trung Quân)

Những câu hỏi của trẻ thơ đầy hồn nhiên, ngây thơ nhưng cũng thật sâu
sắc, giá trị. Bởi lẽ, những câu thơ ấy đã khơi dậy ở ta những suy nghĩ, trăn trở về
“Quê hương” - “Đất Nước”. Đã bao giờ bạn tự hỏi “Đất nước là gì?” chưa? Có
người nói Đất Nước là dải đất cong cong trải dài khắp ba miền Bắc - Trung -
Nam. Có người lại cho rằng Đất Nước là dặm dài 4000 năm lịch sử… Còn với
Nguyễn Khoa Điềm - một cây bút đượm chất trữ tình chính luận, Đất Nước
chính là những gì gần gũi nhất, thân thương nhất, Đất Nước là của nhân dân. Từ
đó, nhà thơ đã cho ta thấy một quan niệm hoàn toàn mới mẻ về “Đất Nước”:
123
“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Ông sinh ra tại nơi đất Huế thân thương, bởi vậy, từng lời ăn tiếng nói nơi
xứ mộng mơ ấy cứ thấm dần, thấm sâu vào tâm hồn ông từ khi thơ bé để rồi sau
này, hòa cùng với những suy tư sâu lắng, logic rành mạch, nhà thơ đã có riêng
cho mình một phong cách viết: trữ tình - chính luận; một giọng văn đằm thắm,
thâm trầm, thiết tha,... “Đất Nước” trích trong “Mặt đường khát vọng” chính là

124
minh chứng cho phong cách nghệ thuật ấy. Khi viết bản trường ca này, tác giả
từng tâm sự: “Tôi viết chương này trong những ngày mưa triền miên sau Tết. Đó
là thời kì máy bay Mỹ đánh phá dữ dội. B52 dội liên tục, làm cho mọi thứ tối
tăm, mù mịt. Chúng tôi ngồi trong phòng và viết. Cảm xúc được cộng hưởng bởi
tiếng bom nổ, bởi khói bom và mưa rừng… Tôi viết về những điều giản dị của
chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn đang tranh đấu ở thành phố”. Bài thơ ra đời là
tiếng lòng của một thanh niên thức tỉnh những thanh niên thành thị vùng bị tạm
chiếm ở miền Nam trước năm 1975. Viết bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ
gửi gắm những tâm tư lúc “đương thời sôi nổi” của mình mà còn để truyền cảm
hứng đến cho thế hệ đồng trang lứa. Đồng thời, bài thơ cũng là niềm ca ngợi, tự
hào, yêu mến của tác giả với quê hương - đất nước - con người Việt Nam. Đoạn
thơ trên là sự tiếp nối của những dòng lí giải đầy bình dị về quá trình hình thành
“Đất Nước”, đó là sự cắt nghĩa đầy cụ thể, rõ ràng về hai chữ “Đất Nước”.

Lí giải định nghĩa "Đất Nước", Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên những vần
thơ đầy độc đáo từ những điều bình dị, gần gũi, thân thương nhất:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Không giải thích một cách trừu tượng, khô khan, Nguyễn Khoa Điềm đã
dùng cách chiết tự, tách từ “Đất Nước” thành hai yếu tố riêng biệt để lý giải đề
cụ thể về các yếu tố cấu thành nên giang sơn, tổ quốc. “Đất” và “Nước” khi
đứng riêng ở mỗi đầu câu thơ, khi lại gắn bó một cách hòa quyện thành một
chỉnh thể không thể tách rời. Đó là một nét độc đáo trong việc thể hiện vẻ đẹp
ngôn ngữ của Nguyễn Khoa Điềm, vừa thể hiện mạch triết luận về sự gắn bó
giữa bộ phận với toàn thể, giữa cá nhân với dân tộc. Thông thường, viết về Đất
Nước, người ta thường viết với những gì rất vĩ đại, lớn lao. Như Chế Lan Viên
từng viết:

“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm


125
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

Đất nước với nhiều người là gắn với các sự kiện lẫy lừng, chói lọi trong
lịch sử dân tộc. Cũng ít khi có người định nghĩa về đất nước với những gì giản
dị, nhỏ bé, thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm lại khác, nhà thơ đã cắt nghĩa từ “Đất
Nước” bằng một cách rất cụ thể. Phân tách “Đất Nước” thành hai thành tố “Đất”
và “Nước”, rồi gắn nó với các không gian trong sinh hoạt hàng ngày:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm”

Đất Nước đâu chỉ được định nghĩa, định danh bằng “rừng vàng biển bạc”,
với ngòi bút hoà quyện chất trữ tình và chính luận như của Nguyễn Khoa Điềm,
“Đất” là nơi “anh đến trường”, là nơi dẫn con người đến với chân trời của tr
thức, của ước mơ. Đỗ Trung Quân trong bài thơ “Quê hương” cũng từng có vần
thơ tương tự:

“Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay”

Quê hương, Đất Nước không đơn thuần chỉ nơi cho ta cuộc đời, đó còn là
nơi tiếp thêm cho con người động lực, nâng đỡ, đồng hành với con người đi đến
ước mơ, đến với bến bờ của tri thức. Định nghĩa “Đất Nước” bằng “ nơi anh đến
trường”, nhà thơ đã nâng tầm, đã tôn vinh vẻ đẹp của Đất Nước cùng truyền
thống hiếu học của dân tộc Việt. Đất Nước, dù trong giai đoạn nào của cuộc đời,
vẫn luôn song hành với con người: “Nước là nơi em tắm”, là nơi chứng kiến và
ghi dấu vẻ đẹp duyên dáng của người thiếu nữ. Đất Nước không chỉ nuôi nấng
về phần thể xác mà còn bồi đắp, kiến tạo nên vẻ đẹp tâm hồn con người. Chữ
“tắm” như muốn nói về vai trò của Đất Nước trong việc thanh lọc, làm sáng

126
ngời hơn tâm hồn người thiếu nữ… Viết về quê hương, Tế Hanh cũng từng khơi
nguồn cảm hứng từ dòng nước mát lành của dân tộc - dòng nước đã “tắm mát”
cả hành trình cuộc đời:

“Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!

Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ

Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ

Sông của miền Nam nước Việt thân yêu”

“Đất” và “Nước”, hai thành tố đã kiến tạo nên phần đời của Tổ quốc và
sẽ gắn bó, sẽ dõi theo, sẽ đồng hành, sẽ trường tồn, sẽ hòa nhập vào phần đời
của con người từ khi sinh ra đến lúc lớn khôn, chứng kiến sự trưởng thành của
“anh” và “em” cũng như những truyền thống, những tình cảm đẹp đẽ, quý báu
của dân tộc tự ngàn đời. Vì thế:

“Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất Nước không chỉ nâng bước ta trên con đường tri thức, không chỉ bồi
đắp nên vẻ đẹp duyên dáng thuở son trẻ, Đất Nước còn ghi dấu những tình cảm
đẹp của lứa đôi. Đất Nước được coi là “nơi ta hò hẹn”. Chữ “hò hẹn” đầy tình
tứ, lãng mạn. Đó là nơi tình yêu bắt đầu nảy nơi, nơi hạnh phúc được khởi
nguồn, nơi chứng kiến tình cảm đầy đẹp đẽ giữa “anh” và “em”. Người ta vẫn
thường nghĩ rằng giữa máu lửa chiến trường, người ta ít khi nghĩ đến tình yêu
mà chỉ một lòng hướng về Tổ quốc, ấy vậy mà tình yêu vẫn là thứ tình cảm vẫn
có thể xóa mờ mọi ranh giới, mọi khoảng cách, mọi thời điểm để đến với nơi nó
thuộc về, để làm “đất lạ hoá quê hương”:

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)

127
Chế Lan Viên cùng từng có những câu thơ đồng điệu với Nguyễn Khoa
Điềm như vậy. Tình yêu lứa đôi càng thiêng liêng hơn bởi nó gắn liền với một
tình cảm lớn lao, với một “Đất Nước” to lớn vẫn trường tồn theo năm tháng.
Gắn liền tình “anh” và “em” với “Đất Nước”, chẳng những nhà thơ đã khẳng
định sự thiêng liêng của tình yêu lứa đôi mà còn làm thi vị hoá thêm hình tượng
“Đất Nước”. Và, “Đất Nước cũng là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm”, nơi mà nỗi nhớ “như đứng đống lửa như ngồi đống khoai” được ghi dấu
trở thành biểu hiện cao đẹp của tình yêu. Nỗi tương tư, nhớ thương từ bài ca dao
“Khăn thương nhớ ai” lại khiến ta thêm hình dung được cụ thể hơn, rõ ràng hơn,
nhẹ nhàng, thi vị mà cũng đầy mãnh liệt hơn về Đất Nước. Trước đây, ta vẫn
thường nghĩ Đất Nước phải là “rừng vàng biển bạc”, là những thứ đầy xa vời, thì
giờ đây, qua những câu từ giản dị của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước càng gần
gũi, càng bình dị mà thiêng liêng hơn bao giờ hết. Định nghĩa về “Đất Nước”
bởi những số phận, những tình cảm của cá nhân, vì thế, đọc thơ ông, ta dường
như có thể nhìn thấy cả cuộc đời mình ở trong đó. Qua bốn câu thơ này, ta nhận
ra: Đất Nước chính là cuộc đời, là số phận, là hành trình mà ta đã - đang và sẽ đi
qua.

Không chỉ vậy, nhà thơ còn đem đến những khám phá đầy thú vị về Đất
Nước khi mở rộng không gian dân tộc, từ không gian sinh hoạt gần gũi
đến không gian lớn lao của biển trời, núi non:

“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Bởi yêu say đắm hồn cốt dân tộc, nhà thơ đã mượn chất liệu văn hóa dân
gian để vẽ hình trong thơ mình. Đó là hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “con
cá ngư ông” lấy ý từ câu hò Bình - Trị - Thiên. Nhà thơ đã mượn sự sải cánh của
“chim phượng hoàng” để đo độ cao của núi non, mượn cái quẫy đuôi của con cá
ngư ông để đo sự mênh mông bao la của biển trời. Thông qua hai hình ảnh thơ
của miền Trung ruột thịt, nhà đã cất lời ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng của non sông,
gấm vóc Việt Nam. Ca ngợi đất nước thân yêu, đã có rất nhiều lời thơ tuyệt
đẹp:

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn


128
Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”

(Việt Nam đất nước ta ơi - Nguyễn Đình Thi)

“Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha!

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

Đất Nước, dù ở thời xưa hay thời nay, vẫn đẹp, vẫn hiên ngang, vẫn khiến
cho những người con luôn tự hào, luôn nhớ về, luôn yêu thương. Chỉ thông qua
hai câu thơ, chỉ bằng hai nét khắc họa từ chất liệu dân gian, tác giả đã khái quát
nên một Đất Nước thật đẹp, thật vĩ đại và đáng ngợi ca.

Không nhìn Đất Nước ở từng không gian - thời gian riêng lẻ nữa, những
dòng thơ tiếp theo đã cho ta thấy sự chung đúc về hình ảnh Đất Nước trong
không gian - thời gian rộng lớn cùng trách nhiệm vô cùng cao quý:

“Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông”

Từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông” đã diễn tả chính xác độ dài rộng của thời
gian và không gian. Đất Nước đặt trong sự dài rộng đó càng toát lên vẻ vẻ đẹp
đầy kì vĩ, lớn lao, nhà thơ khẳng định: Đất Nước không chỉ là không gian sinh
hoạt gắn với mỗi cá nhân mà đó còn là nơi hội tụ, gắn bó của nhân dân:

129
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Nhà thơ đã gắn Đất Nước với cội nguồn truyền thống thiêng liêng, với
nguồn gốc cuộc đời của mỗi người. Đất Nước đã hiện diện suốt hàng nghìn năm,
đã ghi dấu cội nguồn sinh dưỡng cao quý của toàn dân tộc. Lời thơ của Nguyễn
Khoa Điềm đã gợi nhắc đến câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với “Sự tích
trăm trứng” từ lâu đã đi sâu vào đời sống văn hóa của đời sống con người Việt.
Từ những ngày biết đọc, biết viết, mỗi chúng ta đã được khơi dậy niềm tụw hào,
kiêu hãnh bởi dòng máu “Lạc Hồng” này. Và cũng chính bởi ý thức được về cội
nguồn của mình, vậy nên, mỗi người, là công dân của nước Việt phải luôn khắc
Nhà thơ đã liệt kê những trách nhiệm cụ thể của mỗi con người “yêu nhau”,
“sinh con đẻ cái”, “gánh vác”, “dặn dò con cháu”, “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”...
Mỗi một cụm từ được liệt kê là một lần con người được khắc ghi thêm phần sứ
mệnh của mình. “Yêu nhau” - “Sinh con đẻ cái” - “Dặn dò chuyện mai sau”
tưởng là nhiệm vụ của mỗi cá nhân nhưng lại gắn với vận mệnh của dân tộc.
Nếu tình yêu không được khởi nguồn, và kết trái, ai sẽ là những thế hệ đi sau để
tiếp nối truyền thống của cha ông. Nếu “con cháu” không được căn dặn, được
nuôi dưỡng, nung nấu tình yêu Tổ quốc, ai sẽ là người dựng xây, ai sẽ là người
thừa kế, ai sẽ là người làm Đất Nước thêm lớn mạnh. Mỗi người khi đã thấu

130
hiểu phần đời của mình là một phần của dân tộc đều phải góp phần dựng xây đất
nước từ việc làm nhỏ nhất để không làm mất đi các giá trị văn hóa tinh thần cho
các thế hệ đi sau. Cuối cùng, nhà thơ còn nhấn mạnh trách nhiệm phải giữ gìn
đạo lý “uống nước nhớ nguồn”:

“Hàng năm ăn dầu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Câu thơ lắng sâu đầy cảm động như sự nghiêng mình của nhà thơ, thể hiện sự
thành kính của con người khi nhớ về quê hương. Đối với mỗi người dân đất
Việt, ngày giỗ Tổ đã trở thành một dấu ấn thiêng liêng để nhắc nhớ họ về cội
nguồn sinh dưỡng, để thêm tự hào về truyền thống 4000 năm lịch sử hào hùng.
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” ấy đã trở thành một bài học sống mà mỗi
con người Việt Nam, dù ở đâu xa, dù có đến chân trời góc bể nào vẫn luôn luôn
nhớ về và khắc ghi. Những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm tuy giản dị nhưng
có lẽ đã giúp ta thêm phần tự hào, yêu quý hơn mảnh đất thiêng ngàn đời này.

Đây có thể coi là đoạn thơ tiêu biểu cho cách lí giải rất riêng, rất độc đáo,
đặc sắc và ấn tượng về “Đất Nước” của nhà thơ. Chưa bao giờ ta có thể thấy
được cặn kẽ, kĩ càng về hình tượng “Đất Nước” đến như thế. Nơi mà ta vẫn
thường nghĩ là vĩ đại ấy được đo đếm bởi hai thành tố “Đất” và “Nước”, bởi
những “con đường tri thức”, bởi “nơi hò hẹn”, bởi những gì được kiến tạo từ
chất liệu văn hoá dân gian đặc sắc. Toàn bài thơ, đặc biệt là đoạn thơ này có sự
kết hợp, hoà quyện giữa văn hoá Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Qua ngôn từ của
Nguyễn Khoa Điềm, dải đất hình chữ “S” như được vẽ lên thật mềm mại, thi vị,
lãng mạn trên trang giấy. Đó cũng chính là một trong những cách để nhà thơ lí
giải, vẽ hình dân tộc, khơi lên ở mỗi người niềm tự hào, tự tôn về nơi mình sinh
ra. Không chỉ thế, cách lí giải ấy còn đầy tình tứ, tâm tình bởi xuất phát từ tình
yêu của “anh - em - ta”. Do vậy, một vấn đề tưởng như khô khan đã hòa quyện
với tình cảm để tạo nên sự hài hòa, nồng thắm, ghi dấu trong lòng người đọc.
Và, Đất Nước chẳng phải ở đâu xa vời, Đất Nước ở ngay trong cuộc đời mỗi
người dân, từ khi chào đời tới lúc trưởng thành, bao giờ cũng giản dị, bình tâm
như thế. Không phô trương, hào nhoàng, không “khua chiêng gõ trống”, viết về
Đất Nước bằng cách lí giải độc đáo, Nguyễn Khoa Điềm đã tạc được “gương
mặt” của riêng mình bởi những gì rất chân phương mà mãnh liệt đến vô cùng

131
Qua những câu thơ nhẹ nhàng, bình dị mà lắng sâu, Nguyễn Khoa Điềm
đã lí giải về “Đất Nước”, không chỉ ở chiều rộng của địa lí, chiều dài của lịch sử
mà còn ở chiều sâu truyền thống văn hoá. Đoạn thơ là sự kết tinh tư duy logic,
chất chính luận sắc sảo, từ cụ thể đến khái quát mà còn đan xen yếu tố trữ tình,
biện pháp liệt kê cùng những chất liệu văn hoá dân gian đậm nét. Đọc thơ ông,
ta có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ cất lời bằng tài năng ngôn từ mà
còn bởi niềm tự hào, tình yêu quê hương - đất nước - con người đầy giản dị,
chân thành nhưng cũng vô cùng mãnh liệt. Chính vì vậy, nhà thơ đã tạo nên
được “chất” riêng, “vân chữ” riêng cho sự nghiệp sáng tác của mình.

Đọc từng dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta càng thêm yêu hơn, trân
trọng hơn, tự hào hơn nơi mình đang thuộc về. “Đất Nước” hai từ đầy thiêng
liêng mà giản dị, gần gũi, bởi lẽ, nơi đó chính là nơi ghi dấu, in sâu hành trình,
số phận của mỗi cá nhân. Đó là nơi đã chứng kiến sự bắt đầu của một cuộc đời,
nơi mở đường cho con người đến với thế giới của tri thức, nơi tình yêu được
khởi sinh và chẳng bao giờ dừng lại. Mỗi vần thơ trong “Đất Nước” thực sự đã
được kết tinh từ những ngôn từ giản dị, lắng đọng cùng cảm xúc chân thật. Vì
thế, Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm đến chúng ta những điều thật xúc động: Đất
Nước chính là cuộc đời, là máu thịt, là tình yêu của mỗi chúng ta. Vì thế, yêu
quê hương, đất nước phải bắt đầu từ việc yêu lấy chính mình, yêu chính cuộc
sống, tình yêu mà mình đang có.

132
SÓNG
(XUÂN QUỲNH)
Đề 1: Nói về sóng và em, trong bài thơ Sóng ở khổ đầu, Xuân Quỳnh cho thấy
những sự phức tạp:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Nhưng đến khổ 5, nhà thơ lại đề cập đến sự đồng nhất trong một
nỗi niềm:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức”

Hãy phân tích những sự phức tạp và đồng nhất trong các khổ thơ trên, từ
đó nhận xét về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.

BÀI LÀM

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào”.

Đúng vậy, đã có bao nhiêu người đã yêu, bao nhiêu người đang yêu và bao
nhiêu thơ tình yêu trên thế gian này! Vậy mà mỗi ngày lại mới. Tình yêu không
133
có tuổi thơ tình lại càng không có tuổi bao giờ. Trên thế giới có biết bao nhà thơ
nổi tiếng: Rimbô, Véclen rồi Puskin, Bairơn… và mỗi người một vẻ một sắc
thái. Từ thuở thơ Đường thơ Tống, từ thuở Nguyễn Du rồi Thế Lữ, Xuân Diệu
và đến chúng ta ngày nay…, tình yêu vẫn là cái gì khiến người ta đam mê, khao
khát. Xuân Quỳnh – nhà thơ của nỗi niềm yêu thương với bài “Sóng” đã thể
hiện được nhiều cung bậc tình yêu. Bìa thơ của Xuân Quỳnh cháy lên tình yêu
nồng nàn của tuổi trẻ và khát vọng của con người đến với tình yêu. Tình yêu
trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng lại ở tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn
non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc gắn với cuộc sống chung. Nhà thơ
Xuân Quỳnh sinh năm 1942, mất năm 1988, bà là một người phụ nữ có cuội đời
bất hạnh, luôn khát khao về tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử. Xuân
Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thơ ca hiện đại Việt Nam. Người yêu thơ
mệnh danh bà là “Nữ hoàng của thi ca tình yêu”. Thơ của chị là tiếng nói nhân
hậu, thủy chung, giàu trực cảm và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường.

Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, bà sáng tác bài
thơ này trong chuyến đi thực tế tại vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sóng là
một hình tượng động, bất biến chính vì vậy mà sóng được các nhà thơ chọn làm
thi liệu để biểu tượng cho tình yêu. Nếu Xuân Diệu mượn sóng để biểu tượng
cho tình yêu thì Xuân Quỳnh lại mượn sóng để biểu tượng cho những cung bậc
tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu với thật nhiều những khát khao và
biến động. Hai hình tượng sóng và em luôn sánh đôi sánh cặp với nhau, sóng là
em và em cũng là sóng. Sóng và em hòa quyện với nhau, soi chiếu nhau, tôn lên
những vẻ đẹp vừa đa dạng lại vừa phong phú. Hình tượng sóng trước hết được
gợi ra từ âm điệu và nhịp điệu. Âm điệu trong bài thơ là một trong những yếu tố
hàng đầu của thi ca. Nó gây ấn tượng trực tiếp, đầu tiên với người đọc. Người
đọc bị cuốn hút, bị ảnh hưởng bởi độ ngân vang của từ ngữ, nhịp điệu câu thơ.
Và tất nhiên chi phối âm điệu thơ bao giờ cũng là trạng thái, cảm xúc của nhà
thơ. Âm điệu của bài thơ sóng là âm điệu của những con sóng trên biển cả, nhịp
điệu của những con sóng liên tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn, khi dào dạt sôi nổi,
lúc dịu êm sâu lắng, lúc dữ dội thét gào…Song, âm điệu của bài thơ không chỉ
đơn giản là âm điệu của những con sóng biển mà đó còn là hình ảnh ẩn dụ của
con sóng lòng nhiều cung bậc, nhiều sắc thái cảm xúc của người phụ nữ trong
tình yêu.

134
Mở đầu bài thơ là hình tượng sóng gắn liền với những cung bậc tâm trạng:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Con sóng biển muôn đời vẫn thế, khi “dữ dội” – “ồn ào”, khi “dịu êm” – “lặng
lẽ”. Con sóng khi giận dữ thì ào ạt xô bờ, phá phách cuốn đi tất cả những gì nó
muốn, có khi lại hiền hòa dịu êm sâu lắng. Hai thái cực của con sóng cũng là
mâu thuẫn trong tâm trạng, cảm xúc của người phụ nữ khi yêu, lúc nổi giông tố
thì dữ dội, ồn ào, mạnh mẽ, khi nguôi ngoai thì hiền hòa, dịu dàng, sâu lắng thiết
tha. Thật tinh tế khi nhà thơ nhận ra trong cái dữ dằn, dông bão của tình yêu
chiều sâu của nó là êm dịu, lặng lẽ. Cái êm dịu, hiền hòa đằm thắm là căn cốt, là
điểm về của mọi xáo trộn tâm hồn. Đó là quy luật cuộc đời hết mưa là nắng, hết
giận là thương. Vì thế nhà thơ không đảo trật tự từ “dịu êm, lặng lẽ” lên trước
mà để sau, diễn tả thật đắc địa cái tính khí của tình yêu mà vẫn dịu dàng, tha
thiết đầy nữ tính. Trong lòng mỗi người luôn hiện hữu một con sóng tình cảm
ngập tràn, nhưng chỉ đến khi nó được dâng lên và lan tỏa ta mới có thể cảm nhận
được những thay đổi trong suy nghĩ và nhận thức về tình yêu. Không gấp gáp,
vồ vập, Xuân Quỳnh đã thay lời tất cả những trái tim trẻ bộc lộ nỗi lòng mình
bằng những trạng thái tình cảm khác nhau thông qua những con sóng. Khi dữ
dội mãnh liệt, khi dịu êm trầm lắng, khi ồn ào nhấp nhô, có lúc lại âm thầm lặng
lẽ, những tình cảm tưởng chừng như mâu thuẫn, đối lập nhau trong trái tim của
người phụ nữ nhưng lại mang theo tất cả những đặc điểm và trạng thái tâm lí
đang khao khát tình yêu.

Nhiều khi chính bản thân họ không thể định nghĩa và gọi tên cảm xúc của
chính mình, muốn tìm đến những định nghĩa riêng, tìm sự đồng điệu, hòa nhập
vào bể lớn tình yêu. Mỗi con sóng nhỏ bé nhưng lại chất chứa trong nó bao khát
vọng lớn:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Xuân Quỳnh đã tìm ra cái quy luật của cuộc sống tình yêu là sự vận động:

“ Bởi tình yêu muôn thuở

Có khi nào đứng yên”


135
Nếu sông không hiểu nổi mình thì sóng sẽ dứt khoát từ bỏ cái chật chội,
nhỏ hẹp của sông để tìm ra biển lớn, để được thể hiện mình, sống hết mình. Với
Xuân Quỳnh, biển bao giờ cũng khơi dậy những khát khao, ước vọng lớn lao:

“Suốt cuộc đời biển gọi ước mơ

Nỗi khát vọng những phương trời chưa đến”

Đó không phải là tư tưởng của người phụ nữ phóng túng, ngang tàn mà đó là
khát vọng đẹp, khát vọng mạnh mẽ của trái tim không chấp nhận sự chật hẹp, tù
túng, tầm thường của tình yêu, dám vươn tới dù phải trải qua bão tố để đến với
biển lớn tình yêu, tìm cho được sự đồng điệu, đồng cảm. Đây là một quan niệm
minh bạch, rất quyết liệt, rất khao khát trong tình yêu nhưng không cam chịu,
nhẫn nhục. Tình yêu là thế đó, như biển kia không thể lặng sóng, con người
không thể sống thiếu tình yêu, nhất là tuổi trẻ. Vốn dĩ, dòng sông không phải là
nơi mà tồn tại những con sóng lớn, có thể “sóng” tự thấy đây không phải là nơi
mà mình cần, chưa phải là thứ thuộc về mình, vậy nên "Sóng tìm ra tận bể" là
tìm thấy chính mình. Trong tình yêu của con người cũng vậy, đến với tình yêu,
con người mới tìm thấy chính mình và luôn tự hoàn thiện mình. Phép nhân hóa
đã thổi hồn vào “sóng” để biến nó trở thành một con người. “Sóng” không chấp
nhận giới hạn chật chội, khi không được sóng hiểu, khi không tìm thấy được sự
đồng điệu, nó tìm ra đại dương mênh mông. Trong tình yêu cũng vậy, người phụ
nữ cũng không chấp nhận những gì tầm thường, chật hẹp mà thường hướng tới
những điều cao cả, lớn lao, thường muốn vươn đến những khát vọng vô bờ. Tình
yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng
yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn để được sống với những tình yêu
cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ
của người phụ nữ thời đại. Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ
sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng
khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá
không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận
bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính
mình.

Có thấy ngày xưa quan niệm tình yêu cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”
để rồi bao cô gái đã phải cất lên lời than van ai oán:

136
“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân
Quỳnh: Người phụ nữ chủ động tìm đến với tình yêu để được sống với chính
mình. Giáo sư Trần Đăng Suyền đã nói về “Sóng”: “Bài thơ Sóng là một cuộc
hành trình khởi đầu từ sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu
bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu,
muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.” Từ đây ta càng thấy được
niềm khát khao yêu thương, mong mỏi được tìm đến tình yêu đời mình của nữ
thi sĩ.

Thích, yêu, thương, nhớ, đó là những cung bậc cảm xúc xuất hiện trong
tình yêu đôi lứa. Yêu nhau, bên nhau thế nhưng chỉ cần chia xa nhau một chút
những người yêu nhau đã thấy nhớ nhau da diết. Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ –
một trong những gam màu chủ đạo của tình yêu. Xuân Diệu cũng đã từng vì
người mình yêu mà điên đảo:

“Trời còn có bữa sao quên mọc

Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em”

Còn với Xuân Quỳnh, nữ nhà thơ thể hiện nỗi nhớ một cách đặc biệt:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Những con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Hòa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của tâm
hồn thi sĩ và cũng là của muôn kiếp “má hồng”. Bài thơ “Sóng” ra đời khi những
con sóng lòng dâng lên dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một
tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người
đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm,
137
những tâm tư. Đây là một khổ thơ vô cùng đặc biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó
có sáu câu. Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ
trong đêm. Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối
“dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với
nhiều dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương nhưng
cũng có con sóng cuộn trào trong lòng biển cả. Con sóng ngầm còn mãnh liệt
hơn cả con sóng trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của
sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn
những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội, nhưng thế
nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ôm trong lòng một nỗi nhớ thương không
dứt. Cũng như sóng kia thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì khi yêu, em vẫn biết nhớ,
vẫn biết thương:

“Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn tả nỗi
niềm của người phụ nữ khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ
sóng, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng hành trình đến với bờ dù
muôn vời cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà
sóng đã được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo “không ngủ
được”. Sóng là vậy, dù lặng yên dưới lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương
thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ thì nhớ
thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Con sóng đã hành trình vượt
qua không gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất chấp cả thời gian “ngày đêm
không ngủ được” để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.
Xuân Quỳnh đã dùng từ rất tinh tế. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con
người. Nơi bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói “lòng
em nhớ” nghĩa là tác giả đã phơi bày tất cả gan ruột của mình để dốc hết yêu
thương mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian
được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê
đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lý “cả trong mơ còn thức”. Câu

138
thơ “cả trong mơ còn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn
nhịp sống bởi “tình yêu luôn làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều
độ”. Nỗi nhớ không chỉ làm lòng em “bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như
ngồi trong than” nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc
ngủ. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài
năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.

Hai khổ thơ dù là trong cùng một bài thơ nhưng lại mang những nội dung
khác nhau. Khổ thơ đầu tiên nói về nỗi niềm, mong muốn của người con gái khi
biết yêu, dữ dội, mãnh liệt có, nhưng cũng không kém phần dịu dàng, nhẹ
nhàng, dịu êm. Tuy nhiên, cả hai khổ thơ đều thể hiện những đặc trưng của tâm
hồn tình yêu, đều cho người đọc thấy được những vẻ đẹp của người con gái, cụ
thể là chính tác giả Xuân Quỳnh. Hai khổ thơ đều có sự song hành của hai hình
tượng sóng và em, xuyên suốt hai khổ là nhịp thơ mạnh mẽ, kết hợp với việc sử
dụng thành công nhiều phép tu từ nhân hóa, ẩn dụ… Đây là hai khổ thơ tiêu biểu
nhất của bài thơ, đặc biệt khổ thứ năm còn được đánh giá là khổ thơ hay nhất
trong bài. Qua hai khổ thơ, Xuân Quỳnh đã bộc lộ chân thực và sâu sắc vẻ đẹp
tâm hồn: vừa phong phú, phức tạp lại chân thành mà sâu sắc, cùng với đó là khát
vọng mãnh liệt về tình yêu, về hạnh phúc đời thường.

“Đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta không có cảm giác như tác giả cố ý làm
thơ, mà thơ chị tự nhiên, nhẹ nhàng, là tiếng nói chân thật từ sâu trong tâm hồn
chứ không cố gắng gượng ép bản thân phải sáng tác về những triết lý khô khăn.
vì vậy, giọng thơ của chị thủ thỉ tâm tình, dạt dào những đợt sóng tình cảm, lúc
thì nhẹ nhàng vỗ về, lúc lại cuồn cuộn dâng trào”. Nhà phê bình văn học Lưu
Khánh Thơ đã từng nói vậy khi đọc các tác phẩm của nữ thi sĩ, đúng vậy, thành
công của Xuân Quỳnh trong bài thơ “Sóng” đã chứng mình điều ấy. “Bài thơ
Sóng” là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành công của bài thơ là
nhờ vào thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, đối lập nhất là thể thơ
ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn. Tất cả đã
làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình
yêu. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ
Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình
yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm
phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà

139
Đề bài: Về bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ thể
hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu”. Nhưng lại
có ý kiến khác lại khẳng định: “Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang
tính truyền thống”. Từ cảm nhận về bài thơ “Sóng” hãy bình luận những ý
kiến trên.

Bài làm:

Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông
hoàng thơ tình Xuân Diệu:

“Đã hôn rồi hôn lại

Cho đến mãi muôn đờ

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt”.

Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng,
nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được
thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “Sóng”. Bài thơ được in trong tập
“Hoa dọc chiến hào”, viết khi bà đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân
Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ
nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý
thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong
quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự
nhận thức, khám phá. Bà được xem là một trong những người viết thơ tình hay
nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng, Xuân Quỳnh đem đến cho bạn
đọc một tình yêu vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa tha thiết, dịu dàng, vừa giàu trực
cảm, vừa lắng sâu những trải nghiệm, suy tư.

Trong bài thơ có hai hình tượng trung tâm đó là hình tượng sóng và em.
Sóng trước hết là một sự vật thiên nhiên, nhưng hình ảnh này không chỉ mang
nghĩa thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đó không chỉ là sóng biển mà còn
là sóng tình yêu trong biển khơi tâm hồn người phụ nữ. Tác giả mượn sóng để
nói lên những cung bậc cảm xúc trong lòng người con gái đang yêu. Hình tượng
“em” là sự hóa thân của cái tôi Xuân Quỳnh. Nữ sĩ đã trải lòng mình trên những
trang thơ, giãi bày những cảm xúc, suy tư trong tình yêu. Sóng và em vừa song
140
song tồn tại vừa soi chiếu lẫn nhau và có lúc lại hòa nhập vào làm một. Mở đầu
bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu đương,
đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh diễn tả thật cụ thể cái
trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim cồn cào
khao khát tình yêu. Tính khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy
thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực:

"Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Trong hai câu thơ trên, tác giả nêu lên những trạng thái đối lập của sóng:
lúc thì mạnh mẽ, dữ dội, lúc lại trôi lững lờ. Đó cũng là đặc điểm của tâm trạng
người con gái khi yêu. Có lúc cuồng nhiệt, đắm say, có lúc lại dè dặt e ấp.
Những trạng thái tuy đối lập nhưng lại thống nhất với nhau. Hai câu thơ đầu
được tổ chức theo phép đối, tạo nên cấu trúc hài hòa, cân xứng. Tác giả đặt
những tính từ như "dịu êm", "lặng lẽ" ở dưới mỗi câu thơ cũng cho thấy được sự
nữ tính của con sóng.

"Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể"

Phép nhân hóa đã thổi hồn vào sóng để biến nó trở thành một con người.
Sóng không chấp nhận giới hạn chật chội, khi không được sóng hiểu, khi không
tìm thấy được sự đồng điệu, nó vươn ra tìm đến với đại dương mênh mông.
Cũng giống như trong tình yêu, người phụ nữ không chấp nhận những gì tầm
thường, chật hẹp mà luôn hướng tới những điều cao cả, lớn lao. Xuân Quỳnh
hiểu được tiếng lòng của các cô gái mới biết yêu, họ không bằng lòng với những
thứ nhỏ bé, vì họ biết và họ muốn chinh phục tình yêu lớn, những tình cảm đặc
biệt. Rõ ràng đó không phải là tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn non nớt, ngọt
ngào nữa. Đấy là con đường tất yếu trong thiên nhiên, sóng phải tìm ra bể,
nhưng đó cũng là quy luật tất yếu của tình cảm: con người đi tìm “cái nửa” lớn
lao để hoàn thiện mình. Chính vì thế từ dòng sông bình lặng nhỏ bé trong tâm
hồn, con sóng tình đã đi đến những miền bể xa. Nơi ấy có tình yêu và nỗi khát
vọng không khi nào ngừng tắt:

141
“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế,

Nỗi khát vọng tình yêu,

Bồi hồi trong ngực trẻ.”

Con sóng đặt giữa hai trạng từ chỉ thời gian: “ngày xưa- ngày nay” , triệu triệu
năm trước và hàng ngàn năm sau những con sóng vẫn cứ ngày đêm dạt dào trên
mặt biển. Sóng là em, soi chiếu cho em và cũng chính vì thế những con sóng
cũng chính là những con sóng lòng, con sóng tình yêu lúc nào cũng dạt dào,
cuộn trào trong trái tim nhiệt thành của người phụ nữ. Ngày xưa thế và ngày sau
vẫn thế. Tình yêu là vĩnh hằng và vô tận. Ý niệm vĩnh hằng không chỉ hiện qua
thời gian mà còn hiện qua không gian. Biển tựa như lồng ngực lớn lao đất trời.
Nhịp đập của sóng giống như hơi thở cồn cào của biển. Còn biển còn sóng và
còn con người thì sẽ mãi còn yêu thương bất diệt. Chữ “trẻ” được khéo léo đặt
cuối dòng thơ như muốn nhấn mạnh tình yêu là sức sống, là nhịp đập của tuổi
trẻ, tình yêu mang đến sự tươi tắn, viết lên thanh xuân có ý nghĩa cho cuộc đời
mỗi người phụ nữ. Xét đi xét lại thì xét cho cùng không chỉ riêng nhà thơ mà bất
cứ ai cũng đều khát khao cháy bỏng một tình yêu vĩnh hằng, trường tồn với
không gian, thời gian. Ai khi yêu mà chẳng mong muốn mình có một tình yêu
lâu dài, gắn bó và tha thiết. Cái đam mê khao khát trong tình yêu đã được thể
hiện một cách thật đẹp, thật tài tình và trân thành. Từ “Ôi!” cảm thán như tiếng
lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” –
“ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế muôn đời vẫn
thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ như tình yêu tuổi trẻ có bao giờ đứng
yên. Bởi tình yêu tuổi trẻ luôn khát vọng luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta
bồi hồi khát khao và nhung nhớ bởi

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào”

hay “Bắt chim bướm thả vào vườn tình ái” (Xuân Diệu). Tình yêu làm điên đảo
tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào da diết. Có yêu nhau mới
thấy được cồn cào của vị nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi hồi ngực
trẻ.

142
Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương
cái nhu cầu tự nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi
của tình yêu. Tình yêu cũng như sóng biển, gió trời vậy thôi, nó tự nhiên, hồn
nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?”

Điệp từ “em nghĩ" nhắc đi nhắc lại càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong lòng
người. "Em nghĩ” có nghĩa là đã thao thức, đã lo lắng, đã đặt ra nhiều câu hỏi,
chứ không phải em chỉ quen bồng bềnh, quen si mê, đến chỉ yêu và đơn thuần là
yêu. Xưa nay không hiểu người “chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì" tình yêu đã làm
họ mù quáng, quên đi tất cả. Họ nhìn vào cõi hư vô, mộng ước, chỉ quen hưởng
thụ chứ không biết suy nghĩ. Người con gái đang yêu nghĩ về bản thân mình,
nghĩ về người thương và cũng suy tư về sóng biển. Nhân vật trữ tình đang ở
trong niềm khao khát lí giải nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình
yêu. Ta bắt gặp trong bài thơ một tình yêu khoẻ khoắn, hồn nhiên. Tình yêu của
tuổi trẻ ngập tràn sức sống vô bờ bến. Không phải là tình yêu nông nổi non nớt
của buổi đầu giản đơn hẹn hò, không phải là thứ tình yêu bi luỵ thê lương “yêu
là chết ở trong lòng một ít” như trong thơ Xuân Diệu trước Cách Mạng, mà đây
là một tình yêu dám sống dám yêu, tình yêu chan chứa ngọn lửa nhiệt thành.
Chẳng phải vô cớ khi Xuân Quỳnh lấy hình tượng “sóng” để tượng trưng cho
tình yêu của mình:

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

"Em" đã không đi truy tìm được căn nguyên của sóng, cũng như tình yêu. Tình
yêu diệu kì nhưng cũng thật bí ẩn như thế giới tự nhiên. Nó là những rung động
của con tim, có những khi lí trí không thể chiến thắng được con tim mách bảo.

143
Tình yêu vẫn luôn là câu hỏi không khó nhưng cũng chẳng dễ dàng nào có thể lí
giải được căn nguyên, cội nguồn. Nhân vật trữ tình cũng phải bộc lộ rằng "em
cũng không biết nữa/khi nào ta yêu nhau". Chính cái “không biết” đấy của em
lại là minh chứng chân thành nhất cho tình yêu sâu đậm, không toan tính. Đó
chính là tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu, khi tình yêu đủ lớn, người ta có
thể hi sinh tất cả cho để yêu, để trao nhau những sự chân thành nhất mà đôi khi
còn không cần đáp lại.

Tình yêu thường đồng hành với nỗi nhớ, sự mong đợi, vì lẽ đó mà trong
thơ Xuân Quỳnh điều đó cũng thể hiện khá rõ. Yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát
tan. Nỗi nhớ cứ dồn lên tầng tầng, lớp lớp như từng đợt sóng:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải của con sóng, dù con sóng ở bất
cứ nơi nào vẫn chỉ nhớ về bờ, hướng về ngày ngày đêm đêm cho đến khi vào
được đến bờ. Hình ảnh sóng tượng trưng rất độc đáo mà vô cùng sâu lắng. Chỉ
có con sóng mới đêm ngày trào dâng, trái tim yêu đêm ngày cũng vậy. Cái hồn
hậu, cái đắm say, cái tình tha thiết nhất được biểu hiện bằng hình tượng thể này.
Lấy sóng để nói nỗi nhớ, nói tình yêu thì không hẳn chỉ có Xuân Quỳnh, nhưng
quả là đến Xuân Quỳnh thì hình tượng thơ này trở nên mới mẻ bao nhiêu. Con
sóng ấy có tình yêu có niềm nhớ nhung nhưng lại mang thêm sự nhân hậu, dịu
dàng của người phụ nữ và đấy là bản sắc riêng của thơ Xuân Quỳnh. Nỗi nhớ
nhung của con sóng cũng là nỗi nhớ nhung của bao người khác nhớ người mình
yêu. Tâm trạng nhớ nhung của Xuân Quỳnh cũng là tâm trạng của bao người
đang yêu. Có lẽ, ai yêu rồi cũng sẽ có cảm giác nhớ người yêu, nhớ đến mức
giấc ngủ còn chập chờn, không đủ. Ở cả bài thơ, khổ thơ này đặc biệt nhất khi
nó có thêm hai dòng thơ, khổ thơ có sáu dòng. Điều này càng thể hiện được nỗi

144
nhớ trào dâng, vô bờ của người con gái. “Nhớ gì như nhớ người yêu” hay như
trong câu ca dao cũng thể hiện nỗi niềm thương nhớ của đôi lứa:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Càng đến cuối bài thơ Xuân Quỳnh càng tỏ ra mình là một con người sâu sắc,
thủy chung. Tình yêu của Xuân Quỳnh là tình yêu từ hai phía, ở đây, nhân vật
trữ tình đã có đối tượng để hướng tới chứ không vu vơ. Hơn nữa, tình cảm, tâm
hồn của nhân vật trữ tình không phải là bi quan, chán nản mà tràn đầy hy vọng.
Khổ thơ tiếp khẳng định được điều đó:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Đến đây nhà thơ đã đưa ra khái niệm không gian để nói lên mức độ thủy
chung. Hai từ “dẫu xuôi, “dẫu ngược", “phương Bắc”, “phương Nam" là những
từ cụ thể khẳng định sự thủy chung khoảng không gian, địa điểm đặt ra trong
khổ thơ nói lên độ dài nỗi cách trở, gian lao của thực tế với con người. Phương
hướng, khoảng cách đặt ra xa bao nhiêu thì lòng người lại thể hiện rõ sự thủy
chung bấy nhiêu “một phương". Câu thơ như một lời khẳng định rắn rỏi, mạnh
mẽ, dứt khoát, rõ ràng. Khổ thơ đặt ra nhiều thử thách, nhiều cách trở nhưng
cũng đưa ra được sự quyết tâm của con người. Tình yêu sẽ chiến thắng tất cả,
nếu như đó là tình yêu chân thật, nó sẽ vượt qua mọi rào cả, thử thách để đôi lứa
đến với nhau. Lời thơ vang lên như một lời thề nguyện đọc lên cứ rưng rưng xúc
động. Thế mới biết tình yêu của tác giả nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về
anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi
em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã là “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà
thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa
hai tâm hồn không có giới hạn. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng
hiểu thêm tình cảm của bà:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em

145
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có

Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những
nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo
lắng. Đó cũng là trực cảm của tình yêu.

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào cũng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Ba từ “Ở ngoài kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về
khơi xa nơi trăm ngàn con sóng ngày đêm không không biết mỏi đang vượt qua
giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng vào bờ ôm ấp nỗi
yêu thương. Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong
tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa
vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn cội yêu thương, cũng như
anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc
trọn vẹn của lứa đôi.

“Cuộc đời thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những
dự cảm và nỗi băn khoăn của bà. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng”
như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin
tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả
như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha
thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách
trong tình yêu, đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người
146
phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ,
năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua
biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ
thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin
mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu. Yêu thương mãnh liệt nhưng
cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của
mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong
tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.”

Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa
lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân
không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi
ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói
Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa
những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà thơ đã thể hiện một khát
vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa
mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương. Phải chăng đó
là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh ? Đó không chỉ là
tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lòng
luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu.

Bài thơ sáng tạo hình tượng sóng đặc sắc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Kết
hợp với kết cấu song hành giữa “sóng” và “em” khi đan cài, hòa quyện làm một
khi tách rời, độc lập để nhìn ngắm, nhận thức và soi chiếu nhau. Thể thơ ngũ
ngôn, giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên sự
thành công của tác phẩm. “Sóng” đã thể hiện rõ quan điểm về tình yêu của Xuân
Quỳnh. Người phụ nữ hiện đại có cái nhìn sâu sắc về tình cảm đôi lứa, không
còn sự sắp đặt, bắt buộc của thời đại phong kiến, đây là tình yêu dưới cái nhìn
phát triển, khi mà người phụ nữ có thể tự đi tìm hạnh phúc của riêng mình.
Nhưng nó cũng mang hơi hướng rất “truyền thống” khi tâm trạng của người phụ
147
nữ khi yêu ai cũng giống ai từ xưa tới nay, đều trải qua các giai đoạn thích – yêu
– thương – nhớ. Đơn giản đó là vì những quy luật bất biến trong tự nhiên, những
cảm giác nhớ nhung, lo sợ, hay tự ti về bản thân so với người yêu của mình.
Chẳng ai có thể cảm nhận được hết những cảm xúc khi yêu, bởi có lẽ mỗi lần
yêu là một lần trải nghiệm mới, một lần được sống hết mình với người mình
thương. Với hình tượng “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự
tương đồng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực và đầy
đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn
vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của đời người để sống
trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có
những nét hiện đại.

Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ
Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh
liệt, sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị sâu xa. Sau này khi đã nếm trải
nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc
men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim
tràn ngập yêu thương của nhà thơ.

Đề bài: Trong bài thơ “Sóng”, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã khắc họa hình ảnh em với
nhiều sắc thái cung bậc khác nhau, có khi em thật hồn nhiên, đáng yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

148
Cũng có khi em lại thiết tha, da diết:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫungược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương”

Trình bày cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên, từ đó làm rõ vẻ đẹp
tâm hồn người phụ nữ khi yêu.

BÀI LÀM

Đọc thơ của Xuân Quỳnh lúc nào cũng thấy tình yêu của nữ sĩ mãnh liệt
đậm sâu lắm. Có lúc như thuyền với biển chẳng chia lìa, đôi khi lại nhẹ nhàng
man mác trong cái gió lạnh mùa thu. Trong nền văn học Việt Nam, thật khó có
nữ thi sĩ nào có một tâm hồn nữ tính, dịu dàng và đằm thắm như nhà thơ Xuân
Quỳnh. Bà viết những bài thơ như là những lời tự bạch, tự tình của chính mình
chứ không phải là một công việc sáng tác. Tiếng thơ Xuân Quỳnh luôn mãnh
liệt, tràn đầy cảm xúc với những tâm tư, tình cảm sâu sắc của một người phụ nữ,
nhất là bài thơ Sóng. Bài thơ là những tâm trạng của người con gái khi yêu, từ
đó khái quát lên quy luật của tình yêu trong cuộc đời. Đọc bài thơ, ta thấy thêm
yêu những vần thơ ngọt ngào và đi vào lòng người của nữ thi sĩ.

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi công tác của
Xuân Quỳnh ở vùng biển Diêm Điền. Sau này, tác phẩm được in trong tập "Hoa
149
dọc chiến hào" năm 1968. Cả bài thơ khiến cho người đọc hiểu được những tâm
tư, tình cảm của người con gái trong tình yêu, cùng với nỗi khát vọng to lớn của
họ đối với tình yêu của cuộc đời.

Ở các khổ thơ trước, Xuân Quỳnh đã nói về tâm hồn, những cung bậc cảm
xúc, những mong muốn của người phụ nữ khi yêu. Khi yêu, người ta có thể sẵn
sàng mang hết những sự chân thành, hi sinh tất cả vì tình yêu của mình. Trước
sự bất diệt, trường tồn của tình yêu, Xuân Quỳnh có những suy nghĩ, những trăn
trở về tình yêu của mình:

"Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi sóng lên?"

Người đọc có thể thấy được hình tượng "Sóng" và hình tượng "em" luôn song
hành cùng nhau, bởi những trạng thái của sóng cũng giống như những cảm xúc
mà em trải qua trong tình yêu. Đúng như vậy, khi con người đã đã đắm say vào
trong tình yêu hay đắm say bất cứ một thứ gì thì họ luôn muốn tìm hiểu cội
nguồn của những thứ tình cảm đẹp đẽ ấy. Ta có thể hiểu được tâm trạng của
Xuân Quỳnh bởi nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng đặt câu hỏi cho cội nguồn của
tình yêu:

"Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?

Có khó gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu"

Khi đặt câu hỏi cho tình yêu, nhà thơ Xuân Diệu cũng không thể lí giải được cội
nguồn của nó. Nhà thơ như muốn "Hỏi thế gian tình là gì?", nhưng thế gian chỉ
để lại cho ông một dấu chấm hỏi lơ lửng. Rằng tình yêu làm sao có thể lí giải
được, làm sao có thể cắt nghĩa được. Lặp cấu trúc “em nghĩ” cho ta thấy được sự
đắn đo, suy nghĩ của “em”, khi nghĩ về tình cảm lứa đôi. “em nghĩ” nghĩa là có
sự băn khoăn, sự để ý, nhưng không cách nào có thể lí giải được về nơi xuất
phát của tình cảm. Tình yêu là thế giới đầy bí ẩn, dù ai có là “nữ hoàng” của
150
vương quốc tình yêu thì cũng khó có thể chiếm lĩnh, cắt nghĩa được tất cả. Xuân
Quỳnh cũng tự bộc bạch những băn khoăn, những nỗi niềm thật hồn nhiên, chân
thực: “Trước muôn trùng sóng bể” – trước không gian rộng lớn người ta thường
nghĩ đến cái hư vô hay cái cô đơn, nhỏ bé, hữu hạn của con người, kiếp người,
nhưng Xuân Quỳnh lại nghĩ về anh – em, nghĩ về biển và sóng, sóng và gió, nơi
bắt đầu tình yêu của anh và em. Cái tôi trữ tình cảm nhận quy luật của tình yêu,
nó cũng thật khó hiểu, bất ngờ như thiên nhiên vậy. Nó chiếm lĩnh tâm hồn ta để
rồi có khi lại vượt ra ngoài tầm kiểm soát của lí trí, đến – đi bất chợt, và rất
mong manh. Khi đứng trước biển lớn, người con gái mang những suy tư về tình
yêu của mình. Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” không chỉ là thắc mắc về
cội nguồn của con sóng, về nơi con sóng bắt đầu mà đó còn là thắc mắc về cội
nguồn của tình yêu, về nơi tình yêu bắt đầu.

Ta không thể nắm bắt được tình yêu, cũng như không thể nhìn thấy nó mà
chỉ có thể cảm nhận được bằng cả tâm hồn. Cũng như Xuân Diệu, nữ thi sĩ Xuân
Quỳnh chẳng thế nào tìm được lí do cho tình yêu của cuộc đời:

"Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau?"

Ban đầu, nhà thơ tìm hiểu được rằng sóng bắt đầu từ gió, nhưng gió bắt đầu từ
đâu thì lại không thể trả lời. Cũng giống như tình yêu mà em dành cho anh, nó
cứ thế mà đến, một cách tự nhiên, không ai có thể biết trước được. Lời thơ tình
tứ, chân thật chứa đựng biết bao tâm tình của người con gái khiến cho ta thấy
một tâm hồn đầy nữ tính của tác giả. Biết bao thế hệ đi tìm lời giải thích tình yêu
là gì? Tình yêu đến bao giờ? Khi nào? Vì sao con người yêu nhau? Nhưng:

Nơi tình yêu bắt đầu

Cũng là nơi khó nhất

Trái tim dù biết hát

Nhưng chuyện tình dễ đâu

151
Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi “Sóng bắt đầu từ gió” nhưng để
hiểu “Gió bắt đầu từ đâu” thì thi sĩ lại ấp úng “Em cũng không biết nữa”. Cũng
như tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi “Tình yêu đến
trong đời không báo động”. Câu thơ “Em cũng không biết nữa” như một cái lắc
đầu nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Em và anh yêu nhau bao giờ? Câu hỏi
này muôn đời không ai lí giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say
trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Có người phải
thốt lên rằng "có gì lạ quá đi thôi" khó quá! Nhưng tình yêu là thế. Làm sao có
thể cảnh giác được trong tình yêu. Nó đến lúc nào ta đâu có biết và chiếm ta lúc
nào ta đâu có hay. Câu hỏi tu từ càng khiến cho người đọc cảm thấy thú vị và li
kì hơn. Một câu hỏi rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say, ngọt ngào,
nũng nịu. Nói thế, không có nghĩa là khổ thơ chỉ đơn thuần và cảm xúc, con
người chỉ đơn thuần là yêu say đắm bên tình yêu bên sự nồng nàn còn là sự nghĩ
suy, tìm tòi đòi hỏi một câu trả lời dù ít thôi nhưng phải có... Nhưng cuối cùng
câu hỏi vẫn để đó, nhà thơ bất lực... làm sao mà có thể đáp nổi... Một ánh mắt
bâng quơ, một câu nói vô tình nhiều khi cũng làm cho người ta tương tư chứ
huống chi lại có một khoảng thời gian dài nỗi khát vọng tình yêu cứ bồi hồi, cứ
xao xuyến trong ngực trẻ.

Tình yêu thường đồng hành với nỗi nhớ, sự mong đợi, vì lẽ đó mà trong
thơ Xuân Quỳnh điều đó cũng thể hiện khá rõ. Yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát
tan. Nỗi nhớ cứ dồn lên tầng tầng, lớp lớp như từng đợt sóng, và khi đã yêu rồi,
thì người con gái lúc nào cũng mang trong mình nỗi nhớ người yêu thường trực:

"Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức"

Những con sóng ngoài biển khơi dữ dội kia, dù là ở dưới lòng sâu, dù là trên mặt
nước thì nó vẫn cứ dạt vào bờ. Hình tượng sóng hướng về bờ biểu tượng cho em
hướng về anh, hướng về tình yêu mãnh liệt và đẹp đẽ của chúng mình. Từ cảm
152
thán "ôi" cho thấy cảm xúc tràn trề, những con sóng lòng là nỗi nhớ người yêu
đang dâng lên từng đợt trong tâm hồn người nữ thi sĩ mộng mơ. Hai câu thơ
cuối của khổ thơ gợi liên tưởng thật đẹp. Trạng thái "trong mơ còn thức" diễn tả
một nỗi nhớ thường trực, chưa bao giờ nguôi ngoai của người con gái. Rằng một
khi đã yêu thì họ sẽ dành cả tâm hồn mình cho người mình yêu, không lúc nào là
không nhớ đến họ. Khổ thơ thêm hai câu thơ để đủ sức ôm chứa những cảm xúc
vô bờ của nỗi nhớ tình yêu. Hoài Thanh đã từng đánh giá: “Dòng cảm xúc quá
chừng sôi nổi khiến câu chữ không thể đi theo những đường viền có sẵn, ý thơ
xô đẩy, khuôn khổ thơ phải lung lay.” Khổ thơ này được đánh giá là hay nhất
trong bài, có người nói đó là cái đỉnh của “Sóng”. Bởi Xuân Quỳnh đã diễn tả
thật xúc động nỗi nhớ tình yêu, nỗi nhớ vắt ngang tiềm thức, xuyên thấu cả cõi
thực và cõi mộng “cả trong mơ còn thức”. Tác giả đã sử dụng hai hình ảnh so
sánh thật đắc địa: nỗi nhớ của sóng và em. Sóng thì nhớ bờ, em thì nhớ anh. Sự
so sánh cộng hưởng diễn tả cái nỗi nhớ vô biên tuyệt đích trong tình yêu. Lời
thơ giản dị nhưng ý thơ thì đạt đến độ sâu lắng, thấm thía khôn cùng. Nỗi nhớ
của con sóng chính là nỗi nhớ của con người, nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp đan xen
nhau, nối tiếp nhau, thôi thúc, giục giã. Nói sóng để nói đến nỗi lòng mình. Nhớ
nhau, nên thời gian như dài hơn. Trong bài thơ “Thuyền và Biển”, khi nói về nỗi
nhớ Xuân Quỳnh cũng đã viết:

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ

Phải nói rằng, trong tình yêu Xuân Quỳnh yêu hết mình, yêu cuồng nhiệt,
đắm say, cháy bỏng, nồng nàn. Nhà thơ tha thiết tắm mình trong nguồn cảm
hứng vô tận này. Yêu nồng nàn như vậy nhưng trong Xuân Quỳnh vẫn có nét
dịu dàng của con gái, vẫn biết là yêu đến nát tan, nhưng không vồ vập, ồn ào
như Xuân Diệu

Hai khổ thơ tiếp theo cho thấy sự chung thủy của người con gái đối với tình yêu
của mình:

“Dẫu xuôi về phương bắc

153
Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương”

Xuân Quỳnh khẳng định rằng dù ở nơi phương nào thì em cũng vẫn một
lòng một dạ, hướng về một phương duy nhất, đó là phương anh. Tình cảm thủy
chung, son sắt với người mình yêu của người con gái khiến cho ta không khỏi
xúc động. Hình ảnh những con sóng ở ngoài đại dương, dù có gặp muôn vàn
trắc trở nhưng vẫn tới được bến bờ cho thấy cái kết thật đẹp của một tình yêu.
Dù có khó khăn như thế nào thì chỉ cần hướng về nhau, đôi ta sẽ có thể vượt qua
được hết. Em cũng như vậy, trước bao sóng gió của cuộc đời, em không vấp ngã
được đâu, vì em còn phải tìm đến anh, đến bến bờ hạnh phúc của đôi ta.
“Phương bắc” – “phương nam” là hai chiều ngược lại với nhau. Tác giả tinh ý
sử dụng hình ảnh này để cho người đọc thấy rằng, dù xa xôi như nào thì tình yêu
của người phụ nữ vẫn vượt qua tất cả, vẫn kiên cường để yêu anh, luôn “hướng
về anh” – “một phương”. Điều này càng thêm khẳng định lòng chung thủy của
tác giả nói riêng và của những người phụ nữ hiện đại trong tình yêu hiện đại nói
riêng. Câu thơ như một lời khẳng định rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát, rõ ràng.
Tình yêu của người con gái ở đây vừa thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, giản
dị, vừa thủy chung duy nhất. Qua hình tượng sóng và em. Xuân Quỳnh đã nói
lên thật chân thành, táo bạo , không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi nổi,
mãnh liệt của mình, một phụ nữ, một điều hiếm thấy trong văn học Việt Nam.

Xuân Quỳnh viết bài thơ “Sóng” năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm
trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn nhiên tha thiết yêu đời này
vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong
trương lai. Vừa tự động viên, an ủi mình, tác giả vừa tin vào cái đích cuối cùng
của một tình yêu lớn như con sóng nhất định sẽ “tới bờ”, “dù muôn vời cách
trở”. Kết thúc bài thơ Sóng, ta có thể hiểu được những tâm trạng của người con
gái khi yêu cùng với khao khát mãnh liệt của nữ thi sĩ trong tình yêu. Xuân
Quỳnh qua bài thơ Sóng như mở ra cho ta một khía cạnh mới khi tiếp cận tình
yêu thông qua một hình ảnh thiên nhiên thật giản dị "sóng". Hình tượng này có
lẽ sẽ mãi là một hình tượng đẹp trong nền văn học Việt Nam khi nói lên đầy đủ
các tầng ý nghĩa trong tình yêu của cuộc đời.

154
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(HỒ CHÍ MINH)
Đề bài:

Hỡi đồng bào cả nước,

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy
rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói: “ Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”

Anh/chị hãy phân tích cơ sở pháp lí của bản Tuyên ngôn độc lập qua đoạn
trích trên. Từ đó nhận xét nghệ thuật lập luận của chủ tịch Hồ Chí Minh
trong đoạn trích.

BÀI LÀM
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Giọng của Người không phải sấm trên cao

Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước

Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước

Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”

(Sáng tháng năm)

Những vần thơ của Tố Hữu đã ngợi ca giọng nói đầm ấm, thiêng liêng của Bác.
Và giọng nói ấy càng trở nên thân thuộc, đầy tự hào, ý nghĩa hơn khi Người đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nếu
155
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết đầu TK XV được coi là áng
thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của nước Đại Việt thì hơn
bốn thế kỉ sau, bản tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng
được coi là “áng thiên cổ hùng văn” của thời đại mới. Từ đây trở đi nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa có thể ngẩng cao đầu cùng bốn biển năm châu. Bản
tuyên ngôn đã trở nên bất hủ, có ý nghĩa vô cùng trọng đại, tạo nên ấn tượng đặc
biệt với cả đồng bào ta và nhân dân thế giới. Góp phần trong đó là cơ sở pháp lí
mà Bác đã đưa ra trong đoạn “Hỡi đồng bào cả nước…không ai chối cãi được”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ tài ba, kiệt xuất của
cách mạng Việt Nam mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn, nhà chính luận mẫu
mực. Người để lại một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc, tư tưởng,
phong phú về thể loại và đặc sắc về phong cách, sáng tạo. Người quan niệm thơ
văn phải có tính chiến đấu, có chất “thép”, là vũ khí cách mạng sắc bén; văn
nghệ sĩ phải là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật. Nếu
cổ nhân quan niệm: “Văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” thì Hồ Chí Minh bổ sung:

“Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.

Cũng từ lẽ đó Người viết nên bản Tuyên ngôn độc lập - một văn kiện có giá trị
lịch sử to lớn. Là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định
quyền độc lập của dân tộc ta trên toàn thế giới. Là mốc son chói lọi mở ra kỉ
nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do. Đây cũng là áng văn chính
luận mẫu mực, xuất sắc với dung lượng ngắn gọn, cô đọng, kết cấu mạch lạc,
chứng cứ cụ thể, lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục. Từ đó, làm nổi bật nét
giản dị, trong sáng, đầy súc tích trong phong cách văn xuôi của Người.

Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Chiến tranh TG thứ hai đang
dần đi đến giai đoạn kết thúc. Ở phương Đông: Nhật đầu hàng quân đồng minh
vô điều kiện. Trong nước, nhân dân nổi dậy giành chính quyền khắp nơi. Ngày
26/8/1945 Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội, tại căn nhà số 48
phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập trong hoàn cảnh thù
trong giặc ngoài đang lăm le dòm ngó chính quyền non trẻ, trong âm mưu trắng
trợn của TD Pháp và khát khao độc lập tự do của đồng bào cả nước. Ngày

156
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử Người thay mặt chính phủ lâm thời
đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam mới.

Mở đầu bản tuyên ngôn là tiếng gọi thân thương “ Hỡi đồng bào cả
nước”. Hai tiếng “đồng bào” đã làm lay động hàng triệu trái tim người dân Việt
Nam. Tiếng nói ấy có nghĩa rằng bất cứ ai đã là người Việt thì đều cùng một tổ
tiên sinh ra, như anh em ruột thịt. Vậy mà trên cương vị của Chủ tịch nước, Bác
lại gọi nhân dân với cái tên thân mật-“đồng bào”. Nhắc đến nhân dân, trong Bác
luôn đau đáu một nỗi niềm, Người luôn quan niệm: Trên đời này không có gì
bằng nhân dân, không có gì thay thế được nhân dân. Bác nguyện suốt đời “làm
người đầy tớ trung thành của nhân dân”.Người đã cảm nhận nỗi đau thực dân
gây ra cho đồng bào như với chính mình, với gia đình mình. Đúng như nhà thơ
Cuba Felix Pita Rodriguez đã nhận định:

“Bởi vì Người đã đói mọi cơn đói ngày xưa

Vì Người đã chết hai triệu lần năm đói 45 khủng khiếp”.

Sau tiếng gọi tha thiết với đồng bào cả nước là những lẽ phải “không ai chối cãi
được”. Nhiệm vụ của phần mở đầu bản tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư
tưởng cho toàn bài. Nguyên lí của bản tuyên ngôn là khẳng định quyền tự do,
độc lập của dân tộc. Nét độc đáo của phần mở đầu là ở chỗ Hồ Chí Minh không
ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc, không nói về chủ quyền của lãnh thổ thiêng
liêng mà nói về độc lập dân tộc trên cơ sở trích dẫn những lời bất hủ trong tuyên
ngôn độc lập của Mĩ năm 1776 “Tất cả mọi người dân sinh ra có quyền bình
đẳng, tạo hóa cho họ những quyền…quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trong “Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1971 cũng viết:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”. Cả hai bản tuyên ngôn đều nhấn mạnh về quyền cá
nhân của con người. Đó là những quyền bất khả xâm phạm. Từ chính những lời
lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đặt ra trong bản tuyên ngôn của họ - hai bản
tuyên ngôn đầy tính nhân văn và tiến bộ về quyền lợi con người, Bác đã khẳng
định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Giống như ở đại hội Tân Trào,
Bác từng khẳng định: “Đối với kẻ địch chúng ta phải khéo léo và kiên quyết” thì
việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn trên cũng cho thấy sự khéo léo, tài tình của
Người. Khéo léo ở chỗ: Người thể hiện thái độ tôn trọng những danh ngôn bất

157
hủ, những di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu mở đầu của cách mạng tư sản,
nêu cao nguyên tắc pháp lí về quyền cơ bản của con người. Hồ Chí Minh đã thật
sự khéo léo khi kéo cả nhân loại tiến bộ về phía mình. Bên cạnh đó còn thể hiện
được sự ngưỡng mộ những thành quả mà người Pháp và Mĩ đã giành được trong
cuộc Cách mạng của dân tộc. Đồng thời thể hiện sự tự tôn dân tộc, nâng tầm vị
thế của Việt Nam sánh vai với các cường quốc trên thế giới, trở thành một bộ
phận của cách mạng thế giới. Bác đã đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba
nền độc lập như nhau. Niềm tự hào ấy đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong
“Bình Ngô đại cáo”:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên xưng đế một phương”

Phần mở đầu cũng hết sức kiên quyết, cứng rắn ở chỗ Người đã nhắc nhở người
Mĩ và Pháp đừng phản bội, đi ngược lại lí lẽ của cha ông mình. Đây chính là
nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khi dùng chính lí lẽ của đối thủ để bác bỏ ý
kiến của họ. Người đã nhắc nhở người Pháp đừng đi ngược lại lời dạy của tổ
tiên, đừng nhuộm lá cờ nhân đạo của các cuộc CM trước đây bằng máu và nước
mắt của người dân các nước thuộc địa.

Giáo sư Singô Sibata (Nhật Bản) đã từng nhận định: “Cống hiến nổi tiếng
nhất của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi con người
thành quyền lợi dân tộc, như vậy mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận
mệnh của mình”. Thật vậy, trong đoạn trích cụm từ “suy rộng ra” mang ý nghĩa
hết sức quan trọng vì từ một chân lí có sẵn Người suy ra những chân lí tương
đương, từ quyền con người mà suy ra quyền lợi của cả dân tộc : “Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”. Bất kể là màu da, tôn giáo, sắc tộc nào thì cũng đều
được hưởng quyền tự chủ và bình đẳng. Có thể nói đây chính là phát súng lệnh
mở đầu cho cơn bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa làm sụp đổ hệ thống
chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

“Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta như một trái táo còn về phía
địch như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không trôi mà khạc
cũng không ra”. Nhận định của Chế Lan Viên cho thấy nghệ thuật lập luận vừa
tài tình vừa khéo léo, kiên quyết của Bác. Có thể thấy với lập luận chặt chẽ, lí lẽ

158
sắc bén, cách trích dẫn sáng tạo. Một mặt Chủ tịch HCM đề cao tư tưởng chính
trị chứa đựng trong những lời trích dẫn ấy; mặt khác Người lên án việc xâm
phạm, áp bức các dân tộc, chà đạp lên nhân quyền là phi pháp lí và trái đạo lí.
Đồng thời, Bác cũng chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ngợi ca
tầm vóc vĩ đại của cuộc CMT8, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các
dân tộc trên thế giới, vừa ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của TD Pháp và
bọn đế quốc rằng, hành động xâm phạm của chúng là chà đạp lên nhân quyền và
quyền tự quyết của các dân tộc. Qua đây khẳng định một cách mạnh mẽ, hùng
hồn cơ sở pháp lí của Tuyên ngôn độc lập.

Có thể thấy, suốt cả một cuộc đời làm cách mạng Bác Hồ muôn vàn kính
yêu của đồng bào ta chưa lúc nào thôi nghĩ về đất nước, nhân dân. Vì thế mà
trong mọi lời thơ, ý văn của Người luôn hướng tới đất nước, cách mạng hướng
tới nhân dân. Bởi đối với Bác: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi,
đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu”. Mong muốn ấy
được thể hiện trọn vẹn qua bản “Tuyên ngôn độc lập”- áng văn chính luận mẫu
mực, đanh thép và lôi cuốn. Áng văn ấy như một thứ ánh sáng diệu kì, đầm ấm
hơn cả màu nắng tháng chín sử thi, dẫn lối cho dân tộc ta đến với tự do, hạnh
phúc. Qua những từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ, câu văn gọn mà
sắc, giản dị mà hùng hồn, bản tuyên ngôn đã đánh dấu một thắng lợi của một
nước thuộc địa châu Á- một dân tộc bất khuất kiên cường.

Đề bài:

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác
ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với
nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân
tộc ta đoàn kết.

159
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ,
nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân
buôn trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta
một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ
đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước
Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng
cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị
đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân
Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo
hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh
để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố
Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số
đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và
nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều
người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam
Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

160
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta
đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Phân tích đoạn văn tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Từ đó, nhận xét nghệ
thuật viết văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bài làm

“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín

Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình

Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín

Bỗng vang lên tiếng hát ân tình

Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh!”

(Tố Hữu)

Ngược dòng thời gian, lật lại những trang sử vàng của dân tộc, những mốc son
chói lọi nhất, ta như được sống trong những âm vang náo nức của thời đại anh
hùng. Thời gian đã khiến nhiều thứ đi vào dĩ vãng nhưng vẫn có những giá trị
trường tồn mãi mãi. Và mấy ai có thể quên được sự kiện cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công vang dội đã mở ra một kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc
Việt Nam, một kỉ nguyên tự do không còn xiềng xích của thực dân phong kiến,
kỉ nguyên đánh dấu niềm tin và ý chí tự chủ mạnh mẽ của toàn quân và dân ta.
Trong không khí vui mừng chiến thắng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nên
bản “Tuyên ngôn độc lập”. Có thể thấy, trong lịch sử đã có hơn một lần lời
tuyên ngôn khẳng định chủ quyền, nền độc lập được viết lên, đó là “Nam quốc
sơn hà” của Lí Thường Kiệt; đó là Bình Ngô đại cáo – áng thiên cổ hùng văn
của Nguyễn Trãi. Thế nhưng phải đến ngày mồng 2/9/1945, lần đầu tiên một lời
tuyên ngôn được đọc và tuyên bố vang vọng trước hàng triệu đồng bào cả nước.
Đó là bản tuyên ngôn do chủ tịch HCM soạn thảo. Từng câu chữ trong bản
tuyên ngôn ấy được xem là lời tố cáo đanh thép, hùng hồn cho tội ác của thực
dân Pháp đối với nước ta và lời tố cáo ấy được thể hiện sâu sắc qua đoạn trích
“Thế mà hơn 80 năm nay… chứ không phải từ tay Pháp”.
161
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất của cách mạng Việt
Nam, một nhà thơ, nhà văn lớn, nhà chính luận mẫu mực. Người để lại một sự
nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc, tư tưởng, phong phú về thể loại và đặc
sắc về phong cách, sáng tạo. Người coi văn học nghệ thuật là vũ khí chiến đấu
lợi hại, phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn-chiến sĩ “Văn hóa nghệ
thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”

“Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

(“Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”)

Tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” ra đời trong tình thế cấp bách nhưng có giá trị
vô cùng to lớn. Ngày 19/08/1945 Cách mạng tháng Tám thành công, chính
quyền về tay nhân dân. Ngay sau đó, chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt
Bắc về thủ đô Hà Nội, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn thảo
bản “Tuyên ngôn độc lập”. Và đến ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch
sử, Người đã đọc bản tuyên ngôn độc lập trước quốc dân đồng bào, khai sinh ra
nước VN dân chủ cộng hòa. Đất nước mới ra đời đã phải đối mặt với bối cảnh
các thế lực trong và ngoài nước luôn lăm le nhòm ngó, ý đồ xâm chiếm nước ta
một lần nữa. Thế nhưng, với những lí lẽ sắc bén, chứng cứ xác thực của bản
tuyên ngôn đã khẳng định chắc nịch quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta trước
toàn thế giới. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh vừa có giá trị lịch sử vừa mang
giá trị văn học. Đây là một văn kiện lịch sử vô giá, khai trừ chế độ thực dân
phong kiến, thoát khỏi thân phận nô lệ thuộc địa để trở thành một đất nước tự
do, dân chủ. Đây cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh quyết liệt suốt
gần một thế kỉ của nhân dân ta. Bản tuyên ngôn là một áng văn yêu nước lớn của
thời đại chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Là một áng văn chính luận mẫu
mực, ngắn gọn cô đọng mà vẫn lập luận hết sức chặt chẽ, đanh thép, dẫn chứng
thuyết phục. Chính Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “ Tôi tuy viết nhiều
nhưng chưa lần nào tạo được bài viết hữu ích như lần này”.

Mở đầu bản tuyên ngôn, Bác đã khẳng định quyền độc lập dân tộc, quyền
tự chủ của đất nước ta, tạo nên tác động mạnh mẽ tới phong trào giải phóng dân
tộc của các nước thuộc địa trên thế giới. Sau khi đưa ra cơ sở pháp lí vững chắc,
Bác đã dùng những dẫn chứng thực tế lịch sử, kết hợp lập luận cứng rắn để đập

162
tan mọi luận điệu xảo trá của Thực dân Pháp khi tung ra dư luận thế giới để hợp
pháp hóa cuộc xâm lược của chúng trên đất nước ta. Cụm từ “thế mà” đã làm
nổi bật quan hệ tương phản giữa những lí lẽ tốt đẹp và hành động trắng trợn.
Trên thực tế, người Pháp đã ngang nhiên phản bội lại lời của cha ông họ, lợi
dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành
động của chúng là trái lại với nhân đạo và chính nghĩa.

“Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin
tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”( Trần Dân Tiên). Thật vậy,
nhân dân ta đã phải chịu quá nhiều nỗi đau, hận bọn cướp nước tận xương tủy
nên khát vọng to lớn và duy nhất lúc này là làm sao để giành được tự do. Thực
dân Pháp muốn khoe khang có công khai hóa Đông Dương nói chung và đất
nước ta nói riêng thì bản tuyên ngôn đã vạch trần tội ác của chúng với nhân dân
ta ở các mặt của đời sống, xã hội. Về chính trị, bản tuyên ngôn lần lượt đưa ra
những bằng chứng cho thấy ở Việt Nam không hề có tự do khi “chúng tuyệt đối
không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào... chúng lập ba chế độ khác
nhau ở ba miền Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta”.
Đặc biệt hơn nữa “chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Dưới ách thống
trị của chúng không hề có sự bác ái nào “chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu”. Những hình ảnh ẩn dụ thấm đẫm nỗi đau xót và sự căm hờn của
người viết đã làm tăng thêm giá trị tố cáo cho bản tuyên ngôn, phơi bày bản chất
thật sự, tội ác tày trời của kẻ xâm lược.

Về kinh tế, chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho nhân
dân ta nghèo đói thiếu thốn, đất nước xác xơ, tiêu điều. “Chúng đặt ra hàng trăm
thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng,
chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên...” Cùng với Phát xít Nhật, TD
Pháp đã gây ra nạn đói thê thảm năm 1945 “từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai
triệu đồng bào ta bị chết đói”. Chi tiết này cũng đã được tái hiện một phần đầy
ám ảnh về thực tế cuộc sống đồng bào ta thời bấy giờ qua những trang “Vợ
nhặt” của nhà văn Kim Lân: “người chết thây nằm còng queo bên đường, người
sống chỉ còn là những cái bóng dật dờ lặng lẽ như những bóng ma...” Nếu khai
hóa là khai mở văn minh, làm cho nơi ấy dân giàu nước mạnh thì qua những dẫn
chứng cụ thể của bản tuyên ngôn đã phủ nhận hoàn toàn sự khai hóa ấy. Đó

163
cũng là lời kết án đầy phẫn nộ, sục sôi và căm thù. Với nghệ thuật liệt kê, điệp
cấu trúc kết hợp với các động từ mạnh “chúng thi hành... chúng lập ra..thẳng tay
chém giết...chúng giữ...” đã làm nổi bật tội ác chồng chất của quân giặc. Đó là
tội ác trời không dung, đất không tha, khác nào khi xưa Nguyễn Trãi cũng đã
viết về quân giặc:

“ Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

Chỉ một kẻ thù-thực dân Pháp nhưng tội ác man rợ mà chúng gây ra là không kể
xiết. Cách lập lụân đanh thép, dẫn chứng cụ thể khiến kẻ thù hết đường lẩn tránh
tội ác chúng gây ra. Đây giống như bản án chế độ thực dân Pháp lần thứ hai, bóc
trần bản chất giả dối, tàn ác của Pháp.

Sau khi làm rõ sự giả dối của cái gọi là “Tự do, bình đẳng, bác ái”, Hồ
Chí Minh tiếp tục dùng những thực tế lịch sử để đập tan luận điệu “bảo hộ”, tự
xưng là mẫu quốc của Pháp. Bản tuyên ngôn chỉ rõ, mùa thu năm 1940 khi phát
xít Nhật đến xâm lược Đông Dương, Pháp đã “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước
ta rước Nhật”. Chỉ một từ “quỳ” đã quá đủ để thể hiện bản chất đê hèn của
những kẻ tự xưng là “nước mẹ”, thể hiện thái độ căm phẫn, mỉa mai, châm biếm
bản chất thực dân của Hồ Chí Minh. Dân ta “thân một cổ mà hai tròng nô lệ”,
cuộc sống khó khăn vô cùng. Nguyễn Đình Thi đã từng viết:

“Bữa cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da”

Với Tuyên ngôn độc lập của HCM, tội ác của Pháp còn ghi dấu ở sự kiện trước
ngày 9/3 “biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống
Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh
hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù
chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Ngày 9/3 năm nay khi Nhật hất cẳng Pháp,
bọn TD Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Có thể dễ dàng khẳng định
“trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật” chứ không hề bản hộ
được chút nào. Thế nhưng, đối lập với tội ác của chúng, nhân dân ta vẫn giữ thái
164
độ khoan hồng và nhân đạo “sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã
giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra
khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Đó là truyền thống
nhân đạo hết sức quý báu của dân tộc ta. Truyền thống ấy cũng được thể hiện ở
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:

“Thể lòng trời ta mở lòng hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn
bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vào nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim
đập chân run”

Như vậy, Hồ Chí Minh khẳng định chính Việt Nam mới đang là người
bảo hộ cho Pháp. Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa cũ của
mình bị Nhật chiếm đóng, nay Nhật đầu hàng đồng minh Đông Dương đương
nhiên trả về cho Pháp- điều này để hợp pháp hóa việc quay trở lại xâm lược
Đông Dương lần hai, chúng dựa vào những hiệp ước bất bình đẳng mà chính
quyền nhà Nguyễn đã kí trước đây. HCM đã đập tan luận điệu này bằng sức
mạnh của sự thật “sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa
của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa, sự thật là dân ta lấy lại nước
Việt Nam từ tay Nhật,chứ không phải từ tay Pháp”. Bác đã lặp đi lặp lại cụm từ
“sự thật là” đánh tan những luận điệu mơ hồ mà Pháp cố dựa vào để quay trở lại
nước ta một lần nữa. Và sự thật là dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần
một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập, đánh độ chế độ
quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Tất cả đã cho
thấy một khí thế sục sôi, phấn trấn xông lên giành quyền sống, quyền tự do cho
dân tộc của đồng bào ta.

Qua những luận điểm Bác đưa ra để tố cáo tội ác trời không dung, đất
không tha của thực dân Pháp, người đọc thấy được nghệ thuật viết văn chính
luận đặc sắc của Hồ Chí Minh. Đó là ở hệ thống lập luận chặt chẽ, dứt khoát,
dẫn chứng thuyết phục, khẳng định nguyên lí độc lập – tự do không ai có thể
chối cãi được. Đó là những lí lẽ xuất phát từ tình yêu đất nước, tình yêu công lý,
tôn trọng sự thật, lẽ phải đã được nhân dân thế giới công nhận từ các cuộc đấu
tranh chính nghĩa trong lịch sử nhân loại. Bằng giọng văn đanh thép, hùng hồn,

165
ngôn ngữ sắc sảo, giàu hình ảnh, cách xưng hô thân tình đã tạo cho bản tuyên
ngôn một sức mạnh to lớn, xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên
thế giới và các thiên cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của
Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.

“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở
đâu, sự chiến thắng của chân lí trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu, xin
mời đến thăm cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực của
một con người anh hùng của thời đại…” (Rơ-nê Đê Pê-stre-Cu BaBa). Thông
qua bản tuyên ngôn độc lập, bằng cả một đời trọn vẹn hi sinh, Bác Hồ đã khẳng
định sự chiến thắng muôn đời của chân lí, của lẽ phải. Những cống hiến lớn lao
của Bác đối với nền độc lập của nhân dân Việt Nam, của các nước thuộc địa là
không thể đo đếm. Và để có được Tuyên ngôn ấy, biết bao đồng bào, đồng chí
đã hi sinh trong suốt gần một thế kỉ chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột
mốc lịch sử, nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp
ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên độc lập
tự do. Để ngày hôm nay, lớp lớp thế hệ vẫn còn thấy trong đó sự hào hùng bởi:

“Tuyên ngôn Bác đọc vang trời đất

Độc lập Người thề vọng núi sông

Tháng tám chói ngời trang lịch sử

Ngàn năm xứng mãi với cha ông”.

(Ngời trang lịch sử - Đức Chính)

166
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)
Đề bài: Cảm nhận về sông hương giữa núi rừng trường sơn. Qua đó, hãy
nhận xét về cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Bài làm

“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.”

Từng có một Chế Lan Viên miệt mài đi tìm dáng hình đất nước qua ngòi bút
giữa muôn trùng như vậy.Việt Nam ta-một đất nước có đặc điểm địa lý đặc biệt,
rừng xanh bạt ngàn ôm ấp cả những hệ thống sông ngòi chảy dài khắp mảnh đất
hình chữ S, từ bao đời đã in sâu vào văn hóa, lịch sử và tiềm thức của mỗi đứa
con Lạc Hồng . Bởi thế nên khi nhắc nhở về quê hương yêu dấu, về mảnh đất
chôn rau cắt rốn, người ta vẫn thường tha thiết, nặng tình về một dòng sông
thương nhớ đã gắn với quê cha đất tổ bao đời. Đó có thể là dòng sông Lô hùng
tráng gắn liền với tên tuổi của nhạc sĩ Văn Cao, cũng có thể thấy hình ảnh “sông
Đuống trôi đi một dòng lấp lánh nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”
trong thơ của Hoàng Cầm. Hay với Nguyễn Tuân một nhà văn ưa “xê dịch” thì
đó là dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội, lại cũng mang những vẻ thơ mộng, trữ tình.
Và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không ngoại lệ, người con cả đời đậm tình quê
với Huế ấy cũng giữ trong tim mình dáng vẻ của dòng sông Hương ngàn năm
soi bóng kinh thành cố đô trong tác phẩm bút ký nổi tiếng “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” Mà vẻ đẹp của dòng Hương giang ở khúc thượng nguồn được nhà
văn thể hiện một cách đầy tinh tế và sinh động. Qua đó ta không chỉ được chiêm
ngưỡng “vẻ đẹp của sông Hương được phát hiện, khám phá từ cảnh sắc thiên
nhiên” mà còn hiểu thế nào là “cái tôi của tác giả”.

“Một nhà văn lớn phải là nhà văn vượt ra khỏi giới hạn của văn học vùng,
văn học địa phương để trở thành nhà văn dân tộc và vươn đến ngưỡng cửa thế
giới. Tôi tin rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đạt được đến điều đó”. Thật vậy,
167
ngòi bút tài hoa ấy đã dành cả cuộc đời để đưa những dấu ấn quê hương vươn
tầm khỏi lãnh thổ hàng nghìn năm đã dừng chân của chúng. Là một nhà văn vô
cùng tài hoa, đặc biệt là về thể loại bút kí. Mỗi một tác phẩm của ông đều có
một phong cách viết rất độc đáo, đó là sự kết hợp ăn ý giữa chất trí tuệ và chất
trữ tình về rất nhiều kiến thức, chủ đề khác nhau như: văn học, triết học, lịch sử,
địa lí... bất kì chủ đề gì cũng không làm khó được ông. Những sáng tác của ông
hấp dẫn người đọc ở lối hành văn hướng nội, súc tích và tấm lòng nhân văn sâu
sắc, trí tuệ uyên bác cùng chất Huế quyến rũ.Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết
đến như là một nhà văn của những dòng sông và sự nghiệp văn chương của ông
cũng giống như là một dòng sông vậy, luôn chăm chỉ, miệt mài sáng tác không
nghỉ ngơi để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm đại diện mẫu mực cho thể loại
ký trong văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời cũng là gương mặt xuất sắc nhất
trong tổng số các tác phẩm ký của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm
viết tại Huế vào năm 1981, xuất bản vào năm 1986 trong tập sách cùng tên.
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một nhan đề lạ và hấp dẫn, khơi gợi
hứng thú và tò mò cho người đọc đi vào tìm hiểu để tự tìm câu trả lời cho mình.
Bên cạnh đó nó còn mở ra nội dung của tác phẩm, đầu tiên là vẻ đẹp của dòng
sông Hương trên tất cả các góc nhìn phong phú và đa dạng, thứ hai là huyền
thoại về cái tên “Hương” thơm và đẹp muôn đời của dòng sông.

Sở dĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn dòng sông Hương làm hình tượng
nghệ thuật chính trong tác phẩm của mình bởi đây là con sông nổi bật làm nên
vẻ đẹp của mảnh đất xứ Huế, nơi mà nhà văn đã gắn bó từ thuở lọt lòng, đã để
lại trỏng ông nhiều ấn tượng sâu sắc, đồng thời cũng là hình tượng mà ông có
nhiều am hiểu tường tận cả về địa lý, văn hóa và lịch sử. Dòng Hương giang ấy
trông từ góc nhìn địa lý lại mang những vẻ đẹp hấp dẫn với cảnh sắc thiên nhiên
đa dạng và quyến rũ, đặc biệt là khúc thượng nguồn khi dòng sông vẫn còn ẩn
giấu hình hài, dáng vẻ của mình trong bạt ngàn Trường Sơn. Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã thể hiện cái tài liên tưởng độc đáo, phong phú và mạnh mẽ của mình
khi so sánh hình ảnh dòng sông với “một bản trường ca của rừng già” mang đậm
vẻ hào hùng, tráng lệ và sôi nổi. Đó là một dòng sông nổi bật vẻ hùng vĩ với
hình ảnh những đoạn sông “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc…”. Phải chăng lúc này đây dáng vẻ của con

168
sông Hương hoàn toàn khác biệt với những gì người ta thấy khi nó uốn mình
qua chân chùa Thiên Mụ, hay những khi nó hiền hòa giữa lòng phố Huế? Nếu
như thi sĩ Đông Hồ từng say nước dòng Hương để rồi họa nên những vần thơ
tình tứ, dịu dàng mang nhịp đập của một bầu tim xứ Huế:

"Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ

Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ

Gió chiều vương áo nàng tôn nữ

Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ"

Thì nay khi mở đồ trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường - một nhà văn sống
trọn ân tình cùng đất Thừa Thiên, ta lại bắt gặp hình ảnh dòng sông Hương
mãnh liệt, dữ dội như được hun đúc từ những sâu thẳm non ngàn. Bằng việc sử
dụng những động từ mạnh, những cấu trúc giống nhau được điệp lại liên tiếp đã
khiến cho con sông hiển hiện như một khúc ca trải dài bất tận của thiên
nhiên.Đồng thời sông Hương cũng không bỏ quên nét thơ mộng và trữ tình
khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán bằng “vẻ dịu dàng, say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sắc đỏ “chói lọi” ấy
của loài đỗ quyên càng làm nổi bật lên cái dáng điệu rộn rã, bừng bừng khí thế
của một dòng sông giữa lòng Trường Sơn hoang dã và bí ẩn, tựa như tuổi trẻ son
sắt của những chàng trai, những cô gái đang thỏa sức vẫy vùng giữa biển trời
thanh xuân nồng nhiệt, sống động. Cũng là bởi chính nét chấm phá của sắc đỏ
rực rỡ ấy khiến ta dễ giảng liên tưởng Hương giang giống hệt như một người
con gái Huế đang yêu: có khi nồng nàn, dữ dội - khi lại e ấp, ngọt ngào. Hương
giang không chỉ là một dòng sông, mà dường như nó là một sinh thể sống động,
nó biết yêu, biết ghét cũng biết dịu dàng với nét duyên thầm dễ làm say đắm
lòng người.Cuối cùng cái tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say,
trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một
Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

Nhưng bấy nhiêu đấy vẫn chưa đủ để làm nổi bật hẳn cái cá tính của dòng
Hương giang giữa muôn vàn các dòng sông của nhiều tác giả khác, ví như so
sánh với Nguyễn Tuân nhà văn cũng có một dòng sông Đà hung bạo, mãnh liệt
kết hợp với vẻ trữ tình thi vị đầy đặc sắc. Thế nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
chọn cách nhân hóa sông Hương, khoác lên cho nó một tính cách thật đặc biệt
169
bằng dáng vẻ của một người con gái Di-gan “phóng khoáng và hoang dại” thật
quyến rũ, bí ẩn, cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”. Làm
nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông khi người ta nghĩ đến
một người con gái tuổi đôi mươi, tinh nghịch nhảy xoay tròn bằng đôi chân trần
linh hoạt, với nụ cười lanh lảnh trong vắt, tựa tiếng chim. Đồng thời mang đến
cả những hình dung về một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng
già Trường Sơn hun đúc suốt từ thuở cha sinh mẹ đẻ, rất mạnh mẽ và tràn đầy
sức sống. Thế nhưng cái cá tính phóng khoáng, hoang dại ấy cũng không phải là
thứ mà dòng Hương giang muốn đem đi phô bày khắp mọi nơi, dường như dòng
sông ấy muốn giữ chút gì đó cho riêng mình như là thế giới nội tâm đầy tâm sự,
và nhờ rừng già coi giữ như một một quý giá bằng cách “đóng kín lại ở cửa rừng
và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng” để bước vào
cuộc hành trình tiếp theo.

Khi đã cất lại một phần tâm hồn trong rừng già, sông Hương lại bộc lộ ra
một nét tính cách mới, thú vị mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tinh tế liên tưởng
rằng đó là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”. Dòng sông đã hoàn toàn
rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ
dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong
Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân thuộc, bằng vẻ đẹp
“dịu dàng và trí tuệ”. Nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ
Hương giang ngàn đời đã dang rộng vòng tay ôm ấp, hy sinh, trải qua biết bao
nhiêu thế hệ thăng trầm nuôi lớn đứa con cố đô bằng tất cả tấm lòng yêu thương,
mong đợi. Có thể nói rằng với sự liên tưởng này Hoàng Phủ Ngọc Tường không
chỉ biến sông Hương thành một thực thể có linh hồn có xúc cảm mà còn đặc biệt
nhấn mạnh làm nổi bật mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với
mảnh đất cố đô bao đời nay. Điều đó cũng phần nào thể hiện được tấm lòng gắn
bó của nhà văn với quê hương, gắn bó với dòng sông có nhiều nét cá tính độc
đáo này. Chiều sâu trong vẻ đẹp của dòng sông: Khơi nguồn về cội nguồn để
khám phá vẻ đẹp sâu thẳm: sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông
Hương khúc thượng nguồn là cái nhìn mang tính khám phá, phát hiện bằng đóng
góp của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhờ đó, người đọc không chỉ biết tới sông
Hương dịu dàng trầm tư mà còn một sông Hương mãnh liệt, tự do, phóng
khoáng.

170
Với bút pháp mềm mại, uyển chuyển, tác giả đã bóc tách từng lớp vẻ đẹp
của nàng Hương và cũng là của xứ Huế, nâng niu và ôm ấp chúng trong từng
câu chữ, trang văn. Nhưng tác phẩm vẫn giữ được nét phóng khoáng, tài hoa,
uyên bác nhưng đậm chất trữ tình không lẫn vào đâu trong phong cách sáng tác
của ông Sông Hương đẹp ở chỗ nó gần gũi với người dân xứ Huế. Cái duyên
đằm thắm, cái tình mặn mà ấy in sâu vào tiềm thức của con người nơi đây. Sông
Hương đẹp từ nguồn, từ những dòng chảy đầu tiên. Sông Hương, một dòng sông
đẹp, một dòng văn hoá đậm đà truyền thống của Huế cũng đã ra đời và sẽ chảy
mãi đến tận mai sau, chảy vô tận trong tâm hồn nhiều thế hệ.

Đúng là chẳng câu chữ của kẻ “ngoại lai” nào có thể lột tả thiên nhiên
Huế hơn chính tác giả thế nhưng đọc và ngẫm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ta
còn cảm thấy đây không đơn thuần là một bài kí phi thường về văn phong mà
còn sâu đậm về ý nghĩa. “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con
người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư”, đọc kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” ta bắt gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường với một cái tôi tài hoa uyên bác luôn
tha thiết với sông Hương xứ Huế. Cái tôi đặc sắc không trộn lẫn ấy đã đóng một
dấu triện riêng vào dòng chảy văn học và tâm hồn người đọc.“Cái tôi” có thể
hiểu là nét riêng của mỗi con người, “Cái tôi” trong văn học còn đặc biệt và
chứa đựng nhiều điều hơn thế, không chỉ thể hiện con người mà còn là phong
cách văn chương. Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua ba
phương diện: sự say đắm cảnh sắc thiên nhiên, gắn bó với quê hương xứ sở, trí
tuệ uyên bác với vốn hiểu biết đa ngành phong phú; ngòi bút tài hoa, tinh tế
trong từng câu chữ. Ta hoàn toàn có thể nói tất cả phương diện đều “thấm đẫm
chất Huế”. Không đơn giản vì bài kí này viết về vùng đất ấy mà là tình yêu quá
đỗi sâu đậm dành cho vùng đất thừa thiên. Bởi chỉ có vậy, ông mới có thể viết
nên những trang văn đầy ắp tri thức và tài hoa, và cũng bởi trong văn chương thì
thành công tức là tài năng được quyết định bởi thứ cảm xúc bản năng và nguyên
thủy của kẻ có trái tim “trong” và “nguyên”. Phải chăng “dòng sông khó đoán
quá”, nên nhà văn mới phải vận hết yêu thương để thấu hiểu và cuộc hành trình
ta đang đi là để khắc khoải đuổi theo một nỗi nhớ? Tác phẩm như một món quà
nhỏ thay cho tấm lòng thành nhà văn muốn tri ân và dâng tặng thiên nhiên và
con người Huế, “đã trầm hồn mình với đất trời sông nước xứ Huế” mà sáng tác
nên những trang kí khắc họa trọn vẹn vẻ đẹp sông Hương vừa đa sắc biến ảo lại
thẳm sâu hấp dẫn.
171
Chỉ với vài dòng thác kí lại hình ảnh Hương giang ở thượng nguồn, vẻ
đẹp của dòng sông đã được tác giả bộc lộ một cách tinh tế với trường liên tưởng
phong phú và độc đáo. Sông Hương trở thành một sinh thể có tâm hồn, có xúc
cảm và có cả cuộc đời, với nhiều nét cá tính khác nhau lúc hùng vĩ, mãnh liệt,
lúc hoang dại quyến rũ, rồi có lúc lại thật dịu dàng bao dung. Tất cả đã kết hợp
làm nên một vẻ đẹp về một dòng sông biết trộm đi nỗi nhớ nhung của vị khách
vãng lai.

Đề bài: Phân tích dòng sông Hương ngoại vi thành phố Huế. Qua đó chứng
minh được rằng “Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là nhà văn của những
dòng sông”

Bài làm

Trong sự nghiệp văn chương của mình, Thạch Lam từng chiêm nghiệm
“Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ
trụ”. Nhưng muốn ôm ấp lấy vẻ đẹp thôi là chưa đủ, để hoài thai nên trang tuyệt
mĩ nhà văn còn cần chắt lọc tinh túy rồi nghiêng bóng lên trang văn. Chỉ có như
vậy, giữa muôn vàn thợ viết ngoài kia, ta mới có dấu ấn khó phai nhòa. Giữa
muôn vàn áng văn ngoài kia, tôi quyết định chọn “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường) để minh chứng sáng chói cho một cây bút tâm huyết,
sống trọn với thiên lương nghề văn. Chỉ qua đoạn miêu tả sông Hương ở ngoại
vi thành phố ta bất giác chạm tay nhè nhẹ vào dòng nước êm đềm ấy, thả lòng
trôi trên dòng sông chữ nghĩa.

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên tại Huế nên từ nhỏ ông đã
gắn bó với dòng Hương Giang. "Ngoài những giờ lên lớp, mỗi ngày tôi đều
tắm sông cùng với nhóm bạn học, ngày nào không ra sông lại thấy hụt
hẫng như thiếu một điều gì đó", nhà văn kể lại. Ông nói rằng chính sông
Hương đã nuôi mạch máu văn chương trong con người ông, giúp những
mạch máu ấy lan tỏa và sống mãi cho đến hôm nay: "Những kỷ niệm thời
ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ nhưng
tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu,
172
không micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc...
Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông
Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi là con
sông quê hương", nhà văn tâm sự. Đó chính là nền móng tâm tưởng của một
nhà văn vô cùng tài hoa, đặc biệt là về thể loại bút kí. Mỗi một tác phẩm của ông
đều có một phong cách viết rất độc đáo, đó là sự kết hợp ăn ý giữa chất trí tuệ và
chất trữ tình về rất nhiều kiến thức, chủ đề khác nhau như: văn học, triết học,
lịch sử, địa lí... bất kì chủ đề gì cũng không làm khó được ông. Những sáng tác
của ông hấp dẫn người đọc ở lối hành văn hướng nội, súc tích và tấm lòng nhân
văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác cùng chất Huế quyến rũ. Hoàng Phủ Ngọc Tường
được biết đến như là một nhà văn của những dòng sông và sự nghiệp văn
chương của ông cũng giống như là một dòng sông vậy, luôn chăm chỉ, miệt mài
sáng tác không nghỉ ngơi để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm đại diện mẫu mực cho thể
loại ký trong văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời cũng là gương mặt xuất sắc
nhất trong tổng số các tác phẩm ký của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác
phẩm viết tại Huế vào năm 1981, xuất bản vào năm 1986 trong tập sách cùng
tên. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một nhan đề lạ và hấp dẫn, khơi
gợi hứng thú và tò mò cho người đọc đi vào tìm hiểu để tự tìm câu trả lời cho
mình. Bên cạnh đó nó còn mở ra nội dung của tác phẩm, đầu tiên là vẻ đẹp của
dòng sông Hương trên tất cả các góc nhìn phong phú và đa dạng, thứ hai là
huyền thoại về cái tên “Hương” thơm và đẹp muôn đời của dòng sông.

Vẻ đẹp của sông Hương trước khi vào thành phố Huế là cái nét đẹp mềm
mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mỹ. Bằng
việc sử dụng nghệ thuật so sánh nhà văn đã ví sông Hương như “người con gái
đẹp đang ngủ mơ màng khi được người bạn tính mong đợi đến đánh thức”. Với
lối so sánh ấy dòng chảy uốn lượn của con sông, những khúc quanh co của nó
hiện lên hệt như những đường cong trên cơ thể của một người thiếu nữ đang độ
xuân sắc: “sông Hương đã chuyển động một cách liên tục, vòng giữa những
khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Quả là vẻ
đẹp lúng liếng thanh xuân, vừa đa tình vừa hút mắt thi nhân

“Dòng Hương in gái nguyên lành

173
Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đàn”

Với thời gian bảy trăm năm lịch sử, Hương Giang thơ mộng ngày nay đã mang
trong mình những lắng đọng với ba trầm tích phù sa của dòng chảy lịch sử có tự
bao đời. Từ thuở xa xưa sông Hương đã mang những cái tên linh nhiệm là Linh
Giang, Lô Dung rồi Kim Trà. Với những cái tên gọi dịu dàng ấy, sông Hương
vẫn mềm mại uốn lượn để ôm ấp và nâng niu vóc dáng xứ Huế và làm nên nét
đẹp hồn cốt trong tâm hồn Huế như một tất yếu của dòng chảy lịch sử bên đời:

"Đất Thừa Thiên trai hiền, gái lịch

Non xanh nước biếc, điện ngọc, đền rồng

Tháp Bảy Tầng, Thánh Miếu, Chúa Ông

Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa

Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua

Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, còn đợi khúc âu ca thái bình."

(Ca dao Huế)

Nếu Viên Mai từng viết “kẻ làm thơ không được đánh mất đi tấm lòng trẻ
thơ” thì ắt hẳn kẻ đang yêu cũng không được đánh mất dũng khí chạy về phía
người thương. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người con gái
đẹp” này khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua điện Hòn Chén,
Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán. Nhưng chính trong quá trình ấy con
sông lại như có cơ hội bộc lộ tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm của người
thiếu nữ đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”: “Qua điện Hòn Chén, vấp
Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều,
Lương Quán rồi đột ngột vẽ một cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy chân
đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư
vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để
sắc nước trở nên xanh thẳm và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như
thành quách”. Có thể thấy, bằng lối hành văn uyển chuyển, sử dụng ngôn ngữ đa
dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động
và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Thủy trình của Hương
Giang gắn liền của những địa danh khác nhau của xứ Huế được nhà văn dành
cho một cách diễn đạt riêng biệt - không pha tạp, không trộn lẫn với sự dẫn dắt
174
của bất cứ nghệ sĩ văn nhân nào từng viết về xứ Huế. Chính lối hành văn nhẹ
nhàng, tình tứ ấy đã tạo được cảm giác thân quen trong lòng người đọc, khiến ta
có xúc cảm tựa như mình đang xuôi mái chèo rẽ nước trên sông Hương, cùng
với con sông tìm về với Huế thơ, Huế tình. Hành trình ấy vốn thật dài nhưng qua
lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta không cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt mà
thay vào đó lại là một hành trình khám phá đầy độc đáo, thú vị, một chuyến du
miên đáng nhớ và đáng yêu.

Bằng ngòi bút tài hoa, mềm mại người nghệ sĩ đã có những nét vẽ thật
đẹp về Hương giang trên phông nền là sự mộng mơ rất Huế. Những câu văn
giàu sức họa đan xen cùng những câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên
tưởng và cảm xúc thi vị, kết hợp với thủ pháp nhân hóa và so sánh cùng hệ
thống ngôn từ giàu xúc cảm và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc
họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình. Những nét độc đáo ấy khiến cho ta cảm
nhận của ta về dòng sông hệt như một người con gái đẹp càng trở nên rõ nét và
gợi cảm: “Sông Hương ôm lấy chân đồi Thiên Mụ trước khi xuôi dần về Huế”.

Dòng Hương cũng như con người biết tự làm mới mình, biết trang điểm
cho mình đẹp hơn trước khi gặp người tình mà nó mong đợi: “vượt qua một lòng
vực sâu dựa trên núi ngập tràn để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Sông Hương
mang dáng vẻ hệt như tấm lụa mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ, nó làm say
lòng biết bao đấng tài hoa là những họa sỹ, nhạc sỹ, thi sĩ tài danh và tên tuổi,
giúp họ nuôi dưỡng đam mê và khát khao sáng tạo từng ngày. Hương Giang
cũng gắn bó và làm say lòng bao con người yêu thương và nặng lòng với Huế ở
khắp nơi:

"Vốc tay say với dòng Hương

Nhón chân, ngược bước nẻo đường tìm thơ".

(Đêm Hương Giang- Nguyễn Trọng Liên)

“Kìa núi ngự sông Hương cùng lăng tẩm

Vẫn âm thầm chờ đón các thi nhân…”

(Trích từ bài “Ôi xứ Huế” của Bích Lan)

Đi giữa thiên nhiên xứ Huế mộng mơ, Sông Hương cũng chuyển mình
ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con
175
sông vốn hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế, khi đến đây, nó như đang nép mình
bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng rừng
thông u tịch”. Nhẹ nhàng uốn mình bên những di sản văn hóa ấy, Hương giang
như bỗng trở nên nghiêm sáng hơn nó như khoác lên mình tấm áo choàng “trầm
mặc” mang cái “triết lý cổ thi” của cổ nhân đã từng lai vãng. Lúc này đây sông
Hương như hóa thân thành dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ, mải miết tuôn dài
qua năm tháng và đang vọng về trong hơi thở của ngày hôm nay. Hương giang
hệt như một chứng nhân lịch sử, nó đã soi bóng cho những triều đại nhà
Nguyễn, cất giấu cho riêng Huế phiến ngọc bảo được lưu truyền qua các đời vua
chúa, để rồi phong niêm lại cho Huế cái dáng vẻ cổ kính, thâm nghiêm:

“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng

Sông dài như kiếm dựng trời xanh”.

(Cao Bá Quát)

Trên hành trình của một dòng sông mềm mại như tấm lụa, dưới lăng kính của
một người nghệ sĩ tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hướng góc quay ra không
gian xung quanh hai bên bờ sông, hình ảnh thu lại trong tầm mắt là không gian
văn hóa Huế vô cùng độc đáo được thể hiện ở cảnh sắc thiên nhiên và những
lăng tẩm đền đài của vua chúa thời Nguyễn: “Sông Hương trôi đi giữa hai dãy
núi sừng sững như thành quách... Những ngọn đồi này tạo nên những mảng
phản chiếu nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành phố: sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím”. Không giống như sông Đà, sông Lô hay sông Gâm, sắc nước
của Hương giang thay đổi theo thời gian trong ngày, cũng chính là sự phản
chiếu nét đổi thay của cảnh sắc đất trời hoa mộng. Màu xanh của nền trời khi
ban sớm, sắc vàng của ánh mặt trời lúc trưa thanh và sắc tím dịu dàng của hoàng
hôn choàng lên Huế:

“Tim tím rừng chiều, tim tím núi

Tim tím chiều hôm, tim tím mai…”

(Nguyễn Bính)

Như vậy, sông Hương đi trong vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế và
sinh nó lại là tấm gương phản chiếu nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ
sông. Nếu không có dòng Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi thành phố Huế vẫn
176
có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy sẽ mất đi cái sự long lanh, cái đa sắc màu và
không còn những điểm cao đột khởi, khiến người ta phải ngẩn ngơ ngắm nhìn.
Sự xuất hiện của sông Hương như một điểm nhìn văn hóa và sông Hương chính
là “trung tâm cảnh sắc”, là linh hồn của thiên nhiên và cảnh vật đất Kinh kì:

“Dòng sông ai đã đặt tên

Để người đi nhớ Huế mãi không quên

Xa con sông mang bao nhiêu nỗi nhớ

Xa ở lại tháng năm đợi chờ”

Sông Hương được tái hiện bằng một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch
sử, địa lý và văn chương của tác giả.Những cảm xúc sâu lắng cùng văn phong
tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa đã tạo nên sức hấp dẫn của đoạn trích Ai đã
đặt tên cho dòng sông? Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng,
trữ tình đầy chất thơ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp
của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong cuộc hành trình trở về với
người tình thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như trưởng thành,
thay đổi, lớn lên để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại trở thành
một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Qua đoạn trích, người đọc cũng
có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng mà Hoàng Phủ
Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là
cho đất nước. Có lẽ đến đây ta cũng nhận ra được ông trời đang se duyên cho
Hương và Huế để chúng được gặp nhau, cảm nhận thế nào là yêu và được yêu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến như một nhà văn của những
dòng sông bởi trong suốt sự nghiệp sáng tác ông luôn miệt mài, tận tụy tựa
dòng chảy trôi luân chuyển phù sa bồi đắp thêm màu mỡ cho địa hạt văn
chương. Có lẽ những người dân ở bên bờ sông Hương đoạn chảy qua thành
phố Huế khó có thể quên được hình ảnh một ông lão trạc tuổi 70 ngồi trên
xe lăn, được vợ đẩy xe đi dạo trên bờ sông Hương. Đó có thể là nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả của những áng văn thơ nổi tiếng về những
dòng sông như "Ai đã đặt tên cho dòng sông" hoặc cũng có thể là một
người con của Huế yêu Hương giang say đắm đến độ họa lên dòng sông ấy
bằng câu chữ. 13 năm sống trên giường bệnh, phải di chuyển bằng xe lăn
177
là 13 năm ông nhớ thương những dòng sông, như ông nói: "Những dòng
sông luôn mang lại cảm xúc sáng tác cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn văn
học tôi từ nhỏ cho đến bây giờ và mãi mãi sau này". "Rất nhiều sáng tác
của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều có dấu ấn của sông Hương thơ mộng. Xa
Huế, nhà văn nhớ nhất dòng sông. Vậy nên dù ông và gia đình đã nhiều lần
vì công việc phải chuyển ra Hà Nội sinh sống, hoặc vào Thành phố Hồ Chí
Minh nhận công tác, nhưng cuối cùng nhà văn đều bỏ lại cảnh phố thị tấp
nập, đưa vợ con về Huế chỉ vì không chịu nổi nỗi nhớ sông Hương. Trong
mắt của ông, sông Hương như một thiếu nữ mang trên mình vẻ đẹp dịu
dàng pha chút hoang sơ, man dại của núi rừng, nhưng lại có lúc hiền hòa
như một thiếu nữ hiền thục. "Giúp tâm hồn thi sĩ, nghệ sĩ yên tĩnh, là bối
cảnh sống để suy nghĩ và viết về cuộc sống một cách sâu sắc nhất", ông
nói. Dòng sông không chỉ dân dã nồng hậu như thế, mà còn có những
khoảng lặng, như một chiều đến ngã ba sông, tôi bắt gặp hình ảnh người
mẹ vừa cho con bú vừa bán hàng trên chợ nổi giữa vùng sông nước mênh
mông. Lúc đó thấy cảm giác rưng rưng trong lòng, mà sau này những hình
tượng ấy đã là chất liệu, đã phảng phất trong nhiều bài ký khác của tôi",
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ lại. Chính ông còn cảm thấy số phận như
buộc chặt mình với những dòng sông như một loại duyên nợ. Thứ “lương
duyên không định mà tới” đó đã trở thành động lực sống và vươn lên của
ông trong những ngày tháng biến cố. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhẩm tính,
ông đã từng gặp hầu hết những dòng sông chảy trên đất mẹ Việt Nam. Từ
sông Hương, bước chân của ông đã đến đoạn sông Hồng chảy vào đất Việt
Nam, con sông Đà hoang sơ, sông Bến Hải, những ngọn suối góp nước
thành sông chảy dọc dãy Trường Sơn, rồi chín cửa sông dòng Cửu Long đổ
ra biển lớn... "Tôi nhớ những con sóng vỗ bờ, vỗ mạn thuyền những đêm
nằm thao thức. Đã xa rồi, đã lâu rồi không nghe lại tiếng sóng thân quen
ấy, nhưng dường như những tiếng sóng ấy đã tạo cho tôi ý chí vươn lên
trong cuộc sống", nhà văn tâm sự. Trong bài ký "Ai đã đặt tên cho dòng
sông", ở đoạn cuối tác giả đặt câu hỏi bâng quơ: "Ai đã đặt tên cho dòng
sông Hương? Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy, trong đó tôi thích nhất
một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con
178
người ở hai bên bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn
nước thơm tho mãi mãi...Với tất cả tình yêu gom góp suốt một đời như
vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng với danh xưng cao quý ấy.

Niềm thương nhớ những dòng sông đã tạo nên một cây bút Hoàng
Phủ Ngọc Tường, và có người nói: "Sông miệt mài chảy về biển lớn không
ngơi nghỉ và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng chính là một dòng sông, miệt
mài sáng tác không ngơi nghỉ để đóng góp cho đời những áng văn thơ
hay". Khép lại trang văn tự bao giờ mà lòng ta vẫn bồi hồi về Huế, về dòng
Hương xa xăm kia,có lẽ ta đã húp trọn chén tình, nguyện bỏ lại trái tim nơi đất
cố đô để rồi mai này đây, con sông ấy sẽ mãi là nàng thơ có hồn không hề vô tri
vô giác, không hề phai nhạt trước thời gian.

Đề bài: Cho hai đoạn trích sau:

“Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn
Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến
ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ
Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ
ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao
Vinh xưa cổ. Ðối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm
trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa
êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự
nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là
nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng
Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm
Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả:" Còn non- còn nước-
còn dài- còn về- còn nhớ.. "Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương
thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở."

(Trích: Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường)

179
"Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói núi Mèo đốt nương xuân”

(Trích: Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân)

Nhận xét về nét độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong cách tiếp cận
dòng sông. Liên hệ với đoạn văn viết về vẻ đẹp sông Đà trong đoạn trích
trên.

Bài làm

“Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm, là sự tự trao gửi và
gửi gắm tâm tư.”, đó là lời bình của giáo sư Lê Ngọc Trà dành cho nghiệp văn
chương ông hằng yêu mến. Nghệ thuật đã song hành cùng trái tim của loài
người hàng thiên niên kỉ, như một phương tiện đắc lực giúp con người bày tỏ
nỗi niềm và đi sâu vào thế giới nội tâm chứa đựng cả một bầu trời xúc cảm. Tôi
chợt nhớ đến hai “thợ chữ” lão làng của văn học Việt Nam, đó là Nguyễn Tuân
và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng hai tác phẩm gắn liền với tên tuổi: “Người lái
đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Cũng là những con sông quê
hương nhưng cách tiếp cận của mỗi tác giả lại khác nhau, chính điều đó lại làm
nổi bật tình yêu nồng nàn chắt chiu trong từng con chữ, điều đó được thể hiện rõ
trong đoạn trích trên.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có sự gắn bó sâu sắc với Huế từ
khi sinh ra cho đến hết cuộc đời của mình, đó là nền tảng cơ sở để hình thành
nên tình yêu, là cơ sở để tác giả có những nghiên cứu thật tường tận về văn hóa,
lịch sử và địa lý của xứ Huế. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc,
thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế. Khi
rời khỏi thành phố Huế, sông Hương vẫn còn chưa muốn rời hẳn, vẫn lưu luyến
lắm, tựa như một người tình chung thủy chẳng muốn chia xa. Thế nên nó mới
"đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở
góc thị trấn Bao vinh xưa cổ", nhà văn đã nhân cách hóa nó lên, gọi đấy là nỗi
vương vấn, "một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu". Vẻ đẹp lịch sử của Huế là
điều không có gì phải bàn cãi, suốt mấy trăm năm lịch sử cố đô, chứng kiến sự
thăng trầm hưng thịnh của triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của lịch sử phong
180
kiến Việt Nam, "vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân". Bao nhiêu sự kiện,
bao nhiêu biến cố, bao nhiêu đổi thay sông Hương đều âm thầm ghi nhớ, âm
thầm cất giấu vào tận đáy lòng, tựa một nhà sử gia kín miệng. Thế nhưng dẫu có
trải qua mấy ngàn năm, lịch sử gắn bó với Huế, với độ tuổi tưởng như già nua,
nhưng tâm hồn của dòng Hương giang chưa bao giờ úa tàn. Nó vẫn luôn vậy,
như có thuốc trường sinh bất lão, vẫn mang một tâm hồn cá tính, một dáng vẻ
yêu kiều của cô gái đang tuổi đôi mươi, chưa khi nào hết khao khát và tìm kiếm
tình yêu đích thực. Thử nghĩ mà xem, phải yêu Huế đắm say thế nào, gắn bó với
Hương giang đến mức nào mới có thể viết nên những trang đầy ắp tri thức và tài
hoa như vậy. Nhưng đây không phải bài kí đơn thuần mà là một trang nghệ thuật
thấm đẫm tình cảm. Có lẽ Hương giang cũng đã đáp ân tình được gửi trao bằng
cách vang lên từng hồi ngân rung tựa trái tim người thiếu nữ: khi thì băn khoăn,
trăn trở, e ngại, lúc thì dữ dội. Ê-ren-bua từng viết “dòng suối đổ vào sông, sông
lại đổ ra đại trường Von-ga, con sông Von-ga đổ ra biển. Cũng như vậy, lòng
yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”. Xét cho cùng
áng văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nên chính là để hướng về quê hương.
Trong lí luận văn học, hình tượng văn học được định nghĩa: “là những khách thể
đời sống được nhà văn tái hiện cụ thể, sinh động trong tác phẩm của mình. Bất
cứ vật gì, hiện tượng gì cũng có thể trở thành một hình tượng văn học”. Cho nên
sông Hương cũng là một hình tượng nghệ thuật như vậy. Với vị trí là hình tượng
trung tâm của Ai đã đặt tên cho dòng sông?, sông Hương đã được Hoàng Phủ
Ngọc Tường miêu tả như một sinh thể có hồn. Dòng sông ấy sinh động, đẹp đẽ,
và tỏa sáng trong tác phẩm ở ba góc độ: một dòng sông của tự nhiên, một dòng
sông của văn hoá và một dòng sông của lịch sử. Tất cả đã đem đến cho người
đọc những cảm nhận vừa quen thuộc gần gũi, vừa mới mẻ thiêng liêng về vẻ đẹp
của dòng sông này:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”

(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

181
Chất văn trong tác phẩm được Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ vô cùng kín đáo
và tinh tế. Ông không dùng hàng trăm mĩ từ ca ngợi hay thốt lên câu “yêu” vội
vàng, chóng vánh. Nhưng lạ thay, trong từng cung bậc, câu hò, câu ví ta lại bắt
gặp từng sợi thương nhớ đang dần bện vào nhau. Từ ấy, ngắm nhìn dòng Hương
những ta cũng soi được lòng mình và thấu hiểu người yêu Huế đắm say- Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Chính những kết hợp giữa trí tuệ và trữ tình đã giúp tác phẩm
trở thành nỗi vấn vương êm dịu nhất, nó đẹp đến nỗi nếu kẻ ra đi không ngoảnh
lại thì cũng bị sự bịn rịn níu chân, ngày ngày ngóng trông dòng Hương một lần
nữa chảy trôi qua cuộc đời mình.

Nguyễn Tuân là một tác giả có đóng góp xuất sắc ở cả hai giai đoạn: trước
và sau Cách mạng tháng 8. Ông là một nghệ sĩ tài hoa uyên bác, có cá tính sáng
tạo độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân thường khám
phá thế giới tự nhiên ở phương diện thẩm mỹ, thường miêu tả con người ở vẻ
đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Và nhắc tên Nguyễn Tuân là nhắc đến tập tùy bút “Sông
Ðà”, viết từ 1958 đến 1960, là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong sáng tác
của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một dòng thác
lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính,
hệt con sông Ðà “hung bạo và trữ tình”, chảy băng băng qua vùng Tây Bắc hùng
vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Ðọc “Sông Ðà”, thấy trữ lượng cái Ðẹp – chất
“vàng mười” của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới – quả là
nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toang
ra cho cái Ðẹp ùa vào : “Ðời sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lòng tin tưởng
không bờ bến, tin mình tin người, mấy chục dân tộc miền cao và đồng bằng tin
cậy lẫn nhau, và nhất là tin chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao
mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này”. Nhà văn đã dành những
trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông
mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi
Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông
Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...

Để có thể vẽ nên hình ảnh con sông Đà từ trên cao nhìn xuống, Nguyễn
Tuân đã “bay tạt ngang sông Đà mấy lần”. Chính trải nghiệm quan sát con sông

182
ấy từ tàu bay lơ lửng giữa không trung, người nghệ sĩ tài hoa ấy mới có thêm
cho mình “một cách nhìn về con sông Đà hung bạo và trữ tình.” Từ trên tàu bay
mà nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài”
như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà
giang như kéo dài đến vô tận, trùng trùng điệp điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng
lẽ của núi rừng Tây Bắc. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người
đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp dịu dàng mà kiều diễm của sông Đà. Lúc này
đây, sông Đà hiện lên với dáng vẻ hệt như một giai nhân tuyệt sắc, nàng tiên nữ
ấy muôn phần kiêu sa khoác lên mình tấm áo choàng màu xanh bích ngọc cùng
mái tóc tuôn dài với đất trời trù phú. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí
ẩn và nét trữ tình vốn có của dòng sông. Sắc đẹp của sông Đà – sắc đẹp của một
người đàn bà làm chủ đất trời đầy man dại và diễm lệ ấy còn được tác giả nhấn
mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hình ảnh hoa
ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc
như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ
màng như sương khói mùa xuân. Dường như, sông Đà luôn thoắt ẩn thoắt hiện
trong nhiều dáng vẻ khác nhau: có khi là nàng tiên nữ xinh đẹp dịu dàng, khi lại
là bà hoàng đất Tây Bắc với sự cuồn cuộn chảy trôi qua đời đời kiếp kiếp, có khi
sông Đà như một đóa hoa đang đợi ngày bừng nở,… Nhưng dù mang dáng vẻ
nào, Đà giang vẫn là một con sông rất đỗi trữ tình, đằm thắm, nên thơ.

Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ
đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà
như một "cố nhân". Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời
đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn
hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng
sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa
khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người
Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm
xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính
dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn
thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có
những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây
183
dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà. Với
Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình
ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng,
những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững
vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn
nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào
con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân
thật đáng trân trọng.

Cả hai dòng sông đều là những chứng nhân lịch sử xuôi dòng thời gian
cùng dân tộc, đều là những sinh thể vừa dữ dội vừa trữ tình.Với Người lái đò
sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy
bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm
ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư
tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu
đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân
tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân
trọng. Thì “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” lại là một bút kí đặc sắc, thể hiện
phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí
đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế. Dẫu nét trữ tình của
Đà giang mang đậm chất hoang dã nơi Tây Bắc hay nàng Hương với nụ cười
duyên khi gặp người tình Huế thì chúng đều bước vào trang văn thay cho tấm
lòng của người nghệ sĩ.

Thạch Lam từng nói lời “yêu” rằng: “Công việc của nhà văn là phát hiện
cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho
người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức.” Thế giới của kẻ làm văn sẽ không
bao chỉ được sinh ra một lần mà là nơi vạn vật được tái sinh ngay cả khi chỉ còn
le lói hơi tàn. Đứng trước thời gian sự vật, con người đều bình đẳng, thế nhưng
những áng văn thấm đẫm tâm huyết sẽ bao bọc khỏi sự băng hoại của tự nhiên,
khắc ghi vào trời xanh một tình yêu, một non sông, tổ quốc không bao giờ lụi
tàn.

184
TÂY TIẾN
(QUANG DŨNG)
Đề bài

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Em hãy phân tích đoạn thơ trên để làm rõ cảm xúc đầu bài và bức tranh thiên nhiên
Tây Bắc. Qua đó nhận xét ngòi bút lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng.

Bài làm

“Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu các vần thơ” (Jorge Luis
Borges). Với thế giới vật chất, thời gian mang một sức mạnh tàn phá lớn lao, nhưng
với thế giới tinh thần lại khác. Có lẽ vì thế mà những vần thơ trong bài Tây Tiến của
người nghệ sĩ Quang Dũng, dẫu đã trải qua muôn lớp phong bụi nhưng vẫn vẹn
nguyên chân giá trị. Nhà thơ đã khởi đi từ nỗi nhớ, cùng tái hiện sinh động bức tranh
thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy, vừa thơ mộng, trữ tình để rồi đưa người
đọc đắm chìm trong thế giới thơ ca kháng chiến đầy khốc liệt nhưng cũng đầy thơ
mộng, thông qua ngòi bút lãng mạn của mình: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!...Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

Lê Đạt từng khẳng định: “Mỗi công dân đều có một dạng vân tay, mỗi người
nghệ sĩ đều có một dạng vân chữ không trộn lẫn”. Thực thế, hồn thơ xứ Đoài Mây
Trắng đã có cho mình một dạng “vân chữ không trộn lẫn”, cũng là viết về người lính,
nhưng người lính trong thơ Quang Dũng vừa hội tụ cả hào hùng lẫn hào hoa, dưới
phong cách: tài hoa, lãng mạn, hồn hậu và phóng khoáng của nhà thơ. Bài thơ “Tây
Tiến” – trích từ “Mây đầu ô”, được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi Quang
Dũng đã chuyển về đơn vị khác và đang đằm mình trong kỉ niệm nhớ thương đơn vị
cũ – quân đoàn Tây Tiến. Đoạn thơ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…Đêm đêm Mường
Hịch cọp trêu người”, trích từ phần đầu của bài.
185
“Ôi con sông hiền hòa, dịu dàng an ủi lòng ta” (Chảy đi sông ơi) Dường
như những con sông đi vào thơ ca đều khoác lên mình những chiếc áo mang
màu sắc kỉ niệm, gợi nhớ, gợi thương. Với chủ thế trữ tình, ông đã chọn sông
Mã để cất lên: sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Dường như, hồn thơ lãng mạn ấy đã
xem sông Mã như người bạn, như cố nhân, như một chứng nhân lịch sử, thị kiến
biết bao nhiêu thăng trầm, biết bao nhiêu vui buồn sướng khổ của binh đoàn Tây
Tiến – nơi ông từng gắn bó. Ba chữ “Tây Tiến ơi!” vang lên, đi kèm dấu chấm
than càng củng cố cho tính chất da diết, nỗi thương nhớ khôn nguôi của nhà thơ
về đoàn binh Tây Tiến, một tiếng gọi xao xuyến của tâm hồn vang vọng mãi với
âm mở “ơi”, cùng cách ngắt nhịp 4/3 càng làm cho tiếng gọi ấy thêm tha thiết,
thêm bổi hổi, bồi hồi. Dường như cảm xúc tha thiết ấy không chịu đứng yên mà
cựa mình thoát ra khỏi giới hạn chật hẹp của ngôn từ mà trào tràn ra toàn bài
thơ. “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” Nỗi nhớ được cụ thể hóa thành nhớ “rừng,
nhớ “núi” với một nỗi nhớ “chơi vơi”. Điệp từ “nhớ” đi kèm với “chơi vơi”, lột
tả một nỗi nhớ khó nói nên lời, một nỗi nhớ không thể bám víu vào đâu để nguôi
đi được. Chỉ với hai câu thơ đầu, độc giả đã có thể nắm được mạch cảm xúc của
toàn bài thơ – nỗi nhớ về “Tây Tiến”.
Có lẽ qua những dòng thơ của nhà thơ Quang Dũng, bạn đọc lại thêm một lần được
nhìn thấy sự khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên nơi đây:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Chiều chiều oai linh thác gầm thét”

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ” (Chế Lan Viên) càng cho ta thấy thêm màn
“sương” ở nơi đây rất đặc trưng, sương giăng khắp lối. Nhưng khác với sương đầy trữ
tình trong thơ Chế Lan Viên, sương trong thơ Quang Dũng là “sương lấp” đầy rẫy
hiểm nguy, đe dọa đến cuộc sống người lính, làm trì trệ những bước chân sắt đá của
các anh. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, có lẽ, trong trí tưởng tượng của độc giả
sẽ thấy một cảnh tượng đầy hiểm trở với “núi cao rồi lại núi cao trập trùng”, điệp từ
“dốc”, với cách sử dụng toàn thanh trắc khiến cho độc giả cứ ngỡ như những tiếng thở
đầy mệt nhọc của những người lính Tây Tiến khi hành quân. Chưa dừng lại, những
con dốc còn “khúc khuỷu”, còn “thăm thẳm”, còn “ngàn thước lên cao ngàn thước
xuống”, những điệp từ, những tính từ liên tiếp được viết ra nhằm tái hiện một cảnh
186
tượng hùng vĩ nhưng cũng rất khắc nghiệt. Núi cao ngàn thước, hào sâu vạn trượng,
đường khúc khuỷu, ngoằn ngoèo, thách thức ý chí của đoàn binh Tây Tiến. Thời gian
vần xoay, cứ ngỡ như đến chiều, đến đêm, các anh sẽ được thiên nhiên ưu ái, nhưng
không, “chiều chiều oai linh thác gầm thét” ;“đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Thiên nhiên nơi đây không chỉ khắc nghiệt bởi sương lấp, bởi núi cao khúc khuỷu, hào
sâu thăm thẳm mà còn nguy hiểm, bí ẩn bởi thác và thú dữ. Dường như, “thác”, qua
phép nhân hóa, như một sinh thể có quyền năng, có linh thuật, gầm thét như muốn xua
đuổi những người mà nó nghĩ là “kẻ xâm lăng”. Đêm đêm, những con thú dữ nơi rừng
thiêng nước độc này cứ quấy phá, “trêu người”, nguy hiểm rình rập suốt cả đêm lẫn
ngày. Tất cả những điều ấy đều góp phần tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, nguy hiểm và bí ẩn
trong bức tranh thiên nhiên miền Tây mà Quang Dũng gửi gắm.

Bên cạnh vẻ đẹp hoang sơ, kì vĩ, khắc nghiệt ấy, mảnh đất miền Tây Bắc, dưới
lăng kính lãng mạn của hồn thơ xứ Đoài mây trắng, còn mang một đẹp trữ tình, thơ
mộng, mê đắm lòng người, với:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nói đến hoa là đề cập đến cái đẹp. Thuở trước, họa sĩ van Gohp đã vẽ nên tuyệt tác
“Hoa hướng dương’ làm giới mộ điệu chao đảo, nhưng có lẽ việc làm tạo được sức gợi
lớn như “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” hay “hoa về trong đêm hơi” thì nằm ngoài
khả năng của hội họa. Hình ảnh “hoa về”, một hình ảnh mới lạ, đầy chất thơ và mang
nhiều nét nghĩa. Có thể hiểu, “hoa” ở đây là những “đuốc hoa” sáng rực, được các
chiến sĩ cầm trên tay, hành quân theo hàng về nơi nghỉ chân, trong đêm tối, tạo nên
hiệu ứng ánh sáng bắt mắt, hàng ngàn “đuốc hoa” nối gót nhau như tạo thành một
dòng sông ánh sáng, chiếm trọn ánh nhìn đắm say của những ai chứng kiến cảnh tượng
đó. Tiếp đến, sau những chặng đường hành quân gian nan vất vả, vượt trùng trùng lớp
lớp núi cao, người lính giờ đây đứng trên đỉnh Pha Luông, phóng tầm mắt của mình ra
xa để chiêm ngắm và tận hưởng những khoảnh khắc “ngôi-sao-sáng-giữa-bầu-trời-
đêm” này: những ngôi nhà nhỏ, thưa thớt thấp thoáng trong cơn mưa. Có lẽ, phải
những ai đã từng trải nghiệm khoảnh khắc ấy thì mới thấm thía giá trị chữa lành của
nó, rất bình yên, và cảm giác như bản thân sẽ được nạp lại năng lượng, và phải chăng,
đây là cách thế để các chiến sĩ anh dũng Tây Tiến giải tỏa những mệt mỏi sau ngày
hành quân? Trái ngược hoàn toàn với cách gieo thanh trắc ở câu “Dốc lên khúc khuỷu
dốc thăm thẳm” ở câu này, Quang Dũng đã dùng thanh bằng để dệt cho câu thơ tấm áo
của sự nhẹ nhàng, yên bình, đầy trữ tình và thi vị.

187
Leonit Leonop đưa ra quan niệm: “Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là
sự sáng tạo về hình thức và khám phá về nội dung”. Bằng sự tài hoa, lãng mạn trong
phong cách của mình, bằng cách vận dụng điêu luyện nhiều thủ pháp nghệ thuật: nhân
hóa, ẩn dụ, liên tưởng, các phép điệp cùng hệ thống ngôn từ độc đáo, hình ảnh giàu
sức gợi, hồn thơ Quang Dũng đã thành công khảm vào bạn đọc một bức tranh thiên
nhiên vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, làm độc giả thêm yêu hơn thiên nhiên nước mình,
cùng tự hào và ý thức gìn giữ những vẻ đẹp ấy.

Nhà văn Nguyễn Đăng Điệp từng nói: “Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây
Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Quả thật, trong Tây Tiến, tính chất
lãng mạn trong phong cách của nhà thơ Quang Dũng được thể hiện rất rõ nét, tính chất
ấy ở trong bài thơ khắng khít đến độ, nếu tách rời sẽ chẳng còn “Tây Tiến” nữa! Ngòi
bút trữ tình lãng mạn của Quang Dũng được thể hiện trước hết qua cách xây dựng hình
tượng. Mặc dù trong gian khổ, trong bão táp khói lửa của chiến tranh vệ quốc, ông vẫn
phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp đến nao lòng của thiên nhiên: “hoa về trong đêm
hơi”; “nhà ai Pha Luông mưa sa khơi”; ngòi bút lãng mạn của nhà thơ còn khơi sâu
vào trong trái tim của những người lính để từ đó, sự hóm hỉnh, ngộ nghĩnh, cái ngạo
nghễ, lạc quan cần có để đối diện và vượt qua những khó khăn gian truân vất vả. Ngòi
bút lãng mạn của nhà thơ xứ Đoài mây trắng còn được thể hiện qua cách sử dụng
nhuần nhị, sáng tạo các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ,...giúp tái hiện đối tượng cách
rất sinh động, cuốn hút.

Với những gì Quang Dũng đem đến cho độc giả: một nỗi nhớ chơi vơi, da diết;
một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội vừa lãng mạn, thắm tình, đoạn thơ và
bài thơ “Tây Tiến” xứng đáng tỏa sáng trên nền trời văn học Việt Nam. Qua đó, mỗi
độc giả cũng ý thức được vai trò của mình trong quá trình tiếp nhận văn học, cần biết
tìm kiếm dụng ý nghệ thuật của tác giả, phát hiện những thông điệp tác giả gửi gắm và
góp phần mình vào quá trình đồng sáng tạo để tác phẩm mãi còn xanh với thời gian.

Đề bài: Cảm nhận hình tượng người lính Tây Tiến quan 8 câu thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

188
Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Bài làm

Thơ ca là tiếng nói tình cảm được cất lên từ những tâm hồn giao cảm với
đời. Phải chăng, Quang Dũng là một trong những sứ giả của miền đất thơ ca?
Quang Dũng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt
Nam trong những năm tháng kháng chiến. Ông được biết đến là một người nghệ
sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc,... nhưng nổi bật hơn cả là tài làm
thơ. Vì vậy, người đọc nhớ đến ông qua bài thơ “Tây Tiến”, đọc bài thơ, ta phải
kể đến bốn câu thơ khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến hào hùng và
hào hoa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Quang Dũng nổi tiếng từ độ hoa niên, ông đã không ngừng viết lách, cống hiến
cho đời những bài thơ sâu sắc, từ đó ông đã tạo nên một phong cách: hồn hậu,
phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa, tinh tế. Trước hết, binh đoàn Tây Tiến được
thành lập ngày 27 tháng 2 năm 1947, với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để
bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân Pháp vùng Thượng Lào
và miên Tây Bắc Bộ Việt Nam. Không chỉ vậy, địa bàn hoạt động vô cùng rộng
lớn, hiểm trở mà lực lượng của binh đoàn là học sinh, sinh viên, trí thức trẻ Hà
Thành. Tác giả Quang Dũng là đại đội trưởng của đoàn quân, cuối 1948 ông
189
nhận lệnh chuyển đơn vị công tác. Và trong ngày mưa ở Phù Lưu Chanh, Quang
Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến” nhưng sau này đổi tên thành “Tây Tiến”
và in trong tập “Mây đầu ô” (1957). Đoạn trích bốn câu là những ấn tượng về
bức chân dung người lính Tây Tiến.

Vẻ đẹp về ngoại hình của người lính Tây Tiến được khắc họa thật rõ nét
qua hai câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đó là vẻ đẹp của sự ngang tàng, khí phách của những chiến binh. Trước hết, tác
giả đã làm cho người đọc ấn tượng với hình ảnh của đoàn binh “không mọc
tóc”. Liệu rằng, đó có phải là một đoàn binh ốm yếu, tiều tụy chăng? Có lẽ, các
anh “không mọc tóc” để thuận lợi cho việc đánh cận chiến kẻ địch, hòa nhập vào
thiên nhiên Tây Bắc để giảm bớt bất tiện trong những ngày tháng hành quân?
Tuy nhiên, nếu hiểu một cách chân thực, thì đó chính là tác hại của căn bệnh
quái ác – sốt rét rừng. Nhưng, căn bệnh ấy dù có xảy ra cũng không làm nhụt chí
các anh, rõ ràng “tả lính ốm mà không thấy lính yếu” (Vũ Quần Phương). Bởi lẽ,
các chiến binh đã chuyển từ thế bị động sang thế chủ động, đồng thời đó là lí do
để Quang Dũng không viết “rụng tóc” mà là “không mọc tóc” – một nét nghĩa
phi thường làm tô đậm cảm hứng lãng mạn cho câu thơ. Từ đó nhà thơ đã nhấn
mạnh hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn ở chốn ma thiêng nước độc mà những
người lính đã trải qua. Và ở đây, chúng ta sẽ thấy được một sự đồng điều trong
việc khắc họa chân thực hoàn cảnh éo le của những người lính, trong bài thơ
“Lên Cấm sơn” của Thôi Hữu:

“Cuộc đời gió bụi pha xương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”

Tiếp theo, nhà thơ xứ Đoài đã vẽ thêm một nét đối lập trong ý thơ: “xanh màu
lá” và “dữ oai hùm”. Hình ảnh “xanh màu lá” có thể hiểu đó là màu áo lính hay
lá ngụy trang trên đường Tây Tiến. Hoặc đó chính là “khuôn mặt ngời lên màu
bệnh tật”, xanh xao, ốm yếu, tiều tụy. Thế nhưng, thi sĩ đã nhanh chóng khắc
190
họa hình ảnh đối lập là “dữ oai hùm”: sự dũng cảm, vượt lên trên khó khăn,
chiến thắng mọi gian truân vất vả. Hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” khiến chúng ta
liên tưởng tới hình ảnh “cọp trêu người” bởi nó đều thể hiện một niềm lạc quan,
ý chí kiên cường chiến thắng để làm chủ thiên nhiên tạo vật. Qua hai câu thơ, ta
đã thấy được sự trẻ trung, tràn đầy sức sống của những người lính Tây Tiến vì
thế, dù ngoại cảnh kham khổ, thiếu thốn có tác động thì các anh vẫn tự tin, quyết
chí vượt qua.

Không chỉ mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng; người lính Tây Tiến còn mang
trong mình sự trẻ trung, lãng mạn trong đời sống nội tâm:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đối với chúng ta, mắt là linh hồn của con người cũng như sự vật, ngay cả khi
con tàu hạ thủy thì người ta cũng điểm nhãn để nó bắt đầu một cuộc sống. Giống
như trong văn học, nghệ thuật điểm nhãn được sử dụng phổ biến để truyền thần
nhân vật. Và Quang Dũng đã miêu tả ánh mắt giận dữ của chiến binh Tây Tiến
để đặc tả khí phách và ý chí chiến đấu của các anh. Quang Dũng thật tài tình
trong cách sáng tạo ngôn từ với hình ảnh “mắt trừng” tức là mắt mở to, hướng
thẳng về phía trước. Đó không phải sự chủ quan khi mặt đối mặt kẻ thù, bởi lẽ
nhà thơ cũng như người lính khác muốn khẳng định ý chí chiến đấu và khát
vọng của những thanh niên thời loạn.

Các anh ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, sẵn sàng “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh” song trái tim họ vẫn nhớ về Hà Nội với “dáng kiều
thơm”. Đây vốn không phải điều hiếm gặp, cảm xúc con người tất thảy đều như
vậy. Thế nhưng, họ gác lại tình riêng, vì lẽ lớn – hòa bình độc lập! Cùng với đó,
thi nhân đã đưa đến “dáng kiều thơm” - hình ảnh ẩn dụ gợi ra vóc dáng và sắc
hương của những cô gái Hà Nội thanh lịch, xinh đẹp và nết na. Vũ Quần Phương
nhận xét: “Hai câu thơ như chứa đựng cả hai thế giới”. Đã có lúc, những dòng
thơ ý nghĩa, được đánh giá là nhãn tự của bài thơ lại bị cho rằng tiểu tư sản. Vì
thế, vị thế của bài thơ trôi nổi đến những năm tháng sau chiến tranh mới được
đưa về vị thế vốn có của nó. Mỗi thời điểm lại có những đánh giá khác nhau,
góc nhìn khác nhau ắt có quan điểm đối lập. Dòng chảy văn học trôi đi, người
đọc chính là người đồng sáng tạo và quyết định sự sống còn của tác phẩm! Trở

191
lại với hai câu thơ, với ý chí chiến đấu vì độc lập dân tộc, chúng ta đã không còn
xa lạ với những câu thơ gác tình riêng và việc chung:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

(Nguyễn Đình Thi)

Thế nhưng, những giây phút mơ mộng diễn ra chưa được bao lâu, thực tại đã
kéo chúng ta về sát với những đau khổ, mất mát:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” và “Áo bào thay chiếu anh về đất” đã
lột tả hiện thực trần trụi vừa đau đớn, xót xa nhưng vẫn giữ được tính trang
trọng, hào hùng của chí khí người lính cụ hồ đầy bất khuất. Sự hy sinh lớn lao
của các anh chiến sĩ được tái hiện rõ nét qua sự lạnh lẽo, cô đơn “rải rác”, nơi
“biên cương”- mảnh đất vùng ngoại biên ít ai lui tới. Đáng lẽ, cái lúc người ta ra
đi thì con cháu, họ hàng anh em tề tựu đông đủ, chí ít là cũng có người thắp
nhang cúng bái, nhưng các anh- những chiến sĩ đã ‘quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” chấp nhận hy sinh điều ấy, chấp nhận chết nơi viễn xứ, để đòi lại độc lập
cho núi sông. Tiếp nối hiện thực trần trụi đó, Quang Dũng còn sử dụng lối nói
giảm nói tránh, mặc dù đề cập đến hiện thực đầy đau đớn nhưng nhà thơ vẫn
muốn lưu giữ một chút trang trọng, nhiều chút hào hùng cho các anh qua hình
ảnh “áo bào”. Qua đó, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên như anh hùng hào kiệt
thuở xưa hăng hái ra đi đánh đuổi quân xâm lược. Nói như Chế Lan Viên: “Ai đi
biên giới cho lòng ta theo với” Dẫu mảnh đất vùng ngoại biên đầy hiểm nguy,
đầy thử thách, có khi phải đánh đổi cả mạng sống nhưng các anh chiến sĩ Tây
Tiến không sợ hãi, không chùn bước! Các anh nguyện dâng hiến cả tuổi xuân
xanh của mình để làm nên mùa xuân xanh cho đất nước, cho dân tộc. Các anh
“chẳng tiếc đời xanh”! Những tấm lòng bình thường nhưng đầy sự phi thường,
các anh hy sinh đời mình để củng cố cho nền hòa bình của núi sông. Tấm lòng
son sắt chung thủy của các anh với sự nghiệp giải phóng dân tộc đã được thiên
192
nhiên chứng giám: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm của một
chứng nhân lịch sử là minh chứng rõ ràng nhất cho tấm lòng thành của các chiến
sĩ Tây Tiến đối với non sông đất nước. Có lẽ, chính thiên nhiên, dẫu ít khi lên
tiếng nhưng vẫn không thể che dấu đi cảm xúc của mình khi chứng kiến những
hoàn cảnh bi hùng đến như thế. Một phép nhân hóa vừa hợp lí, vừa tài tình từ
bàn tay đầy tài hoa của nhà thơ Quang Dũng! Bằng tài năng của nhà thơ xứ Đoài
mây trắng, hình ảnh anh dũng, hào hùng của các chiến sĩ Tây Tiến sẽ mãi sống
trong lòng mỗi người chúng ta.

Nội dung và hình thức là hai yếu tố thống nhất với nhau. Một tác phẩm
thành công thì cần đạt được sự hài hòa giữa chúng bởi chúng luôn bổ trợ cho
nhau. Giống như Lêônít Lêônốp đã nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh
về hình thức và khám phá mới về nội dung.” Dù cùng đề tài thời chiến, thể thơ
thất ngôn nhưng đã có sự sáng tạo khác biệt để “Tây Tiến” thành công trong
lòng độc giả. Bằng những từ láy, các từ cảm thán và kết hợp với những từ ngữ
sáng tạo khiến cho câu thơ trở nên có nhiều liên tưởng thú vị. Cùng với đó là
thành công trong việc sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ. Thể thơ thất ngôn trường
thiên, nhịp thơ 4/3, giọng thơ thay đổi linh hoạt và sự tài tình trong sử dụng
thanh bằng, trắc. Từ đó, nhà thơ đã cho thấy sự hài hòa về hai khía cạnh hiện
thực và lãng mạn, từ đó hình ảnh binh đoàn Tây Tiến đầy lòng dũng cảm, hào
hùng trong kháng chiến và hào hoa trong cuộc sống đời thường được nhà thơ
Quang Dũng tái hiện thật đặc biệt.

Thời gian trôi qua, có những thứ sẽ bị mất đi nhưng bài thơ “Tây Tiến” sẽ
mãi là đứa con tinh thần của Quang Dũng và nằm trong trái tim bạn đọc về
những người lính hào hùng và hào hoa từ bề ngoài đến nội tâm. Bài thơ chính là
một viên kim cương lấp lánh trong bộ sưu tập của các tác phẩm thời kì kháng
chiến chống Pháp.

193
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................. 1

VỢ CHỒNG AP PHỦ (TÔ HOÀI) ............................................................................... 2

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN) ...................................................... 23

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (NGUYỄN MINH CHÂU) ...................................... 47

VỢ NHẶT (KIM LÂN) .............................................................................................. 66

VIỆT BẮC (TỐ HỮU) ................................................................................................ 66

ĐẤT NƯỚC (NGUYỄN KHOA ĐIỀM) ................................................................. 107

SÓNG (XUÂN QUỲNH) ......................................................................................... 133

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (HỒ CHÍ MÌNH).......................................................... 155

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG) ............. 167

TÂY TIẾN (QUANG DUNG) .................................................................................. 185

MỤC LỤC ................................................................................................................. 123

194

You might also like