Professional Documents
Culture Documents
Phun.
Nhúng.
Phun điện.
IV. Sơn:
Sơn gồm thành phần bay hơi và không bay hơi.
Những thành phần không bay hơi gồm:
Chất kết dính: Kẹo nhựa hay chất tạo màng.
Chất tạo màu: Các hạt màu không hòa tan.
Chất phụ gia: Chất xúc tác, chất chống Oxh, chất điền đầy và chất không gỉ.
Những thành phần bay hơi gồm:
Dung môi: Chất làm loãng hoặc các SP hoạt hóa.
1. Cấu tạo và chức năng của các thành phần không bay hơi và bay hơi:
Chất kết dính: Tạo nên lớp màng sơn sau khi sơn và sấy khô. Các chất tạo màu được kết
nối với nhau bằng keo nhựa và chất tạo màng đẩy nhanh quá trình tạo thành lớp sơn (Cải tiến
hiệu suất và chất lượng sơn).
Chất tạo màu (Bột màu): Tạo cho lớp sơn màu sắc bên ngoài theo ý muốn. Các hạt màu
ở thể rắn không hòa tan được trong sơn.
Chất phụ gia: Là chất thúc đẩy nhanh quá trình hóa cứng và làm khô. Bên cạnh đó, chất
chống Oxh giúp tránh việc tạo màng và tụ sơn cục bộ. Chật độn (Chất điền đầy) làm tăng độ
bóng và sự tạo màng của sơn. Chất chống gỉ giúp bảo vệ sơn.
Dung môi: Hòa tan thành phần rắn và nhớt của sơn để tạo nên độ nhớt cần thiết theo yêu
cầu của việc gia công. Chất hòa tan và sản phẩm hoạt hóa sẽ bay hơi khi gia công và trong quá
trình sấy khô lớp sơn.
Bột được phun lên phôi cần sơn ở trạng thái nguội hoặc nóng bằng súng phun sơn. Bột
sơn bám ở phôi nguội qua tĩnh điện còn ở phôi nóng qua sự nóng chảy. Cuối cùng ta tạo được
mảng sơn cần sơn lên phôi.
Qua việc sấy nóng trong buồng sấy, bột chảy ra và những đa phân tử của chất kết nối sẽ
tạo thành lưới (Đa trùng cộng). Trong quá trình làm nguội sẽ sinh ra 1 lớp sơn tới 120 m kín,
bền với va chạm và chịu được hóa chất.
Ưu điểm của phương pháp sơn này là không thải dung môi gây ô nhiễm. Không bị thất
thoát do phun vì bột không bám (Bột thừa) có thể được đưa vào quá trình sản xuất trở lại.