You are on page 1of 196

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NĂNG

KHOA NGỮ VĂN


_________________________________

BÀI GIẢNG

THỰC HÀNH VĂN BẢN TIẾNG VIỆT


[TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH]

Biên soạn: PGS.TS. Trần Văn Sáng

10/ 2015

1
TÀI LIỆU HỌC TẬP DÀNH CHO SINH VIÊN
1. Diệp Quang Ban, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt (văn bản-mạch lạc-liên
kết-đoạn văn), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
2. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lan, Câu sai và câu mơ hồ, Nxb Giáo dục,
1991.
3. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng Việt thực hành, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1998.
4. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1998.
5. Đặng Ngọc Lệ, Nguyễn Kiên Trường, Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục,
1998.
6. Đinh Trong Lạc, Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, 1994.
7. Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2002.
8. Cao Xuân Hạo, Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, Nxb KHXH, 2003.
9. I.R.Galperin, Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học,
Nxb KHXH, 1987.
10. Hồ Lê, Lỗi từ vựng và cách khắc phục, Nxb KHXH, 2003.
11. Lê Trung Hoa, Lỗi chính tả và cách khắc phục, Nxb KHXH, 2003.
12. Hoàng Phê, Chính tả tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học
Viện ngôn ngữ, 2005.
13. Phan Thiều, Rèn luyện ngôn ngữ, 2 tập, Nxb Giáo dục, 1999.

2
chương 1

giao tiếp và văn bản

I. giao tiếp
1. Khái niệm giao tiếp
Nói một cách khái quát nhất, giao tiếp “là sự thông báo hay truyền đạt thông
báo nhờ một hệ thống mã nào đó ” (Nguyễn Như ý, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn
ngữ học, Nxb Giáo dục, 1997.). Như vậy:
- Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc giữa con người với con người trong xã hội, ở
đó diễn ra sự trao đổi thông tin, sự trao đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm và sự bày tỏ
mối quan hệ, sự ứng xử, thái độ của con người đối với con người và đối với những vấn
đề cần giao tiếp.
- Con người và xã hội loài người không thể không có hoạt động giao tiếp. Nhờ
có giao tiếp mà hình thành con người và xã hội loài người. Cũng nhờ có giao tiếp mà
mỗi con người được trưởng thành để có được những đặc trưng xã hội, còn xã hội loài
người nhờ có giao tiếp mà hình thành, tồn tại và phát triển.
- Hoạt động giao tiếp có ngay từ khi có con người và xã hội loài người. Đồng
thời cùng với sự phát triển mọi mặt của xã hội loài người thì hoạt động giao tiếp của
con người cũng ngày một phong phú, với nhiều cách thức và phượng tiện đa dạng, với
hiệu quả giao tiếp ngày một cao hơn.
2. Các phương tiện giao tiếp
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và xã hội
loài người. Ngay từ khi có con người và xã hội loài người, ngôn ngữ đã được dùng làm
phương tiện giao tiếp ở mọi nghề nghiệp, mọi lứa tuổi, mọi lĩnh vực hoạt động với mọi
nội dung nhận thức, tư tưởng, tình cảm. Khi có chữ viết, ngôn ngữ viết lại còn giúp
cho con người thực hiện được sự giao tiếp ở những khoảng không gian rộng lớn và
cách biệt, và giao tiếp giữa các thế hệ đã qua với các thế hệ đang và sẽ tồn tại (qua các
văn bản lưu trữ được).
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất chứ không phải duy nhất.
Ngoài ngôn ngữ, con người còn giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện khác như
cử chỉ, hành động, ánh mắt, điệu bộ, các ký hiệu và dấu hiệu, tiếp xúc.

3
Tuy nhiên, so với ngôn ngữ thành tiếng, ngôn ngữ cử chỉ thật nghèo nàn và hạn
chế. Đó chỉ là một số rất ít những động tác giản đơn như lắc đầu, nhún vui, gật đầu,
vẩy tay... Các cử chỉ này, xét về mặt biểu đạt ý nghĩa, không phải lúc nào giữa người
phát và người nhận thống nhất trong cách hiểu.
Các tín hiệu giao thông, ký hiệu toán học,... thì chỉ được áp dụng trong một
phạm vi hạn chế. Bản thân những ký hiệu này muốn hiểu được cũng phải dùng ngôn
ngữ để giải thích. Nó chỉ là những phương tiện tiếp phụ, bổ sung cho ngôn ngữ.
Âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc có những khả năng rất lớn nhưng nó vẫn bị hạn
chế và có tính chất phiến diện so với ngôn ngữ. Chúng chỉ có khả năng khêu gợi,
không có khả năng truyền đạt khái niệm, tư tưởng, khái niệm.
3. Các nhân tố giao tiếp
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn luôn diễn ra theo hai quá trình: quá
trình phát và quá trình nhận. Quá trình phát là quá trình người nói (hay người viết)
sản sinh hay tạo lập các ngôn bản (sản phẩm ngôn ngữ) nhờ các yếu tố của hệ thống
ngôn ngữ. Còn quá trình nhận là quá trình người nghe (hay người đọc) tiếp nhận và
lĩnh hội được các ngôn bản với những nội dung giao tiếp nhất định. Hai quá trình này
luôn luôn có quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Mỗi con người muốn tham dự được
vào hoạt động giao tiếp bình thường bằng ngôn ngữ phải có năng lực thực hiện được
cả hai quá trình này, nghĩa là phải hình thành và hoàn thiện được các năng lực nghe,
nói, đọc, viết, hiểu được một ngôn ngữ.
Hai quá trình của hoạt động giao tiếp luôn luôn chịu sự tác động của nhiều nhân
tố. Các nhân tố này tác động đến quá trình tạo lập, đến quá trình lĩnh hội và đến cả sản
phẩm của hoạt động giao tiếp – ngôn bản. Từ đó có thể trình bày bằng sơ đồ sau đây
các quá trình của hoạt động giao tiếp bằng văn bản với các nhân tố chi phối nó:
Mục đích giao tiếp
Nội dung giao tiếp

Người nói văn bản Người nghe


(viết) tạo lập lĩnh hội (đọc)

Cách thức giao tiếp

4
Hoàn cảnh giao tiếp
Sơ đồ này thể hiện sự tác động chi phối đến hoạt động giao tiếp và sản phẩm
giao tiếp bằng văn bản của các nhân tố giao tiếp: nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp,
hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, cách thức giao tiếp.
Tóm lại, giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động giao tiếp mà sản phẩm của nó là
văn bản. Hoạt động giao tiếp và văn bản luôn luôn chịu tác động chi phối của các nhân
tố giao tiếp. Chính vì thế, khi sử dụng ngôn ngữ vào giao tiếp, hoặc khi tạo lập văn
bản, người viết cần tính đến các nhân tố này, để cho văn bản thích hợp với các nhân tố
giao tiếp và đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất; còn khi lĩnh hội thì cần căn cứ vào
chúng để lĩnh hội được chính xác, thấu đáo.
Ii. văn bản
1. Khái niệm và những đặc trưng chính của văn bản
1.1. Khái niệm
Hiện nay, trong các sách nghiên cứu về ngôn ngữ học đang có nhiều quan niệm
khác nhau về văn bản. Giáo trình này thống nhất với quan niệm về văn bản của
I.R.Galperin :
“ Văn bản là kết quả của quá trình tạo lời, mang tính mục đích, tính hoàn
chỉnh, thường được khách quan hoá dưới dạng tài liệu viết theo một loại hình nhất
định, bao gồm các đơn vị và các kết cấu trên câu được liên kết bằng các phương tiện
liên kết ” (I.R.Galperin 1987- Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học,
Nxb KHXH, Hà Nội.)
Như vậy, Văn bản (VB) là phương tiện, cũng là sản phẩm giao tiếp ngôn ngữ ở
dạng viết, có những đặc trưng cơ bản:
- Có sự hoàn chỉnh tương đối về hình thức và nội dung; vừa thống nhất về cấu
trúc.
- Có tính liên kết chặt chẽ, tính chính xác, nhất quán, rành mạch.
- Có sự trau chuốt về ngôn ngữ; vừa độc lập về giao tiếp.
- Có mục tiêu thực dụng, đưa lại hiệu quả và tác động về nhận thức, hành động,
tình cảm và thẩm mĩ ở người đọc.
1.2. Khi tiếp nhận và tạo lập VB, cần chú ý đến các nhân tố giao tiếp, trả lời
các câu hỏi: ai viết, viết cho ai, viết cái gì và về cái gì, viết trong hoàn cảnh nào, nhằm
mục đích gì, ngôn ngữ được sử dụng là gì ?,v.v...

5
1.3. Có nhiều loại VB (phân chia theo phong cách - chức năng ngôn ngữ): VB
khoa học, VB nghị luận, VB hành chính - công vụ, VB báo chí, VB văn học - nghệ
thuật, v.v..
2. Cấu trúc tổng quát của một văn bản thông thường
2.1. Đầu đề (còn được gọi là nhan đề, tiêu đề ...) là vị trí mạnh, gây chú ý trước
tiên khi tiếp nhận và soạn thảo VB (đôi khi nó quyết định việc ta đọc / không đọc một
VB, ví dụ khi lật qua các trang báo). Đầu đề thường ngắn gọn, là ngữ danh từ, ngữ
động từ, ngữ tính từ... Trong một số VB (đặc biệt là VB hành chính - công vụ), đầu đề
được cấu tạo từ hai phần: danh từ chung chỉ tiểu loại VB (ví dụ: đơn, hợp đồng...) và
phần nội dung cơ bản của VB, ví dụ:
pháp lệnh...
Bảo hộ quyền lao động
Nội dung cơ bản và khái quát của VB (thông tin về đề tài, chủ đề chung trong
VB có nhiều chủ đề bộ phận, v.v.) được thể hiện ở đầu đề (nhất là trong VB khoa
học, nghị luận, báo chí, hành chính - công vụ). Do đó, phải rất chú ý cách trình bày
(phân đoạn, ngắt dòng, bố trí kiểu và co chữ để tạo sự khu biệt, lưu ý...), nhằm bảo
đảm tính chính xác về nội dung ngữ nghĩa và tính thẩm mĩ (sự cân đối, tính hài hoà,
v.v.).
đề tài của VB cho ta biết VB viết về vấn đề gì (nội dung hiện thực khách quan),
có thể được thể hiện ở tên của VB, tên các tiểu mục (tiêu đề) trong VB và hệ thống từ
ngữ chủ đề của VB đó, v.v. Xác định đề tài phải dựa trên kết quả khái quát những nội
dung này.
chủ đề của VB chính là ý đồ cụ thể, đích hướng tới của người viết liên quan
đến đề tài . Với những VB phức tạp, có thể có chủ đề chung và nhiều chủ đề bộ phận,
được nêu ra và giải quyết ở các vị trí khác nhau trong toàn bộ VB.
Cần phân tích đầu đề về cấu trúc cú pháp, tránh: ngắt dòng giữa những từ đa
tiết, hoặc thành ngữ, hoặc cụm từ cố định; hoặc không ngắt dòng khi cần thiết phải
ngắt dòng. Trong ví dụ dưới đây, cách trình bày (1) đã gây hiểu lầm ý đồ người viết
(bài báo nói về hai vấn đề), trong khi tác giả chỉ muốn nói đến hai nội dung của việc
giáo dục (2).

6
Cách trình bày 1 (gây hiểu lầm):
giáo dục ngôn ngữ và
giao tiếp ngôn ngữ ở trường phổ thông:
một phương án cho năm 2000
Cách trình bày 2 (như ý đồ người viết, tạo cách hiểu đúng):
giáo dục
ngôn ngữ và giao tiếp ngôn ngữ
ở trường phổ thông:
một phương án cho năm 2000
Xột mối quan hệ giữa tiờu đề với nội dung cơ bản của văn bản, cú hai loại tiờu
đề: tiờu đề mang tớnh dự bỏo và tiờu đề mang tớnh nghệ thuật.
Tiêu đề mang tớnh dự bỏo
Đây là loại tiêu đề phản ỏnh một phần hay toàn bộ nội dung cơ bản của văn bản. Qua
tiờu đề thuộc loại này, người đọc cú thể suy đoỏn trước đề tài hay/và chủ đề của văn
bản. Vớ dụ: Thằng Bờm (a), Cảnh rừng Việt Bắc (b), Mựa gặt ở làng tụi (c), Hoàng Lờ
nhất thống chớ (d), Lóo Hạc (e), Vợ nhặt (f), éiệp vụ Bodygard - nguyờn nhõn thất bại
của Hitler (g), Hoa hậu Malaisia bị tước danh hiệu (h) v.v...
Tiờu đề (a) đó phản ỏnh được một trong hai đề tài của văn bản. Tiờu đề (b)
phản ỏnh toàn bộ đề tài của bài thơ. Tiờu đề (c), (d), (e) cũng tương tự. Tiờu đề (f) liờn
quan chặt chẽ với chủ đề. Tiờu đề (g) và (h) vừa phản ỏnh đề tài, vừa gợi ra chủ đề của
văn bản.
Tiờu đề mang tớnh nghệ thuật
Loại tiờu đề này khụng gợi ra điều gỡ về đề tài và chủ đề của văn bản. Nú được
đặt ra nhằm mục đớch gõy ấn tượng, nghi binh nhằm đỏnh lạc hướng người đọc. Thậm
chớ, loại tiờu đề này cú thể trở thành phản tiờu đề. Chẳng hạn, cỏc tiờu đề như: Oẳn tà
roằn (tờn một truyện ngắn của Nguyễn Cụng Hoan), Bến khụng chồng (tờn một quyển
tiểu thuyết của Dương Hướng), Thõn phận tỡnh yờu (tờn một quyển tiểu thuyết của
Bảo Ninh) ... gõy ấn tượng rất mạnh đối với người đọc. Cũn cỏc tiờu đề như Bỏo hiếu:
trả nghĩa cha, Bỏo hiếu: trả nghĩa mẹ, Một tấm gương sỏng (tờn ba truyện ngắn của
Nguyễn Cụng Hoan) thỡ lại mang tớnh chất nghi binh nhằm đỏnh lạc hướng, tạo bất
ngờ đối với người đọc. Bởi vỡ, cỏc tiờu đề này đó dự bỏo trước chủ đề một cỏch giả
tạo, hoàn toàn trỏi ngược với chủ đề thật sự của truyện. Một tấm gương sỏng viết về

7
cuộc đời dõm đóng, đĩ thoó của Thị Bống, Bỏo hiếu: trả nghĩa cha và Bỏo hiếu: trả
nghĩa mẹ viết về hành vi ứng xử bất nhõn, bất nghĩa, bất hiếu của vợ chồng ụng chủ
Hóng ụ tụ Con Cọp đối với hai đấng sinh thành. Riờng cỏc tiờu đề như Vụ đề, Khụng
đề, bài khụng tờn... thỡ lại mang tớnh chất phản tiờu đề. Bởi vỡ đú chỉ là trũ chơi chữ!
Xột mối quan hệ giữa hai loại tiờu đề vừa nếu với cỏc phong cỏch ngụn ngữ
văn bản, chỳng ta thấy cỏc loại văn bản thuộc phong cỏch khoa học, hành chỏnh và
chớnh luận thường cú tiờu đề mang tớnh dự bỏo. Cũn cỏc loại văn bản thuộc phong
cỏch nghệ thuật thường cú tiờu đề mang tớnh chất nghệ thuật hơn là tớnh chất dự bỏo.
Về mặt ngụn từ biểu đạt, tiờu đề cú thể chia thành hai loại: tiờu đề biểu đạt
bằng từ, ngữ và tiờu đề biểu đạt bằng cõu thuộc đủ kiểu loại (cõu hoàn chỉnh và cõu
tỉnh lược, cõu trần thuật, cõu mệnh lệnh, cõu nghi vấn...). Cỏc tiờu đề như Nghốo (tờn
một truyện ngắn của Nam Cao), Khúi (tờn một truyện ngắn của Anh éức) là tiờu đề
bằng từ. Cỏc tiờu đề như Muối của rừng, Giấc mơ ụng lóo vườn chim, Vấn đề rượu ở
Nga, Cảnh rừng Việt Bắc, là tiờu đề bằng ngữ. Cỏc tiờu đề như Ta đi tới, Hóy nhớ lời
tụi!, Hoa hậu Malaysia bị tước danh hiệu, Sao lại thế này?... là tiờu đề bằng cõu.
Xột về mặt cấp độ, cú tiờu đề toàn thể và tiờu đề bộ phận. Tiờu đề toàn thể là
tiờu đề của cả văn bản. Tiờu đề bộ phận là tiờu đề của từng phần, chương, mục... trong
văn bản.
2.2. Mở đầu
Trong nhiều trường hợp, phần thứ nhất (mở đầu trong cấu trúc VB), không
được ghi thành tên gọi, hoặc được ghi mở đầu hoặc đặt vấn đề; v.v. tuỳ theo tính chất,
quy mô và dung lượng thông tin của VB. Phần này nêu những thông tin mang tính
tổng luận:
a). Vài nét khái quát về vấn đề sẽ trình bày, giới thiệu đối tượng, nội dung,
phạm vi bàn luận.
b). Chủ đề chung và chủ đề bộ phận của VB (thường có trong câu luận đề).
c). Phương pháp, phương hướng hoặc nguyên tắc trình bày, giải quyết vấn đề
(thường gặp trong VB khoa học, nghị luận).
câu luận đề thường có cấu trúc ở dạng đầy đủ, có nhiều bổ ngữ; hoặc là câu
ghép; có chức năng truyền tải thông tin về đối tượng và phạm vi bàn luận.
Câu luận đề có nội dung khái quát nhất nếu VB được mở đầu bằng phương
pháp quy nạp, hoặc có nội dung hẹp nhất, cụ thể nhất nếu VB được mở đầu theo

8
phương pháp diễn dịch. Câu luận đề thường ở cuối phần mở đầu. Do đó, muốn xác
định những nội dung cơ bản của VB (chủ đề chung và chủ đề bộ phận), có thể (và cần
phải) tìm ở vị trí này.
Tuy nhiên, trong nhiều loại VB, hoặc trong cùng một loại VB, có thể không có
câu luận đề (hoặc gọi một cách khác: câu luận đề “ẩn”); muốn xác định đối tượng, nội
dung, phạm vi trình bày... phải tìm ý chính ở các vị trí mạnh của VB và khái quát các ý
đó.
Dưới đây là hai ví dụ về câu luận đề:
“... Mục đích của bài viết này (“ Tìm hiểu sự bảo lưu tên Nôm làng xã dưới góc
độ ngôn ngữ và văn hóa” - NV) là góp thêm cứ liệu để tìm hiểu những điều kiện, nội
dung và cách thức bảo lưu tên Nôm làng xã trong sự bảo lưu văn hóa dân tộc nói
chung, dựa trên kết quả điều tra ở một số khu vực thuộc đồng bằng Bắc Bộ”.
(TC. Văn hóa dân gian, số 3 (47),1994, 50 - 51).
Chủ đề chung của VB: sự bảo lưu tên Nôm làng xã
Các chủ đề bộ phận: a). điều kiện bảo lưu
b). nội dung bảo lưu
c). cách thức bảo lưu tên Nôm làng xã
- Có lẽ trên thế giới hiếm có một đất nước nào vừa thật đa dạng mà cũng vừa
thật thống nhất như Inđônêxia. Sự đa dạng và thống nhất ấy được biểu hiện trên nhiều
yếu tố: từ địa hình, khí hậu tới thành phần dân tộc, từ đời sống con người tới lịch sử
văn hóa. (Ngô Văn Doanh)
Chủ đề chung: thống nhất trong sự đa dạng
Các chủ đề bộ phận: địa hình, khí hậu, thành phần dân tộc, đời sống, lịch sử,
văn hóa...
2.3. Giải quyết vấn đề (còn gọi: khai triển, phát triển)
Phần này phát triển các tư tưởng chủ yếu và triển khai nội dung VB: thông báo,
giải thích, bình luận... Có thể có nhiều đoạn văn (ĐV) mà độ dài ngắn còn tuỳ tính
phức tạp của nội dung được bàn luận. Các ĐV đó, trong nhiều trường hợp, có thể có
tiêu đề (tiểu mục, đề mục) được ghi chữ số (La Mã hoặc Arập) hoặc chữ cái... thể hiện
trình tự, liệt kê, và để khu biệt, tách bạch..., đặc biệt là thể hiện các cấp độ (lớn, nhỏ,
đẳng lập...) của các chủ đề bộ phận; thường thấy khi tạo lập hoặc tái tạo lại dàn ý, đề
cương VB. Khi một VB không có các dấu hiệu hình thức trên thì: muốn xác định các

9
chủ đề bộ phận và các ý chính của VB, trước hết ta xác định số lượng ĐV nhưng đồng
thời phải xem xét mối quan hệ giữa các ĐV đó (liên kết hình thức và nội dung), vì
nhiều khi không có sự rõ ràng trong phân đoạn (lỗi nhập đoạn, tách đoạn...). Có khi
phải nhiều ĐV mới tạo nên một ý lớn, trong đó, mỗi đoạn chỉ là một ý nhỏ (chỉ để giải
thích, chứng minh, nêu dẫn chứng, v.v...)
a). Các chủ đề bộ phận (chính là các luận điểm, các ý chính hay thành tố nội
dung, v.v...) đều nằm trong định hướng phục vụ chủ đề chung nhằm tạo ra tính nhất
thể (unity) của VB. Nói cách khác, chủ đề chung được duy trì, triển khai ở các chủ đề
bộ phận.
b). Việc sắp xếp và trình bày các luận điểm có thể theo các nguyên tắc, quan
hệ lôgích mang tính:
Khách quan:
- Quan hệ có tính chất nội tại giữa đối tượng và các thành tố cấu thành nên đối
tượng đó.
- Quan hệ có tính văn hóa giữa đối tượng với môi trường văn hóa tồn tại quanh
đối tượng.
- Quan hệ lôgích khách quan, tồn tại thực tế.
Chủ quan:
- Tuỳ thuộc nhận thức, đánh giá và cảm xúc của người viết về tầm quan trọng của
từng luận điểm, vấn đề.
2.4. Kết luận (còn gọi là kết thúc vấn đề)
- Tóm lược, tổng kết những vấn đề đã được trình bày trong phần giải quyết vấn
đề.
- Có thể có kết thúc văn bản theo nhiều cách khác nhau, nhưng về cơ bản có hai
cách chính:
+) Kết thúc khép: đó là cách kết thúc tóm tắt lại, hệ thống hoá lại những vấn đề
đã được trình bày trong phần triển khai của văn bản. Đa số văn bản dài dùng kết thúc
khép. Ví dụ:

10
Chất lượng nghệ thuật của tác phẩm Nam Cao không hoàn toàn đồng đều
nhưng nói chung bằng một tài năng lớn, Nam Cao đã có những đóng góp mới mẻ đối
với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam. Nghệ thuật tiểu thuyết Nam Cao có sắc thái
hiện đại rõ rệt và về nhiều mặt, đã đánh dấu bước phát triển mới của tiểu thuyết “quốc
ngữ” Việt Nam, mới phôi thai vài ba chục năm, đang hiện đại hoá với một tốc độ đặc
biệt mau lẹ.
( Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Giáo dục.)
+) Kết thúc mở: đó là kết thúc theo kiểu dựa vào những điểm đã được trình bày
ở phần khai triển mà đưa ra những liên tưởng, những cảm nghĩ, những đề nghị ...
Thường các văn bản ngắn hay sử dụng kết thúc mở. Ví dụ;
Nguyễn Du có lẽ không từng viết kịch hay đóng kịch nhưng rõ ràng Nguyễn Du
rất biết “nhập vai”, Nguyễn Du từng hoà với Kiều làm một và hoà làm một đến một
mức rất sâu. Nhưng hoà làm một với Kiều mà vẫn là Nguyễn Du, người sáng tạo ra cả
thế giới Truyện Kiều, vẫn nhìn Kiều và nhìn mọi người trong truyện với cái nhìn của
Nguyễn Du. Cái khó trong nghệ thuật viết truyện cũng như trong nghệ thuật sân khấu,
phải chăng là ở chỗ này? Hoài Thanh)
iii. đoạn văn- đơn vị điển hình, đơn vị cơ sở của văn bản
1. Khái niệm đoạn văn
- Đoạn văn vừa là sự phân đoạn về nội dung (có sự hoàn chỉnh nhất định về ý),
vừa là sự phân đoạn hình thức (bắt đầu từ chỗ lui vào đầu dòng, viết hoa chữ cái đầu
của câu đầu và kết thúc bằng dấu chấm câu).
- Đoạn văn là đơn vị cơ sở cấu thành nên văn bản, trực tiếp đứng trên câu, có
tác dụng phát triển chủ đề bộ phận theo hướng phục vụ việc triển khai chủ đề chung
của văn bản.
Trong định nghĩa vừa nờu, cần lưu ý mấy điểm:
Thứ nhất là về khỏi niệm tập hợp. Nếu đoạn văn là một tập hợp thỡ cõu chớnh
là phần tử. Do đú, về số lượng cõu, đoạn văn cú ba khả năng: đoạn văn gồm nhiều cõu,
tức là từ hai trở lờn (tập hợp nhiều phần tử), đoạn văn một cõu (tập hợp một phần tử)
và đoạn văn khụng cú cõu nào (tập hợp rỗng). éoạn văn nhiều cõu là hiện tượng phổ
biến trong văn bản. éoạn văn một cõu chỉ xuất hiện rải rỏc trong văn bản. éoạn văn
khụng cõu nào là trường hợp đặc biệt, chỉ xuất hiện ở cỏc bài văn tuyển. éú là những
đoạn văn đó bị lược bỏ, được bỏo hiệu bằng dấu chấm ngang dũng.

11
Thứ hai là tớnh liờn kết trong đoạn văn. Trong đoạn văn, tớnh liờn kết cũng
thể hiện ở cả hai bỡnh diện: liờn kết nội dung và liờn kết hỡnh thức như ở cấp độ văn
bản.
Thứ ba là sự hoàn chỉnh tương đối của đoạn văn. Một đoạn văn được xem là
hoàn chỉnh khi nội dung biểu đạt của nú mang tớnh tự nghĩa và xỏc định. éoạn văn chỉ
hoàn chỉnh tương đối khi nội dung biểu đạt của nú mang tớnh hợp nghĩa và/hay khụng
xỏc định.
Thứ tư là về khỏi niệm chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ nhất mà đoạn văn diễn
đạt. éiều này cú nghĩa là những chuỗi cõu dưới đoạn chỉ cú chức năng triển khai chủ
đề của đoạn; dưới đoạn khụng cũn chủ đề bộ phận ở cấp độ nhỏ hơn.
Xem xột cỏc đoạn văn sau đõy:
(a) Chị Sỏu như say sưa với cảnh vật thiờn nhiờn. Chị hỏt theo một con chim
đang hút. Chị rướn đụi tay bị cũng chụp một con bướm bay qua. Chỉ chẳng để ý gỡ
đến bọn lớnh trỏng với sỳng gươm tua tủa quanh mỡnh.
(b) Những người tự biết trời mưa khi vừa bị lựa ra khỏi hầm. Họ đún lấy giọt
mưa với nỗi sung sướng thầm lặng. Ngút một năm rồi, họ bị nhốt kớn. Sống với roi vọt
và búng tối, họ thốm ỏnh mặt trời, thốm mưa, thốm cỏ cõy. Họ khao khỏt mọi thứ tầm
thường nhất mà xưa nay thiờn nhiờn vẫn rộng lũng ban phỏt cho một người.
(c) Chị Dậu là một người phụ nữ cú nhan sắc, chị cú cỏi đẹp của cụ gỏi Cầu
Lim, éỡnh Cẫm như tỏc giả nhận xột. Nhưng tấm lũng của chị trăng trong như băng
tuyết. Chỉ vỡ suất sưu mấy đồng bạc, chị đó phải khổ sở, điờu đứng rất nhiều, nhưng
chị đó khinh bỉ nộm nắm bạc vào mặt tờn quan phủ dõm ụ. Hai lần bị cưỡng hiếp, hai
lần chị đó cương quyết chống lại và thoỏt ra được. éạo đức của chị, lũng kiờn trinh
của chị, tiền tài khụng làm hoen ố được, sức mạnh và uy vũ của bọn thống trị khụng
lung lạc được.
éoạn văn (a) cú chủ đề: trạng thỏi say sưa với cảnh vật thiờn nhiờn (của chị
Sỏu). Chủ đề này được nờu trong cõu thứ nhất. Cỏc cõu cũn lại triển khai, làm sỏng tỏ
chủ đề đú. éoạn văn (b) cú chủ đề là trạng thỏi khao khỏt thiờn nhiờn (của những
người tự). Chủ đề được nờu ở cõu cuối, và là kết quả của sự khỏi quỏt dựa trờn những
sự việc được nờu trong cõu thứ hai, thứ ba và thứ tư. éoạn văn (c) cú chủ đề: phẩm
chất trắng trong (của chị Dậu). Chủ đề này được nờu lờn ở cõu thứ hai, được làm sỏng
tỏ qua cõu thứ ba, thứ tư và được khỏi quỏt lại ở cõu cuối.

12
2. Cấu trúc của đoạn văn (ở dạng đầy đủ, khái quát nhất).
Xét theo vị trí trong đoạn, có câu mở đoạn, các câu thân đoạn và câu kết đoạn.
Xét theo ý nghĩa và chức năng trong đoạn, có câu chủ đề (với ĐV có câu chủ
đề), các câu khai triển chủ đề và câu kết. Câu kết báo hiệu sự kết thúc ĐV, tóm lược
lại những ý chính vừa trình bày trong ĐV, gợi lên, dẫn sang những vấn đề tiếp theo
trong các ĐV sau; trước câu kết thường gặp các từ, ngữ: tóm lại, như vậy là, nói
chung, thành ra...
Trong nhiều trường hợp, có câu kết diễn giải chủ đề, hoặc tóm lược chủ đề,
chứa đựng ý chính của ĐV.
Câu chủ đề :
- Về nội dung, giới thiệu khái quát về đối tượng, chủ đề và nội dung hạn định
về chủ đề, ý chính của ĐV
- Về cấu tạo, có đầy đủ nòng cốt chủ - vị, có thể có nhiều bổ ngữ hoặc là một
câu ghép (hoặc câu phức). Cần tránh viết câu chủ đề quá khái quát hoặc quá chi tiết.
- Về vị trí, câu chủ đề có thể đứng đầu đoạn văn, đứng giữa đoạn văn hoặc đứng
cuối đoạn văn hoặc vừa ở đầu vừa ở cuối đoạn văn.
Một ví dụ về câu chủ đề: Ngôn ngữ tạo hình của từng tượng mồ cũng trở nên
sinh động và hiện thực hơn. (Ngô Văn Doanh) (Chủ đề: ngôn ngữ tạo hình; nội dung
hạn định chủ đề: trở nên sinh động và hiện thực hơn).
3. Tìm ý chính của đoạn văn, viết đoạn văn
Muốn tìm ý chính của ĐV, có hai cách, tuỳ theo từng loại ĐV:
a).Với ĐV không có câu chủ đề (chủ đề “ẩn”): ý bao trùm của ĐV được thể
hiện ở từng câu trong đoạn, là kết quả khái quát ý nghĩa của các câu đó. Ví dụ:
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết
những người yêu nước và thương nòi của chúng ta. Chúng tắm các cuộc khởi
nghĩa của ta trong bể máu. (Hồ Chí Minh). Chủ đề của đoạn văn trên là: Tội ác
của thực dân Pháp
b). Với ĐV có câu chủ đề (ở các vị trí khác nhau trong ĐV):
- Câu chủ đề ở đầu ĐV (trùng với câu mở đoạn):
Đặc điểm diễn đạt nổi bật của phong cách khẩu ngữ là tính tự nhiên, cảm
xúc, không phụ thuộc qui cách sách vở. Tính tự nhiên được hiểu là không được
chuẩn bị trước, không được gọt giũa như phong cách ngôn ngữ viết. Tính cảm xúc

13
được hiểu là mang thái độ đánh giá, tình cảm chủ quan của người nói trong lời phát
biểu. Tính không lệ thuộc vào qui cách sách vở được hiểu là không theo một mẫu diễn
đạt được qui định như trong phong cách ngôn ngữ viết.
- Câu chủ đề ở giữa ĐV (trùng với một trong các câu thân đoạn):
Sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán đã diễn ra ngót một nghìn năm dưới ách thống
trị của phong kiến Trung Hoa, trong khuôn khổ của một chính sách đồng hoá quyết
liệt và tàn bạo. Nhưng trong thời kỳ ấy, với sức sống tiềm tàng của nó, được sự
chăm lo, gìn giữ của nhân dân, tiếng Việt chẳng những không bị mai một mà trái
lại vẫn tồn tại và phát triển không ngừng. Về mặt ngữ âm, tiếng Việt thời ấy đã có
nhiều biến đổi trong hệ thống âm đầu và âm cuối, hệ thống thanh điệu xuất hiện. Về
mặt từ vựng, tiếng Việt càng giàu có hơn nhờ tiếp nhận và Việt hóa một bộ phận khá
lớn từ gốc Hán. Sự phát triển mới này khẳng định bản sắc của tiếng Việt, một bản sắc
bền vững, sẽ được duy trì suốt các giai đoạn sau.
- Câu chủ đề đặt ở cuối ĐV (trùng với câu kết đoạn).
Thú mỏ vịt ngày nay còn mang nhiều đặc điểm của loài bò sát. Ngoài ra, cấu
tạo hóa thạch của một nhóm bò sát sống ở đại trung sinh đã có một số đặc điểm của
giống thú: Có răng mọc trong lỗ chân răng ở xương hàm... Vì vậy, bò sát cổ hẳn phải
là tổ tiên của loài thú.
- Câu chủ đề vừa ở đầu, vừa ở cuối ĐV (trùng với câu mở đoạn và câu kết
đoạn). Trong trường hợp này, còn được gọi là câu chủ đề kép. Câu đầu thường nêu
nhận xét chung, các câu tiếp theo triển khai nội dung nhận xét này, câu cuối nâng lên
thành kết luận của lập luận toàn ĐV:
Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp, đẹp như thế nào đó là điều rất khó nói.
Chúng ta không thể nói tiếng ta đẹp như thế nào, cũng như không thể nào phân tích
cái đẹp của ánh sáng của thiên nhiên. Nhưng đối với chúng ta, là người Việt Nam,
chúng ta cảm thấy và thưởng thức một cách tự nhiên cái đẹp của tiếng nước ta, tiếng
nói của quần chúng nhân dân trong ca dao và trong dân ca, lời văn của cac nhà văn
lớn. Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp, bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất
đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước tới nay là cao quí, là
vĩ đại, nghĩa là rất đẹp. (Phạm Văn Đồng)

14
4. Dựng đoạn văn, viết đoạn văn
4.1. Dựng đoạn văn, viết đoạn văn nói chung là hiện thực hóa cái đã đề ra
trong đề cương, nhằm khai triển một luận điểm, một ý (thành tố nội dung) và tạo ra
một chủ thể để cấu thành VB theo hướng triển khai chủ đề chung. Muốn vậy, phải vận
dụng các phương tiện (từ, ngữ, câu, cụm câu) và cách thức diễn đạt, liên kết câu. Công
việc này phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
a). Tính nhất thể (unity): Các ý nhỏ chỉ hướng về ý chính, xoay quanh chủ đề,
tránh rời rạc, lạc đề.
b). Tính mạch lạc (cohenency): Các câu trong ĐV phải liên kết với nhau về
hình thức và nội dung:
Liên kết nội dung là liên kết về chủ đề: chủ đề được duy trì và triển khai, được
sắp xếp theo những nguyên tắc nhất định, rõ ràng, lôgích.
Liên kết hình thức (sự thể hiện liên kết nội dung) được thể hiện ở:
- Liên kết quy chiếu: Đối tượng, vấn đề... được nêu ra ở câu này sẽ là điểm gốc
quy chiếu cho đối tượng, vấn đề đó ở các câu khác.
- Liên kết tỉnh lược: Có thể vắng chủ ngữ ở các câu tiếp theo nếu trước đó đã
nhắc đến chủ ngữ này, không được gây hiểu lầm sang chủ ngữ, đối tượng khác.
- Liên kết bằng liên từ (hay kết từ, kết ngữ), ví dụ: trái lại, tuy nhiên, nói một
cách khác...
- Liên kết theo trường từ vựng: Sử dụng các từ nằm trong trường liên tưởng từ
vựng nào đó, ví dụ: kinh doanh, tiếp thị, giá thành, lợi nhuận, khấu hao... đều nằm
trong phạm trù kinh tế hoặc kinh tế hàng hóa.
4.2. Thao tác viết ĐV:
a). Căn cứ vào đề cương, viết thành một đoạn văn cho mỗi luận điểm (mỗi
thành tố nội dung, mỗi ý lớn).
b). Lựa chọn hướng triển khai nội dung (trong đoạn), cách lập luận và đưa ra
kết luận của đoạn.
c). Viết ĐV có câu chủ đề “hiện” (ở các vị trí tuỳ chọn, như đã nêu trong phần
Tìm ý chính của ĐV).
d). Viết ĐV không có câu chủ đề (hay chủ đề “ẩn”): thường chỉ dùng với văn
miêu tả các sự việc, quá trình, hoặc khi viết tiểu kết, tổng kết. Cần sắp xếp thứ tự các
câu theo một trình tự hợp lý, dựa trên một tiêu chuẩn, sự “chung nhau” nào đó (lần lượt

15
viết các câu nêu rõ thuộc tính khác nhau của cùng một đối tượng, sự vật hoặc các đối
tượng, sự vật đồng loại). Thường dùng cách liên kết câu theo kiểu song hành (xem
thêm ví dụ đã nêu ở phần: tìm ý chính của đoạn văn, mục : đoạn văn không có câu
chủ đề).
4.3. Lỗi cần tránh khi dựng đoạn văn và liên kết các đoạn văn
- Lạc chủ đề, ví dụ: chủ đề là A nhưng lại diễn giải sang B (không hoặc ít ăn
nhập với chủ đề).
- Thiếu hụt chủ đề, ví dụ: trong đề cương dự kiến chủ đề A, chủ đề B nhưng
khi viết lại quên B...
- Lặp lại chủ đề, luẩn quẩn, ví dụ: nói A, B rồi lại nói B, A (tuy có hình thức
khác về ngôn từ, cách nói, cách diễn đạt), trong khi lẽ ra phải dứt điểm, tách đoạn... để
nói sang C, D... (nếu có).
- Mâu thuẫn về ý, ví dụ: đáng lẽ A=B thì lại diễn giải A> <B.
- Không đọc lại sau khi viết, để sửa chính tả, cách dùng từ và câu, không điều
chỉnh, bổ sung, sửa chữa, cân đối dung lượng thông tin, lý lẽ, dẫn chứng...trong mỗi
đoạn và trong các đoạn, v.v..
- Không mạch lạc do thiếu phương tiện liên kết, chuyển tiếp, móc xích... Ví dụ:
Nam Cao viết nhiều về người nông dân khốn khổ (A). Lão Hạc ăn bã chó tự tử để
tránh đói (B). Trong hai câu A và B thì A mang nội dung quá rộng, còn B lại quá hẹp,
quá cụ thể, gây hụt hẫng trong mạch văn do thiếu liên kết. Có thể thêm: ví dụ, ví như,
chẳng hạn như... vào giữa A và B.
Trong cách sắp xếp trình bày các luận điểm trong một vài ĐV, điều cần tránh là
sự phân đoạn bất hợp lý và thiếu vắng những kết cấu chuyển đoạn cần thiết. Các lỗi
phổ biến là tách đoạn và nhập đoạn tuỳ tiện. Mỗi ĐV là sự hoàn chỉnh tương đối về
nội dung và hình thức, vì vậy chúng có tính độc lập tương đối với các ĐV khác, tuy tất
cả đều nằm trong định hướng phục vụ, duy trì chủ đề chung. Do đó, khi tạo lập VB,
rất cần thiết phải tách đoạn các thành tố nội dung, có khi phải dùng các dấu hiệu hình
thức (dùng kí hiệu, xuống dòng) hoặc tạo sự nhận biết nhanh, sáng rõ, rành mạch...
cho người lĩnh hội văn bản. Ngược lại, cần tránh tách đoạn tuỳ tiện, ngẫu hứng, thiếu
cơ sở, không hợp lý, khiến cho người lĩnh hội bị phân tán, khó theo dõi, v.v... Cần chú
ý liên kết các ĐV với nhau để tạo tính hệ thống và liên kết chặt chẽ, sự liên kết này
được thể hiện trên hai phương tiện: nội dung và hình thức.

16
Ví dụ về liên kết nội dung: ĐV1 trình bày thực trạng, ĐV2 trình bày nguyên
nhân, ĐV3 nêu các biện pháp giải quyết... một vấn đề nào đó; giữa các đoạn có móc
xích, liên kết. Cần chú ý là sự liên kết nội dung có thể được thể hiện ở cuối một ĐV,
có khi là câu kết (vừa tóm lược ý chính của ĐV, vừa dẫn giải sang đoạn tiếp theo).
Ví dụ: ...Ngoài những bài thơ viết bằng chữ Hán, Hồ Chủ Tịch còn làm thơ
bằng tiếng Việt.
Ví dụ về liên kết hình thức: Mặt khác, nếu xem xét giải pháp này dưới góc độ
thẩm mĩ và triết học, ta không thể không thừa nhận rằng...
4.4. Các kết cấu chuyển đoạn thường gặp
a). Về nội dung , thể hiện các quan hệ trình tự (thoạt tiên, trước hết, tiếp theo,
sau nữa, rút cuộc...), tương đồng (ví dụ: ngoài ra, bên cạnh đó, hơn nữa, vả lại, mặt
khác, một mặt là...), tương phản (ví dụ: tuy vậy, trái lại, nhưng, thế nhưng, ngược
lại...), nhân quả (ví dụ: vì vậy, cho nên, lí do là...)
b). Về cấu tạo, có thể là từ, ngữ, kết cấu, câu hoặc vế câu (ví dụ: tuy nhiên, dù
sao, nhưng, vả lại, về phương diện này thì..., như chúng ta đều biết, nói một cách khác,
những điều vừa trình bày trên đây cho phép kết luận rằng...).
5. Lập luận trong văn bản và trong đoạn văn
- Lập luận: là đưa ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt người tiếp nhận đến một kết
luận nào đó mà người viết muốn đạt tới. Đó là cách thức sắp xếp, trình bày các luận
điểm, các vấn đề (xác lập và tổ chức các yếu tố cấu thành nội dung VB), luận chứng
là phép suy luận lôgích, đưa ra lí lẽ và dẫn chứng để giải thích, chứng minh, bình luận.
Lí lẽ và dẫn chứng, bằng chứng... được gọi là luận cứ, có thể bao gồm:
a). dẫn chứng thực tế;
b). số liệu thống kê;
c). trích dẫn luận điểm, ý kiến của người khác (trực tiếp, gián tiếp, tóm
lược, v.v...) để đưa ra kết luận trong lập luận.
- Các cách lập luận thường gặp
a). Quy nạp: Cách suy luận đi từ những hiện tượng, sự kiện riêng lẻ đến những
kết luận chung.
Ví dụ: Chúng ta đã quan sát hiện tượng một số chất cháy như lưu huỳnh, phốt
pho, cácbon... tác dụng với ôxi kèm theo sự toả nhiệt và phát sáng. Hiện tượng đó gọi
là sự cháy. Sự cháy là sự ôxi hóa có toả nhiệt và phát sáng.

17
b). Diễn dịch: Cách suy luận ngược với quy nạp, đi từ cái chung, cái khái quát
đến cái riêng, cái cụ thể; vận dụng nguyên lí chung để xem xét sự vật riêng biệt.
Ví dụ: Phàm bệnh gì cũng vậy, lúc mới phát ra, biết mà chữa ngay thì còn dễ,
chớ để lâu ngày thì tất khó hơn hoặc có khi nguy, không sao chữa được nữa. Suy
rộng ra, ta lại có thể lấy việc bệnh tật mà so với việc thân, việc nhà, việc nước, đại
khái đều như thế cả. Nghĩa là bất cứ việc gì, nếu đã gọi là hư hỏng thì phải biết sớm lo
ngay đi, hoặc còn chữa chạy được, chớ nếu để lâu ngày quá, đôi khi nước đã đến chân
thì dù có muốn cũng không sao kịp được nữa, vì để trễ quá rồi.
c). So sánh: Gồm so sánh tương đồng và so sánh tương phản.
- So sánh tương đồng là đi từ một chân lí đã biết, đã được công nhận để suy ra
một chân lí tương tự, có chung lôgích bên trong.
Ví dụ:
Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mĩ. Suy rộng ra,
câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra và bình đẳng; dân tộc
nào cũng có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. (Hồ Chí
Minh).
- So sánh tương phản là đối chiếu (đối sánh) các mặt, các phương diện, tính
chất đối chọi, trái ngược... hoặc đối lập để làm nổi bật điều mà người viết muốn hướng
tới.
Ví dụ:
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng viết:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn tự do, bình
đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn 80 năm
nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp
bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. (Hồ Chí
Minh).
d). Nhân quả: Cách suy luận nhờ vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể,
dự kiến những kết quả, hiện tượng xảy ra. Có thể trình bày theo trình tự kết quả -

18
nguyên nhân hoặc nguyên nhân - kết quả, hoặc trình bày hàng loạt sự việc theo quan
hệ nhân - quả liên hoàn. Ví dụ.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản
xuất thì phải có kỹ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải có văn hóa. Vì
vậy, công việc bổ túc văn hóa là cực kỳ quan trọng.
- Trong khi lập luận cần chú ý:
- Có thể phối hợp diễn dịch với quy nạp; hoặc sử dụng cách nêu phản đề (nêu ý
kiến phản bác một kết luận đã có rồi trình bày ý kiến của ngườiviết, nhằm gây chú ý
và tăng tính thuyết phục trên cơ sở đối sánh, phủ định...).
- Phải thể hiện được: tính chặt chẽ, sắc bén; sự mạch lạc của các luận điểm
(tránh lan man, “lạc đề”); tính hợp lí trong hệ thống lí lẽ; tính chính xác, đầy đủ, đáng
tin cậy, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và phù hợp của các luận cứ, dẫn chứng, v.v...
trong khi triễn khai luận điểm.
- Để làm rõ tính thuyết phục của lập luận, phải sắp xếp trình tự các câu theo tiến
trình lôgích.
- Kết luận phải rõ ràng.
- Luận cứ và kết luận (của lập luận) phải hợp nhau.

19
Chương 2

các loại văn bản tiếng việt

I. văn bản hành chính-công vụ


1. Khái niệm và chức năng
1.1. Khái nịêm
- VBHC- CV là loại văn bản điều hành, quản lý hoạt động xã hội, phục vụ giao
dịch giữa các cơ quan, tổ chức với nhau hoặc với các cá nhân, giữa các cá nhân trong
khuôn khổ pháp lý.
- VBHC-CV thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực hành
chính-công vụ. Đó là vai của nhà pháp luật, người quản lý, người làm đơn, người xin
thị thực, người làm biên bản, người ký hợp đồng...
- Văn bản hành chính - công vụ bao gồm các kiểu loại:
+ hiến pháp, luật, điều lệ, nội quy...
+ thông tư, chỉ thị, nghị quyết, nghị định, quyết định, công văn...
+ hợp đồng, biên bản, báo cáo, đơn từ, giấy tờ văn thư hành chính...
1.2. Chức năng
VBHC-CV bao gồm tất cả các loại giấy tờ của cá nhân, cơ quan Đảng và nhà
nước, và các tổ chức xã hội có giá trị pháp lý nhằm thực hiện chức năng thông báo và
chỉ đạo hành động. Hay nói cách khác, VBHC-CV nhằm thực hiện hai chức năng cơ
bản: chức năng giao tiếp lý trí (thông báo) và chức năng ý chí (sai khiến). Để thực hiện
các chức năng này, VBHC-CV phải mang một màu sắc phong cách đặc biệt: yêu cầu
phải thực hiện, bắt buộc phải thi hành điều đã được thông báo.
2. Đặc trưng cơ bản của VBHC-CV
2.1. Đặc trưng chung
a). Tính khuôn mẫu
Tính khuôn mẫu của VBHC-CV thể hiện trong thể thức, qui cách trình bày (cả
hình thức và nội dung). Có những văn bản in sẵn hoặc không in sẵn, nhưng đều có
công thức diễn đạt chung. Tính khuôn mẫu tạo điều kiện tự động hoá trong tiếp nhận
và xử lý văn bản.

20
b). Tính chính xác, tường minh
Tính chính xác, tường minh của CBHC-CV như một điều kiện bắt buộc, thể
hiện ở chỗ:
- Có tính logic, chặt chẽ, nhất quán.
- Mang tính đơn nghĩa, thể hiện trên các cấp độ: từ, ngữ, câu, kết cấu đoạn
văn và toàn văn bản.
- Ngắn gọn, đơn giản nhưng đủ thông tin cần thiết để giải quyết những mục
tiêu, nhiệm vụ, công việc, yêu cầu đã đề ra trong văn bản.
c). Tính khách quan-nghiêm túc
Tính khách quan - nghiêm túc của VBHC-CV thể hiện ở chỗ:
- Tính xác nhận, đánh giá, khẳng định, chi phối hành động.... trong nội dung
thông tin.
- Sự gắn liền với chuẩn mực pháp luật, nhấn mạnh tính mệnh lệnh, yêu cầu,
chỉ thị... cho đối tượng tiếp nhận văn bản.
- Tính đơn điệu, “lạnh lùng”, khô khan.
- Tính nghi thức (ví dụ: thường gặp Kính gửi, Kính chuyển, Theo đề nghị...,
Căn cứ vào..., Nay ban hành...).
- Sự tồn tại ngầm ẩn một quan hệ tôn ti, thứ bậc giữa các vai tạo lập và tiếp
nhận văn bản; do đó, chi phối cách xưng hô riêng trong từng vai và trong
từng loại văn bản.
2.2. Đặc trưng ngôn ngữ
a).Về từ, ngữ:
- Hệ thống thuật ngữ mang tính đơn nghĩa (một cách hiểu), thống nhất, được
tiêu chuẩn hoá và được sử dụng nhất quán có những thuật ngữ riêng trong từng
kiểu loại văn bản; bao gồm:
+ tên gọi tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (ví dụ: cục, vụ, viện,
trường, công ty, xí nghiệp...)
+ tên gọi chức vụ, chức trách... (ví dụ: giám đốc, hiệu trưởng, trưởng
phòng, vụ trưởng...)
- Có nhiều danh từ làm định ngữ và động từ được danh từ hoá (ví dụ: biện
pháp hành chính, sự điều động, việc triển khai kế hoạch...)
- Nhiều từ Hán - Việt, nhất là trong văn bản pháp lý.

21
- Không dùng từ địa phương, tiếng lóng, khẩu ngữ, các từ ngữ quá chuyên
sâu, v.v..
* Một số cụm từ và ngữ thường gặp trong VBHC-CV:
- Dùng để mở đầu văn bản: Thi hành quyết định số...; Căn cứ vào...; Theo đề
nghị trong đơn ngày..; Tiếp theo công văn (báo cáo, tờ trình..) ngày...
- Dùng để liên kết giữa các phần: Về vấn đề vừa nêu (vừa trình bày/ vừa đặt
ra...); Dưới đây là...; Để tiếp tục giải quyết (thực hiện)...; So với yêu cầu đã được đặt
ra...; Với những đề nghị/ yêu cầu/ kiến nghị vừa nêu...
- Dùng để nêu rõ phạm vi điều cần thảo luận, xem xét thêm: Xét về phương diện
X thì...; Trong tình hình X chúng tôi tạm thời giải quyết...; Trong tình hình X chúng tôi
đề nghị Y thực hiện trong thời gian là...; Với cương vị là....
- Dùng để kết thúc văn bản: Xin trân trọng cảm ơn ông/ đồng chí/ giám đốc/
quý công ti/ quý phòng ban...; Xin gửi tới quý công ty lời chào trân trọng..
b). Đặc trưng về câu:
- Mang tính chất rập khuôn, cứng nhắc, nghi thức; triệt tiêu mọi sắc thái cá
nhân trong cách dùng từ, ngữ và cách thức diễn đạt; ít hoặc không sử dụng các từ tình
thái, v.v..
- Có sự lặp lại từ ngữ (nhất là danh xưng) và cấu trúc câu để diễn đạt mạch lạc
và tránh mơ hồ về nội dung.
- Thường có trạng ngữ đi kèm dấu phẩy (,) ở đầu câu thứ nhất trong mỗi đoạn
văn để tách bạch các vấn đề và làm sáng rõ nội dung. ví dụ: Đối với các trường hợp...,
Trong tình hình hiện nay..., Về vấn đề trên..., Xét về phương diện...
- Thường có các câu đầy đủ các thành phần, các câu có ý nghĩa chủ động (có
thể dùng câu bị động khi không cần nêu rõ chủ thể hành động); các câu thường có kết
cấu thuận (dùng cấu trúc đảo trong những trường hợp nhấn mạnh thông tin cần thiết).
Có nhiều câu mang ý nghĩa tường thuật, cầu khiến.
- Hầu như không có câu nghi vấn, câu cảm thán, vì vậy, không hoặc rất ít khi
dùng dấu cảm (!), dấu hỏi (?), dấu lửng (...). lối nói phủ định và khẳng định có thể
được vận dụng linh hoạt. lời nói trực tiếp được dùng phổ biến hơn lời nói gián tiếp.
- Dùng nhiều câu ghép hoặc câu phức với các thành phần đồng chức được tách
bạch (từng dòng riêng), có thể có dấu gạch đầu dòng hoặc chữ “điều”, “khoản”, hoặc
chữ số (La Mã, Arập), hoặc chữ cái...

22
Ví dụ:
Giám đốc
- Căn cứ vào Nghị định 86 CP ngày....;
- Căn cứ vào Nghị định 52 Cp ngày...;
- Xét nhu cầu...;
- Theo đề nghị của Ông Vụ trưởng Vụ...;
Quyết định
Điều 1: Nay... (nội dung quyết. định)
Điều 2: .... (như trên, nếu còn).
Điều 3: (những người chịu trách nhiệm thi hành)
Điều 4: (hiệu lực văn bản: thời gian, không gian, có phủ định một số
quyết định trước đó hay không).
Toàn bộ nội dung trên đây được thể hiện chỉ trong một câu phức: từ Giám đốc
là thành phần chủ ngữ, từ Quyết định là thành phần vị ngữ. Toàn bộ phần có 4 gạch
đầu dòng là các thành phần đồng chức (được ngăn cách bằng dấu chấm phẩy) đều giữ
chức năng trạng ngữ. Toàn bộ Điều 1 đến Điều 4 là bổ ngữ
3. Một số mẫu văn bản hành chính thường gặp
1. nghị quyết hội nghị:
Tên cơ quan cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Số ......../ NQ Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
-------------------------------
Địa điểm, ngày... tháng... năm....
Nghị quyết
Của Hội nghị.......
Sau khi nghe báo cáo đánh giá công tác sáu tháng đầu năm 2006 (quí II năm
2006...) và chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2006 (qúi III năm 2006), hội nghị
đã thảo luận và đi đến nhất trí
Quyết nghị
1. Tán thành báo cáo công tác sáu tháng đầu năm 2006 của Ban giám đốc công
ty (nhà máy, xí nghiệp...) và nhất trí về chương trình hành động, chỉ tiêu công tác, biện
pháp tổ chức thực hiện các công tác trong 6 tháng cuối năm 2006 (Quí III, năm 2006)
được nêu trong báo cáo và phần đóng góp bổ sung của Hội nghị. Cụ thể là các công
tác và chỉ tiêu sau đây:
- ...........
2. Một số chủ trương và biện pháp thực hiện công tác và chỉ tiêu đề ra trong báo
cáo.
3. Tổ chức việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương và biện pháp đề ra.
TM. Đoàn chủ tịch
Chủ tịch hội nghị

23
2. Nghị quyết ban chấp hành
Nghị quyết ban chấp hành cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
(ban thường vụ) Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------------------------
Địa điểm, ngày... tháng.. năm...
nghị quyết
của
V/v.......
I. Tình hìnhd chung
-...........
- ưu điểm
- Khuyết điểm
II. Nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu và biện pháp thực hiện công tác ........ trong
thời gian từ ... đến.....
A. Nhiệm vụ và mục tiêu chung.
B. Nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể trong thời gian từ ... đến...
C. Một số biện pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đề ra.
III. Tổ chức thực hiện nghị quyết của Ban chấp hành (Ban thường vụ...)
TM. Ban chấp hành (ban thường vụ)
Chức vụ
(Ký tên, đóng dấu)
Họ và tên
Nơi nhận:
- ......................
- ......................
- Lưu văn phòng

3. quyết định thành lập tổ chức, đơn vị, v.v..


Bộ giáo dục và đào tạo cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Số 4180/ GD-ĐT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------------------
Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 1996
Quyết định
Của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Về việc thành lập Hội đồng môn Văn và tiếng Việt nhiệm kỳ 1996-2000
Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo
- Căn cứ Nghị định số 29/CP ngày 30 – 3- 1994 của Chính phủ về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- - Căn cứ Nghị định số 15 CP ngày 2-3-1993 của Chính phủ về nhiệm vụ và
quyền hạn, trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Quyết định
Điều 1: Thành lập Hội đồng bộ môn Văn và tiếng Việt nhiệm ký 1996-1999.

24
Hội đồng bộ môn Văn và tiếng Việt là tổ chức tư vấn, giúp Bộ trưởng trong việc
thẩm định chương trình, sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy; đóng góp ý hiến
cũng như phát hiện, đề xuất và kiến nghị với Bộ trưởng các vấn đề có liên quan đến
nội dung và phương pháp giảng dạy bộ môn Văn và tiếng Việt trong các trường phổ
thông.
Điều 2: Thành phần của Hội đồng bộ môn Văn và tiếng Việt gồm có:
....................
Điều 3: Các ông Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Tổ chức – Cán bộ, Vụ trưởng
Vụ Kế hoạch và Tài chính, thủ trưởng các đơn vị hữu quan và các ông, bà có tên trên
chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo
Gs. Trần hồng quân
Nơi nhận:
- Như điều 3.
- Lưu VP, TCCB, THPT

4. biên bản
Tên cơ quan cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Số ... TCCB/HC Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
-------------------------------
Địa điểm, ngày... tháng... năm....
Biên bản hội nghị
V/v: (Nội dung chính của hội nghị)
Phần I:
- Hội nghị khai mạc hồi... giờ, ngày... tháng.. năm 200...
- Tại (địa điểm)....
- Thành phần tham gia: ....
- Đại biểu cấp trên: ......
- Số đại biểu hội nghị:..
- Chủ toạ hội nghị (Chủ tịch đoàn)
- Thư ký hội nghị (Ban thư ký)
- Nội dung chương trình hội nghị:

25
Phần II: Tiến trình của hội nghị
1. Báo cáo tại Hội nghị (Ghi nội dung tóm tắt).
2. Những vấn đề thảo luận tại Hội nghị (do chủ tịch đoàn/ chủ toạ hội nghị đưa ra).
3. ý kiến phát biểu.
4. Các bản tham luận (nếu có).
5. ý kiến giải đáp của chủ tịch đoàn/ chủ toạ hội nghị và của (những) người báo cáo.
6. ý kiến đóng cho dự thảo nghị quyết (nếu có).
7. Kết quả bỏ phiếu thông qua nghị quyết (nếu hội nghị có tổ chức bỏ phiếu
thông qua nghị quyết).
Thư ký Chủ toạ Hội nghị (TM Chủ tịch đoàn)
5. đơn xin việc làm
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
-------------------------------
đơn xin việc làm
Kính gửi: Ông Giám đốc Công ti xuất nhập khẩu
- Tôi tên là: Nguyễn Thị Thanh Hoa, sinh năm 1963.
- Nghề nghiệp: Tốt nghiệp Đại học Dân lập Phú Xuân
(Chuyên ngành: Tài chính – Kế toán)
- Địa chỉ: Số ... Trần Hưng Đạo- TP Huế
Tôi làm đơn này để ông cứu xét cho tôi một nguyện vọng như sau:
Tôi vừa tố nghiệp loại giỏi chuyên ngành Tài chính-Kế toán Trường ĐHDL
Phú Xuân. Tôi muốn có việc làm để đem kiến thức đã học hỏi được ở nhà trường góp
phần nhỏ bé của mình cho sự phát triển của Quý công ti mà tôi hằng mong muốn.
Đồng thời qua thực tế công việc tôi có dịp rèn luyện nâng cao thêm kiến thức thực tiễn
của mình, mong trở thành người kế toán tài chính đa năng, tạo lập được cuộc sống
riêng và phụ giúp gia đình ba má khi tuổi già sức yếu.
Tôi xin hứa với ông rằng, nếu được ông cứu xét chấp nhận, tôi sẽ đem hết sức
mình phục vụ công ty một cách tận tuỵ và không phụ lòng tốt của quý ông.
Một lần nữa rất mong được Quý công ty chấp nhận.
Xin chân thành cảm ơn.
Người làm đơn
Kí tên
Nguyễn thị thanh hoa
6. hợp đồng kinh tế

26
Nhà xuất bản thuận hoá cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Số .....HĐ/XB Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------------------
Hợp đồng
tiêu thụ sách và sản phẩm
- Căn cứ vào điều 19 Luật xuất bản.
- Căn cứ vào điều 10 Nghị định 79 CP của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật xuất bản.
- Căn cứ Quyết định số 18/ HĐBT ngày 16 tháng 01 năm 1990 của Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Thông tư số 11/TT-PL hướng dẫn ký kết
và thực hiện hợp đồng kinh tế, ngày 25-02-1992 của Trọng tài Kinh tế Nhà
nước.
- Hôm nay, ngày... tháng... năm 200.. tại T.T. Huế.
BÊN A: Ông (Bà): .................... Chức vụ: ..............................
o Đại diện Nhà xuất bản Thuận Hoá.
o Tài khoản: 710 A.00127, tại: Ngân hàng Chính sách T.T Huế
o Địa chỉ: Số 5 Phan Bội Châu – Huế
o Điện thoại: 557090
BÊN B: Ông (bà)......................... Chức vụ...................................
o Đại diện..............................................
o Tài khoản ...........................................
o Địa chỉ ...............................................
o Điện thoại ..........................................
Hai bên cam kết làm hợp đồng với những điều khoản sau:
Điều 1: Bên A bán cho bên B số lượng sách và văn hoá phẩm gồm:
Stt Tên xuất bản phẩm Số lượng Phẩm chất, đơn giá phí phát hành Thành
qui cách tiền

Tổng cộng
Viết bằng chữ:.......................................................
Điều 2: Bên B đồng ý mua số lượng sách, văn hoá phẩm với đơn giá, phí phát hành
như điều 1.

27
Thời gian nhận hàng: ngày ........................... tại .......................................
Điều 3: Phương thức thanh toán: ............... Sau khi nhận sách bên B thanh toán số tiền
cho bên A là
.........................................................................................................................
Số tiền còn lại thanh toán sau ............................... tháng.
Hai bên cam kết thực hiện đúng điều khoản trong hợp đồng. Trong quá trình
thực hiện có gì trở ngại, vướng mắc thì cùng nhau bàn bạc giải quyết. Bên nào gây ra
thiệt hại phải bồi hoàn.
Hợp đồng chia làm hai bản, mỗi bên giữ một bản và có hiệu lực từ ngày ký.

Đại diện bên A Đại diện bên B

28
II. VĂN BảN KHOA HọC
1. Khái niệm và chức năng
Văn bản khoa học là những dùng trong lĩnh vực hoạt động khoa học, với chức
năng chủ yếu là thông tin - nhận thức, cung cấp những tri thức mới bằng các hình thức
giới thiệu, trình bày, nhận xét, đánh giá, lý giải những hiện tượng, những vấn đề,
những quy luật của tự nhiên và xã hội.
2. Phân loại văn bản khoa học:
VBKH thuộc phong cách khoa học, mang tính khuôn mẫu, giảm thiểu yếu tố cá
nhân. Các VBKH được phân loại theo 3 tính chất:
a). Chuyên sâu: các công trình khoa học, sách, báo, tạp chí chuyên ngành, luận
án, luận văn, tiểu luận, báo cáo, các chuyên đề, v.v...
b). Giáo khoa: các giáo trình, bài giảng, các sách công cụ trong nhà trường (dạy
học và thực nghiệm).
c). Phổ cập: tài liệu phổ biến, trao đổi tin tức khoa học; phổ cập tri thức, hướng
dẫn thực hành; các loại VBKH này ít nhiều mang tính hấp dẫn, giáo dục dưới hình
thức nhẹ nhàng, gây hứng thú tìm tòi, sưu tầm.
3. Những đặc trưng cơ bản của VBKH
3.1). Những đặc điểm chung:
- Có chức năng thông báo là chủ yếu, thường trình bày những phân tích, suy
luận, lí giải, nhận xét, đánh giá, trình bày những hiện tượng, quy luật của tự nhiên, xã
hội...
- Có tính trừu tượng, khái quát cao, lôgích, chặt chẽ, nhất quán, khách quan và
tường minh; thường ngắn gọn, không chứa đựng thông tin dư thừa... trong khi thực
hiện chức năng chứng minh tính đúng đắn của nội dung thông báo.
3.2.) Những đặc điểm về ngôn ngữ:
a). Về từ ngữ:
+ Dùng nhiều thuật ngữ chuyên ngành và liên ngành trong nhiều lĩnh vực, nhiều
thuật ngữ mang tính quốc tế. Ví dụ: các thuật ngữ trong toán học: hàm số, đạo hàm,
tích phân, vi phân ...; trong vật lý học: điện trở, quán tính, cơ học, dao động...; trong
văn học: hình tượng, điển hình, nhân vật, cấu trúc, cốt truyện, mô típ, thời gian nghệ
thuật, không gian nghệ thuật, điểm nhìn nghệ thuật, đa thanh, giọng điệu...; trong ngôn
ngữ học: âm vị, hình vị, từ, đoạn văn, văn bản, ẩn dụ, hoán dụ, dụng học, tín hiệu, hệ

29
thống, cấu trúc, phong cách, tu từ,...; trong kinh tế học: hàng hoá, giá trị, thặng dư, lợi
thế so sánh, cổ phiếu, cổ phần, tài chính,...; trong lịch sử: tiền sử, sơ sử, dã sử, chính
sử, sự kiện, bối cảnh, văn hoá đồ đá, văn hoá đồ đồng, văn hoá truyền thống,...
+ Phần lớn là những từ, ngữ mang tính đơn nghĩa, trung hòa về phong cách chủ
yếu là danh từ. Đặc biệt là danh từ có ý nghĩa trừu tượng, cấu trúc danh hoá (thường
có sự, cuộc, tính...) và lớp từ Hán - Việt với ý nghĩa khái quát, ngắn gọn, súc tích và
chính xác. Ví dụ: sự sáng tạo, sự phát triển, tính hiện thực, tính năng động,v.v..
+ Tính chất đơn nghĩa, trung hoà về phong cách làm cho VBKH hoàn thành tốt
chức năng thông báo khách quan và chứng minh thuyết phục, đồng thời cũng là một
dấu hiệu phân biệt nó với ngôn ngữ nghệ thuật trong VBNT. Tuy nhiên, không thể nói
rằng ngôn ngữ khoa học đối lập hoàn toàn với tính hình tượng được xem là đặc trưng
của VBNT. Trong các văn bản khoa học xã hội (văn, triết, sử...), cho phép sử dụng có
chọn lọc cách nói biểu cảm, có tính hình tượng phục vụ cho việc diễn đạt giàu hình
ảnh của người viết, ví dụ Hoài Thanh viết: “Nhật ký trong tù canh cánh một tấm lòng
nhớ nước”, “có những nhà thơ suốt đời không làm được một câu thơ, tôi muốn nói một
câu đáng gọi là thơ”. Nhưng những phượng tiện hình tượng không bắt buộc phải sử
dụng trong văn bản khoa học.
b).Về cú pháp:
+Thường dùng câu đầy đủ các thành phần và câu ghép, câu phức; ít hoặc không
dùng câu rút gọn, câu tỉnh lược.
+ Thường dùng câu “vô nhân xưng” (có thể vắng chủ ngữ hoặc có chủ ngữ
không xác định), hoặc có chủ ngữ là “ta, chúng ta” hoặc “ nó ” để trỏ đối tượng được
đề cập. Một vài ví dụ: Ai cũng biết rằng... (chủ ngữ không xác định), Cho một điểm X,
... Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề này đã được bàn luận nhiều... (vắng chủ ngữ).
+ ít dùng cấu trúc đảo; các thành phần câu được trình bày theo trật tự thông
thường là chủ yếu (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ: S-V-O).
+ Các câu được liên kết chặt chẽ, lôgích, tạo nên những ĐV được phân tách rõ
ràng; các ĐV có thể được ghi số hoặc các dấu hiệu khác để khu biệt, thể hiện các cấp
độ.
+ Ngôn ngữ văn bản khoa học sử dụng một số lượng lớn phượng tiện liên kết
giữa các câu độc lập và giữa các phần thông tin riêng lẻ của văn bản. Chẳng hạn:
- chỉ nguyên nhân: vì, do, tại, bởi, nguyên nhân là, lý do là, bởi lẽ...

30
- chỉ mục đích: để, để cho, nhằm, với mục đích là,...
- chỉ sự tương đồng: giống như, tương tự như, tương đương với...
- chỉ trình tự: trước tiên, thoạt tiên, tiếp theo, sau cùng, thứ nhất, thứ hai, thứ
ba, trước hết, đồng thời, song song với,...
- chỉ sự tương phản: trái lại, nhưng, tuy nhiên, mặt khác, đối lập với,...
- chỉ sự bổ sung: hơn nữa, thêm vào đó, ngoài ra, cũng phải nói thêm rằng,...

+Sử dụng nhiều cấu trúc câu hô ứng nhằm diễn đạt chính xác, chặt chẽ các luận
điểm, các ý trong đoạn văn và văn bản. chẳng hạn: tuy A nhưng B, không những A mà
còn B, càng A càng B, bao nhiêu A bấy nhiêu B, chừng nào A chừng đó B,...
III. văn bản chính luận
1. Khái niệm và chức năng
- Văn bản chính luận là loại văn bản nhằm bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai
quan điểm chính trị tu tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã
hội. Bởi vậy, trong một số trường hợp có một số văn bản nằm ở đường biên giới giữa
chính luận với khoa học, giữa chính luận với văn bản nghệ thuật văn chương.
Chẳng hạn: những văn bản chính luận sau đây có nhiều điểm giao nhau với văn
bản khoa học: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam của Trường Chinh, Tổ
quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ của Phạm Văn Đồng,...
Hoặc các văn bản chính luận sau cũng có nhiều căn cứ để xem là những văn
bản nghệ thuật văn chương: Hịch tướng sĩ của Trần QuốC Tuấn, Cáo bình Ngô của
Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh,...
- Văn bản chính luận là những văn bản có chức năng truyền đạt thông tin, tác
động vào trí tuệ, tình cảm, tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ hành động.
2. Đặc trưng của văn bản chính luận
2.1. Đặc trưng chung
- VBCL có tính bình giá công khai, tức biểu thị một cách rõ ràng trực tiếp thái
độ của tác giả đối với sự kiện. ví dụ, một số câu văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh:
+ Lấy dân làm gốc.
+ Hiện nay vấn đề giải phóng là cao hơn hết.
+ Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ.

31
+ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người.
Tính bình giá công khai là nét khu biệt của VBCL so với VBNT: văn bản nghệ
thuật cũng bao hàm thái độ bình giá, nhưng là bình giá ngầm, gián tiếp, thông qua hệ
thống hình tượng.
- VBCL có tính lập luận chặt chẽ. Bởi vì muốn thuyết phục người đọc thì cần
phải giải thích, thuyết minh một cách có lí lẽ, có căn cứ vững chắc, nghĩa là phải dựa
trên cơ sở những luận điểm, luận cứ khoa học. Về điểm này, VBCL gần gũi với
VBKH. Chẳng hạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: có anh hùng là vì có tập thể anh hùng.
Có tập thể anh hùng là vì có nhân dân anh hùng, Đảng anh hùng
- VBCL có tính truyền cảm mạnh mẽ, tức sự diễn đạt hùng hồn, sinh động, có
sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết cả bằng lý trí, cảt bằng tình cảm đạo đức.
Chẳng hạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết :
+ Đồng bào Nam Bộ là dân của nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.
+ Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
2.2. Đặc trưng về ngôn ngữ
a). Về từ, ngữ:
- trong VBCL, những từ ngữ chính trị đóng một vai trò quan trọng trong sự bộc
lộ thái độ bình giá công khai của người viết. Người viết qua cách dùng những từ ngữ
chính trị có thể tỏ rõ lập trường, quan điểm và tình cảm của mình về từng vấn đề của
đời sống xã hội. Chẳng hạn, những câu văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau
đây;
+ Đối với người, ai làm gì lợi cho nhân dân cho Tổ quốc đều là bạn. Bất ký ai
làm caí gì có hại cho nhân dân và cho Tổ quốc tức là kẻ thù.
+ Vì vậy đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết
tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch... Đạo đức cách mạng là phải hoà mình với quần
chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng.
- Trong một số VBCL, nhằm bày tỏ thái độ, tình cảm của mình một cách mạnh
mẽ, người viết chính luận thường chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ vựng hội thoại

32
giàu màu sắc tu từ. Chẳng hạn: Chính sách bắt nạt của các người đại diện Pháp ở
Đông Dương đã bắt chúng ta phải chịu đựng cuộc chiến tranh này (Hồ Chí Minh).
- Ngôn ngữ trong VBCL phải giản dị, rõ ràng, chính xác, có khả năng diễn đạt
dễ hiểu những khái niệm phức tạp. Cần tránh những từ ngữ địa phương, thổ ngữ, tiếng
lóng, biệt ngữ và những từ ngữ mới còn xa lạ với nhiều người.
b). Đặc trưng về câu:
- Ngôn ngữ VBCL có xu hướng đi tìm những cách đặt câu mới mẻ. Có những
lối diễn đạt ngày nay được dùng trong nhiều phong cách văn bản nhưng phải nói rằng
nó đã được sử dụng đầu tiên trongphong cách VBCL và ngày nay vẫn là đặc trưng
cho VBCL. Sự so sánh hai cách diễn đạt sau đây sẽ thấy rõ điều đó:
A B
a) Đảng ta là một Đảng lãnh đạo. a) Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần
Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong phải mạnh mẽ, trong sạch.
sạch.
b) Chúng ta có tinh thần khiêm tốn b) Với tất cả tinh thần khiêm tốn của
của người cách mạng, chúng ta người cách mạng, chúng ta vẫn có
vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ
thật là vĩ đại. đại.
c) Chúng tôi là Chính phủ Lâm thời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng c) Chúng tôi- Chính phủ Lâm thời
hoà. Chúng tôi trịnh trọng tuyên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
bố... hoà- trịnh trọng tuyên bố.
d) Không, nước Pháp không do sự d) Không, nước Pháp không trở nên
bóc lột thuộc địa mà trở nên giàu giàu có bởi sự bóc lột thuộc địa.
có.
e) Nó sẽ được tất cả các dân tộc kính e) Nó sẽ được sự kính trọng của tất cả
trọng. các dân tộc.

Cách dùng ở cột B được xem là cách diễn đạt đặc trưng của phong cách ngôn
ngữ văn bản chính luận: trạng ngữ chỉ cách thức ở câu a), kết cấu làm nổi bật ý
phương tiện ở câu b), giải ngữ cho từ ở câu c), kết cấu nhân quả có “bởi” ở câu d), kết
cấu danh hoá ở câu e).

33
Về trật tự sắp xếp các thành phần cú pháp trong câu văn chính luận, người viết
thường sử dụng cấu trúc đảo thành phần cú pháp vì mục đích nhấn mạnh. Các thành
phần bổ ngữ, trạng ngữ thường được đưa lên đầu câu và tạo thành phần đề của câu;
hoặc các từ chỉ tính chất, trạng thái của hành động lên trước động từ. Chẳng hạn: Dùng
“nồng nàn yêu nước” thay cho “yêu nước nồng nàn”,dùng “thiết tha yêu quí” thay cho
“yêu quí thiết tha”, dùng “vĩnh viễn từ bỏ” thay cho “từ bỏ vĩnh bỏ”,...
IV. văn bản nghệ thuật
1. Khái niệm và chức năng
- Khái niệm nghệ thuật bao gồm các loại hình: âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc,
điện ảnh,... tuy nhiên, khi nói đến văn bản nghệ thuật ở đây được hiểu là văn bản tác
phẩm văn chương như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch,...
- VBNT là loại văn bản có chức năng tác động thẩm mĩ qua con đường trung
gian là hình tượng văn học. Vì vậy, các đơn vị ngôn ngữ hoạt động trong phong cách
văn bản nghệ thuật với chức năng nổi bật nhất là tác động tình cảm và thẩm mĩ bằng
hình tượng một cách sáng tạo. Đây là một trong những nét khác biệt cơ bản nhất giữa
một bên là phong cách văn bản nghệ thuật và một bên là phong cách văn bản phi –
nghệ thuật (VBKH, VBCL, VBHC).
- VBNT, do chức năng tác động thẩm mĩ bằng hình tượng nên ngôn ngữ vừa
mang tính khái quát, vừa cụ thể; vừa mang tính khách quan vừa mạng tính chủ quan,
vừa lý trí vừa tình cảm; vừa đơn nghĩa vừa đa nghĩa, vừa mơ hồ vừa cụ thể, rõ nghĩa.
2. Đặc trưng của văn bản nghệ thuật
2.1. Đặc trưng chung
- VBNT có tính cấu trúc, bản thân mỗi tác phẩm là một cấu trúc, trong đó các
thành tố nội dung, tư tưởng, tình cảm, hình tượng và các thành tố hình thức ngôn ngữ
diễn đạt chúng không những phụ thuộc lẫn nhau mà còn phụ thuộc vào hệ thống. Tính
cấu trúc là điều kiện của cái đẹp. Mỗi yếu tố ngôn ngữ chỉ có được ý nghĩa thẩm mĩ
khi nằm trong tác phẩm thành một chỉnh thể lời nói nghệ thuật.
- VNNT có tính hình tượng. Đặc điểm về tính hình tượng được coi là tiêu
chuẩn hàng đầu của phong cách ngôn ngữ văn bản nghệ thuật. Không có đặc điểm này,
VBNT coi như không có gì khu biệt với các phong cách chức năng ngôn ngữ của các
văn bản còn lại. Chẳng hạn, trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu

34
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Thì các từ ngữ “chảy máu”, “đâm nát” bên cạnh các nghĩa đen, nghĩa đầu tiên
còn mang nghĩa bổ sung xây dựng hình tượng văn học: phác hoạ hình tượng Tổ quốc
Việt Nam thân thương bị kẻ thù tàn phá, huỷ diệt.
- VBNT có tính thẩm mĩ. Nói tới nghệ thuật là nói tới cái đẹp. Cái đẹp trong
nghệ thuật không chỉ là sự sao chép, mô phỏng cái đẹp ngoài cuộc sống và trong thiên
nhiên. Nó là cái đẹp được tái tạo lại trong hoạt động sáng tạo của nhà nghệ sĩ.
- VBNT có tính sinh động và tính biểu cảm cao. Cáinh đặc tính này tạo ra một
con đường riêng làm thành bản chất của chức năng tác động ở phong cách nghệ thuật:
tác động bằng tình cảm. Đồng thời, đay cũng là đặc tính tạo nên phẩm chất nhạy bén,
dễ xúc cảm của người nghệ sĩ.
2.2. Đặc trưng về ngôn ngữ
a). Về từ, ngữ
- Sử dụng rất nhiều từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh. Đây là những từ có
sức gợi hình, gợi cảm cao, dễ tạo nên tính nhạc điệu, tiết tấu trong ngôn ngữ nghệ
thuật, đặc biệt trong thơ ca. Ví dụ: mênh mông, mịt mờ, thăm thẳm, lênh đênh, đìu hiu,
sè sè, lãng đãng, thấp thoáng, gập gềnh, man mác,...
-Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông
Buồng the phải buổi thong dong.
Thang lan rủ bứơc trướng hồng tẩm hoa. (Nguyễn Du)
- Kiến đậu cành cam bò quấn quýt
- Ngựa về làng Bưởi chạy lanh chanh. (Câu đối)
Việc sử dụng từ láy đúng mức, chọn lọc đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra
chất trữ tình trong thơ.
- Có hiện tượng tách từ nhằm cấp nghĩa cho vỏ âm thanh của từ, đồng thời tạo
cách diễn đạt mới trong cách dùng từ. Qua bàn tay của người nghệ sĩ, những từ hay từ
tố tưởng như trống nghĩa, không có ý nghĩa, nay lại nhận được một ý nghĩa có tính độc
lập, có khả năng tái hiện cảm giác của người ta về một nét cá tính, một hành động hay
tính chất của sự vật hay hiện tượng. Ví dụ:
- Làm người phải đắn phải đo
Phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu. (Ca dao)

35
- Biết bao bướm lả ong lơi
- Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm. (Nguyễn Du)
- Trời cao gọi mãi không thưa
- Biết ai ra ngẩn vào ngơ canh chầy. (Tản Đà)
- Thường xuyên sử dụng các đơn vị thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ làm chất liệu
biểu đạt hình tượng trong tác phẩm. Ví dụ:
- Thấy anh bây giờ khổ sở, em đã chẳng thương hại còn xỉa xói, nhắc đến
những lúc hoang phí trước kia mà xỉ vả. Nào “lúc có tiền thì chẳng biết ăn nhịn để dè,
chỉ biết nay gà mai chó”.
(Nao Cao- Đôi mắt)
- Chị tức lộn ruột lên: có bao giờ chị phải ngửa tay xin chồng để nuôi bố,
nuôi con? (Trần Đăng- Những ngày cuối năm)
Trong một số trường hợp, nhiều thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ khi sử dụng
trong tác phẩm văn chương được cải biên một cách sáng tạo. Ví dụ:
-Trăng thề còn đó trơ trơ
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. (Nguyễn Du)
Xét về từ loại, ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng nhiều từ phổ thông nhưng không ít
từ địa phương, tiếng lóng, thuật ngữ khoa học, từ biểu cảm, cảm thán. Tất cả từ loại
được sử dụng trong văn bản nghệ thuật đều nhằm thực hiện chức năng thẩm mĩ bằng
hình tượng của mình.
Ví dụ: - Đôi ta thương chắc mần ri
Mẹ cha mần rứa, anh thì mần răng. (Cao dao)
b). Đặc trưng về câu
- Phong cách văn bản nghệ thuật thường hay sử dụng các loại câu mở rộng
thành phần định ngữ, trạng ngữ và các loại kết câu đảo. Ví dụ:
- Một nghĩa trang liệt sĩ trong hàng trăm nghĩa nằm rải rác khắp nước- vì một lý
do chính trị hay xã hội bức bách nào đó, không loại trừ cả lý do nghĩa tình sâu xa,
người ta vội vàng thu gom về đây những mảnh hài cốt vương vãi ở khắp các chân bãi,
xó rừng, có cái có, coa cái chỉ hàm nghĩa tượng trưng rồi xây trát, rồi cắt băng khánh
thành, làm lễ truy điệu, đọc đôi lời ai điếu rổn rang hoặc mùi mẫn và sau đó là hết.
(Chu Lai- ăn mày dĩ vãng)
- Lỏng buông mái tóc sau thềm võng

36
Tiếng ngọc, mùi hương lẫn gió chiều.
(Lưu Trọng Lư- Chiếc cáng diều)
- Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô, lạc mấy dòng,
(Huy Cận- Tràng giang)
- Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo.
(Tố Hữu)
- Trên xe ngồi chễm chệ một người đàn bà. (Nguyễn Công Hoan)
- VBNT sử dụng nhiều câu hỏi tu từ, câu cảm thán, nhiều lối diễn đạt lệch
chuẩn, nhiều kết cấu ngôn ngữ bất thường về nghĩa. Ví dụ:
- Ôi Tổ quốc! Ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha, như vợ như chồng.
Ôi Tổ quốc! Nếu cần ta chết
Cho những ngôi nhà, ngọn núi con sông. (Tố Hữu)
- Em là ai?
Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em hay là mây là suối? (Tố Hữu)
Tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật với chức năng tác động thẩm mĩ bằng hình tượng,
vì vậy, những cách nói lệch chuẩn như “Em đi như chiều đi”, “Nước đi đi mãi không về
cùng non”, “thuyền chòng chành đôi mạn, em ôm duyên trở về”, “Tình yêu dài như nỗi
nhớ”,.... chiếm tỉ lệ cao và trở thành nét đặc trưng trong cách diễn đạt.

37
Chương 3

Liên kết trong văn bản

i. liên kết, phương tiện và phương thức liên kết


1. Khái niệm liên kết
- Liên kết (cohension) là thứ quan hệ nghĩa giữa hai yếu tố ngôn ngữ nằm trong
hai câu hoặc nằm trong hai vế của của một câu ghép theo kiểu giải thích nghĩa cho
nhau. Nói chi tiết hơn, liên kết là thứ quan hệ giữa hai yếu tố ngôn ngữ mà muốn hiểu
nghĩa cụ thể của hai yếu tố này thì phải tham khảo nghĩa của yếu tố kia, và trên cơ sở
đó hai câu chứa chúng liên kết được với nhau.
- Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ giữa các phần tử là các
câu và giữa các câu, phần tử ấy tồn tại những mối liên hệ và quan hệ quy định vị trí
của các câu làm thành cấu trúc của văn bản.
- Có liên kết nội dung và liên kết hình thức. Giữa hai mặt liên kết hình thuác và
liên kết nội dung có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ: liên kết nội dung được thể hiện
bằng hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và liên kết hình thức chủ yếu dùng
để diễn đạt sự liên kết nội dung.
2. Phương tiện liên kết và phương thức liên kết
2.1. Phương tiện liên kết
- Phương tiện liên kết là các yếu tố hình thức cụ thể của ngôn ngữ tham gia vào
việc tạo ra sự nối kết hai câu với nhau.
- Liên kết trong văn bản là hiện tượng chung cho nhiều ngôn ngữ, nhưng các
phương tiện ngôn ngữ cụ thể dùng vào liên kết có thể khác nhau trong những ngôn ngữ
khác nhau
2.2. Phương thức liên kết
- Phương thức liên kết là cách sử dụng các phương tiện kết có cùng một thức
chất (tạo thành một hệ thống con) vào việc liên kết câu với câu
- Các phương tiện dùng trong một phương thức liên kết đều có một điểm chung
để tập hợp lại chúng với nhau trong một hệ thống con, nhưng giữa chúng có thể có
những nét riêng phân biệt được với nhau để sử dụng trong những ngữ cảnh cụ thể khác
nhau. Chẳng hạn, cùng là những từ thay thế, nhưng từ thay thế cho danh từ chỉ sự vật
khác với từ thay thế cho động từ, tính từ chỉ sự việc, cách thức, tính chất. Tính chất

38
chung của những từ này là “khả năng thay thế”, cho nên chúng thuộc về phương thức
liên kết “thế”.
- Phương thức liên kết còn được gọi gọn hơn là phép liên kết, liên kết hình
thức.
ii. liên kết hình thức trong văn bản
1. Phép lặp
a). Lặp từ ngữ để duy trì chủ đề nhất là lặp những từ, ngữ giữ chức năng quan
trọng về ngữ pháp (chủ ngữ, vị ngữ).
Ví dụ:
Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày công bố. Những quy định trước đây
trái với pháp lệnh này đều bãi bỏ.
b). Lặp cấu trúc để phát triển nội dung theo hướng bổ sung hoặc tương phản,
có khi tạo sự nhịp nhàng, cân đối về ngữ điệu, tạo tính biểu cảm. Có thể lặp đầy đủ
(cấu trúc hai câu hoàn toàn giống nhau), có thể lặp thiếu (hoặc biến đổi chút ít). Ví dụ
về lặp cấu trúc:
Gần cái gì ta ghét là khổ. Xa cái gì ta yêu là khổ.
2. Phép thế
a). Thế đại từ là dùng ở câu thứ hai một đại từ (nhất là đại từ đi kèm danh từ có
nghĩa khái quát) để thay thế cho từ, ngữ... chỉ đối tượng, sự kiện, vấn đề... đã được nêu
ở câu thứ nhất (để tránh nhắc lại nguyên văn gây nặng nề, không ngắn gọn...). Ví dụ:
Nguyễn Du là nhà thơ xuất sắc nhất mọi thời đại. Ông đã để lại cho đời một
khối lượng tác phẩm đồ sộ có giá trị nghệ thuật đắc sắc.
b). Thế đồng nghĩa, gần nghĩa là dùng ở một câu các từ, ngữ đồng nghĩa, gần
nghĩa với các từ, ngữ ở câu khác, nhằm tránh lặp và nhằm cung cấp thêm thông tin
phụ. Có hai loại:
+ Thế đồng nghĩa từ điển: người Pháp đổ máu đã nhiều. Dân ta hy sinh cũng
không ít. (Hồ Chí Minh) (Thế đồng nghĩa phủ định).
+ Thế đồng nghĩa ngữ cảnh (còn gọi thế đồng nghĩa lâm thời): Chiếc giỏ xe
chở đầy hoa phượng. Em chở mùa hè của tôi đi đâu. (lời trong bài hát).
3. Phép liên tưởng : Phép liên tuởng là cách dùng từ, ngữ... chỉ sự vật, hoạt
động, tính chất, trạng thái... làm cho người đọc nghĩ đến từ ngữ trong cùng một trường
nghĩa chỉ phạm trù, phạm vi của thực tế khách quan ở câu khác. Có thể có:

39
a). Liên tưởng bộ phận là dùng ở câu thứ hai một hoặc một số từ, ngữ chỉ bộ
phận mà tổng thể (toàn thể) của nó đã được một số từ ngữ khác nêu ở câu thứ nhất. Ví
dụ:
- Cái xe trục trặc ở chổ nào đó. Hình như máy nổ không đều.
Hoặc: - Bệnh viện này rất lớn. Mỗi phòng rộng đến 40m 2.
Trong phép liên tưởng bộ phận với tổng thể, cần chú ý: có sự liên tưởng nhờ
một thuộc tính tất yếu của đối tượng (ví dụ: Tôi nhìn vào phòng. Trần rất cao), hoặc
một thuộc tính có thể của đối tượng (ví dụ: Tôi nhìn vào phòng. Cửa sổ sơn màu
xanh), hoặc một thuộc tính suy ra từ ngữ cảnh (ví dụ: Tôi nhìn vào phòng. Đập vào
mắt tôi là chiếc quạt trần màu xanh)
b). Liên tưởng tổng thể (hoặc toàn thể) là dùng ở câu thứ hai những từ, ngữ chỉ
tổng thể mà các bộ phận của nó đã được nêu ra từ câu trước bằng những từ ngữ khác.
Ví dụ:
Chồng ngồi xem báo. Vợ đang khâu vá. Các con ríu rít học bài. Cái gia đình ấy
thật hạnh phúc.
c). Liên tưởng đồng loại là dùng ở các câu những từ, ngữ chỉ đối tượng, sự
vật... đồng loại, nghĩa là cùng một loại, một lớp sự vật, hiện tượng, tiến trình... có quan
hệ ngang hàng, đẳng lập, không có cái nào bao hàm cái nào như trong liên tưởng tổng
thể, liên tưởng bộ phận; thường dùng để phát triển chủ đề, thường được thực hiện
thông qua những từ ngữ có chung một trường nghĩa.
Cóc chết bỏ nhái mồ côi
Chẫu ngồi chẫu khóc: chàng ôi là chàng
ễnh ương đánh lệnh đã vang
Tiền đâu mà trả nợ làng ngoé ơi ! (Ca dao)
d). Liên tưởng định vị là sự xác định, liệt kê các đối tượng, sự vật tồn tại, hoạt
động... hoặc gắn với hoặc ở trong đối tượng, sự vật khác, nhưng không phải bao giờ
cũng có những quan hệ với nhau như những thuộc tính tất yếu mà nhiều khi chỉ là sự
liên quan. Ví dụ:
- Sau khi mở cửa phòng mổ, đèn bật sáng trưng. Bác sĩ đang rửa tay thay áo.
Các y tá lăng xăng chạy đi chạy lại.
Phép liên tưởng cũng được phân loại và gọi tên theo những cách khác (Theo
Nguyễn Công Đức 1995, 184 - 185):

40
Liên tưởng cùng chất, gồm:
- liên tưởng theo quan hệ bao hàm.
- liên tưởng đồng loại.
- liên tưởng về số lượng.
Liên tưởng khác chất, gồm:
- liên tưởng theo quan hệ định vị (giữa các vật). ví dụ:
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền. (Tố Hữu).
- liên tưởng theo đặc trưng của sự vật. Ví dụ:
Làng được đặc trưng bằng rặng tre, cây đa, quán chợ...
4. Phép đối (còn gọi là nghịch đối)
Thường sử dụng những từ, ngữ trái nghĩa, từ ngữ phủ định, ước lệ, miêu tả (có
hình ảnh và ý nghĩa tương phản, đối lập nhau). Gồm:
a). Đối trái nghĩa: Phép liên kết dùng các từ ngữ trái nghĩa nhau.
Ví dụ: Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong.
(Hồ Chí Minh)
hoặc: Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
(Nguyễn Du).
+ Có thể có phép đối dùng từ ngữ miêu tả:
Dẫu sao thì tôi vẫn mắc nợ anh ấy một chút lòng tử tế. Gặp đến lúc cần đến tôi,
tôi phải lấy sự tử tế ra mà đối lại. Không lẽ tôi ghẻ lạnh ? Tôi đành xếp tập giấy đang
viết dở lại, đi theo anh ấy vậy. (Nam Cao)
+ Có thể có phép đối dùng từ ngữ ước lệ:
Biết rõ về tôi, địch quyết bắt tôi khuất phục. Nhưng tôi quyết giữ vững lập
trường chiến đấu của mình. (Nguyễn Đức Thuận)
b). Đối phủ định là cách dùng từ ngữ có ý nghĩa phủ định đi với từ ngữ không
có ý nghĩa phủ định. Ví dụ:
Biết người, biết mình trăm trận trăm thắng. Ta không biết địch, nhưng ta biết
ta thì thắng và bại ngang nhau. Ta không biết địch mà cũng không biết ta thì đánh
trận nào thua trận ấy.(Tôn Tử)

41
5. Phép nối
Có thể dùng (và có thể không dùng) trong câu thứ hai các từ, ngữ, kết cấu có ý
nghĩa quan hệ vừa nối (tín hiệu chuyển tiếp, móc xích), vừa thể hiện quan hệ ý nghĩa
giữa các câu (xem thêm phần quan hệ ý nghĩa). Gồm:
a). Nối kết từ (kết từ còn được gọi là quan hệ từ, liên từ, từ nối). Ví dụ:
Công trình nghiên cứu đầu tiên về cá biển ở nước ta là của Pellegrin vào năm
1905. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học nghề cá một cách toàn diện và có hệ thống
được mở đầu cùng với sự ra đời của Viện Hải dương học Đông Dương - Nha Trang
vào năm 1922. (TC. Hoạt động khoa học, số 3, 1995, 13).
b). Nối kết ngữ (còn gọi nối tổ hợp từ): Dùng kết cấu có ý nghĩa chuyển tiếp,
thường là nhóm từ hoặc ngữ. Ví dụ:
Từ đó nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là, cuối năm ngoái sang
đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
(Hồ Chí Minh)
c). Nối tuyến tính (còn gọi phép trật tự tuyến tính): Sử dụng cách sắp xếp các
câu theo một trật tự nhất định để miêu tả quá trình xảy ra trong thực tế theo đúng trình
tự, thứ tự... khách quan (kể cả sự liên kết lôgích được hình thành nhờ một vai trò nào
đó). Ví dụ:
- Đổ hỗn hợp muối ăn và nước muối vào bát sứ. Đun đến khi nước bốc hơi hết,
muối ăn còn lại trong bát.
hoặc: - Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. (Anh Đức)
hoặc: - Nạn nhân nằm bất tỉnh. Hung thủ đã tẩu thoát.
Chú ý: Trong phép nối , người ta còn sử dụng các trợ từ, phụ từ, tính từ mang ý
nghĩa quan hệ (như: cũng, cả, lại, vẫn, khác...).
Ví dụ: - Gà lên chuồng từ lúc nãy. Hai bác ngan cũng đã ì ạch về chuồng
rồi. Chỉ duy có hai chú ngỗng vẫn tha thẩn đứng giữa sân. (Tô Hoài).
- Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười. (Nam Cao).
- Tôi biết trong vụ này anh không phải là thủ phạm. Thủ phạm là người khác
cơ. (Trần Đình Vân).
Cũng có khi một câu được nối với một bộ phận khác chưa phải là câu, mà chỉ là
thành phần câu được mở rộng (cấu tạo từ các loại ngữ trực thuộc).
- Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ.

42
III. liên kết nội dung trong văn bản
Liên kết nội dung (còn gọi là: liên kết logic - ngữ nghĩa, quan hệ ý nghĩa) là sự
liên kết giữa hai hoặc nhiều câu, thông qua nghĩa của từ và thông qua suy luận.
Liên kết nội dung có thể phân thành hai nhóm quan hệ chủ yếu: nhóm thuyết
minh (các quan hệ dẫn chứng, bằng chứng, ví dụ, định nghĩa, khai triển, nguyên nhân)
và phát triển (các quan hệ kết quả, suy luận, khái quát, tương phản, tương đồng, song
hành). Quan hệ thuyết minh thường được trình bày theo phương pháp diễn dịch,
thường thích hợp với loại văn giải thích, chứng minh; còn quan hệ phát triển thường
được trình bày theo phương pháp quy nạp, thường thích hợp với loại văn bình luận.
1. Dẫn chứng: Cách liên kết nhờ đưa ra những đối tượng, sự vật, sự kiện...
hoặc thơ văn, trích dẫn, số liệu thống kê... dùng để chứng minh cho một ý kiến hay
nhận định đã nêu ở câu trước. Ví dụ:
Trong những năm vừa qua, do có chính sách đổi mới của Đảng và sự cố gắng
to lớn của nông dân, Thanh Hóa đã giải quyết được vấn đề lương thực (đủ ăn, có dư
thừa). Thanh Hoá đã có mức tăng trưởng khá và bước đầu có sự dịch chuyển cơ cấu
kinh tế. Năm 1993, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP là 16,4%, tăng 2,7% so
với năm 1991. (TC. Hoạt động khoa học, số 3,1995, 33).
2. Bằng chứng: cách liên kết nhờ đưa ra những chứng cớ hiển nhiên có thật,
dùng để chứng minh, khẳng định. Ví dụ:
Nước sông này không thể uống được. Bản phân chất của phòng xét nghiệm cho
biết nước đã bị ô nhiễm bởi chất thải của nhà máy.
3. Ví dụ: Cách liên kết nhờ đưa ra những những trường hợp cụ thể, chi tiết,
thường được dùng để minh họa, nhất là khi phải giải thích những khái niệm trừu
tượng, khó hiểu.
Ví dụ: ở Việt Nam, hình thức múa mặt nạ cũng đã có từ lâu đời. Chẳng hạn ở
Thanh Hóa, người Mường có trò múa Roại dùng trong việc cúng ma chay, người
Khơme Nam Bộ mang mặt nạ trong điệu hát Rôbăm...(Nguyễn Phan Thọ. TC. Nghiên
cứu Đông Nam á, số 1 (26) 1997, 41).
Trong nhiều trường hợp, ví dụ đưa ra có thể là có thật, hoặc không có thật (chỉ
nhằm phục vụ diễn đạt).
4. Định nghĩa: Cách liên kết nhờ lặp lại (thường là nguyên văn) một từ, ngữ,
thuật ngữ... xuất hiện ở câu trước và định nghĩa các từ, ngữ, thuật ngữ đó.

43
Ví dụ 1: Chúng ta cần được đào tạo về văn bản học. “Văn bản học là một bộ
phận của khoa học ngữ văn có nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử, hiện tại của văn bản cùng
mọi vấn đề có liên quan nhằm xác lập dạng chuẩn xác của nó, tạo đièu kiện thuận lợi
nhất cho việc đọc cũng như nghiên cứu văn bản từ mọi phương diện”. (Phần trong
ngoặc kép là của tác giả Trần Ngọc Thêm, trong Văn bản và việc nghiên cứu văn bản
tiếng Việt, 1989, 15).
Ví dụ 2: Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của công dân. Thừa kế là sự chuyển
dịch di sản của người đã chết cho người còn sống.
5. Khai triển: Cách liên kết nhờ mở rộng vấn đề, giải thích, trình bày rõ ràng,
cụ thể hơn, chi tiết hơn về một nhận định, một khái niệm, v.v... được nêu ra ở câu
trước. Ví dụ:
Văn học thời chiến tranh không tránh khỏi tinh thần khắc khổ. Người cầm bút
không thể nói nhiều đến yêu cầu hưởng thụ, đến hạnh phúc cá nhân. (Văn 12)
6. Nguyên nhân: Cách liên kết nhờ giải thích căn nguyên, lý do của một hiện
tượng, một phán đoán, một vấn đề nào đó đã nêu ở câu trước. Ví dụ: Tìm hiểu thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta không thể không nói đến cuộc đời riêng của ông. Bởi lẽ,
ở Nguyễn Đình Chiểu, thơ văn và cuộc đời chỉ là một.
7. Kết quả: Cách liên kết nhờ trình bày điều đạt được (hoặc tạo thành) nhờ suy
luận, hoặc trình bày một sự vật, hiện tượng... phát sinh từ sự vật, hiện tượng, v.v... đã
được nêu ra trong câu trước. Ví dụ:
Người quân tử chỉ cốt suy nghĩ, định liệu công việc của mình, lúc chưa làm
được thì vui rằng mình có ý định làm, lúc đã làm được thì vui rằng mình có tài làm
được việc. Thế cho nên người quân tử có cái vui thú suốt đời, không có cái lo sợ một
ngày nào cả.
8. Suy luận: Cách liên kết nhờ trình bày kết quả tư duy, như ý kiến, nhận xét,
phán đoán rút ra từ một sự kiện, vấn đề, hoặc dẫn chứng, bằng chứng... đã nêu ra từ
trước. Ví dụ:
Một dân tộc đánh giặc mấy nghìn năm mà tiếng hát vẫn êm dịu và uyển chuyển
như vậy. Dân tộc ấy mãnh liệt và trầm tĩnh biết nhường nào. (Nguyễn Trung Thành)
9. Khái quát: Cách liên kết nhờ trình bày điều thâu tóm hoặc những nhận xét,
đánh giá... được rút ra từ một hoặc nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình,... có những
điểm tương đồng. Ví dụ 1:

44
Chồng kêu. Vợ khóc ầm ĩ. Con cái nhốn nháo. Cảnh tượng thật hỗn loạn.
Ví dụ 2:
Vàng làm đồ trang sức. Bạc có khi được dùng để mạ đồ vật. Đồng và nhôm làm
chất dẫn nhiệt rất tốt. Kim loại thật có ích.
10. Tương phản: Cách liên kết nhờ trình bày sự khác biệt (có khi đối lập) giữa
các mặt, phương diện, hiện tượng, sự vật, quá trình... được nêu ra trong các câu.
Ví dụ 1:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người kiếm chốn lao xao. (Nguyễn Bỉnh
Khiêm) (ví dụ này cũng là ví dụ về phép đối trái nghĩa).
Ví dụ 2:
Họ tưởng Soan ngủ. Nhưng Soan không ngủ, nước mắt chảy ướt cả chiếu. (Tô
Hoài) (đây cũng là ví dụ về phép nối, dùng kết từ: nhưng).
11. Tương đồng: Cách liên kết nhờ trình bày điều giống nhau giữa các đối
tượng, sự vật, quá trình... hoặc giống nhau về ý nghĩa của các câu liên tiếp.
Ví dụ:
Chỉ vì vài đồng bạc sưu mà anh Dậu bị đánh chết đi sống lại nhiều lần. Cũng
chỉ vì mấy đồng bạc sưu mà chị Dậu phải bán con, bán chó cho nhà Nghị Quế với giá
rẻ mạt.
12. Song hành: Cách liên kết mà tại đó, có ít nhất hai câu B và C đều có quan
hệ với câu thứ ba (A) (đã được viết ra hoặc được hiểu ngầm) (trong trường hợp này, ta
nói B và C có quan hệ song hành). Ví dụ 1:
(A) Chim chóc cũng đua nhau đến bên hồ làm tổ. (B) Những con sít lông tím,
mỏ hồng kêu vang như tiếng kèn đồng. Những con bói cá mỏ dài, lông sặc sỡ.
(C)Những con cuốc đen trùi trũi len lủi giữa các bụi ven bờ.
Trong ví dụ này, có hai loại quan hệ liên kết, xét theo hai góc độ:
- Liên kết theo kiểu song hành: câu B và câu C đều có quan hệ ý nghĩa với câu
A (và do đó, B và C có quan hệ song hành).
- Liên kết nhờ liên tưởng bộ phận (con sít, con bói cá, con cuốc) với tổng thể
(chim chóc).
Ví dụ 2:
Đối với những người lập hiến, tôi muốn làm một đứa trẻ mồ côi. Đối với những
người cộng hoà, tôi muốn làm một người con một. Hai câu này có quan hệ song hành

45
với nhau vì đều có quan hệ kết quả với câu thứ ba được hiểu “ngầm” như sau: Tình phụ
tử của những người lập hiến và tình huynh đệ của những người cộng hòa đều không
tạo được niềm tin cho tôi. Vì vậy...

Trên đây là những phương thức và phép liên kết cơ bản, phổ biến trong liên kết
câu và viết câu liên kết. Cần chú ý thêm những điểm sau:
1). Các phương thức liên kết và phép liên kết khác nhau có thể được vận dụng
đồng thời (phối hợp). Trong ví dụ Gần cái gì ta ghét là khổ. Xa cái gì ta yêu là khổ (đã
dẫn), có cả phép lặp (lặp cấu trúc và lặp từ ngữ: cái gì, ta, là, khổ) lẫn phép đối (đối
trái nghĩa: gần - xa, yêu - ghét).
2). Trong liên kết câu, tránh lạm dụng kết từ, kết ngữ một cách sáo rỗng, cần
dùng đúng chỗ, hợp lý, cần thiết khi điều kiện cho phép (thường ở cuối ĐV hoặc VB).
Cần nhớ rằng kết từ, kết ngữ cũng chính là phương tiện dùng để nối các thành phần
hoặc các vế của câu ghép, các câu trong cụm câu và các ĐV trong VB (nếu dùng để
liên kết các ĐV, còn được gọi là kết cấu chuyển đoạn).
3). Phương tiện liên kết chính là những từ, ngữ, kết cấu hoặc được lặp nguyên
văn, hoặc được thay thế bởi các đơn vị đồng nghĩa, gần nghĩa, hoặc được so sánh với
các đơn vị trái nghĩa; có thể được xác định một cách trực quan (ví dụ có thể gạch
chân), có thể “ẩn”, phải vận dụng phép suy luận, liên tưởng...để xác định.
4). Khi xác định quan hệ ý nghĩa giữa các câu liên kết, cần chú ý thêm:
a). Một số quan hệ ý nghĩa như nguyên nhân, kết quả, tương đồng, tương
phản... đã nêu ở phần : Lập luận trong VB và trong ĐV, nhưng đó là xét ở cấp độ
toàn ĐV hoặc VB.
b). Liên kết tỉnh lược là sự liên kết các câu mà trong đó, các thành phần nòng
cốt (nhất là chủ ngữ) nếu đã được nhắc một lần (ở câu trước) sẽ (hoặc có thể) không
xuất hiện ở các câu tiếp theo, nhưng không gây hiểu lầm sang đối tượng, sự vật...khác,
nghĩa là vẫn đúng về quy chiếu.

46
Ví dụ:
đào duy anh (1904 - 1988): Nhà văn hóa, nhà sử học lớn của Việt Nam. Quê
làng Khúc Thuỷ, Hà Tây. Năm 1938 lập Nhà xuất bản Quan hải tùng thư. Sau 1945,
tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Năm 1946, là giáo sư Trường đại học Văn khoa Hà
Nội...
c). Liên kết ngầm ẩn và liên kết qua hành vi ngôn ngữ nhờ những tín hiệu
ngôn ngữ. Ví dụ:
Trời nóng quá. Xin anh li nước hoặc Xin anh li nước. Trời nóng quá đều mang
tính liên kết.
Ví dụ 2:
Con sang nhà bạn đã hoặc Té ra ông là một ông già chăn vịt đều mang tính liên
kết, dù chỉ là một câu.

47
chương 4

ngôn ngữ trong văn bản

I. câu trong văn bản


1. Câu và câu tiếng Việt
1.1. Định nghĩa câu
Câu không phải là đơn vị có sẵn như từ mà là một đơn vị do người nói dùng từ
cấu tạo nên trong quá trình suy nghĩ thông báo.
Về định nghĩa câu, từ trước tới nay có trên 300 định nghĩa theo nhiều khuynh
hướng khác nhau: ngữ pháp duy lý, ngữ pháp logic, lịch sử tâm lý, ngữ pháp hình
thức, ngữ pháp cấu trúc, ngữ pháp chức năng, v.v.
Chẳng hạn:
- Câu là đơn vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản
(Benveniste,1961)
- Câu là sự thể hiện ngôn ngữ học của một mệnh đề (Sapir, 1921)
Trong giáo trình này, chúng tôi thống nhất định nghĩa về câu như sau:
- Câu là đơn vị dùng từ đặt ra trong quá trình suy nghĩ, được gắn với ngữ cảnh
nhất định nhằm mục đích thông báo hay thể hiện thái độ đánh giá. Câu có cấu tạo ngữ
pháp độc lập, có ngữ điệu kết thúc.
1.2. Phân loại câu
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, mà ta có các loại câu không giống nhau.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo câu, ta có các loại câu: câu đơn, câu ghép. Câu
đơn gồm: câu đơn bình thường, câu đơn đặc biệt. Câu ghép gồm: câu ghép đẳng lập,
câu ghép chính phụ, câu ghép chuỗi, câu ghép qua lại... Xét về mục đích phát ngôn, ta
có câu trần thuật, câu nghi vấn, câu mệnh lệnh, câu cầu khiến, câu cảm thán...
1.3. Các quan niệm câu đơn - câu ghép hiện nay
Hiện nay có ba quan niệm về câu đơn - câu ghép:
a). Câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt C-V (hay một mệnh đề). Vậy những câu
có hai nòng cốt C-V trở lên thì đó là câu ghép. Theo quan niệm này có: tác giả tiếng
Việt 7 (Phan Thiều, Nguyễn Kỳ Thục)...

48
b). Câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt C-V. Câu ghép là câu có hai nòng cốt
C-V trở lên, trong đó C-V này không bao hàm C-V kia. Theo quan điểm này có: Giáo
trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Đỗ Thị Kim Liên, sách “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng
Việt” của Nguyễn Kim Thản, và “Ngữ pháp tiếng Việt” của UBKHXH...
c). Câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt C-V. Câu ghép là câu có từ hai nòng
cốt C-V trở lên, trong đó các C-V tồn tại tách bạch nhau. Câu có các thành phần bổ
ngữ, định ngữ, vị ngữ, chủ ngữ được phát triển thành một kết cấu C-V thì đây là câu
phức (Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục,1992; Tiếng Việt 10, Nxb
Giáo dục, 1989; Hữu Quýnh, Ngữ pháp tiếng Việt 1996, Nxb TTTĐBK Việt Nam)
hay câu trung gian (Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN,
1988)...
2. Các lỗi thông thường về câu trong văn bản
Viết câu sai có nhiều nguyên nhân, do đó có nhiều lỗi khác nhau trong quá trình
đặt câu. Việc chữa câu sai cũng tuỳ thuộc vào kiểu sai cụ thể mới có khả năng định ra
một cách chữa phù hợp nhất. Vì vậy, khó có thể có một chỉ dẫn chung dùng để chữa
đúng cho mọi lỗi sai về câu. Tuy thế, để chữa được câu sai, ta có thể thống nhất với
nhau ở những điểm cơ bản sau:
+ Cần nắm vững tiêu chí của một câu đúng. Chỉ khi biết câu thế nào là viết
đúng mới có thể chữa được câu sai. Đúng ở đây không phải chỉ là đúng ngữ pháp, mà
còn cần phải đảm bảo đúng ngữ nghĩa - logic, đúng phong cách, và đúng trong mối
quan hệ liên kết câu trong toàn văn bản.
+ Khi đã biết câu sai, muốn chữa được cần phải theo dõi mạch nội dung thông
tin để tìm hiểu xem câu bắt đầu đứt mạch, khó hiểu hoặc không hiểu được từ phần nào,
ý nào. Khi phát hiện được đúng điểm sai, ta rút gọn câu để tìm cấu trúc nòng cốt phù
hợp với một nội dung cần thể hiện. Cuối cùng đề xuất cách chữa.
+ Khi chữa xong, cần kiểm tra lại câu chữa xem đã đúng với tổ chức nội tại của
câu chưa và có thống nhất nghĩa với các câu khác của văn bản không. Nếu chưa đạt
yêu cầu thì xem xét lại và tìm cách chữa khác cho phù hợp.
2.1. Các lỗi về cấu tạo câu
2.1.1.Thiếu các thành phần nòng cốt của câu
Các thành phần nòng cốt của câu là những thành phần bắt buộc phải có mặt
trong câu để đảm bảo cho câu độc lập về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. Việc

49
lược bỏ các thành phần nòng cốt sẽ làm cho câu sai ngữ pháp, trở thành những “câu
què” - một lỗi rất nặng đối với người viết trong quá trình đặt câu.
a). Câu thiếu chủ ngữ
Ví dụ:
- Qua tác phẩm “Tắt đèn”/ cho ta thấy rõ cuộc sống đen tối của người nông dân
dưới ách áp bức của địa chủ, phong kiến.
- Bằng tiếng cười sâu sắc, chua cay/ đã thể hiện được tinh thần đấu tranh mạnh
mẽ của dân tộc ta.
Những câu trên do có quan hệ từ mở đầu nên mới chỉ có trạng ngữ mà người
viết nhầm tưởng là chủ ngữ. Phần đi sau là vị ngữ.
Có thể biểu thị qua sơ đồ sau:
Tr (qua...)
? // cho
ta thấy...
Tr (bằng...)
? // đã thể hiện...
Tuỳ theo ngữ cảnh và tuỳ theo câu, có thể có ba cách sữa những câu trên như
sau:
+ Biến trạng ngữ thành chủ ngữ bằng cách bỏ quan hệ từ:
- Tác phẩm “Tắt đèn” cho ta thấy...
- Tiếng cười sâu sắc, chua cay đã thể hiện...
+ Thêm chủ ngữ từ ngoài vào.
- Qua tác phẩm “Tắt đèn”, Ngô Tất Tố cho ta thấy...
- Bằng tiếng cười sâu sắc, chua cay, tác giả đã thể hiện...
+ Vẫn giữ quan hệ từ nhưng bỏ động từ chính của vị ngữ (cho, đã thể hiện...)
- Qua tác phẩm “Tắt đèn”, ta thấy...
Những câu sau đây cũng mắc lỗi tương tự như câu vừa dẫn trên.
- Từ các ví dụ vừa dẫn/ cho ta thấy các nhà văn nhà thơ hiểu rất rõ về
ngôn ngữ.
- Với tác phẩm “Chữ người Tử Tù” / đã làm cho sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Tuân bay bỗng khắp đó đây.
- Trong hoàn cảnh khó khăn/ đã giúp anh rèn luyện chịu đựng gian khổ.

50
b). Câu thiếu vị ngữ.
Loại này chỉ có chủ ngữ và thành phần biệt lập hay thành phần định ngữ giải
thích kéo dài mà người viết lại nhầm tưởng thành phần biệt lập đó là vị ngữ. Ví dụ:
- Nàng Kiều, cô gái sắc nước hương trời, cô gái tài hoa mà Nguyễn Du hết lời
ca ngợi.
Mô hình:
Nàng Kiều // V ?
[giải thích]
- Thành cổ, mà nay mang tên thị xã Quảng Trị, điểm dừng chân đầu tiên của
Nguyễn Hoàng.
Mô hình:
Thành cổ // V ?
[giải thích]
Có hai cách chữa những câu sai trên:
+ Thêm vị ngữ từ ngoài vào.
- Nàng Kiều, cô gái sắc (...) ca ngợi, đã bị xã hội phong kiến chà đạp.
- Thành cổ, (...) Nguyễn Hoàng, đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng.
+ Biến bộ phận biệt lập thành vị ngữ bằng cách bỏ dấu phẩy, thêm là.
-Nàng Kiều là cô gái sắc nước hương trời, cô gái tài hoa mà Nguyễn Du hết lời
ca ngợi.
- Thành cổ, mà nay mang tên thị xã Quảng Trị là điểm dừng chân đầu tiên của
Nguyễn Hoàng.
Những câu dưới đây đều mắc lỗi thiếu vị ngữ nói trên.
- Hồ Chủ Tịch, vị cha già kính yêu của dân tộc, lãnh tụ thiên tài của cách mạng
Việt Nam, người kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
- Thầy An, thầy hiệu trưởng gương mẫu, tận tuỵ hết lòng vì học sinh thân yêu,
người thầy được nhiều vị phụ huynh yêu mến.
c). Câu thiếu cả chủ ngữ lẫn vị ngữ.
Loại này chỉ có trạng ngữ và thành phần biệt lập, thành phần giải thích cho
trạng ngữ. Người viết thường nhầm tưởng thành phần biệt lập là vị ngữ, trạng ngữ là
chủ ngữ nên có cảm giác là câu đã hết.
Ví dụ 1:

51
- Trong thời kỳ 1930 - 1945, thời kỳ văn học hiện thực phát triển cao nhất.

Mô hình: Trạng ngữ (Trong thời kỳ)


C? // V?
Cách chữa:
+ Thêm C-V từ ngoài vào
- Trong thời kỳ 1930 - 1945, thời kỳ văn học phát triển cao nhất, các nhà văn
đã nhìn thấy một cách sâu sắc sự thối nát của xã hội đương thời.
+ Biến các thành phần có sẵn thành C và V, bỏ “trong” và dấu phẩy, thêm “là”.
- Thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ văn học hiện thực phát triển cao nhất.
Ví dụ 2:
- Trong những đức tính quý báu của chị Dậu, những đức tính đáng để phụ nữ ta
phải học tập, phát huy.
Câu trên chỉ có trạng ngữ và thành phần biệt lập, thiếu C - V
Cách chữa:
+ Thêm C - V từ ngoài vào
- Trong những đức tính quý báu của chị Dậu mà phụ nữ chúng ta đáng học tập,
thì đức tính quý báu nhất là chịu thương chịu khó.
+ Biến các thành phần có sẵn thành C - V, bỏ dấu phẩy, thêm “là”
- Những đức tính quý báu của chị Dậu là những đức tính đáng để phụ nữ ta
phải học tập, phát huy.
Những câu sau đều mắc lỗi tương tự
- Trong các tác phẩm dân gian, bằng sự hóm hỉnh, bằng trí tuệ thông minh sắc
sảo, bằng nghệ thuật gây cười độc đáo và đã kích sâu cay của mình với bọn thầy bói,
thầy cúng tham ăn, tham uống.
- Bằng trí tuệ sắc bền và thông minh của những người lao động đã đấu tranh
chống lễ giáo bảo thủ lạc hậu.
2.1.2. Loại câu ghép thiếu đoạn câu chính
Lỗi này là loại do người viết dùng cặp từ quan hệ hô ứng để tạo câu nhưng do
mới chỉ có một vế câu xuất hiện còn vế kia chưa có nên dẫn tới chỗ câu sai. Ví dụ:

52
1/ Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào những hình ảnh hoặc liên tưởng về tình dục
trong thơ Hồ Xuân Hương mà kết luận rằng toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương đều có yếu
tố tục và dâm.
2/ Vì tên Dậu là thân nhân của chị Đào đã gây ra nhiều rắc rối phiền hà đánh
cả người àm việc nhà nước.
Hai câu trên mới có đoạn câu phụ chỉ điều kiện và nguyên nhân mà thiếu đoạn
câu chính.
Cách chữa: Hoàn chỉnh hai câu trên bằng cách thêm đoạn câu chính vào.
Câu 1: ... thì chúng ta sẽ phạm sai lầm nghiêm trọng.
Câu 2: ... nên người nhà nước của chúng tôi phải nghiêm trị chồng của chị
Đào.
Những câu sau đây đều mắc những lỗi tương tự
- Mặc dù quân giặc đã dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ và dùng mọi cực hình tra tấn
chị hết sức dã man.
- Nếu ai đã từng làm quen với hình tượng người nông dân với cuộc sống vất vả,
cực nhọc, tối tăm ở nông thôn Việt Nam trong các tác phẩm văn học trước cách mạng
tháng Tám.
Bị chú: Để giúp viết đúng loại câu trên, người viết chỉ cần ghi nhớ các cặp quan
hệ từ liên kết thường được sử dụng trong câu ghép chính phụ:
+ Nguyên nhân - kết quả: vì ... nên; do ... nên; bởi ... nên; tại ... nên; nhờ ... nên
sở dĩ ... là vì.
+ Điều kiện - kết quả: nếu, giá, giá mà ... thì.
+ Nhượng bộ - tăng tiến: Tuy ... nhưng; dù ... nhưng.
+ Mục đích - kết quả: để, để cho ... thì.
2.1.3. Câu dùng quan hệ từ hay phó từ không đúng
Do không hiểu hết chức năng, ý nghĩa tình thái của quan hệ phó từ mà người
viết thường lúng túng khi dùng cặp quan hệ từ: hoặc ... hoặc, vừa ... vừa, càng ... càng,
không những ... mà còn, vừa ... đã, có ... mới, mới ... đã, chỉ có ... mới, chưa ... đã, bao
nhiêu ... bấy nhiêu, bao giờ ... bấy giờ, bao lâu ... bấy lâu,...
Các cặp quan hệ từ hay phó từ nói trên thường xuất hiện trong mô hình câu
ghép qua lại. Ví dụ:

53
1/ Bọn đế quốc càng đến gần thất bại thì bản chất tàn bạo dã man của chúng
đã bộc lộ hết sức rõ nét.
2/ Nam không những học giỏi mà anh ấy tham gia văn nghệ trong lớp rất sôi
nổi.
ở ví dụ thứ nhất, người viết dùng sai cặp từ “càng ... đã”.
ở ví dụ thứ hai, người viết dùng cặp quan hệ từ “không những ... mà” và khi đã
dùng cặp “không những ... mà còn” thì cả hai vế phải cùng chủ ngữ.
Cách chữa:
- Thay “đã” bằng “càng” (ở ví dụ 1)
- Biến hai vế có cùng chủ ngữ và thêm “còn” sau “mà” (ở ví dụ 2).
3/ Ngày nay bọn đế quốc không những phá hoại trường học, bệnh viện, khu
phố, cầu cống ở miền Bắc mà còn gây bao cảnh đau thương, chết chóc ở miền Nam.
(Câu sai: Ngày nay lửa không những cháy ở miền Nam mà bọn đế quốc đem lửa đốt
cháy trường học, bệnh viện, khu phố, cầu cống ở miền Bắc).
2.2. Các lỗi về logic - ngữ nghĩa
2.2.1. Câu sai logic
Loại này thường vi phạm những quy luật sắp xếp của tư duy hoặc sai hiện thực.
Ví dụ: - Anh ấy bị hai vết thương: một ở đùi, một ở Đèo khế.
Câu trên sai về logic, vì người viết đã chuyển hướng tư duy, làm cho ý nghĩa
câu văn trở nên không hợp lý. Ta có thể chữa câu sai này bằng hai cách sau:
1/ Anh ấy bị hai vết thương: một ở đùi, một ở cổ tay.
2/ Anh ấy bị hai vết thương: một ở Đèo Khế và một ở Đèo Ngang.
Những câu sau đây đều mắc lỗi về logic
- Ni cô chải tóc bên bờ suối
- Anh ta chết được một lúc, sau đó ngồi dậy.
- Họ úp cái nón lên mặt, nằm xuống ngủ một giấc cho đến chiều.
- Trong thanh niên nói chung và trong bóng đá nói riêng, chúng ta đều
làm được rất nhiều [...]
- Vì trời nắng, nên đường lầy lội.
2.2.2. Câu sai quy chiếu (sai trong liên kết câu)
Câu sai quy chiếu là câu có cấu trúc buộc người đọc hiểu một vật hay một
người này trong khi người viết muốn chỉ một vật hay một người khác.

54
Ví dụ:
1/ Sau khi thi đỗ, mẹ cho tôi cái đồng hồ.
Sự thật là con thi đỗ, được mẹ thưởng cho một cái đồng hồ. Nhưng viết như
trên, chúng ta có thể tạo cho người đọc ý nghĩ: Mẹ thi đỗ và mẹ cho con một cái đồng
hồ. Như vậy, là câu sai quy chiếu.
2/ Cách đây ba năm đứa con trai độc nhất của chị lại lên học trường cấp ba ở
huyện, còn lại một người mẹ ở ba gian nhà gạch trống trải, hiu quạnh.
Trong câu trên, người viết đang nói về ai? Đang nói về người mẹ hay về đứa
con? Trong phần trên, cụm từ “của chị” đã thông báo là đang nói về chị, nhưng ở phần
dưới lại dùng một cụm từ không xác định “một người mẹ”, vì thế nó không thể thay thế
cho “chị”, nghĩa là “chị” và “một người mẹ” không cùng một chiều vật (hay sở chỉ).
Cho nên, nếu muốn nói về người mẹ thì trong câu trên, phải thay “còn lại một người
mẹ” bằng “còn lại mình chị”. Còn như muốn nói về người con trai, thì cần bỏ đi cụm từ
“của chị” ở phần đầu, và ở phần sau, nên viết là “để lại một người mẹ”.
2.2.3. Câu mơ hồ
Một yêu cầu quan trọng trong giao tiếp, nói cũng như viết, là cần rõ ràng và
chính xác. Nếu không chú ý, chúng ta có thể tạo ra những câu sai, câu tối nghĩa, những
câu mâu thuẫn nhau hoặc những câu có thể hiểu như thế nào cũng được. Loại cuối
này, được gọi là câu mơ hồ.
Như vậy, câu mơ hồ là câu có thể chứa hai ba cách hiểu khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau.
Trong thực tế giao tiếp, có những câu ta nói thì rõ ràng (nhờ ngữ điệu), nhưng
viết ra lại là mơ hồ; ngược lại, có những câu ta viết thì rõ ràng (nhờ có dùng dấu ngắt
câu), nhưng nói thì lại mơ hồ; cũng có những câu nói hay viết đều mơ hồ cả. ở đây, ta
chỉ bàn về trường hợp câu viết mơ hồ.
2.2 3.1). Câu mơ hồ do hiện tượng mơ hồ từ vựng
Hiện tượng câu mơ hồ do từ vựng mơ hồ xảy ra do hai nguyên nhân sau:
a).Từ đồng âm khác nghĩa:
Ví dụ: 1). Chả ngon lắm.
2). Quần chúng rất tốt.
3). Anh có tin nó không?

55
Chúng ta thấy cả 3 câu trên đều gây mơ hồ do các từ đồng âm. Câu 1) có hai
cách hiểu do có hai từ “chả” đồng âm khác nghĩa: chả - “một thức ăn” đồng âm với chả
- “chẳng, không”.
+ Chả (thức ăn) ngon lắm.
+ Chả (không/chẳng) ngon lắm.
Câu 2) cũng do có hai từ đồng âm: quần chúng có yếu tố quần (bầy, đàn) đồng
âm với quần (áo), do đó có thể hiểu theo hai cách:
+ Quần chúng (nhân dân) rất tốt.
+ Quần (của) chúng (nó) rất tốt.
Tương tự, câu 3) cũng có hai cách hiểu do có hai từ đồng âm: tin là danh từ tin
tức, và tin là động từ tin tưởng:
+ Anh có tin (tức) về nó không?
+ Anh có tin (tưởng) nó không?
Trường hợp sau đây cũng được xem là câu mơ hồ do hiện tượng mơ hồ từ
vựng:
- Mình em trong chiếc áo thưa.
Chân không đội mũ, chân không có giầy.
b). Từ đa nghĩa:
Ví dụ:
1). Tiếng Huế nghe được không chị?
Câu này có thể hiểu theo hai cách:
1a). Theo sự đánh giá của chị, tiếng Huế nghe có hay không?
Và 1b). Chị có khả năng hiểu được, tiếp nhận được tiếng Huế không?
Tương tự, những câu sau đây cũng được xem là câu mơ hồ do từ đa nghĩa:
2). Cô ta phải lấy một tên khác.
3). Anh ta xem được không?
2.23.2). Câu mơ hồ do cấu trúc mơ hồ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến câu mơ hồ do cấu trúc mơ hồ, ở đây chúng tôi
chỉ nêu hai trường hợp thường gặp nhất :
a). Một cấu trúc nổi chứa hai cấu trúc chìm khác nhau:
Ví dụ: 1). Tôi đi hớt tóc.
Câu trên chứa hai cấu trúc chìm khác nhau, tức có hai cách hiểu khác nhau:

56
1a). Tôi đi (để người khác) hớt tóc (tôi).
1b). Tôi đi hớt tóc (người khác).

57
b). Câu chứa nhiều cấu trúc nổi khác nhau:
Câu có nhiều cấu trúc nổi khác nhau do đó nó chứa nhiều cấu trúc chìm khác
nhau, có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Ví dụ:
1). Tôi có người bạn học ở Huế.
Câu trên chứa hai cấu trúc nổi khác nhau, ứng với hai cách hiểu khác nhau:
1a). Tôi có người bạn học, (người này) ở Huế.
1b). Tôi có người bạn, (người này đang) học ở Huế.
Những câu sau đều mắc lỗi tương tự:
2). Mẹ con đi chợ chiều mới về.
3). Sinh viên năm một mới học tiếng Việt thực hành.

2.1.4. Câu sai phong cách


Loại này thường có biểu hiện phong cách viết không phù hợp văn bản cần thiết.
Ví dụ: Giấy mời
...............................................................................
................................................................................
Em vô cùng tha thiết trông đợi thầy đến dự buổi họp lớp của chúng em...
2.3. Các lỗi về dấu câu
2.3.1. Chức năng các dấu câu
* Dấu cuối câu
Những dấu cuối câu đều giống nhau ở chức năng phân tách câu trước và câu
sau nhưng khác nhau ở nội dung thông báo, ở ý nghĩa tình thái, tức thái độ của người
nói đối với hiện thực.
a). Dấu chấm (.)
-Thường dùng cuối câu tường thuật khi kết thúc một ý trọn vẹn về ý nghĩa. Đầu
câu viết hoa, cuối câu sử dụng dấu chấm.
Ví dụ:
San đi học còn Thứ ở nhà. Y chẳng làm gì. (Nam Cao)
- Ngoài ra do mục đích tu từ, mục đích nhấn mạnh, dấu chấm còn được dùng
cuối câu đặc biệt (hay câu đơn phần).
+ Để miêu tả sự xuất hiện, sự tồn tại, sự biến mất của một hiện tượng.
Ví dụ:

58
Bình minh đang thức dậy. Một ánh đèn chiếu xa. Một ánh sao chưa tắt. Một
chút ánh sáng hồng đang còn le lói trên mặt ruộng lúa mới lên đòng.
Mùa xuân! Mọi vật như có sự đổi thay kỳ diệu. Những luồng ánh sáng rực rỡ. Những
làn mây xốp nhẹ. Những cánh hoa muôn màu. Những tiếng họa mi lánh lót vang xa.
+ Để tách một bộ phận nào đó từ câu đầy đủ nhằm mục đích nhấn mạnh. Có thể
tách trạng ngữ, bổ ngữ, vị ngữ...
Ví dụ:
- Đành phải vào nằm màn đắp chăn nhưng không sao ngủ được. Nghĩ loăng
quăng. Vợ con. Bà cụ Chẩn. Gia đình anh ta. Bà cụ Mán. (Nam Cao)
Tách vị ngữ: nghĩ loăng quăng.
Tách bổ ngữ: Vợ con; bà cụ Chẩn.
- Cá ở sông Hiền Lương có nhiều thứ. Từ bến Tắt ngược lên lại còn nhiều cá
hơn nữa. Cá bép. Cá xình. Cá trào. Cá lâu. (Nguyễn Tuân)
Tách bổ ngữ: Cá bép, cá xình...
-Huấn đi về trạm máy. Một mình. Trong đêm. (Nguyễn Thị Ngọc Tú)
Tách bổ ngữ cách thức và bổ ngữ thời gian.
- Người ta cứ dềnh dàng gặt. Như lo lắng. Như chờ đợi. (Tô Hoài)
Tách bổ ngữ có quan hệ từ.
Tách vế câu ghép.
Ví dụ:
- Chúng ta nhất định thắng. Bởi vì chúng ta có chính nghĩa. Bởi vì nhân dân ta
đoàn kết một lòng. Bởi vì nhân dân thế giới ủng hộ ta.
Tôi mời lão hút thuốc. Nhưng lão không nghe. (Nam Cao)
b). Dấu chấm hỏi (?)
- Loại này thường dùng cuối câu nghi vấn trực tiếp hoặc câu nghi vấn tu từ. Ví
dụ:
Cháu đã về đấy ư ?
Cô ta chưa về à ? câu nghi vấn trực tiếp.
Em không nghe mùa thu ? câu nghi vấn tu từ.
Đối với loại câu nghi vấn gián tiếp thì không dùng dấu chấm hỏi ở cuối câu.
Ví dụ:
Anh ấy không hiểu thế nào là thực bất tri kỳ vị.

59
- Dùng để biểu thị sự thắc mắc, hoài nghi của người nói về một tình huống nhất
định. Trong những trường hợp này dấu chấm hỏi được sử dụng không cần lời bình
chú. Có khi thêm cả dấu chấm than. Ví dụ:
- Đố cậu trên đầu tớ có bao nhiêu sợi tóc ?
Một triệu, năm vạn, hai nghìn, bốn trăm, hai mươi mốt sợi.
- ???!!!
Nếu cậu không tin, cứ đếm thử xem.
- Dùng trong câu hỏi nhưng kỳ thực là lời đáp.
- Em có phải là cô bé lọ lem không?
- Sao anh lại tò mò như vậy?
(Hoa học trò)
c). Dấu chấm than (!)
+ Loại này thường dùng cuối câu cảm thán, biểu thị cảm xúc chủ quan.
Ví dụ:
-Than ôi ! Sắc nước hương trời !
-Đẹp thật !
-Ghê gớm thật !
+ Biểu thị mệnh lệnh, thúc giục cổ vũ, động viên.
Ví dụ: -Đi vào nhà kẻo nắng, cháu !
-Cháu rửa mặt đi, rồi nghĩ kẻo mệt !
(Tập đọc 4, 16)
-Gắng tí nữa !
-Chờ một lát !
+ Biểu thị sự gọi đáp, hiệu triệu.
Ví dụ: - Bà ơi !
- Ba ơi ! Có khách của ba đây này.
+ Biểu thị sự mỉa mai
Ví dụ:
-Cách đây mấy hôm, Kì còn huênh hoang rằng hắn sẽ chọn cái chết anh hùng
và tuyên bố: chạy ra nước ngoài làm gì ? Để làm thuê, làm đĩ hay đầu bếp cho ngoại
bang !
(Báo nhân dân ngày 1.5.1975)

60
+ Có khi dấu chấm than được dùng kèm dấu chấm hỏi (?) hay dấu ba chấm (...)
để biểu thị sự nghi ngờ, ngạc nhiên không nói hết ý.
Ví dụ:
-“Thị có một cái chân đau” nên không buồn nghĩ đến ai ngoài cái chân đau của
mình ?!
(Dương Phương Minh)
- Thôi ! Đi nhé, đừng buồn (!?)
- Lão chua chát bảo:
Ông giáo nói phải ! kiếp con chó là kiếp khổ thì ta mới hóa kiếp cho nó để nó
làm kiếp người, may ra nó có sung sướng hơn một chút... kiếp người như tôi chẳng
hạn!... (Nam Cao)
+ Để biểu thị sự ngạc nhiên, có thể dùng ba dấu chấm than đi liền, không cần
lời bình.
Ví dụ:
-Bà ta là người phụ nữ chính chuyên !!!
d). Dấu ba chấm (...)
Loại này có thể đặt ở cuối câu, giữa câu hoặc đầu câu nhưng nhiều hơn, phổ
biến hơn là cuối câu.
- Dùng để biểu thị sự đứt quãng của lời nói do xúc động, do hơi thở yếu, do
ngắc ngứ.
Ví dụ:
- Ai đấy ?
- Ta ào ! Ta ào ... đây ! Cụ ...đây ! Nằm im !
(Ngô Tất Tố)
- Ông ...bà...giữ...lấy...nó...cho ...tôi...
(Nguyễn Công Hoan)
+ Dùng để biểu thị sự liệt kê nói không hết ý hoặc người nói cố tình bỏ lửng.
Loại này về hình thức thì kết thúc câu nhưng nội dung thì vẫn còn do suy ý.
Ví dụ:- Mẹ mua sách, vở bút, mực...
- Còn em thì ...
+ Dùng để biểu thị sự nối tiếp một bộ phận lời nói.
Ví dụ: - Tiếng hát của Loan vẫn còn vẳng ra:

61
... Mé đồi quê anh bước, trăng non ló đỉnh rừng...
+ Dùng để biểu thị sự mỉa mai.
Ví dụ: - Giơ tay hàng tuốt quân ta
Té ra công sự chỉ là công ...toi.
(Tú Mỡ)
- Cái xà lim Mĩ nên rất ...mĩ...
* Dấu giữa câu
a). Dấu phẩy (,)
+ Dùng để tách trạng ngữ đứng đầu câu và phần còn lại của câu.
Ví dụ:
- Với vẻ dịu dàng, chị đã kiên nhẫn chăm sóc thương binh suốt 10 năm liền.
- Để đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới, chúng ta cần cố gắng nhiều hơn.
+ Dùng để tách đề ngữ với nòng cốt C-V của câu chính. Ví dụ:
- Cô Loan, tôi vẫn còn nhớ rõ.
- Giàu, tôi cũng giàu rồi.
- Bài thơ anh, anh mới làm một nửa.
Còn một nữa cho mùa thu làm lấy. (Chế Lan Viên)
+ Dùng để tách ranh giới các thành phần biệt lập được xen vào trong câu.
- Mùa xuân ấy, một mùa xuân sáng ấm và đầy kỷ niệm, vẫn còn khắc sâu vào
trong tâm khảm tôi.
- Rồi một hôm nào đó, chắc hai cậu bàn nhau mãi, hai cậu bèn rủ Oanh
chung vốn mở một ngôi trường.
(Nam Cao)
+ Dùng để tách các thành phần đẳng lập hay vế câu ghép đẳng lập.
- Anh dắt em vào cõi Bắc xưa,
Vườn xoài hoa trắng, nắng đu dưa.
(Tố Hữu)
- Học ăn, học nói, học gói, học mở.
(Tục ngữ)
+ Dùng để tách ranh giới thành phần chuyển tiếp với nòng cốt C-V của câu
chính.
- Tuy vậy, tôi đã buồn. Buồn đến nỗi không ngủ được.

62
- Tóm lại, đó là một công việc khó đối với tôi.
+ Dùng để tách bộ phận được nhấn mạnh với nòng cốt của câu.
- Y đi may một bộ hàng tơ, ba mươi đồng, thật.
(Nam Cao)
- Anh ta, dầu năm lần thi thất bại, vẫn đi thi đấu lần này.
b). Dấu hai chấm (:)
+ Dùng để đặt trước lời dẫn trực tiếp, đi kèm dấu ngoặc đơn.
- Mác nói: “Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy”.
+ Dùng trước những từ mang ý nghĩa liệt kê
- Tôi cần: thước, compa, bút chì.
+ Dùng trước lời của nhân vật hội thoại trực tiếp. Lời nhân vật phải xuống
dòng, có gạch ngang đầu dòng.
-Ngừng một lát, Bác hỏi Hào:
- Chú có biết phải qua tay bao nhiêu người mới làm ra một que diêm không?
- Thưa Bác có ạ !
Bác ân cần nhắc nhở:
- Vì vậy mỗi khi dùng một que diêm, chúng ta cũng phải nghĩ tới công sức
của bao nhiêu người ! (Tiếng Việt 2)
+ Dùng trước cụm từ, vế câu mang ý nghĩa cần được giải thích.
- Hoa bưởi thơm rồi: Đêm đã khuya.
(Việt Phương)
- Nhưng rồi một sự kiện trọng đại đã đến: Cách mạng thành công ở
nước Nga rộng mênh mông. (Hồng Hà)
c). Dấu chấm phẩy (;)
+ Loại này có tính chất trung gian giữa dấu chấm và dấu phẩy để tách những
đoạn câu đẳng lập trong câu ghép, trọn vẹn về ngữ pháp và liên quan về ý nghĩa rất
chặt.
- Sáng tạo là một vấn đề rất quan trọng; không sáng tạo không làm cách mạng
được.
- Anh cầm tạm chỗ này để uống rượu, còn để tôi bán cho anh mảnh vườn;
không có vườn có đất thì làm ăn gì ?

63
+ Dùng để tách những thành phần đẳng lập có tính chất liệt kê hoặc với mục
đích gom lại thành từng nhóm yếu tố thống nhất theo từng phạm vi ý nghĩa.
- Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt, mí
mắt hơi có cạnh và xung quanh mắt có quầng; má đã hóp lại khiến mặt hơi có cạnh.
(Nam
Cao)
- Các số 1, 3, 5, 7; 2, 4, 6, 8 đều là số tự nhiên.
3.1.3) Dấu đặc biệt
a). Dấu ngoặc đơn ( )
+ Dùng để tách những lời chú giải, ghi chú, giải thích cho bộ phận đứng trước.
- Anh ta buồn (vì sao chắc em hiểu)
- Cô bé nhà bên (có ai ngờ) cũng vào du kích.
(Giang Nam)
- Tay này đã ở trên Hà Nội, tất phải là tay khá lắm (đối với hắn, cái gì ở Hà
Nội cũng là khá cả. Không khá, sao nó có góp mặt được với dân Hà Nội ?). Vậy thì
lão thầy bói Hà Nội chắc phải xem bói giỏi lắm.
(Nam Cao)
+ Để ghi chú tên một bài thơ, tên tác giả, năm xuất bản... để nói lên sự am hiểu
tường tận của người viết về những xuất xứ có liên quan.
-Trường Sơn tây anh đi, thương em,
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo.
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo,
Hết rau rồi, em có lấy măng không ?
(Thơ Việt Nam 1947 - 1975, Phạm Tiến Duật, tr.86).
- Anh không xứng là biển xanh,
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng.
Bờ cát dài phẳng lặng,
Soi ánh nắg pha lê.
(Thơ Việt Nam 1947 - 1975, Xuân Diệu, tr.74)
+ Có khi chỉ có dấu ngoặc đơn, còn phần nội dung tuỳ người đọc suy diễn.
- Em thường cho mình là người thông minh ( ).
b). Dấu ngoặc kép “ ”

64
+ Thường đặt trước lời nói trực tiếp, có cả dấu hai chấm (:)
- Lênin dạy: “Học, học nữa, học mãi”.
+ Dùng để đánh dấu tên riêng của một bài hát, một điệu nhạc, một địa danh,
một tác phẩm...
- Cuốn “Chiến tranh và hoà bình” của L.Tônxtôi.
- Dốc “Tắt thở”, đèo “Ba dội”.
- Điệu múa “Hoa chămpa” do đoàn văn công Quân khu IV biểu diễn rất đẹp.
+ Dùng để biểu thị một sự mỉa mai.
- Nó chỉ đánh giặc “mồm”.
- Cô ta rất thông “thông minh”.
c). Dấu gạch ngang (-)
+ Dùng để tách thành phần giải thích có tính biệt lập với bộ phận còn lại của câu.
- Tôi - Nguyễn Văn An, xin thưa với các bạn vài lời.
- Cô Bạch Nhạn - phải đấy, bởi vì cô đã thề độc đứa nào bêu cái tên cúng
cơm của cô - cô Bạch Nhạn buồn lắm. (Nguyễn Công Hoan)
+ Dùng đầu câu đối thoại.
Đám người gọi to:
- Chúng tôi đến giúp anh em đây.
+ Dùng để đặt giữa hai hay nhiều từ có quan hệ đồng đẳng.
- Tình hữu nghị Việt - Lào.
- Hà Nội - Huế - Sài Gòn.
+ Dùng trước các cụm từ, vế câu mang ý nghĩa liệt kê đồng đẳng trên trục dọc.
Năm điều Bác Hồ dạy:
- Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào.
- Học tập tốt, lao động tốt...
2.3.2. Các lỗi về dấu câu
a). Chấm hỏi (trong câu trần thuật):
 Anh cần biết rõ rằng nó đi đâu ? (Anh cần biết rõ nó đi đâu. - thay dấu chấm hỏi
bằng dấu chấm, bỏ rằng).
 Tôi không biết rằng nó muốn gì ? (Tôi không biết nó muốn gì).
 Thử tìm hiểu cho rõ rằng ai là người muốn biết nó buôn những gì ? (Thử tìm hiểu
xem ai là người muốn biết nó buôn những gì.).

65
 BC. Những câu trên đều là những câu trần thuật (khẳng định hay phủ định),
chứ không phải là những câu hỏi (tuy trong câu có một câu hỏi làm bổ ngữ, và chính
do đó mà học sinh tưởng những câu này là câu hỏi). Cần có những bài tập để phân
biệt các câu trên với loại câu hỏi được dẫn trực tiếp thường là viết giữa hai ngoặc
kép:
Tôi xin hỏi anh điều này: “Nó đi đâu ?”
Có một điều tôi chưa thật rõ: nó muốn gì ?
Một hôm nó hỏi tôi: “Ai là người muốn biết nó buôn những gì ?” (trong câu này,
dấu chấm hỏi đi với đại từ nghi vấn ai, chứ không phải với đại từ bất định những gì).
Tuy nhiên có những câu, mặc dầu không phải là câu hỏi chính danh, nhưng có
thể chấm hỏi khi kết thúc. Đó trước hết là những câu hỏi có lực ngôn trung khẳng định
(A) hay phủ định (B) (câu “ phản bác”), nhưng có hình thức nghi vấn hiển ngôn (phát
âm với ngữ điệu hỏi, dùng tiểu từ nghi vấn hay đại từ nghi vấn, có ý chờ đợi một sự
phản hồi), như
A.
Anh chẳng nói thế là gì ?
Chẳng phải thế hay sao ?
Mày sợ nó chứ gì ?
Chứ còn gì nữa ?
Chẳng lẽ anh không biết ?
B.
Làm gì có ?
Tôi có biết gì đâu ?
Tôi đã lĩnh tiền đâu ?
Nó thì chăm gì ?
Đời nào nó lại chịu?
b). Chấm lửng và vân vân:
 Họ đem theo thịt muối, bánh mì, cá hộp... để ăn trưa. (Họ đem theo thịt muối,
bánh mì, cá hộp,v.v. để ăn trưa).
 BC. Chấm lửng không thể dùng thay cho v.v. (vân vân).
“Vân vân” có nghĩa chính xác là “và những thứ khác cùng loại”, “và những
người khác”, “và những con khác”, v.v. Trong khi đó, chấm lửng [ ... ]có nghĩa là câu

66
chưa nói hết, hoặc cho biết rằng ở đây có một quãng im lặng, hoặc vì người nói đang
phân vân không biết có nên nói tiếp hay không, hoặc vì người nói đang chọn từ ngữ.
Sau [ ... ] có thể có một câu hay một phần câu viết chữ thường: như thế có nghĩa là
sau đó câu được nói tiếp; nếu câu sau nói sang chuyện khác nhưng vẫn có liên quan
đến câu trước, thì sau [... ] có thể đánh dáu phẩy.
Nếu câu trước bị bỏ hẳn (người nói định chuyển sang một chuyện khác), thì sau
[... ] hay [... ] ta có một câu có chữ đầu viết hoa. Cần làm cho người học thấy rằng
v.v. là một từ viết tắt chứ không phải là một cách chấm câu. Sau v.v. có thể có hoặc
không có bất kỳ dấu chấm câu nào: điều này hoàn toàn lệ thuộc vào cú pháp của câu
đang viết.
c). Chấm câu sau rằng và là:
 Trong lời khai của bị cáo có nói rằng: lúc ấy bị cáo không trông thấy nạn nhân đi
qua. (Bỏ hai chấm sau rằng: Trong lời khai của bị cáo có nói rằng lúc ấy bị cáo
không trông thấy nạn nhân đi qua).
 Quý khách đến tham quan Nhà lưu niệm cần ghi nhớ những điểm sau đây: Một
là: tắt thuốc lá trước khi vào, Hai là: bỏ giày dép ở hành lang. (Bỏ hai chấm sau
là).
 BC. Trong tiếng nói bình thường, rằng và là khi được dùng làm liên từ sau
các vị từ nhận thức - phát ngôn (như biết, nghĩ, cho, nói, bảo) có chức năng dẫn nhập
tiểu cú làm bổ ngữ cho các vị từ này, đồng thời đánh dấu sự “xuống cấp” của câu phụ
(không còn là câu, mà chỉ còn là phụ ngữ), và không bao giờ mang trọng âm cho nên
được phát âm liền với từ đi sau và được tách rời khỏi từ đi trước (là một vị từ có trọng
âm). Vì vậy cách chấm câu như trên là không đúng và dẫn đến những chỗ ngừng rất
kỳ quặc trong cách ngắt câu của các phát thanh viên.
d). Dùng nhầm các dấu ngoặc đơn, ngoặc kép, vạch dài và ngang nối
Nhiều học sinh, sinh viên dùng những ký hiệu này mà không hiểu cho thật rõ
mỗi ký hiệu có nghĩa gì, và dùng vào những chỗ nào. Sau đây là đôi điều cần nhớ để
khỏi dùng nhầm.
Ngoặc đơn “( ... )” là một cách chú thích để làm rõ nghĩa thêm một từ, một ngữ
hay một câu. Nó là một phần hoàn toàn độc lập đối với câu, không có chức năng cú
pháp gì trong câu chứa đựng nó.
Sau khi mở ngoặc, bao giờ cũng phải nhớ đóng ngoặc khi kết thúc lời chú thích.

67
Vạch dài “ - ” cũng có chức năng tương tự như ngoặc đơn, nhưng thường dùng
hơn khi điều cần chú thích là một câu trọn vẹn tương đối dài. Cũng như ngoặc đơn, nó
bao giờ cũng đặt ở cả hai đầu của phần chú thích. Hiện nay có thói quen thay vạch dài
bằng dấu ngang nối. Đây là một sự lẫn lộn rất có hại, vì chức năng của hai ký hiệu này
hoàn toàn ngược nhau - một bên có công dụng chia tách một câu ra khỏi hai câu đứng
hai bên, một bên có công dụng nối liền hai từ đứng cạnh nhau thành một từ ghép.
Vì tiếng Việt có nhiều kiểu ghép từ khác nhau, cho nên có nhu cầu phân biệt
thật rõ cách viết ba ký hiệu sau đây:
1, Ngang nối sát: cà-phê
2, Ngang nối có khoảng cách: nhận thức - phát ngôn
3, Vạch ngang dài (dấu ngăn cách): - Khoan đã ! - nó nói thế - nhưng tôi cứ
cắm đầu đi thẳng.
Ii. Từ trong văn bản
1. Từ và từ tiếng Việt
1.1. Định nghĩa từ
Từ là đơn vị cơ bản, là đơn vị cốt lõi để tạo nên những đơn vị lớn hơn như cụm
từ, câu, văn bản. Từ là đơn vị hết sức quan trọng, giống như viên gạch để xây dựng
nên tòa lâu đài ngôn ngữ. Vì vậy, từ là đối tượng nghiên cứu, khảo cứu của cả 4 phân
ngành: ngữ âm (mặt âm thanh của từ), từ vựng (mặt ý nghĩa của từ), ngữ pháp (mặt kết
hợp của từ) và phong cách (nghệ thuật sử dụng từ).
Vậy, Từ là gì ?
Có nhiều quan niệm khác nhau về từ dựa trên những tiêu chí ngôn ngữ học khác
nhau. Để giản tiện, chúng tôi quan niệm: Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một
hoặc một số âm tiết, có nghĩa nhỏ nhất, có cấu tạo hoàn chỉnh và được vận dụng tự
do để cấu tạo nên câu.
1.2. Phân loại từ
Xét về mặt cấu tạo, từ tiếng Việt có từ đơn và từ phức. Trong từ phức lại chia
nhỏ ra thành từ ghép và từ láy.
Xét về mặt số lượng nghĩa, từ được chia thành từ một nghĩa và từ nhiều nghĩa.
Trong từ nhiều nghĩa lại chia ra thành nghĩa chính và nghĩa chuyển.
Xét về mặt quan hệ giữa âm và nghĩa, từ được chia thành: từ đồng âm, từ đồng
nghĩa, từ trái nghĩa.

68
Xét về mặt nguồn gốc, từ được chia thành từ Hán Việt và từ thuần Việt.
Xét về mặt phạm vi sử dụng, từ được chia thành từ toàn dân và từ địa phương.
Xét về mặt phong cách, từ được chia thành từ đơn phong cách và từ đa phong
cách.

69
1.3. Từ vựng và đơn vị từ vựng
Từ vựng gồm những đơn vị có nghĩa có tính xã hội, được xã hội hoặc toàn xã
hội chấp nhận và sử dụng. Nó khác với những đơn vị có nghĩa do cá nhân vận dụng
vốn từ vựng sẵn có để tạo ra trong lời nói của mình, như cụm từ hay ngữ tự do và câu.
Vì vậy, có thể nói: từ vựng là đơn vị có nghĩa có sẵn trong ngôn ngữ, phân
biệt với cụm từ và ngữ tự do và câu là những đơn vị có nghĩa của lời nói do những
cá nhân tạo ra. Từ vựng gồm có những từ tố có nghĩa trong ngôn ngữ (như: thuỷ, hoả,
xa, nguyệt, quốc, thiên...), những từ đơn và từ phức (như: điện, đường, trường, trạm,
đẹp đẽ, đất đai, xe hỏa, xe đạp, xe ba gác, dưa gang, dưa hấu... ) và những ngữ cố
định. Ngữ cố định có hai loại chính: thành ngữ (như: ăn ốc nói mò, thọc gậy bánh xe,
đầu đi đuôi lọt, ti hí mắt lươn...) và quán ngữ (như: của đáng tội, chân vòng kiềng, mắt
lá răm, thèm của chua, ác một nỗi, cái gọi là...)
Như vậy, số lượng của từ vựng rất lớn, có thể lên đến hàng chục vạn, thậm chí
hàng trăm vạn, nếu kể cả thuật ngữ khoa học. Một khối lượng lớn thuật ngữ khoa học
là quán ngữ. Một cá nhân, dù giỏi đến đâu, cũng không thể nào nắm hết toàn bộ từ
vựng một ngôn ngữ.
2. Các lỗi thông thường về dùng từ trong văn bản
Hằng ngày, chúng ta thường nhắc nhau phải dùng từ cho giản dị, trong sáng, dễ
hiểu, và tránh dùng tràn lan những từ Hán Việt, từ cổ, gây khó hiểu cho người đọc,
người nghe. Hay nói cách khác, dùng từ chính xác, phong phú, câu văn sẽ trong sáng,
rõ ràng, ta sẽ làm cho người đọc hiểu đúng, hiểu sâu những điều ta muốn nói; ngược
lại, dùng từ sai lầm, mơ hồ, câu văn sẽ tối nghĩa nhạt nhẽo, sẽ khiến cho người đọc
hiểu nhầm, hiểu không hết không hết nội dung ngữ nghĩa ta muốn truyền đạt. Vậy, yêu
cầu căn bản của việc dùng từ trước hết, là phải dùng đúng: đúng âm thanh, đúng ý
nghĩa, đúng qui tắc ngữ pháp, đúng phong cách ngôn ngữ.
Như vậy, lỗi về dùng từ trong văn bản là những trường hợp sử dụng từ không
đáp ứng được những yêu cầu về dùng từ đã nêu trên. Có thể nêu một số lỗi dùng từ
trong văn bản như sau:
2.1. Dùng từ không đúng âm
Lỗi dùng từ không đúng âm liên quan đến các lỗi về chính tả. Việc dùng từ
không đúng âm là do người sử dụng không nắm thật chắc hình thức ngữ âm, nghe âm

70
này lại chệch sang âm khác, hoặc các âm gần nhau nên lẫn lộn, không phân biệt được.
Ví dụ:
- Người cán bộ Cách mạng lại bàng quang trước phong trào thì ra gì nữa?
“bàng quang” (danh từ) là tên gọi nhã của “cái bọng đái”, không thể phù hợp với
câu trên. ở đây, người viết đã nhầm lẫn “bàng quang” với “bàng quan” (động từ) có
nghĩa là “đứng ngoài mà nhìn, coi như không dính dáng gì đến mình”.
Sau đây là danh sách những từ mà người viết hay mắc lỗi về dùng từ không đúng âm:
Dùng từ đúng Dùng từ sai.
Biểu ngữ biển ngữ
Cảm khái cảm khoái
Phản ánh phản ảnh
Sáp nhập sát nhập
Thuỷ mặc thuỷ mạc
Sử dụng xử dụng
Xán lạn sán lạng
Bôn ba buôn ba
Tâm khảm tâm cảm
Quyên góp khuyên góp
Lông quặm lông khoặm
Muông thú muôn thú
An dưỡng ăn dưỡng
Oan khốc oan khóc.
Tuy nhiên, một số từ, do thói quen phát âm trại từ xưa, ta có thể chấp nhận với
hai khả năng: Bạc mệnh = bạc mạng, đại bằng = đại bàng, thượng tằng = thượng
tầng, sứ mệnh = sứ mạng, bặm môi = bậm môi, đày tớ = đầy tớ, màu nhiệm = mầu
nhiệm, gai góc = gai gốc, thật thà = thực thà, ..
Có những đơn vị từ vựng hiện nay viết và đọc sai với ngữ âm nguyên thuỷ của
nó, nhưng đã trở thành thói quen ngôn ngữ, thì sẽ không xem là lỗi. Ví dụ:
* Thống kê, nếu đọc đúng âm Hán Việt phải là thống kế, nhưng hiện đã quen
dùng. Vả lại, còn có những trường hợp khác cũng đã dùng kê, như kê biên tài sản, kê
khai v.v.

71
* Lai căng , vốn có nghĩa là “ từ một gốc khác đến”( lai dị căn lai căn), nhưng
nay sẽ là cố chấp nếu buộc phải viết lại là lai căn. Vả lại, lai căng hiện đã có nghĩa là
“ có pha tạp nhiều yếu tố ngoại lai sống sượng, trở nên lố lăng ”. nghĩa này đã có biến
đổi so với nghĩa nguyên thuỷ.
2.2. Dùng từ không đúng nghĩa
Việc dùng từ không đúng nghĩa là do không nắm vững ý nghĩa của từ. Nghiã của từ
là hiện tượng rất phức tạp, không phải cứ ai là người bản ngữ là có thể phân biệt được
những nét tế nhị về ngữ nghĩa của một từ trong những hoàn cảnh khác nhau, cũng như
nhận định rõ những dị biệt ngữ nghĩa tinh tế giữa hai từ khác nhau. Khi dùng từ nào
mà ta chỉ hiểu nghĩa của nó một cách mơ hồ, thì ta nên tra các từ điển, xem kỹ các
nghĩa của nó cùng các ví dụ về cách dùng của nó.
Hiện tượng dùng từ không đúng nghĩa thường gặp trong những trường hợp sau
đây:
2.2.1. Nhầm lẫn những từ có hình thức ngữ âm gần nhau, mà nghĩa khác nhau
* Nhầm lẫn văn học với văn chương:
Theo Phan Kế Bính, trong Việt Hán văn khảo, “văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng”,
đem tính tình tư tưởng diễn ra thành lời nói sáng đẹp gọi là văn chương; vì vậy, văn
chương là những thành tựu mỹ thuật, những sáng tác nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất
liệu. Còn văn học là khoa học nghiên cứu về văn chương. Bởi vậy, nên gọi Truyện
Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm văn chương, chứ không phải là tác phẩm văn
học; ngược lại, những công trình nghiên cứu như “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc, “Thi pháp Truyện Kiều” của Trần Đình Sử là
những tác phẩm văn học, chứ không phải là những tác phẩm văn chương.
* Nhầm lẫn nhược điểm với yếu điểm:
Nhược điểm và yếu điểm thường được hiểu nhầm là đồng nghĩa; trong khi chúng lại
là hai từ đối lập nhau về nghĩa. Nhược là “yếu đuối”, nhược điểm là “điểm yếu kém”;
còn yếu (Hán Việt) là “trọng đại”, yếu điểm là “điểm quan trọng”. Cần phân biệt yếu
điểm (tiếng Hán Việt) với điểm yếu (tiếng Hán Việt + tiếng Thuần Việt). Vì vậy,
không thể nói và viết kiểu như : “ không chịu được gian khổ là yếu điểm duy nhất của
anh ta ”.
* Nhầm lẫn bình thường với tầm thường:

72
Bình thường là không có gì khác thường, không có gì đặc biệt. Ngày bình thường là
ngày giống như những ngày khác. Chuyện bình thường là chuyện không có gì lạ,
không có gì đáng chú ý. Bình thường trong quan hệ bình thường, sức khoẻ trở lại bình
thường, con người bình thường, v.v. cũng được hiểu với nghĩa tương tự. Bình thường
mang sắc thái trung hoà về nghĩa nên có thể nói : những con người bình thường mà vĩ
đại.
Khác với bình thường, tầm thường là thấp hơn mức thường, không có gì đặc
sắc, thường hàm ý chê: con người tầm thường, lối sống tầm thường, ước muốn tầm
thường... Vì vậy, không thể viết: những con người tầm thường mà vĩ đại (!).
* Nhầm lẫn phong phanh với phong thanh:
Phong phanh với phong thanh là hai từ rất giống nhau về âm nên dễ dùng lẫn
lộn, kiểu như: nghe phong thanh / nghe phong thanh... Thực ra thì nghĩa của hai từ này
hoàn toàn khác nhau.
Phong phanh có nghĩa là: 1) nói quần áo mặc ít và mỏng, ví dụ: Trời lạnh thế
mà con chỉ mặc phong phanh có mỗi một cái áo!, 2) nói tình trạng che chắn mỏng
manh, không kín đáo, ví dụ: của ngõ phong phanh, không chắc chắn. Trong khi,
phong thanh là một từ Hán Việt, được ghép từ hai yếu tố : phong là gió, thanh là tiếng.
Do đó, phong thanh có nghĩa đen là tiếng bay trong gió, nghe trong gió. Trong tiếng
Việt hiện nay, phong thanh thường được dùng với nghĩa bóng là tiếng đồn, tin đồn
chưa chắc lắm, ví dụ: nghe phong thanh người ta sắp làm đường qua đây... Với nghĩa
này, phong thanh gần nghĩa với phong văn. Song phong văn rất ít được sử dụng.
2.2.2. Nhầm lẫn những từ có âm gần nhau và nghĩa gần nhau
* Nhầm lẫn thu nạp với thu nhập:
Thu nạp được từ điển ghi nhận nghĩa là “ thu nhận vào, thưòng là trong một tổ
chức”. Ví dụ: thu nạp hội viên mới. Thu nạp nhân tài. Còn thu nhập là “ nhận được tiền
bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó”. Ví dụ: hàng năm thu nhập được một
khoản lớn từ ao cá. Vì vậy, nếu dùng lẫn lộn về hai từ đó thì sai về nghĩa ở phương
diện phạm vi sử dụng.
* Nhầm lẫn cổ nhân với cố nhân:
Hai từ cổ nhân với cố nhân có âm gần nhau nhưng nghĩa khác nhau. Cổ chỉ quá
khứ xa, cố chỉ quá khứ gần. Cổ nhân là người đời xưa, còn cố nhân là người bạn cũ,
người tình cũ.

73
* Nhầm lẫn duy nhất với độc nhất:
Duy nhất và độc nhất đếu có ngiã là “ chỉ có một, không có cái hoặc người thứ
hai ”. Nhưng khi muốn nhấn mạnh về mặt số lượng đơn thuần, chỉ có một mà thôi, thì
ta dùng độc nhất : đứa con độc nhất, chiếc cầu độc nhất bắc qua sông, cây dừa độc
nhất còn lại sau trận bom...
Duy nhất cũng dùng để nói về số lượng chỉ có một, nhưng đồng thời cũng nhấn
mạnh về chất lượng, về một tính chất, tiêu chuẩn nào đó: không có cái hoặc người thứ
hai nào khác có được tính chất, được tiêu chuẩn như thế. Nói “ý kiến duy nhất đúng”
tức là nói tuy có nhiều ý kiến, nhưng chỉ có một ý kiến đó là đúng, không có ý kiến thứ
hai.
Do vậy, không thể viết : “anh Tâm là người cán bộ độc nhất mà ông tin cậy”,
mà phải thay từ độc nhất bằng từ duy nhất, câu văn mới được chấp nhận đúng.
2.3. Ngoài ra, việc dùng từ không chính xác, không phù hợp với sự kết hợp
nghĩa hạn chế của nó cũng dẫn tới lỗi về dùng từ không đúng nghĩa Chẳng hạn:
+ Trong gian phòng thiếu ánh sáng, chuột bò nheo nhóc.
Nheo nhóc là tính từ chỉ tình trạng trẻ con sống thiếu thốn, vất vưởng, không
được chăm sóc. Vì vậy, “ chuột bò nheo nhóc” đã vi phạm lỗi dùng từ. ở đây, chỉ có
nói “chuột bò tứ tung, chuột bò loạn xạ, chuột bò lúc nhúc...”.
+ Dù không hoàn thành ý chí nhưng Huấn Cao vẫn tỏ ra hiên ngang.
ý chí là lòng quyết tâm thực hiện một điều gì đó. Người ta chỉ nói : có ý chí,
nung nấu ý chí..., chứ không thể nói: hoàn thành hay không hoàn thành ý chí!
+ Tính tình nó dạo này bấp bênh lắm.
Bấp bênh là dễ mất thăng bằng, dễ nghiêng ngã vì không có điểm tựa vững
chắc. Vì vậy, người ta chỉ nói: cuộc sống bấp bênh, lập trường bấp bênh, chứ không
thể nói: tính tình bấp bênh, vì chỗ dựa vững chắc cảu tính tình thì không ai rõ là cái gì
cả. Nói “ tính tình nó dạo này thất thường lắm” thì hoàn toàn có thể hiểu được.
+ Tôi đang ì ạch sửa lại một truyện ngắn thì có tiếng xe máy đi vào sân.
Ta thấy, sửa truyện ngắn chứ đâu phải đẩy xe bò đâu mà ì ạch ! Có thể là : chật
vật sửa lại một truyện ngắn, hoặc là: cặm cụi, lui cui, hí hoáy... chứ không thể là ì ạch
được.
+ Những bước chân cô ra về nghe thật hùng vĩ.

74
Dù thế nào, bước chân cũng không thể “nghe thật hùng vĩ” được. Nó có thể
mạnh mẽ, có thể dứt khoát, có thể rõ ràng...
2.4. Dùng từ không hợp phong cách ngôn ngữ
Dùng từ không hợp với phong cách ngôn ngữ nghĩa là chọn từ không hợp với
văn cảnh, hoàn cảnh giao tiếp hoặc thể loại văn bản. Vì vậy, tuỳ theo nội dung của văn
bản mà khi muốn biểu lộ tình cảm, ta phải dùng từ cho đúng phong cách.
Chẳng hạn, các thuật ngữ khoa học được dùng chủ yếu trong phong cách ngôn
ngữ khoa học thuộc một ngành khoa học nhất định. Trái lại, trong giao tiếp thuộc
phong cách sinh hoạt hàng ngày, các từ khẩu ngữ, các từ tình thái lại xuất hiện với tần
số cao, nhằm bộc lộ cảm xúc, tình cảm, các sắc thái tế nhị trong quan hệ của con
người. Vì vậy, trong văn bản khoa học, chắc chắn ta không thể viết những câu như: “
cho một đường tròn tâm ô mảnh khảnh”, hay như “ đường thẳng AB run rẫy cắt
đường tròn tại hai điểm xinh xắn E và F ”. Ngược lại, trong ngôn ngữ sinh hoạt hàng
ngày không thể viết : “ bố đã trình bày hết ý kiến của mình, các con đã quán triệt đầy
đủ chưa? ”.
2.5. Lỗi lặp từ
Lỗi lặp từ nghĩa là dùng nhiều lần một từ trong câu hoặc trong những câu liền
kề nhau khiến cho câu văn, đoạn văn trở nên nặng nề. Điều này chứng tỏ sự nghèo nàn
về vốn từ của người viết.
Cần phân biệt lặp từ với tư cách là một phương tiện ngôn ngữ hay một biện
pháp tu từ với lặp từ với tư cách một lỗi dùng từ.
2.5.1. Lặp từ với tư cách là một phương tiện ngôn ngữ hay một biện pháp tu
từ
Trong giao tiếp, các biện pháp điệp từ, điệp ngữ, nghĩa là lặp lại một cách có ý
thức một số từ ngữ nhằm một mục đích nhất định: hoặc mục đích nhấn mạnh, hoặc bổ
sung ý nghĩa cho câu văn một nhịp điệu thích hợp với nội dung diễn đạt, nâng cao hiệu
quả giao tiếp.
Ví dụ: “ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập ”
(Hồ Chí Minh - Tuyên ngôn độc lập)

75
Hãy hình dung là nếu ta bỏ đi một lần dùng các cụm từ “ một dân tộc đã gan
góc ” và “ dân tộc đó phải được” (với lý do là để tránh thừa từ, lặp từ) thì hiệu quả giao
tiếp sẽ giảm đi bao nhiêu, câu văn sẽ mất đi rất nhiều mức độ đanh thép, hùng hồn của
một lời tuyên ngôn mạnh mẽ.
Có khi, lặp từ là phương tiện liên kết câu trong văn bản. Ví dụ:
“ Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo
vệ con người. Tre - anh hùng lao động. Tre - anh hùng chiến đấu. ”

76
2.5.2. Một vài lỗi lặp từ cần tránh
+ lặp từ không vì mục đích tu từ:
Ví dụ:
“ Có thể nói Chí Phèo có thể trở thành người lương thiện nếu xã hội Chí Phèo
sống là một xã hội khác”.
+ lỗi lặp từ do sử dụng trong cùng một câu nhiều từ đồng nghĩa.
Ví dụ:
- “ Nguyên nhân làm cho tôi chậm trễ là bởi vì đồng hồ tôi đứng nhưng tôi
không biết.”
(nên viết: Tôi đến chậm là vì cái đồng hồ đứng mà tôi không biết.)
- “ Nguyên nhân sở dĩ tại sao em chưa nộp bài là do vì chiều qua em vắng cho
nên em không biết hôm nay phải nộp bài.”
( nên viết: (sở dĩ) em chưa nộp bài là vì chiều qua em vắng mặt, không biết là
hôm nay phải nộp bài.)
2.5.3. Trùng ngữ từ vựng - một lỗi rất nặng trong cách dùng từ
Một trong những lỗi logic khó dung thứ nhất trong khi nói hay viết là cái lỗi
thường được gọi là trùng ngữ. Nội dung của lỗi này là cấu tạo một ngữ đoạn chính phụ
trong đó yếu tố làm phụ ngữ ( tính ngữ cho danh từ, trạng ngữ cho vị từ...) lặp lại một
thuộc tính đã có sẵn trong từ hay ngữ trung tâm như một thành tố nghĩa của nó.
Ví dụ:
+ ánh nắng mặt trời chiếu vào cửa sổ.
ánh nắng là ánh sáng trực tiếp của mặt trời, “ ánh nắng mặt trời ” không thêm
được chút gì cho “ánh nắng” và do đó trở thành vô nghĩa và phi lý: không thể có “ ánh
nắng mặt trăng”, “ ánh nắng sao”, “ ánh nắng đèn pha”, “ ánh nắng bếp” được. Dĩ
nhiên có thể có ánh nắng nhân tạo, nhưng cũng không thể gọi nó là “ ánh nắng mặt
trời nhân tạo” cũng như không thể nói “ ánh nắng mặt trời tự nhiên ”. Người dùng cái
trùng ngữ này chứng minh một cách không sao bác bỏ được rằng mình không hiểu
nghĩa của chữ “ ánh nắng”. Nếu nói “ ánh nắng dịu dàng của mặt trời mùa thu”, người
nghe đỡ chối tai hơn, nhưng vẫn không chỉnh bằng “ánh nắng thu dịu ngọt”.
Nên sửa lại câu trên như sau: ánh nắng chiếu vào cửa sổ.

77
+ Trong các giải pháp để chọn, đây là giải pháp tối ưu nhất.
“ Tối ưu” có nghĩa là “tốt nhất”, “ có ưu thế nhất ”. Vậy “tối ưu nhất” là một
trùng ngữ không thể chấp nhận được.
Nên sửa lại: Trong các giải pháp có thể chọn, đây là giải pháp tối ưu; hay
Trong các giải pháp có thể chọn, đây là giải pháp hay nhất.
+ Đó là bức tối hậu thư cuối cùng mà người phát ngôn của bộ ngoại giao nước
X đã phát ra.
“ Tối hậu thư ” là công văn cuối cùng được gửi đi trước khi thi hành một biện
pháp trừng phát nào đấy ( thường là một biện pháp dùng vũ lực). Lỗi này cũng cho
thấy người viết không hiểu nghĩa của “ tối hậu thư” là gì, và do đó cũng không hiểu tối
cao, tối thượng, tối mật, tối thiểu, tối đa, tối hậu là gì.
Nên sửa lại câu trên như sau: Đó là bức tối hậu thư mà người phát ngôn của bộ
ngoại giao nước X đã phát ra; hay Đó là lời cảnh cáo cuối cùng mà người phát ngôn
của bộ ngoại giao nước X đã phát ra.
3. Mấy lời khuyên cho việc dùng từ trong văn bản
3.1. Dùng từ trong sáng
a). Không dùng từ cổ
Trong quá trình phát triển của ngôn ngữ, có những từ ngữ sử dụng trước đây
trong lịch sử, nhưng nay không còn sử dụng nữa vì đã được thay thế, do một nguyên
nhân nào đó, bằng những từ ngữ đồng nghĩa. Những từ ngữ như vậy gọi là từ ngữ cổ.
Như vậy, từ ngữ cổ là những từ ngữ:
+ Chỉ còn gặp trong các tác phẩm cổ chứ không tồn tại trong tiếng Việt hiện đại,
như “ bợ” là “vay”, “khứng” là “chịu”, “mắng” là “nghe”, “bui” là “duy, riêng”, “lọ” là
“huống chi”, v.v.
+ Cặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng đã thay đổi ít nhiều về mặt ngữ âm, như
“khách thứa” thành “khách khứa”, “bàn nàn” thành “phàn nàn”, “đam” thành “đem”, v.v.
+ Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ do chúng không
còn được dùng độc lập nữa, như “han” trong “hỏi han”, “tác” trong “tuổi tác”, “le” trong
“song le”, v.v. ; hoặc đã thay đổi hoàn toàn về ý nghĩa như “ đăm chiêu” không phải là
“bên phải, bên trái, các phía”, “lịch sự” không phải là “từng trải”, vốn là nghĩa cổ của
các từ này.

78
Vậy nếu không có dụng ý nào, thì không nên dùng những từ đó mà chỉ nên dùng
những từ đồng nghĩa hay từ tương ứng.
ở đây, cần phân biệt từ ngữ cổ với từ ngữ lịch sử. Từ ngữ lịch sử là những từ
ngữ biểu thị những sự vật, hiện tượng tồn tại trong quá khứ, nay không còn nữa, như :
trạng nguyên, tể tướng, thượng uyển, lí trưởng, cung tần, cung phi...
b). Không dùng từ địa phương
Từ địa phương là những từ chỉ dùng trong một phạm vi nhỏ của một vùng, một
miền nhất định. Tuy tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất của cả nước ta nhưng tiếng
Việt - cũng như tất cả các ngôn ngữ khác - có các phương ngữ, thổ ngữ khác nhau, có
nhiều từ có dạng ngữ âm khác hẳn với từ của tiếng phổ thông; chẳng hạn như: cươi
(sân), xuốc (quét), mô (đâu, nào), tê (kia), răng (sao), rứa (thế), chộ (thấy), nác
(nước), v.v. Những từ này chỉ được dùng trong giao tiếp bình thường trong một phạm
vi hẹp; vì vậy, trong các văn bản khoa học, hành chính - công vụ không nên dùng từ
địa phương để đảm bảo tính trong sáng của văn bản. Chẳng hạn, không phải ai cũng
hiểu phương ngữ Nghệ Tĩnh trong câu “ rào rú ngái ngôi mê nỏ chộ” nghĩa là “sông
núi xa xôi nào chẳng thấy”.
Dĩ nhiên, trong ngôn ngữ văn chương, đôi khi vì mục đích tu từ nào đó, người ta
cũng có thể dùng những từ địa phương mà vẫn đảm bảo tính trong sáng cũng như hiệu
quả về mặt thẩm mĩ.
- Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên.
(Tố Hữu)
c). Tránh lạm dụng từ Hán - Việt
Từ Hán Việt là từ mượn của tiếng Hán từ xưa (phổ biến nhất là từ thời nhà
Đường ) đã được Việt hoá và biến thành đơn vị từ vựng của tiếng Việt.
Tiếng Việt của chúng ta mượn khá nhiều từ tiếng Hán. Điều này không có
nghĩa là từ tiếng Việt nghèo, không phong phú về vốn từ mà đó là qui luật hoạt động,
tiếp xúc của ngôn ngữ. Vì vậy, khi sử dụng từ Hán Việt, cần lưu ý những trường hợp
sau:
+ Chỉ dùng từ Hán Việt khi không có từ tiếng Việt tương đương; ví dụ: chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa phi lý, tự do, độc lập, kinh tế, ngân hàng, tài chính, kế toán,
ngôn ngữ...

79
+ Chỉ dùng từ Hán Việt khi có sự đối lập về sắc thái nghĩa. Nhiều từ Hán Việt
có các từ Thuần Việt tương đương nhưng giữa chúng có sự khác nhau về sắc thái ý
nghĩa và phạm vi sử dụng. trong trường hợp này, khi cần thiết muốn biểu thị sắc thái ý
nghĩa mà chỉ từ Hán Việt mới có thì chúng ta cần sử dụng chúng. Chẳng hạn:
Nên viết Không nên viết
ngày quốc tế thiếu nhi ngày quốc tế trẻ em
hội liên hiệp phụ nữ hội liên hiệp đàn bà
ngài tổng thống và phu nhân ngài tổng thống và vợ
nữ thủ tướng thủ tướng gái
đầy tớ gái nữ đầy tớ
thằng út nhà tôi và vợ nó thằng út nhà tôi và phu nhân
Tuy nhiên, chính cái phong vị riêng (cổ kính, trang trọng, bác học...) của các từ
ngữ Hán Việt đã cám dỗ một số người làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng
sính dùng loại từ ngữ này. Đáng lẽ nói “bàn nhanh” thì người ta thích nói “hội ý” hơn,
đáng lẽ nói “đi thăm” hay “đi xem” thì người ta thích nói “tham quan” hơn, v.v.
Trước tình hình đó, hồi kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy
cần nhắc nhở cán bộ trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc” (dưới bút danh X Y Z) là nên
nói năng với quần chúng một cách giản dị hơn, bình dân hơn, đừng dùng những từ ngữ
quá trang trọng, quá bác học mà thành ra khó hiểu.
d). Dùng từ sáng tạo, hàm súc, có giá trị hình tượng và biểu cảm
* Muốn đạt tới hiệu quả giao tiếp cao, người nói (người viết) chẳng những phải
đảm bảo được những nguyên tắc dùng từ đúng mà còn phải luôn luôn sáng tạo trong
dùng từ.
Nghĩa là không phải bằng lòng với những gì mà từ vốn có trong hệ thống tín
hiệu ngôn ngữ, mà còn luôn tìm tòi, sáng tạo, chuyển hoá các bình diện của từ.
- Dùng từ sáng tạo ở bình diện ngữ âm và hình thức cấu tạo:
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Sự biến đổi hình thức của từ “hoàng hôn” là một sáng tạo của Nguyễn Du. Nó
vừa được dùng lặp lại hai lần trong một câu thơ, lại vừa có sự thay đổi thứ tự thành
“hôn hoàng” - một sự thay đổi hình thức mà không làm thay đổi nội dung ý nghĩa cơ

80
bản của từ. Chính sự lặp lại và sự chuyển đổi thứ tự như thế diễn đạt một sự thay đổi
giả tạo: thời gian cứ đổi thay, cứ trôi chảy, mà cuộc sống cô đơn của con người ở chốn
lầu xanh và tâm trạng buồn tẻ, chán chường thì cứ triền miên không ngừng.
- Dùng từ sáng tạo thể hiện đặc biệt ở bình diện ngữ nghĩa
Dùng từ sáng tạo ở bình diện nghĩa là dùng từ trong một ngữ cảnh mà trước đây
nó chưa xuất hiện, là tạo cho nó một ngữ cảnh mới, và như thế là tạo cho nó một nghĩa
mới. Sự sáng tạo trong cách dùng từ ở bình diện nghĩa được thể hiện ra trong nhiều
phong cách ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, người ta nói nhiều hơn đến việc dùng từ
sáng tạo trong ngôn ngữ nghệ thuật; vì vậy ở đây, chúng tôi không yêu cầu bắt buộc
đối với người viết văn bản khoa học, mà chỉ là những nhận định kèm theo một vài ví
dụ nhằm giúp hiểu thêm về sự kỳ diệu của ngôn ngữ văn chuơng, cũng như công lao
sáng tạo ngôn từ của người nghệ sĩ.
Chẳng hạn, trong “Cung oán ngâm khúc”, Nguyễn Gia Thiều viết:
Đoá lê ngon mắt cửu trùng
Tuy mày điểm nhạt nhũng lòng cũng xiêu.
để ví nhan sắc kiều diễm của một cung nữ được vua yêu như đoá hoa lê thông qua
cách dùng từ “ngon mắt” đầy sáng tạo. Người ta thường nói: hoa đẹp, người đẹp, cảnh
đẹp, lời hay ý đẹp..., và thịt ngon, cá ngon, rượu ngon, trà ngon. Nhưng ở đây, cách
nói “ngon mắt” thay vì “đẹp mắt”- một cách nói mới - đã cực tả được cái quan hệ xác
thịt hoàn toàn vô tình giữa vua và cung nữ: nàng chỉ là một món ăn, một thức uống
làm ngon miệng cho vua trong giây lát...
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Sự sáng tạo ở bình diện nghĩa của từ thể hiện tài
năng vận dụng ngôn từ của người nghệ sĩ. Những kiểu kế hợp như “trồng người”,
“nước đi”, “ôm duyên”...dưới đây phản ánh những cách dùng từ đầy sáng tạo.
- Vì lợi ích trăm năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người. ( Hồ Chủ Tịch)
- Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi, không về cùng non.(Tản Đà)
- Cha mẹ cho em sang một chuyến đò nghiêng
Thuyền trùng triềng đôi mạn, em ôm duyên trở về.
* Muốn đạt đến hiệu quả cao, người nói (người viết) còn phải biết dùng từ hàm
súc, có giá trị hình tượng, biểu cảm, đặc biệt trong ngôn ngữ nghệ thuật.

81
Điều này thể hiện ở chỗ, các từ gợi ra hoặc làm xuất hiện trong đầu óc người
nghe, người đọc những biểu tượng, những tình cảm, ảm xúc, những cảm giác cụ thể về
một tính chất hay trạng thái nào đó.
Trong tiếng Việt, các lớp từ thể hiện các phẩm chất đó ở múc đậm đặc nhất là
các từ tượng hình, tượng thanh và các từ láy sắc thái hoá.
Chẳng hạn: phân tích một khía cạnh trong bình diện nội dung của tác phẩm
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch, nhà phê bình Hoài Thanh viết:
“Nhật ký trong tù canh cánh một tấm lòng nhớ nước”
Trước hết, câu văn nói về tác phẩm Nhật ký trong tù, cho nên ở vị trí của từ
canh cánh có thể dùng một trong các từ như: thể hiện, bộc lộ, phản ánh, diễn
tả...Nhưng từ canh cánh đã nhân hoá Nhật ký trong tù, làm cho nó trở nên có tâm hồn,
có cảm xúc như con người. Nói cách khác, với việc dùng từ canh cánh, Hoài Thanh
nói về tác phẩm mà cũng là nói về con người Bác.
Thứ hai, canh cánh là một từ láy có giá trị tạo hình rất rõ. Nó diễn tả một trạng
thái tâm hồn: luôn lo nghĩ, luôn trằn trọc không yên vì một điều quan tâm nào đó - ở
đây là tấm lòng nhớ nước. Nếu không dùng từ canh cánh thì phải dùng cả một cụm từ
mới có thể biểu hiện được nội dung ấy. Hơn nữa, từ canh cánh còn hàm chứa cả sắc
thái cảm xúc: điều lo nghĩ thường xuyên như một nỗi nhức nhối, khắc khoải, mong
muốn được giải toả.
Văn chương của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn
Tuân... có nhiều chỗ dùng từ rất đắc địa, đáng cho chúng ta học hỏi.
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng lờ.
(Hồ Xuân Hương)
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lủa lựu lập loè đơm bông.
(Nguyễn Du)

*************************************************

82
Bài đọc thêm
Bức thư viết bằng thành ngữ
Người tình xưa nghĩa cũ của em!
Hôm nay, nơi đất khách quê người, trăng sáng đường ráo, trời cao sao thưa,
nhớ về quê cha đất tổ - nơi chôn rau cắt rốn, nhớ cảnh cũ người xưa, em đứng ngồi
không yên, càng nhớ da nhớ diết người đã từng thề non hẹn biển sẽ kết tóc xe duyên,
ăn đời ở kiếp cùng em.
Thời gian thắm thoắt thoi đưa, ngày qua tháng lại, tới nay chúng mình vẫn
ngậm sầu nuốt tủi. Suy đi tính lại, nghĩ tái nghĩ hồi, em mượn bút thay lời giãi bày
tâm sự đôi điều nhỏ cùng anh.
Cầu trời khấn phật cho anh được bình an vô sự, vui vẻ, trẻ trung.
Anh trăm nhớ ngàn thương!
Em còn nhớ như in, cũng một đêm gió mát trăng thanh, đôi miệng một lời, ta
đã thề cùng nhau nguyện cùng non dạ sắt, nếm mật nằm gai, chia bùi sẻ ngọt sớm tối
có nhau; dù cho vật đổi sao dời vẫn một lòng một dạ sắt son chung thuỷ. Dù cho cách
núi ngăn sông, trèo non lội bể ta vần đi cùng trời cuối đất tìm nhau, để làm sao cho
nên vợ nên chồng, đẹp lứa uyên ương cho đến ngày đầu bạc răng long, không vì tiền
tài danh vọng mà đổi dạ thay lòng.
Vốn cha sinh mẹ đẻ đã nặng nghĩa nặng tình nên xa xôi cách trở em vẫn một
thương hai nhớ, năm đợi tháng chờ mỏi mòn con mắt.
Nhưng than ôi! sự đời trắc trở, giữa đường đứt gánh! Phải chăng nên vợ
thành chồng có duyên có số? Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa mà tình đẹp
như thơ nay tan thành mây khói. Ai làm đá nát vàng phai cho người ngậm sầu nuốt
tủi, kẻ ôm hận nuốt sầu? Thật trăm đắng ngàn cay!
Những lời hẹn nước thề non anh đã lầm chỗ để đâu mà bỗng dưng vô cớ anh
hết lời trách em nào là bắt cá hai tay, đứng núi này trông núi nọ, nào là hám hào hoa
phong nhã, tham gác tía lầu son mà kén cá chọn canh... Trách em như trách tà mà anh
chẳng thèm nói nguyên do.
Thật vạ gío tai bay cho em. Em đâu phải kẻ nói trước quên sau mà sớm phụ
tình bạc nghĩa. Trônh anh như cá trông mưa, ngày đêm thổn thức như đò đưa trông
nồm, vậy mà anh vẫn thờ ơ lãnh nhạt với em. Suy lòng ta ra lòng người, anh nghĩ thử
coi, ai mà cầm lòng cho đậu?

83
Thề có trời cao đất dày chứng giải minh oan cho lòng trong dạ trắng này, từ
đó tới nay, phận liễu yếu đào tơ, em một mình một bóng, suốt đêm tàn canh khóc thầm
khóc tủi, nước mắt vòng quanh, giọt ngắn giọt dài thương mình phận ẩm duyên ôi,
hồng nhan bạc phận! Giận anh tím gan tím ruột, em chỉ muốn trút bỏ oan tình nhưng
suy đi tính lại “xấu chàng hổ ai ?”. Thôi thì chín bỏ làm mười; em đành ngậm bồ hòn
làm mật, mặc cho kẻ trên người dưới bàn ra tán vào. Ngày qua tháng lại, em lý giải
điều hơn lẽ thiệt anh rõ: thế nào là kẻ bội tình bạc nghĩa để anh sáng mắt sáng lòng mà
nhìn người nhìn đời.
Nhưng nay, “tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”, em được biết - dù đã duyên
ai phận nấy - anh vẫn nặng tình nặng nghĩa với em. Chẳng qua, ngày xưa chỉ vì nhẹ
dạ cả tin anh đã nghe theo những kẻ ghen loan ghét phượng, nó kiếm chuyện làm quà,
xui dại xui khôn mà thôi. Vậy nên, em giãi bày tâm thực để anh sáng tỏ đôi đường.
Người tình xưa nghĩa cũ của em!
Lòng vả cũng như lòng sung, yêu nhau ai chẳng muốn thành vợ nên chồng.
Nay số kiếp không chiều, chúng mình phải ngăn cách đôi đường, em mong anh hãy
vùi sâu chôn chặt tình này. Còn em, sống để dạ, chết mang đi, sẽ suốt đời ghi lòng tạc
dạ những lời thề non hẹn biển xưa. Chúng mình chẳng được trọn duyên trọn số thì ta
hãy sống sao cho vẹn nghĩa ven tình, đừng vì duyên kiếp không thành mà gây nên thù
oán cho nhau, nghe anh.
Thôi giấy ngắn tình dài, nói ít hiểu nhiều, em dừng bút, chúc anh công thành
danh toại, vạn sự như ý!

84
III. chính tả và chữ viết trong văn bản
Chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đườn nét đặt ra để nghi tiếng nói và có những
qui tắc, qui định riêng. Muốn viết đúng chính tả tiếng Việt, ta phải tuân theo những qui
định, qui tắc đã được xác lập.
Chính tả là cách viết chữ được xem là chuẩn, tức là viết đúng âm đầu, đúng vần,
đúng dấu thanh, đúng qui định về viết hoa, viết tắt, viết thuật ngữ.
Trước khi nói về các qui cách, ta cần xác định một số kiến thức về chính tả tiếng
Việt.
1. Đặc điểm chữ viết tiếng Việt
1.1. Tiếng Việt là một ngôn ngữ âm tiết tính
Trong tiếng Việt ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị. Người bình
thường sử dụng tiếng Việt chỉ có ý thức về âm tiết, gọi là tiếng, nói chung không có ý
thức về âm vị. Và cũng chỉ có ý thức về hình vị, gọi là chữ (ví dụ: chữ quốc, chữ gia,
chữ nước, chữ nhà), nói chung không có ý thức về từ. Phản ánh đặc điểm cơ bản nói
trên của tiếng Việt, chính tả tiếng Việt đơn thuần là chính tả âm tiết. Nếu xét ở cấp độ
âm vị thì có rất nhiều điều bất hợp lý, nhưng nếu xét ở cấp độ âm tiết thì nói chung có
sự đối ứng chặt chẽ giữa ngữ âm và chữ viết, có quan hệ một đối một giữa âm tiết ngữ
âm và âm tiết chữ viết, chỉ trừ một vài trường hợp ngoại lệ. Đây chính là ưu điểm lớn
nhất của chữ viết tiếng Việt.
1.2. Các yếu tố của tiếng và chữ viết
Tiếng do nhiều âm kết lại mà thành. Âm được chia làm nhiều loại nhỏ.
a). Âm: khi nói, luồng hơi phát sinh từ phổi, làm rung các dây thanh ở họng, qua
khoang miệng hoặc cả khoang mũi tạo thành các âm. Âm gồm có: nguyên âm, phụ
âm, bán âm, âm đệm.
* Nguyên âm : nguyên âm được tạo thành do luồng hơi thoát ra tự do, tức là không
bị cản trở ở một điểm nào. Trong chính tả, nguyên âm có thể mang dấu. Chữ Việt có
11 nguyên âm đơn là A, Ă, Â, E, Ê, i/Y, O, Ô, Ơ, U, Ư; và 3 nguyên âm đôi là
iÊ/YÊ/IA/YA; ƯƠ/ƯA; UÔ/UA.
Nguyên âm đơn có đặc điểm là giữ nguyên chữ trong khi viết, trừ khi viết Y.
Nguyên âm đôi không giữ nguyên chữ khi viết. Viết iÊ, YÊ, ƯƠ, UÔ khi có âm cuối
(liên, tuyết, hương, muôn), viết IA, YA, ƯA, UA khi không có phụ âm cuối (kia,
khuya, lửa, mùa).

85
* Phụ âm: phụ âm được tạo ra do luồng hơi bị cản ở họng, lưỡi, răng hoặc môi.
Trong chính tả, phụ âm không mang dấu. Chữ Việt có 23 phụ âm: B, C, K, Q, CH, D,
Đ, G/GH, GI, H, KH, L, M, N, NH, NG/NGH, P, PH, R, S, T, TH, TR, V, X.
* Bán âm: Tiếng Việt có hai bán âm cuối. Bán âm cuối thứ nhất được thể hiện
bằng hai chữ cái i và Y (ví dụ: lơi, lây); bán âm cuối thứ hai được ghi bằng hai chữ cái
O và U (ví dụ: ao, âu).
* Âm đệm: Tiếng Việt có một âm đệm [U], được thể hiện bằng hai chữ cái O và U
(ví dụ: hoa huệ). Âm đệm có tác dụng làm cho vần trở nên tròn môi (so sánh: an, ên,
với oan, uên)...
b). Chữ cái:
Chữ cái dùng để ghi âm. Theo quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải
cách giáo dục, bảng chữ cái tiếng Việt gồm 33 con chữ xếp theo thứ tự như sau: A, Ă,
Â, B, C, D, Đ, E, Ê, (F) , G, H, i, (J), K, L, M, N, O, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ư, V, (W),
X, Y, (Z).
Các chữ cái trong ngoặc đơn là F, J, W, Z chỉ dùng để viết tên riêng nước ngoài
và thuật ngữ có gốc nước ngoài. Vậy viết “fường”, “za” là sai chính tả.
c). Thanh và dấu: (hay thanh điệu và dấu giọng)
Thanh là hiện tượng nâng cao hoặc hạ thấp trong một tiếng. Tiếng Việt có 6
thanh (ngang, huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng) và được thể hiện bằng 5 dấu (thanh ngang
không có dấu ghi).
d). Tiếng hay âm tiết:
Tiếng do một hay nhiều âm phát ra cùng một lúc tạo thành. Tiếng có âm đầu,
vần và thanh điệu. Vần có âm đệm, âm chính, âm cuối.
Ví dụ: “Toàn” có phụ âm đầu T, âm đệm O, âm chính A, âm cuối N và thanh
huyền.
Trong các yếu tố tạo thành tiếng, âm chính và thanh lúc nào cũng có. Còn âm
đầu, âm đệm và âm cuối có thể vắng mặt. Ví dụ: à, ế, ở...
e). Chữ: Chữ dùng để ghi tiếng. Ngày trước, tổ tiên ta dùng chữ Hán và chữ
Nôm để ghi tiếng. Ngày nay, ta dùng chữ Quốc ngữ để ghi tiếng. Chữ Quốc ngữ là chữ
ghi bằng các chữ cái. Vì vậy, ta có thể nói chữ do nhiều chữ cái cùng với dấu thanh tạo
thành.

86
g). Từ: Từ gồm một tiếng hoặc một tổ hợp tiếng có ý nghĩa hoàn chỉnh. Căn cứ
vào cách cấu tạo, ta có từ đơn và từ phức; trong từ phức có từ ghép và từ láy (hay từ
láy âm). Xét theo nguồn gốc, ta có từ Thuần Việt và từ Hán Việt.
1.3. Với đặc điểm về chữ viết Quốc ngữ nêu trên, có thể đề cập đến vấn đề
chính tả trong hai trường hợp:
a) Khi chữ viết phân biệt hai âm tiết mà phát âm theo một phương ngữ nào đó
lại không phân biệt. Cho nên với các phương ngữ khác nhau có những vấn đề chính tả
khác nhau. Trong khi với người nói phương ngữ miền Bắc có các vấn đề chính tả “viết
CH - hay TR - ?, viết - iÊU hay ƯƠU ?”.v.v..., thì với người nói phương ngữ Nam lại
có các vấn đề “viết - N hay - NG ?”, người nói phương ngữ Trung có vấn đề “viết dấu
hỏi hay dấu ngã ?”,v.v...
b) Khi chữ viết phân biệt hai âm tiết mà phát âm tiếng Việt ngày nay không còn
phân biệt, đó là trường hợp “viết D - hay GI - ?”, một vấn đề chính tả chung cho mọi
miền trong cả nước.
Như vậy, với từng phương ngữ, chỉ có một số loại âm tiết nhất định là có vấn đề
chính tả. Nếu có một phương pháp thích hợp, có thể dạy và học viết đúng chính tả một
cách có hệ thống, nhanh chóng, dễ dàng, điều không thể làm được với nhiều chữ viết,
như chữ Anh, chữ Pháp, chữ Nga, chữ Hán.
Trong thực tế, những lỗi chính tả thường gặp trong tiếng Việt khá đa dạng, phản
ánh bức tranh phương ngữ đa dạng của tiếng Việt trên các miền đất nước.
Để giải quyết vấn đề chính tả, người ta có thể đề nghị các cách sau:
* Tập phát âm cho đúng
Phát âm đúng ở đây được hiểu là phát âm theo những phân biệt đã được ghi
nhận trong chính tả, chẳng hạn, người Hà Nội hãy cố phát âm phân biệt tr với ch, s với
x, r với d và gi...; người Huế hãy cố phát âm phân biệt thanh ngã và thanh hỏi, âm i
cuối và c cuối...; người Sài Gòn ráng phát âm một cách khác biệt v với d/gi, v.v...Cách
này có phần phi lý, bởi lẽ muốn phát âm đúng như chính tả thì phải biết chính tả trước
đã. Thêm vào đó, thay đổi thói quen phát âm là một chuyện đòi hỏi rất nhiều thời gian,
và phần nào viển vông trong tình hình ở nước ta hiện nay chưa có một cách phát âm
thực tế nào có thể được coi là chuẩn.
* Cố gắng nhớ từng từ một

87
Nắm vững chính tả là một quá trình rèn luyện cực kỳ lâu dài, thông qua các
hoạt động đọc, viết hằng ngày. Tất cả những người viết giỏi đều đã phải trải qua quá
trình rèn luyện như vậy. Tuy nhiên, đây là một phương pháp khó thấy ngay được kết
quả, đòi hỏi người ta phải nhẫn nại, khổ công.
* Dùng các mẹo chính tả
Các mẹo chính tả có tác dụng như những “đơn thuốc” mà các nhà ngôn ngữ học
đã pha chế cho chúng ta (bằng cách hệ thống hóa các hiểu biết thực tế và các tri thức
ngữ học thành những công thức giản tiện), giúp cho việc chữa những lỗi chính tả hằng
ngày. Tuy nhiên, vấn đề là không hề có một mẹo nào vạn năng để có thể giải quyết
mọi lỗi, mà mỗi mẹo chỉ có thể giúp chữa một loại lỗi nào đó, chẳng hạn mẹo phân
biệt dấu hỏi/ngã, mẹo phân biệt tr/ch, mẹo phân biệt s/x...Do đó, để giải quyết tất cả
các lỗi, cần phải có rất nhiều mẹo khác nhau đến nỗi việc nhớ được một số mẹo trong
số đó đã cũng là một vấn đề nan giải. Đó là chưa kể đến sự thể các mẹo thường có
những ngoại lệ nhất định, cũng đòi hỏi nhiều công sức để ghi nhớ.
Về mặt phương pháp luận, việc giải quyết lỗi chính tả phải phù hợp với đối
tượng. Bởi vì, người Việt viết sai chính tả một cách rất khác nhau tuỳ theo tiếng địa
phương của mình. Công việc đó phải được chú trọng ở nhà trường phổ thông, thông
qua một quá trình rèn luyện nghiêm túc, và bằng cách kết hợp nhiều biện pháp khác
nhau. Trong khuôn khổ một giáo trình tiếng Việt thực hành, chúng tôi, trên cơ sở kế
thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, chỉ có thể trình bày một cách tóm tắt
những lỗi tiêu biểu cho một số địa phương, đưa ra những chú giải cần thiết cũng như
giới thiệu một vài mẹo có tính thực dụng giúp giải quyết phần nào những lỗi đó. Nhiều
mẹo chính tả ở đây được chúng tôi rút từ cuốn “Chữa lỗi chính tả cho học sinh” (Nhà
xuất bản Giáo dục - 1982) của Gs. Phan Ngọc.
2. Các lỗi chính tả thường gặp và cách sữa lỗi
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến người sử dụng tiếng Việt mắc lỗi chính tả,
nhưng theo kết quả điều tra của nhiều nhà ngôn ngữ học, chúng tôi tạm chia các lỗi
chính tả tiếng Việt ra làm ba loại: các lỗi về thanh điệu (dấu thanh), các lỗi về phần
vần và các lỗi về phụ âm đầu.
2.1. Các lỗi về thanh điệu
Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt được
thanh hỏi và thanh ngã. Hay nói đúng hơn, trong phương ngữ Trung bộ và Nam bộ

88
không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang hai thanh này khá lớn (độ 1900
tiếng mang thanh hỏi, 900 tiếng mang thanh ngã). Có thể nói, các lỗi về thanh điệu chủ
yếu là lẫn lộn thanh hỏi và thanh ngã - một lỗi rất phổ biến ở Trung bộ và Nam bộ. Để
chữa lỗi này, có thể dùng những mẹo luật sau đây:
2.1.1. Mẹo bổng - trầm trong láy âm
Mẹo này được áp dụng cho những từ láy âm tiếng Việt với qui tắc : Trong một từ
láy âm song tiết thì các tiếng (âm tiết) của nó cũng mang dấu cùng hệ trầm (thanh
huyền, thanh ngã, thanh nặng) hay bổng (thanh không, thanh hỏi, thanh sắc). Có thể
ghi nhớ sự phân bố các thanh nói trên bằng cách học thuộc câu lục bát sau:
Chị Huyền mang Nặng Ngã đau
Hỏi Không Sắc thuốc lấy đâu mà lành.
Theo mẹo này, một số tác giả còn đưa ra công thức về hệ bổng - trầm trong từ
láy âm: Huyền ngã nặng, sắc hỏi không.
Các ví dụ về hệ bổng (Sắc - Hỏi - Không)
+ Thanh Hỏi đi với thanh Không: thơ thẩn, ngơ ngẩn, vẩn vơ, đảm đang, rảnh
rang, bảnh bao, nhỏ nhen, hẩm hiu...
+ Thanh Hỏi đi với thanh Sắc: ngớ ngẩn, vớ vẩn, sáng sủa, gắt gỏng, đắt đỏ,
vất vả, hối hả, hắt hủi, ngán ngẩm, vắng vẻ, mát mẻ, phấp phỏng...
Các ví dụ về hệ trầm (Huyền - Ngã- Nặng)
+ Thanh Ngã đi với thanh Nặng: nũng nịu, rộng rãi, lộng lẫy, rộn rã, vật vã,
sạch sẽ, gọn ghẽ, vội vã, tập tễnh, hậu hĩnh...
+ Thanh Ngã đi với thanh Huyền: hãi hùng, ngỡ ngàng, dễ dàng, dỗ dành, trễ
tràng, mĩ miều, sỗ sàng, lỡ làng, kĩ càng, loã lồ, vòi vĩnh...
Ngoại lệ:
+ Bền bỉ, hoài huỷ, hồ hỡi, mình mẩy, nài nỉ, niềm nở, phỉnh phờ, võn vẹn, ve
vãn, ễnh ương, ngoan ngoãn, khe khẽ...
+ Một số từ có hình thức giống từ láy âm, nhưng lại là những từ ghép nên
không theo luật bổng - trầm: đầy đủ, mỏi mệt, sửa chữa, mòn mỏi, sửa soạn, dẫn dắt, lí
lẽ, học hỏi, hùng hổ, lam lũ, minh mẫn, quỷ quyệt thoả thuận...
2.1.2. Mẹo “lãi - lời - lợi” và “tản - tán - tan”
Mẹo này áp dụng quy luật bổng- trầm cho một số từ có nghĩa giống nhau hay
gần nhau mà chỉ khác nhau về âm thanh.

89
Ví dụ về dãy “lãi - lời - lợi”. (Huyền - Ngã - Nặng)
dẫu (dầu), cũng (cùng), mõm (mồm), đẫy (đầy), ngỡ (ngờ), cỗi (còi), đã (đà), đỗ
(đậu), giẫm (giậm), chĩa (chìa), trĩu (trịu), trẽn (thẹn), mão (mẹo), chữ (tự), cưỡng
(gượng), ngẫm (gẫm), rữa (vừa), hẵng (hãy), khẽ (sẽ)...
Ví dụ về dãy “Tản - tán- tan”. (Sắc - Hỏi - Không)
Rải (rười), phản (ván), bản(vốn), bảo (báo), phổi (phế), chửa (chưa), tủa (tua),
quẳng (quăng), vểnh (vênh), bổ (mổ), nhỏ (rỏ), xẻ (chẻ), phỏng (bỏng), vổng (chỗng),
nghĩa (ngãi, nghỉ), chẳng (chăng), chủ (chúa)....
Ngoại lệ: lẽ (lí), lõm (lóm), trẻ (trĩ), sửa (chữa), miếu (miễu), tỏ (rõ), rãi (vãi),
gõ (khỏ), khoảng (quãng).
2.3.1. Mẹo “ Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã ”
Mẹo này áp dụng cho phần lớn các từ Hán Việt có phụ âm đầu là: M, N, NH, V,
L, D, NG (NGH), đều được viết là dấu ngã. Cũng có thể ghi nhớ viết dấu ngã các từ
Hán Việt có phụ âm đầu nói trên theo qui tắc: “ Dân Việt nam mạnh lắm”. Ví dụ:
M: mã số, mã lực, mãnh liệt, mẫn cảm, mĩ mãn, thẩm mĩ, phụ mẫu, miễn phí,
miễn cưỡng, mãn khoá, mĩ lệ, miễn phí, mãnh thú...
N: não trạng, nữ nhi, tầm nã, nỗ lực, phụ nữ, truy nã, trí não,...
NH: nhẫn nại, kiên nhẫn, thanh nhã, truyền nhiễm, tham nhũng, phiền nhiễu,
thổ nhưỡng, nhũ hoa, nhãn quan, tao nhã,...
V: uy vũ, vĩ độ, vĩ đại, vãng lai, viễn thị, hùng vĩ, vũ khí, vũ trang, vĩnh viễn, vĩ
tuyến, cổ vũ, vũ khúc, ...
L: lữ khách, lão tướng, lễ độ, kết liễu, thành luỹ, lãnh đạo, lãng mạn, nghi lễ,
lĩnh vực, chiếm lĩnh, cương lĩnh, triển lãm, lão luyện, lão thành,...
D: dũng mạnh, dưỡng sinh, kiều diễm, hoang dã, dã man, dũng sĩ, anh dũng,
bồi dưỡng, diễn đạt, diễn viên, dẫn chứng,...
NG (NGH): bản ngã, ngoại ngữ, ngưỡng mộ, nghĩa vụ, nhân nghĩa, chủ nghĩa,
nghiễm nhiên,...
Ngoại lệ: ngải (cây thuốc).
Lưu ý: các âm tiết Hán Việt không được bắt đầu bởi 7 âm tiết trên sẽ được viết
với dấu hỏi. Tuy nhiên, có khoảng 20 ngoại lệ không bắt đầu bằng 7 chữ cái nói trên
mà vẫn viết với dấu ngã: kĩ năng, bãi khoá, bĩ cực, phẫu thuật, linh cữu, tống tiễn,
thực tiễn, hoả tiễn, tiễu trừ, ấu trĩ, huyễn tưởng, tích trữ, hỗ trợ, hỗn chiến, hãm tài,

90
phóng đãng, cùng quẫn, thư xã, hữu dụng, hữu phái, trì hoãn, công quỹ, cưỡng đoạt,
tuẫn nạn, kĩ nữ, thi sĩ, thanh tĩnh,...
1.4). Một số trường hợp chính tả cần lưu ý
(có thể làm cứ liệu bài tập)

- người thì ăn phải bả, kẻ thì - Ngồi vào mâm cỗ, cắm đầu
theo voi ăn bã mía. cắm cổ mà ăn.
- ở bãi tập về, người mệt mỏi, - Con người cũ, có cách nhìn
bải hoải cả chân tay. hơi cổ.
- Người bảo thủ thì làm gì có - Lối làm ăn cũ kĩ, không có
hoài bão? qui củ.
- Mắc bẫy nó, bị nó xúi bẩy. - Thế nào cũng phải củng cố.
- Bị nó bắt bẻ, thật là bẽ mặt. - Cũng cứ lủng cà lủng củng
- Thằng nhỏ bướng bỉnh, hay - Hàng đang bốc dỡ dở dang.
phá bĩnh lắm. - Cực chẳng đã phải đả động
- Không ghét bỏ, nhưng cũng đến việc đó.
phải nói cho bõ ghét. - Xe đỗ lại để đổ khách ở bến.
- Bỏ công nhiều, mà kết quả - Rất đỗi vui mừng thấy có
chẳng bao nhiêu, không bõ nhiều sự đổi mới.
công. - Nỗi đau buồn cứ đeo đẳng
- Lội bì bõm dưới ao, miệng trong mấy năm dài đằng
vẫn nhai trầu bỏm bẻm. đẵng.
- Nhấc bổng lên được, vì nhẹ - Gả con gái cho một gã lái
bỗng. buôn.
- Bỗng dưng được học bổng. - Không gảy đàn được vì cần
- Nói phải củ cải cũng nghe, đàn bị gãy.
nhưng nó thì vẫn cãi chày cãi - Chỉ vì mấy tấm gỗ dán mà
cối cho được. gây gổ với nhau.
- Cãi cọ nhau về việc phân - Cho rằng gặp gỡ anh ta là
chia của cải. một điềm gở.
- đòi hỏi chặt chẽ, nhưng - Thời gian gần gũi quá ngắn
không nên chẻ sợi tóc làm tư. ngủi.

91
- Tác giả đã từ giã cuộc đời. - Cả vợ lẫn chồng đều lẩn
- Giãi bày nỗi oan ức, mong tránh.
được giải quyết. - Cố tình làm lẫn lộn để lẩn
- Sợ hãi, hớt ha hớt hải bỏ tránh trách nhiệm.
chạy. - Có lẽ đúng là một nghìn có
- Cái hoàn hảo thường chỉ là lẻ.
cái hão huyền. - Chẳng lẽ chỉ bán chẵn không
- Hoan hỉ/hỷ vì được tiếp đãi bán lẻ.
hậu hĩ. - Kể lể về chi phí của lễ cưới.
- Hổ thẹn vì đã không hỗ trợ - Không có bản lĩnh, chỉ được
cho đồng đội. cái láu lỉnh.
- Hóm hỉnh vạch thói hợm - Hắn không chỉ khôn lỏi, mà
hĩnh. là một tay lõi đời.
- Chưng hửng trước thái độ hờ - Nghe lỏm nên chỉ nhớ lõm
hững của người bạn cũ. bõm.
- Dặn dò cặn kẽ phải đề phòng - Việc vỡ lở làm cho tình
kẻ gian. duyên lỡ dở.
- Duyệt kỹ/kĩ từng chữ bản - Nội bộ lủng củng, để cho kẻ
kĩ/kỹ yếu hội thảo. xấu lũng đoạn.
- Cán bộ kĩ/kỹ thuật bị kỉ/kỷ - Về đến lữ đoàn thì đã mệt lử.
luật. - Lững thững dạo chơi quên
- Chú bé phải kiễng chân lên lửng có cuộc hẹn.
mới đánh được kiểng. - Thái độ lững lờ, ăn nói lấp
- đang đói lả lại đi uống nước lửng.
lã. - Nó lỗ mãng lắm, không cho
- lải nhải mãi về chuyện lỗ lãi. nó bén mảng đến đây.
- Có kẻ lảng vảng nơi cấm - Học hành thì chểnh mảng, ăn
người lai vãng. nói lại lỗ mãng.
- Lãng quên chứ không phải cố - Người trông mảnh khảnh,
tình lảng tránh. nhưng rất dũng mãnh.
- Cô gái lẳng lơ cứ lẵng nhẵng - đã mê mẩn, không còn minh
theo sau. mẫn nữa.

92
- kể mẩu chuyện vui ở lớp mẫu - Rất năng nổ, việc gì cũng
giáo. hăng hái với sự nỗ lực tối đa.
- mở mang việc trồng trọt ở - Nặng đến nỗi bốn người
vùng đất đai màu mỡ. khiêng không nổi.
- Em bé chân tay mũm mĩm - Niềm nở quá nên không nỡ từ
cười mủm mỉm. chối.
- Chuyện đời nảo đời nào mà - Xong được một nửa rồi, còn
đến nay vẫn còn khổ não. phải vài ngày nữa.
- Lúc nãy vì quá nóng nảy đã - đến nửa đêm mới nhớ, suýt
giẫy nảy nên không nhận. nữa quên.
- Mọi người ngã ngửa là ông - phủ nhận một cách phũ
ta ngã lòng nên đã ngả phàng.
nghiêng. - Phim bị ngắt quãng bởi các
- Càng ngẫm nghĩ càng thấy quảng cáo.
ngán ngẩm. - Quẫn quá, đâm nghĩ quẩn,
- đừng nghĩ ngợi nhiều, cần chỉ muốn làm liều.
nghỉ ngơi để giữ gìn sức - Dùng mưu ma chước quỷ để
khoẻ. ăn cắp tiền công quỹ.
- Nghễnh ngãng, có nghểnh - Từng nhà riêng rẽ làm ăn
đầu và vểnh tai lên cũng riêng lẻ.
không nghe rõ. - Làm rải ra trong nhiều ngày
- Cửa ngõ đều bỏ ngỏ. cho rộng rãi.
- Không phải ngổ ngáo mà là - Rầu rĩ, lúc nào cũng rên rỉ.
ngỗ ngược. - Không có liêm sỉ mà lại sợ
- Việc còn chưa ngã ngũ thì mất sĩ diện.
chẳng ngủ nghê gì được. - Mọi người sửng sốt nhìn
- Buông lời cợt nhả một cách nhau sững sờ.
khiếm nhã . - Hoạ sĩ có sở trưòng dùng
- Nhãn bán nhan nhản đầy những màu sắc sặc sỡ.
chợ. - Bệnh nhân bất tỉnh nhưng
- Cần nhắc nhở, đừng để nhỡ bác sĩ vẫn bình tĩnh.
xảy ra chuyện gì không hay.

93
- Chuyện viễn tưởng không - Việc vỡ hoang được đưa vào
phải là chuyện viển vông. vở kịch.

2.2. Các lỗi về phần vần


Các lỗi về phần vần được quan sát thấy ở cả ba miền đất nước. Có điều, mỗi
miền mỗi khác nhau. Chẳng hạn, người Bắc Bộ lẫn lộn -iu với -ưu, -iêu với -ươu;
người Nam Bộ và Trung Nam Bộ lẫn lộn -iu với -iêu, -ươu với -ưu, -ang với -an, -iêt
với -iêc, v.v. Sau đây là một số lỗi có thể tạm coi là tiêu biểu:
2.2.1. Lẫn lộn -iêu/ -iu/ -ưu
Để khắc phục lỗi này, cần nhớ là vần -iu chỉ xuất hiện trong một số từ như: líu
lưỡi, bĩu môi, địu gạo, ỉu, xíu,... và chịu trong chịu chơi, chịu đựng,v.v. Ngoài ra nó
chỉ xuất hiện trong các từ láy âm: phụng phịu, đìu hiu, dịu dàng, kĩu kịt, chắt chiu,
ngưỡng ngiụ, khẳng khiu,...
Vậy, ngoại trừ những trường hợp mang vần -iu hết sức ít ỏi trên đây, người
miền Bắc có thể yên tâm viết với -ưu, người miền Nam có thể yên tâm viết với -iêu/-
iu/-ưu.
Riêng đối với các từ Hán Việt thì bao giờ cũng chỉ có thể viết với -ưu hay -iêu,
ví dụ:
a, Từ Hán - Việt viết với -ưu: trừu tượng, bưu điện, hưu trí, lưu lạc, ngưu lang,
sưu thuế, cứu hận, trường cửu, tả hữu, cựu tổng thống, nghiên cứu, tựu trường...
b, Từ Hán - Việt viết với -iêu: hiếu chiến, diễu hành, hiệu trưởng, ngân phiếu,
tiêu thụ, chiếu chỉ, quan liêu...
2.2.2. Lẫn lộn -iêu / -ươu / -ưu
Người miền Bắc và miền Nam đều gặp rắc rối với vần -ươu. Miền Bắc thì lẫn
lộn -ươu với -iêu, miền Nam thì lẫn lộn -ươu với -ưu. Khắc phục lỗi này quá đơn giản:
chỉ cần nhớ vần -ươu chỉ xuất hiện một cách rất hạn chế trong mấy từ như: cái bướu,
con hươu, con khướu, chai rượu, con tướu (tức con khỉ, nói tục).
Ngoài ra, tất cả các từ Hán - Việt không viết với -ươu.
2.3.3. Những trường hợp chính tả đáng lưu ý

- Quà biếu cho các đại biểu. - Nó kiêu căng và đầu bò đầu
- Một đại biểu bị bệnh biếu cổ. bướu, khó bảo lắm.

94
- Ngồi chơi suốt cả một buổi - Hiến một diệu kế để làm dịu
chiều, chỉ tán hươu tán vượn. tình hình.
- Cháu bé có khiếu nói thì - đọc điếu văn trong lễ truy
phải, cháu nói như khướu cả điệu.
ngày. - Liệu chừng, đừng dính líu
- đã không cứu giúp, lại còn vào việc ấy.
bĩu môi, dè bỉu. - Mặt buồn thiu, vẻ thiểu não:
- Từ ngày về hưu, sống một nhà cháy, tài liệu bị thiêu
mình hiu quạnh. trụi.
- ôm ấp, ấp iu con với tấm - Muốn cưới chui để nắm đằng
lòng ưu ái của người mẹ. chuôi.
- Vì mắc mưu, nên mắc mứu, ít - đã không gần gũi lại còn hắt
nhiều có dính líu vào vụ đó. hủi.
- Thằng bé níu áo mẹ, nũng - Thật là đen đủi, công đeo
nịu. đuổi bấy lâu thế là mất hết.
- Chuyện lúc trà dư tửu hậu - Cưu mang làm gì loại đầu bò
đang vui, lại chen vào những đầu bướu ấy.
lời tục tĩu, bẩn thỉu. - Một vài cụ đã về hưu ngồi lại
tán hươu tán vượn.
- Nhiều đại biểu được biểu - Con thì nói như khướu cả
dương, nhưng cũng có đại ngày, còn chồng thì cứ rượu
biểu bị người ta dè bỉu. vào lời ra.
- đã dự chiêu đãi, lại còn nhận
được quà biếu.
2.3. Các lỗi về phụ âm đầu
2.3.1. Lẫn lộn G / GH, NG / NGH, K/C/Q
Các âm đầu K, GH, NGH chỉ kết hợp với các nguyên âm i, iê, ê, e; còn các âm
đầu C, G, NG chỉ kết hợp với các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, uô, ư, ươ; còn khi có
âm đệm thì viết Q.
GH : ghi, ghim, ghìm, ghiền, ghê, ghế, ghen, ghên...
G : ga, gà, găm gắp, gặp, gặt, gông, gươm, gửi...
NGH : nghỉ, nghĩ, nghịt, nghiện, nghiệp, nghênh, nghếch, nghẹn, nghẹt...

95
NG : nga, ngà, ngã, ngan, ngang, ngát, ngắm, ngỡ, ngủ, ngữ, ngưỡng...
K : kì, kỉ, kim, kìm, kính, kia, kiếm, kiến, kéo, kẹo...
C : can, cảm, cá, cai, căm, câm, cân, cắt, cỏ, côm, cũ, cùng, cuốc, cuống...
Q : qua, quả, quan, quang, quắc, quân, quét, quên, quyên, quyết...
2.3.2. Lẫn lộn GI- với D-
Để phân biệt GI- với D-, sinh viên có thể học thuộc quy tắc: Giao tranh cho tôi cầm
để viết đúng GI- (chứ không phải là D-) và quy tắc: Dặn đến nhà thương để viết đúng
D (chứ không phải là GI-).
*Quy tắc Giao tranh cho tôi cầm:
Nếu gặp một từ không biết viết GI- hay D-, thì ta viết GI- khi từ ấy có nghĩa gần
giống với một từ khác có phụ âm đầu là (Tr-, Ch-, hay C-, CK-).
Gi- Tr- : Giành - tranh, giao-trao, giở-trở, giương-trương, già-tra, giữ-
trữ, giời-trời, giả-trả, giố - trối, giả-trả...
Gi - Ch : giấu-che, gì-chi, giống-chủng, ...
Gi - T : giặc-tặc, giã từ-tạ từ, giọng-tiếng...
Gi - C(K): giăng-căng, giỗ - kị...
*Quy tắc Dặn đến nhà thương:
Nếu gặp một từ không biết viết D- hay Gi-, thì ta viết D- khi từ ấy có nghĩa gần
giống với một từ khác có phụ âm đầu là Đ, Nh, hay Th-.Ví dụ:
D- Đ : dao - đao, dĩa - đĩa, dằn - đằn, dứt - đứt, dằng dẵng - đằng đẵng, đầy
đặn - dầy dặn...
D-NH : dồi - nhồi, dỏ - nhỏ, dịp - nhịp, một dúm - một nhúm, dường bao -
nhường bao...
D-Th : dư - thừa, dược - thuốc...
2.3.3. Những trường hợp chính tả đáng lưu ý

- nó chỉ nói ngoa, dạ hội đêm - Nó phóng hoả đốt nhà bị bắt
hôm qua đâu có đốt pháo hoa. quả tang.
- Mua một đôi hoa tai làm quà - Nó là mèo già hoá cáo, quá
tặng. quắt lắm.
- Mẹ về không có quà, bé khóc - Người bải hoải nên làm việc
oà lên. uể oải.

96
- Oái ăm thật, chuyện từ năm - Bị chuyện uẩn khúc, ông ta
ngoái mà ông ta vẫn không suy nghĩ nhiều đâm quẩn; rồi
quên. quẩn quá nghĩ không ra.
- Em bé ốm quằn quại, nằm - Nó quỷ quyệt, đã thiêu huỷ hết
oằn oặi suốt đêm. chứng từ.
- Vu oan giá hoạ cho người, - Hậu sinh khả uý là điều rất
chứng cớ rõ ràng, nhưng đến đáng quý.
cửa quan, lại ngoan cố không - Kẻ có quyền sinh quyền sát,
nhận. chuyên tác oai tác quái,
- Tên cướp thù oán người đã hô không khỏi bị người đời
hoán lên làm nó bị bắt. nguyền rủa.
- ông ta sống như ông hoàng, - Người có tâm huyết bao giờ
nó thấy sang bắt quàng làm cũng có quyết tâm đấu tranh
họ. chống áp bức.
- Mọi người khóc, còn nó thì
nghoảnh mặt làm ngơ, mắt ráo
hoảnh.
- Chuyện kỳ quặc, ngoặc với
một người lạ hoắc.
- ..................................................................................................................
- đi giày da, mặc áo giả da. - Bảo vệ danh dự của một gia
- đồ gia dụng thì rất cần thiết. đình danh giá.
- Con nhà danh gia, rất có danh - Thầy giáo giảng dạy, dẫn giải
giá. truyện Kiều, giảng giải tỉ mỉ.
- Dần dà, rồi nó cũng trở thành - Có vấn đề nan giải, nhưng
già dặn. không biết giãi bày với ai.
- Giả sử không có tài liệu dã - Anh em giành giật nhau của
sử. cải cha mẹ đã một đời dành
- Thời giặc giã, về sống nơi dân dụm được để lại.
dã. - Nam nữ hát giao duyên.
- Thái độ giả dối, làm dối làm - Giáo dưỡng học sinh, giáo
dá. dục con cái.

97
- Diễn giả giáo đầu xong, lại - Cậu thủ hỏi dò xem có bị treo
còn nói dạo mãi không đi vào giò không?
vấn đề. - Vừa giở tờ báo ra, đang đọc
- Cô ấy nói dằn giọng một cách dở thì có khách vào.
giận dữ. - Chị em hối hả giục nhau đi
- Doạ dẫm không được, quay ra tập thể dục.
dụ dỗ. - Người giàu thì ai cũng thích
- Lên dây đồng hồ chỉ trong nuôi chó dữ để giữ nhà.
một giây đồng hồ.
- Chôn giấu rất kỹ, không để lại
một dấu vết gì cả.
3. Quy tắc viết hoa, viết tắt và quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài
Quy tắc viết hoa và phiên âm tiếng nước ngoài nằm trong khuôn khổ những quy
định chung về chính tả hiện hành.
Từ tháng 11/1990 Bộ Giáo dục Việt Nam, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã
công bố “Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách Giáo dục”, xem
đây là cơ sở quan trọng để thống nhất chính tả trong cả nước. Sau đây là những quy
định quan trọng:
3.1. Quy tắc viết hoa
3.1.1. Viết hoa tên người
Tên người Việt Nam được viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết, ví dụ: Trần
Hưng Đạo, Lê Văn Hưu, Tú Xương, Nguyễn Thị Minh Khai...
Riêng tên người một số dân tộc ít người trong nước nếu được phiên âm thì viết
hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận của tên và giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận thì
có dấu gạch nối, ví dụ: Y Ngông Niê - kđăm, Kơ - pa Kơ - lơng...
Tên người nước ngoài phiên âm ra tiếng Việt được viết hoa chữ cái đầu ở mỗi
bộ phận của tên, và giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận cũng có dấu gạch nối, ví
dụ: Tô - mát Ê - đi - xơn. i - u - ri Ga - ga - rin, Vla - đi - mia i - lich Lê - nin...
Riêng tên người nước ngoài được phiên âm qua âm Hán Việt thì viết hoa như
viết tên người Việt Nam, ví dụ: Tư Mã Thiên, Thành Cát Tư Hãn, Bá Đa Lộc, Nã Phá
Luân...

98
3.1.2. Viết hoa tên địa lý
Tất cả tên sông, núi, tỉnh, thành, phố, quận, huyện, thị xã, phường, thôn... Việt
đều được viết hoa chữ cái đầu ở mỗi âm tiết, ví dụ: Trường Sơn, Cửu Long, Sài Gòn,
Hà Nội, Cà Mau, Hoàn Kiếm, Mê Linh, Bạc Liêu, Lạng Sơn, Thanh Xuân Bắc, Đồng
Nhân, Quảng Phú, Bao La...
Một số tên địa lý phiên âm từ tiếng dân tộc ít người thì chỉ viết hoa chữ cái đầu
ở mỗi bộ phận của tên và giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận có gạch nối, ví dụ:
Krông A - na, Y - a - li, Chư - pa...
Tên núi, sông, thành phố, tỉnh, làng, xã... nước ngoài được phiên âm ra tiếng
Việt cũng viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận và giữa các âm tiết trong cùng một bộ
phận có dấu gạch nối, ví dụ: Xanh Pê - téc - bua, Ê - vơ - ret, Béc - lin, Cô - xta Ri -
ca... Riêng các tên địa lý nước ngoài được phiên âm qua âm Hán - Việt thì viết hoa
như tên địa lý Việt Nam, ví dụ: Tiệp Khắc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bắc Kinh,
Luân Đôn, Ba Lan...
3.1.3. Viết hoa tên các tổ chức chính trị, xã hội
Đối với các cơ quan, tổ chức xã hội...thì viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu
tiên và các âm tiết biểu thị tính chất riêng biệt của tên, ví dụ: Bộ Ngoại giao, Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà nội, Trường Đại học Sư
phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo...
Ghi chú:
- Các từ chỉ phương hướng (đông, tây, nam, bắc...) chỉ viết hoa khi được dùng
trong tên riêng địa lý, ví dụ chúng ta có: miền tây của Tây Đức, bờ - biển phía nam của
vùng Đông Nam á...
- Những từ vốn là tên riêng địa lý nhưng theo thời gian đã mất tính chất là tên
riêng, chuyển sang chỉ chủng loại thì không phải viết hoa, ví dụ: mực tàu, cá rô phi...
- Tên chức vụ, danh hiệu viết hoa để tỏ ý kính trọng, ví dụ: Phó Thủ tướng,
Thủ tướng, Anh hùng Lao động, Bà mẹ Anh hùng, Nhà giáo Nhân dân...
3.2. Quy tắc phiên âm
Trong cac văn bản khoa học chúng ta thường gặp các tên riêng nước ngoài và
các thuật ngữ quốc tế. Có ba cách xử lý các từ ngữ này, phụ thuộc vào loại hình văn
bản trong đó chúng xuất hiện. Đó là: để nguyên dạng, chuyển tự hoặc phiên âm.

99
a). Cách viết nguyên dạng được dùng trong các sách báo, tạp chí chuyên môn,
trong các tiểu luận, luận văn đại học và sau đại học. Chẳng hạn, theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, trong thư mục của luận văn sau đại học, chữ Nga, chữ Trung
Quốc, chữ Thái...đều phải để nguyên dạng, không dịch.
b). Cách chuyển tự (chuyển chữ cái tiếng nước ngoài thành chữ cái tiếng Việt)
cũng được dùng trong các tài liệu chuyên môn.
Khi chuyển tự, ta viết liền cả từ, không có gạch nối giữa các âm tiết và cũng
không đánh dấu thanh.
Ví dụ: Matxcơva, Givon, T. Panfilov, V.S. Hagere, CI. Karcevskis , bazơ,
axit...
- Nếu chữ viết trong nguyên ngữ dùng con chữ La tinh thì giữ nguyên dạng như
trong nguyên ngữ, có thể giản lược các dấu phụ nếu thấy cần thiết (như các dấu phụ õ,
ẽ...).
- Nếu chữ viết nguyên ngữ không phải thuộc hệ chữ cái La tinh thì dùng lối
chuyển tự được quy ước sang chữ cái La tinh.
c). Cách phiên âm được dùng trong các sách báo phổ cập.
Khi phiên âm, ta viết rời từng âm tiết, giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận
có gạch nối, các âm tiết không đánh dấu thanh.
Ví dụ: Xanh Pê - tec - bua, Na - pô - lê - ông Bô - na - pac, Vla - đi - mia i - lich
Lê - nin, Mat - xcơ - va...
Chú ý:
- tên sông, núi v.v... không thuộc riêng một nước nào và tên các tổ chức quốc tế
thì viết theo dạng chữ thống nhất và phổ biến nhất trên thế giới (kể cả tên viết tắt, nếu
có), ví dụ: Mekong, UNESCO, Himalaya... Nhưng nếu là tên có ý nghĩa và thường
được dịch nghĩa thì viết theo lối dịch nghĩa, ví dụ: Biển Đen (hay Hắc Hải), Liên Hiệp
Quốc...
- Một số tên riêng, nhất là tên đất, tên nhân vật lịch sử đã quen dùng từ lâu thì
nói chung giữ nguyên cách gọi cũ, ví dụ: Pháp, Đức, Trung Hoa, Hy Lạp, Thích Ca...
- Trong các sách giáo khoa ở các lớp dưới, có thể ghi chú trong ngoặc đơn
cách đọc tên riêng không phải tiếng Việt, ví dụ: Shakespeare (Sêch - xpia),
Curie (Quy - ri), Mexico (Mê - xi - cô)...
3.3. Quy cách viết tắt

100
Trong lúc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, người ta thường viết tắt để tiết kiệm
thời gian và không gian. Chúng ta cần biết những qui tắc này để sử dụng tốt hơn.

101
a). Các kiểu viết tắt
Ta có thể phân làm bốn kiểu:
1/ Dạng tắt: chỉ viết chữ đầu các âm tiết. Kiểu này chia làm hai loại nhỏ:
- Loại chỉ đọc tên các chữ cái:
ATK, đọc a tê ca, chỉ an toàn khu.
SKZ, đọc ét ca dét, chỉ súng không giật.
VAC, đọc vê a xê, chỉ vườn ao chuồng.
- Loại đọc theo từ ngữ gốc:
CHXHCNVN, đọc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
TƯ hoặc TW : trung ương
V.A.C. : vườn ao chuồng
HTX : hợp tác xã
h : giờ (do tiếng Pháp heure)
km: ki lô mét
l: lít
2/ Từ tắt: tuy viết tắt nhưng đọc như từ thường.
VAC đọc vác (không đọc vê a xê hay vườn ao chuồng).
RADAR (Radio Detection And Ranging); đọc ra - đa.
ECU (European Currency Unit); đọc ê - cu.
3/ Tên tắt: các dạng tắt mà được dùng làm bút danh thì được gọi là tên tắt. ta
chỉ đọc tên các chữ cái.
Ví dụ: CB, ĐX, XYZ của Chủ Tịch Hồ Chỉ Minh; T.T.Kh. là tên tắt của tác
giả bài “Hai sắc hoa ti - gôn”.
4/ Tên giao dịch: tên đầy đủ của các đơn vị kinh tế, nhiều tổ chức văn hoá xã
hộithường khá dài. do đó, trong giao dịch, người ta thường rút gọn cho dễ nhớ:
XUNHASABA: Công ty xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam.
MINEXPORT: Tổng công ty xuất nhập khâủ khoáng sản.
COLUSA: Cty lương thực thành phố Hồ Chí Minh.
YTECO: Cty xuất nhập khẩu thành phố Hồ Chí Minh.
b). Cách viết tắt:
1/ Cách dùng dấu chấm:

102
Không cần dùng dấu chấm sau các chữ in hoa: TDTT, UBND, VP (văn phòng),
HTX, SKZ, ...
Nên dùng dấu chấm sau các chữ in thường: tr. (trang), x. (xem), tp. (thành phố),
h. (huyện), ...
2/ Cách viết hoa:
Viết hoa chữ đầu của từ hoặc âm tiết và không cần dùng dấu chấm: TTg (Thủ
tướng).
3/ Cách dùng dấu gạch chéo:
- Để chỉ rõ phạm vi của đối tượng:
Ví dụ: QĐ/CTN (Quyết định/Chủ tịch nước).
LCT/HĐND (Lệnh chủ tịch/Hội đồng Nhà nước).
70/110 đường Cư xá Đông Thành.
- Để chỉ trỏ đơn vị: 75km/giờ.
- Để chỉ sự lựa chọn:
anh A và/hoặc anh B sẽ làm việc này.
Người bị mất quyền công dân và/hoặc không đủ năng lực về trí tuệ thì
không được đi bầu.
4/ Cách dùng dấu gạch ngang:
- Để trỏ quan hệ song hành: Ví dụ: Thông tư liên Bộ GTVT- GD& ĐT.
- Đứng sau con trỏ thứ tự của văn bản: Ví dụ: Sắc lệnh số 69 - SL; Nghị định
số 52 - HĐBT; Chỉ thị số 393 - CT, ...
Như vậy, không nên viết “ Số : 1977/UB - KT” hoặc “ Số 85/ TC - HCSN”. Vì
rằng UB - KT có nghĩa là văn bản của Uỷ ban về vấn đề kinh tế; TC - HCSN có nghĩa
là văn bản của Bộ Tài chính về vấn đề hành chính sự nghiệp. Do vậy, nên viết “ Số
1997 - UB/KT” và “ Số 85 - TC/HCSN”.
Cần chú thích về mỗi từ tắt chưa thông dụng trong lần dùng đầu tiên: Nếu đó là
chữ tắt thông dụng, ta phải ghi nguyên dạng trong lần dùng đầu tiên.
Ví dụ: Giám đốc TTBVSKBMVTE (Trung tâm Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ
em) là bác sĩ Thu.

103
Chương 5

Các bước tiếp nhận và soạn thảo văn bản


I. lập đề cương văn bản
1. Đề cương - mục đích và yêu cầu
1.1. Lập đề cương là xây dựng bản thiết kế trước khi tạo lập VB, nhằm phác
thảo cái nhìn tổng thể, hệ thống, bao quát nhưng lại chi tiết. Đề cương giúp lựa chọn,
sắp xếp, cân đối, điều chỉnh dung lượng thông tin trong mỗi vấn đề sẽ trình bày.
Phân tích đề (hay đề tài, khía cạnh của đề tài, chủ đề, một vấn đề) là xác định
các chủ đề bộ phận, luận điểm, luận cứ, các phương diện khác nhau, v.v..
1.2. Cách sắp xếp và tổ chức đề cương văn bản
1. 2.1. Nguyên tắc
- Đảm bảo tính thiết thực: Các ý nhỏ đều hướng về và đều phục vụ ý lớn; các ý
lớn nằm trong định hướng phục vụ việc triển khai chủ đề chung. Nói cách khác: chủ đề
chung được duy trì ở hệ thống chủ đề bộ phận và các yếu tố cấu thành nên các chủ đề
bộ phận đó. Vì vậy, cần tránh sa vào chi tiết vụn vặt, không cần thiết, không “ăn nhập”
hoặc quá xa (lạc đề, xa đề) với chủ đề chính và chủ đề bộ phận.
- Đảm bảo tính tương đương, đồng cấp, đồng bậc... về một giá trị chung nào
đó trong quan hệ giữa các yếu tố cấu thành; chú ý đến mối quan hệ tổng thể - bộ phận
(cái bao hàm và cái được bao hàm). Chẳng hạn các mục 1.1.1., 2.1.1., 3.1.1. ở cả ba
chủ đề bộ phận (1, 2, 3) đều có giá trị tương đương nhau, phải trình bày, cân đối các
luận cứ, các minh họa, dung lượng thông tin, v.v... tương đối giống nhau nếu có và
cần thiết.
- Các chủ đề bộ phận, luận điểm, luận cứ... có thể được thể hiện theo:
+ Trình tự khách quan:
- Theo thời gian (sự kiện, vấn đề có trước, xảy ra trước thì trình bày
trước, ví dụ: các mốc lớn, các công đoạn chính...).
- Theo lôgích (quan hệ tổng thể - bộ phận, quan hệ nguyên nhân - kết
quả, v.v...).
+ Trình tự chủ quan:
-Theo lôgích chủ quan (quan hệ tương đồng và tương phản, sự đánh giá
về mức độ quan trọng hay điểm nhìn, tâm lý, cảm xúc, v.v... của người viết).
1. 2.2. Kỹ thuật trình bày

104
Phụ thuộc rất nhiều vào mục đích, ý đồ, cách thức lập đề cương (sơ giản hay
chi tiết), vào tính phức tạp và phạm vi của chủ đề, yêu cầu bàn luận, nghiên cứu.
+ Trước hết, phải chọn đúng hoặc “cố định hóa” tên gọi của chủ đề bộ phận
(thường là phải khái quát hóa, dùng ngữ có kết cấu chặt chẽ, súc tích để thể hiện nội
dung chính của ĐV hay nhiều ĐV dự kiến). Các tên gọi đó chính là các đề mục, tiểu mục (lớn, nhỏ).
+ Với đề cương sơ giản (trong VB lớn và phức tạp): Có thể ghi nội dung cơ bản
qua tên gọi các phần, chương, mục... (ví dụ: bản mục lục ở cuối một cuốn sách).
+ Với đề cương chi tiết (chính là đề cương sơ giản được cụ thể hóa): Có thể
phải dùng một hệ thống cấu trúc tầng bậc, chi tiết hơn, thậm chí bố trí sẵn (thường là
gạch đầu dòng) các chi tiết, các luận cứ, các minh họa, dẫn chứng... cần chú ý cho khỏi
quên khi viết thành VB.
+ Với cả hai trường hợp trên, thường phải có các dấu hiệu, kí hiệu... để phân
cấp, khu biệt, thể hiện các mục, đề mục, tiểu mục, các ý lớn, nhỏ. Có thể dùng:
- Chữ: chương Một, chương Hai... ; các cỡ chữ (lớn, nhỏ), kiểu chữ (nghiêng,
đậm, ...); các chữ cái A, B, C ; a, b, c, v.v.
- Chữ số: chữ số La Mã (I, II, III, ... X ..) hoặc chữ số Arập ; 1, 1.1., 1.1.1.,
1.1.2., 1.1.3., v.v.
- Các dấu hiệu khác: dấu cộng, dấu trừ, dấu hoa thị, v.v.
1.2.3. Kiểm tra, rà soát lại đề cương
Việc đọc lại những dự kiến trình bày là điều rất cần thiết nhưng lại thường bị bỏ
quên. Phải kiểm tra xem: các ý lớn, ý nhỏ có chính xác không về nội dung (chẳng hạn
có nằm trong phạm vi của chủ đề chung hay không) và đã đủ hay chưa; dung lượng về
thông tin trong mỗi ý có đủ và có cân đối với các ý khác hay không; các luận cứ, dẫn
chứng, minh họa có chính xác và cần thiết hay không, v.v...
2. Một số đề cương thường dùng
2.1. Đề cương sơ giản
Đề cương này chỉ nêu lên nội dung cơ bản của các phần, các chương, các mục
thông qua tên gọi của chúng. Đối với một văn bản lớn thường chỉ dùng đề cương sơ
giản. Có thể thấy đề cương sơ giản của các văn bản lớn giống như bản mục lục trong
một cuốn sách, tuy có điểm khác là: đề cương được xác lập trước khi viết văn bản, còn
bản mục lục thì lập ra sau khi viết và in xong văn bản và có ghi số trang

105
Đề cương sơ giản của một văn bản nhỏ chỉ bao gồm các ý lớn, các luận điểm
mà chưa được cụ thể hoá bằng các ý nhỏ, các luận cứ (lí lẽ, dẫn chứng) cụ thể. Ví dụ
về một bản mục lục Giáo trình Cơ sở Văn hoá Việt Nam của Gs. Trần Ngọc Thêm sau
đây có thể xem là đề cương sơ giản:
Cơ sở văn hoá việt nam
Chương 1: Văn hoá học vàvăn hoá Việt Nam
Chương 2: Văn hoá nhận thức
Chương 3: Văn hoá tổ chức cộng đồng: đời sống tập thể
Chương 4: Văn hoá tổ chức cộng đồng: đời sống cá nhân
Chương 5: Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên
Chương6: Văn hoá ứng xử với môi trường xã hội
Chương cuối cùng bao gồm các mục lớn nhỏ như sau:
&21. Giao lưu với ấn Độ: văn hoá Chăm
21.1. Bàlamôn giáo từ ấn Độ và ba nguồn gốc của văn hoá Chăm
21.2. Những đặc điểm của kiến trúc Chăm
21.3. Những đặc điểm của điêu khắc Chăm
21.4. Sức mạnh bản địa hoá ảnh hưởng Bàlamôn giáo và Hồi giáo
&22. Phật giáo và văn hoá Việt Nam
22.1.Sự hình thành và nội dung cơ bản của Phật giáo
22.2.Qua trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
22.3. Những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
&23. Nho giáo với văn hoá Việt Nam
23.1. Sự hình thành của Nho giáo
23.2. Nội dung cơ bản, nguồn gốc và sự phát triển của Nho giáo
23.3. Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo
Việt Nam
&24. Đạo giáo với văn hoá Việt Nam
24.1. Từ Đạo gia đến Đạo giáo
24.2. Đạo giáo ở Việt Nam
&25. Phương Tây với văn hoá Việt Nam
25.1. Kitô giáo và văn hoá Việt Nam
25.2. ảnh hưởng của phương Tây đối với văn hoá Việt Nam trên các
phương diện.
&26. Văn hoá đối phó với môi trường xã hội. Tính dung hợp như một đặc trưng
điển hình của văn hoá ứng xử với môi trường xã hội
26.1. Văn hoá đối phó với MTXH: lĩnh vực quân sự, ngoại giao
26.2. Dung hợp và dung hợp văn hoá khu vực
26.3. Dung hợp văn hoá Đông – Tây
26.4. Tích hợp văn hoá Đông-Tây với lý tưởng xã hội chủ nghĩa

106
(Trần Ngọc Thêm- Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trường ĐH Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh,
1995)
2.2. Đề cương chi tiết
Đây là đề cương không chỉ bao gồm các ý lớn, những luận điểm cơ bản, mà
còn có các ý nhỏ, các luận cứ, các dãn chứng cụ thể. Đề cương chi tiết thể khá đầy đủ
nội dung của văn bản; do đó, dễ dàng chuyển đề cương chi tiết thành văn bản. Có thẻ
nói, đề cương chi tiết là dạng tóm tắt văn bản, nhưng khác ở chỗ: đề cương chi tiết
được xác lập trước khi viết văn bản, còn tóm tắt văn bản (dưới dạng đề cương) là kết
quả rút ra từ văn bản đã có sẵn.
3. Cách viết một loại đề cương đặc biệt: luận án, luận văn, khoá luận, niên luận
Luận án, luận văn, khoá luận, niên luận, báo cáo khoa học, ... là những VBKH
mà sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh thường gặp (trong quá trình học tập
và nghiên cứu) và nhiều khi bắt buộc phải làm.
3.1). Về việc lập đề cương cho luận văn, cũng giống như những điều đã trình
bày ở phần Đề cương - mục đích và yêu cầu. Tuy nhiên, đối với một đề cương luận
văn, báo cáo khoa học, những điểm cần lưu ý thêm là về bố cục và nội dung, cần nêu
được: tính thời sự của việc nghiên cứu (bối cảnh chung về lý thuyết, thực tiễn...); lý
do chọn đề tài (có thể là một đề tài); giới hạn phạm vi nghiên cứu, nội dung và dự
kiến chương mục... (với luận văn, tiểu luận), phương pháp nghiên cứu (phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể, quy nạp hoặc diễn dịch); dự kiến đóng góp;
nguồn tư liệu và phương pháp xử lý tư liệu, có khi phải nêu tổ chức lực lượng thực thi
và nghiệm thu đề tài (với đề tài có điều tra điền dã).
3.2). Về quy củ một luận văn khoa học
Một bản luận văn gồm có 3 phần: đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, kết thúc vấn đề
(hay kết luận).(Theo Nguyễn Đăng Mạnh - Muốn viết được một bài văn hay. Nxb
GD, Hà Nội-1993)
1. Đặt vấn đề
Phần đặt vấn đề phải có các mục sau đây:
a). Quan niệm về đề tài:
Người làm luận văn phải xác định rõ đối tượng nghiên cứu của mình. Quan
niệm về đề tài có nghĩa là quan niệm về đối tượng của luận văn.
Thí dụ, đề tài: “Phong cách giản dị của thơ nghệ thuật Hồ Chí Minh”. Đối tượng
nghiên cứu là: một trong những nét phong cách cơ bản của thơ nghệ thuật Hồ Chí

107
Minh. Phong cách giản dị ở đây chỉ bàn về thơ nghệ thuật, thơ tuyên truyền minh hoạ
chính trị không nằm trong diện nghiên cứu của đề tài.
b). Lý do chọn đề tài hay ý nghĩa của đề tài:
- ý nghĩa khoa học
- ý nghĩa thực tiễn
(Điều này đã được nói rõ ở trên)
c). Lịch sử vấn đề:
Điều này cũng đã nói ở trên
Cần chú ý thêm: khi duyệt lại có phân tích, phê phán, đánh giá các bài viết liên
quan đến đề tài, để cho được rành mạch và dễ theo dõi, cần phân loại các bài viết theo
nội dung của chúng, đồng thời phải duyệt chúng lần lượt theo trật tự thời gian, từ bài
viết sớm nhất đến bài viết gần đây nhất. Sự duyệt lại các bài viết không nên bình quân:
bài quan trọng đối với đề tài cần dừng lại phân tích, đánh giá kỹ hơn. Bài không quan
trọng thì chỉ lướt qua.
d). Giới hạn của đề tài:
Tuỳ theo điều kiện tư liệu, điều kiện thời gian cho phép và điều kiện về khả năng
của người làm luận văn, có thể xác định rõ giới hạn hay phạm vi đối tượng nghiên cứu
của đề tài. Thí dụ, về đề tài: “Phong cách giản dị của thơ nghệ thuật Hồ Chí Minh” có
thể giới hạn: chỉ nghiên cứu phong cách giản dị của những bài thơ của Hồ Chí Minh
trong Nhật ký trong tù mà thôi.
đ). Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nào cũng phải vận dụng hàng loạt phương pháp tư duy khoa học khác
nhau. Trong mục này, người viết luận văn cần nêu lên những phương pháp chủ yếu
được vận dụng trong quá trình giải quyết đề tài.
- Đề tài về lý luận văn học thì chủ yếu phải vận dụng phương pháp lôgích.
Phương pháp này xem xét các quy luật văn học ở dạng thuần tuý, trừu tượng, dạng
trung bình - lý tưởng, gạt bỏ những sự ngẫu nhiên, chỉ chú ý đến những tri thức bản
chất, những sự kiện tiêu biểu điển hình.
- Đề tài về văn học sử thì phải kết hợp phương pháp lôgích với phương pháp
lịch sử (chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử). Phương pháp lịch sử quan tâm tới
những biểu hiện cụ thể - lịch sử của những quá trình văn học, kể cả những sự ngẫu
nhiên, những bước đi quanh co phức tạp. Nó tìm quy luật riêng biệt của những qúa

108
trình văn học cụ thể. Nó kết hợp mô tả hiện tượng với giải thích bản chất và quy luật,
mô tả trên cơ sở giải thích. Giải thích là giải thích bản chất và quy luật tất nhiên phải
cần đến tư duy lôgích, nhưng không phải để soi sáng những bản chất và quy luật
chung của văn học mọi nơi, mọi thời, mà để làm sáng tỏ bản chất và quy luật riêng của
một quá trình văn học cụ thể của một dân tộc, trong những giai đoạn lịch sử cụ thể của
nó.
Thí dụ: nhà lý luận văn học dùng phương pháp lôgích xác định khái niệm tiểu
thuyết. Ông ta khái quát từ những đặc trưng thuần tuý nhất của các cuốn tiểu thuyết
đông và tây, gạt bỏ những yếu tố pha tạp không tiêu biểu, không điển hình của chúng.
Khái niệm tiểu thuyết này ứng với cả Ana Karenina, Chiến tranh và hoà bình của
L.Tônxtôi, Tội ác và trừng phạt của Đốtxtôiepxki, Những người khốn khổ của
V.Huygô cũng như Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Giông tố của Vũ Trọng Phụng,
Sống mòn của Nam Cao, v.v...
Nhà văn học sử, nghiên cứu tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn, tuy
cũng phải vận dụng khái niệm tiểu thuyết của lý luận văn học làm công cụ tư duy,
nhưng lại chú trọng những gì làm nên tính độc đáo riêng biệt của tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng với tất cả những biểu hiện không điển hình của chúng. Ông ta phải vừa mô tả,
vừa giải thích để làm nổi rõ kiểu dạng và phong cách riêng của những cuốn tiểu thuyết
của Vũ Trọng Phụng... ở đây yếu tố không điển hình, ít tiêu biểu có khi lại là bản chất
cần khẳng định.
- Trong nghiên cứu văn học, người ta cũng hay vận dụng phương pháp tiếp cận
hệ thống. Nghĩa là nhìn đối tượng nghiên cứu như một hệ thống để khảo sát, phân tích,
tìm ra bản chất và quy luật. Chẳng hạn, tác phẩm văn học là một hệ thống. Phong cách
nghệ thuật nhà văn là một hệ thống. Trào lưu văn học là một hệ thống. Giai đoạn lịch
sử văn học cũng là một hệ thống, v.v...
- Nghiên cứu văn học hiện nay đang có phong trào vận dụng phương pháp tiếp
cận thi pháp học. Đây cũng là một dạng tiếp cận hệ thống. Tiếp cận thi pháp học là
tiếp cận hệ thống các phương thức biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật của
văn học bắt nguồn từ một quan niệm thẩm mĩ nhất định về thế giới (có thi pháp một
tác phẩm, một tác giả, một trào lưu, một thời đại văn học, v.v...)
- Phương pháp so sánh văn học cũng được vận dụng rộng rãi trong nghiên cứu
văn học. Có thể nói, mọi phán đoán của con người dù nhỏ nhặt cũng phải dựa trên sự

109
so sánh. So sánh để thấy cái chung và cái riêng của các hiện tượng văn học. Những đề
tài đòi hỏi phát hiện đặc điểm riêng của một hiện tượng văn học nào đấy thì nói chung
đều phải dùng đến phương pháp so sánh văn học như một phương pháp cơ bản.
- Phương pháp phân loại, thống kê cũng rất bổ ích đối với nghiên cứu văn học.
Một phán đoán nào đấy mà có những con số làm luận cứ thì bao giờ cũng có sức
thuyết phục lớn. Nói chung tính quy luật thể hiện ở sự lặp đi lặp lại. Sự phát hiện ra thi
pháp, phong cách văn học cũng dựa trên nhận xét về những yếu tố nghệ thuật lặp đi
lặp lại. Điều ấy rất cần đến những con số thống kê.
Tất nhiên không thể kể hết các loại phương pháp trong nghiên cứu văn học.
Trên đây chỉ dẫn ra một số phương pháp quan trọng thường thấy được vận dụng trong
các loại luận văn khoa học mà thôi.
Nhìn chung, phần đặt vấn đề hết sức quan trọng trong kết cấu một bản luận văn.
Đặt vấn đề tốt chứng tỏ người viết thật sự nắm vững đề tài, thật sự làm chủ đề tài của
mình.
2. Giải quyết vấn đề
Đây là phần trình bày các luận điểm cấp I, cấp II và các luận cứ để chứng minh
cho các luận điểm ấy. Điều này đã trình bày ở trên.
Cần chú ý thêm:
a). Luận điểm cùng một cấp thì một mặt phải đồng hạng, đồng đẳng nhưng mặt
khác lại phải khác loại. Nghĩa là không thể luận điểm này lại có thể bao gồm, hay dẫm
đạp lên luận điểm kia.
Thí dụ, với đề tài “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân”, có thể nêu 4 luận điểm cấp I
như sau:
1- Đứng ở đỉnh cao của tài hoa và uyên bác mà trêu ghẹo thiên hạ.
2- Mĩ học “vang bóng một thời” (hay mĩ học “hoài cựu”).
3- Khao khát cảm giác mãnh liệt (Dễ có cảm hứng trước những hiện tượng đập
mạnh vào giác quan nghệ sĩ).
4- Sử dụng rộng rãi lối văn tuỳ bút - độc tấu.
Bốn luận điểm là đồng hạng, đồng đẳng vì cùng chi phối toàn bộ thế giới nghệ
thuật của Nguyễn Tuân. Chúng đồng thời khác loại với nhau, không bao gồm được
nhau, vì mỗi luận điểm là một phán đoán riêng về một phương diện cơ bản nào đấy

110
của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, không luận điểm nào trùm lên hay dẫm chân
sang địa hạt của luận điểm nào.
Những luận điểm cấp I có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề do đề tài luận văn nêu
ra (luận đề). Những luận điểm cấp II có nhiệm vụ làm sáng tỏ các luận điểm cấp I.
Những luận điểm cấp III có nhiệm vụ làm sáng tỏ những luận điểm cấp II, v.v... và,
v.v...
b). Những luận điểm trong cùng một cấp phải được tổ chức trong một quan hệ
chặt chẽ, hợp lý, theo một lôgích nào đấy. Thí dụ: từ nội dung đến hình thức (hay
ngược lại), từ nguyên nhân đến kết quả, v.v...
c). Một luận văn không nên có quá nhiều luận điểm cùng cấp. Dĩ nhiên điều này
tuỳ thuộc vào yêu cầu của mỗi đề tài luận văn. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, đưa
ra quá nhiều luận điểm cùng cấp chứng tỏ người viết trình độ khái quát tổng hợp chưa
cao, hoặc suy nghĩ chưa chín, còn tỏ ra bối rối, chưa quan niệm được hết vấn đề một
cách sáng sủa, rõ ràng.
3. Kết thúc vấn đề (hay kết luận)
Phần này người làm luận văn phải trình bày một cách vắn tắt, cô đúc nhưng rõ
ràng về kết qủa tìm tòi của luận văn, nghĩa là những đóng góp đáng kể của luận văn
đối với khoa học.
4. Vấn đề trích dẫn và chú thích trích dẫn
a). Để chứng minh cho các luận điểm, luận văn phải cần nhiều luận cứ. Đó là
những lí lẽ và những bằng chứng. Để tăng sức thuyết phục của luận cứ, luận văn cần
đến những trích dẫn ý kiến của một nhà lí luận, một nhà nghiên cứu có uy tín nào đấy
hoặc trích dẫn những câu, những đoạn của một tác phẩm văn học nào đấy thuộc đối
tượng nghiên cứu.
b). Những đoạn trích dẫn phải đặt trong ngoặc kép và phải chú thích xuất xứ
với đầy đủ các yếu tố sau đây:
Tên tác giả, tên sách, tên nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản, số trang có
đoạn trích.
Thí dụ: Trần Đình Sử: Thi pháp thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà
Nội, 1987, trang 35.
Nếu là bài báo thì phải ghi:

111
Tên tác giả, tên bài báo, tên tờ báo hay tạp chí, số báo, ngày ra báo, số trang
(tạp chí).
Thí dụ: Hoàng Ngọc Hiến: Nhà phê bình cần phải có văn, Tạp chí Văn học,
Viện Văn học, Hà Nội, số 2, 1989, trang 38.
c). Trích dẫn dài hay ngắn tuỳ thuộc ở nhu cầu của mỗi luận cứ. không nhất
thiết phải trích trọn vẹn cả câu hay cả đoạn văn. Có thể dùng hình thức lược bớt. Đoạn
lược bớt thay bằng ba dấu chấm đặt trong ngoặc đơn (...)
Thí dụ: “Không mở rộng và suy ngẫm về con người (...) chúng ta chấp nhận làm
sao đây sự du nhập ào ạt vào đời sống thẩm mĩ của người Việt Nam ngày hôm nay
những cây bút phương Tây thiên hình vạn trạng”. (Văn Tâm: Góp lời thiên cổ sự, Nxb
Văn học, Hà Nội, 1991, tr. 155).
Khoa học yêu cầu chặt chẽ “nói có sách, mách có chứng”. Vì thế những quy cũ
trên đây về trích dẫn và chú thích trích dẫn đặt ra rất nghiêm đối với những người tập
sự nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên cần tránh khuynh hướng trích dẫn không phải do
luận cứ cần đến mà chỉ cốt để khoe sự uyên bác. Những người mới nghiên cứu, mới
viết thường hay mắc vào khuynh hướng ấu trĩ này.
3.3). Về cách trình bày lịch sử vấn đề
+ Là công việc bắt buộc, vì phản ánh cái nhìn bao quát, tổng quan về tiến trình,
kết quả và những mảng trống, thiếu, hạn chế (cả về nội dung lẫn phương pháp nghiên
cứu) trong các công trình của những người đi trước có liên quan đến đề tài dự kiến.
Điều này thể hiện tính kế thừa và phát triển tri thức, khẳng định tính thời sự, ý nghĩa
và đóng góp... trong công trình của những người tiếp nối.
+ Muốn trình bày lịch sử vấn đề, phải dựa vào kết quả tóm tắt và tổng thuật tài
liệu khoa học (xem các mục này), nhưng không phải là sự kết hợp cơ giới mà phải dựa
trên việc chọn lựa, phân loại và khái quát hóa trong định hướng phục vụ đề tài.
+ Có thể trình bày lịch sử (lai lịch) vấn đề hoặc tình hình nghiên cứu (cần phân
biệt đây là hai vấn đề khác nhau):
a). Theo thời gian hoặc hệ quan điểm.
b). Theo lịch sử vấn đề chung cho toàn bộ đề tài hoặc theo từng phương diện
của đề tài. Một cách làm tốt, có hiệu quả là kết hợp cả a) và b).
3.4). Về cách trình bày
3.4.1. Bố cục:

112
a). Bìa ngoài: ghi tên Bộ chủ quản, cơ sở đào tạo, tên người thực hiện luận văn
hoặc luận án, tiểu luận; tên đề tài, chuyên ngành, mã số đào tạo (với luận án từ thạc sĩ
trở lên), nơi và năm thực hiện.
Trang bìa phụ (trang đầu tiên sau bìa): lặp lại các thông tin trên, thêm tên người
hướng dẫn và phản biện luận án (lúc đầu để trống).

113
b). Các phần chính trong luận văn, luận án, tiểu luận (còn gọi là chính văn).
b1). Phần mở đầu
Phải trình bày các vấn đề: đối tượng nghiên cứu và lý do chọn đề tài, lịch sử
vấn đề, nhiệm vụ nghiên cứu, dự kiến đóng góp, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư
liệu, bố cục luận văn (luận án), số chương, số trang, phụ lục, minh họa (nếu có), v.v...
Có thể thêm phần quy ước về chữ viết tắt, ký hiệu... đã sử dụng trong phần chính văn.
b2). Phần nội dung
Phần nội dung gồm các chương, mỗi chương trình bày một trong các nhiệm vụ
đã được đề ra, cuối mỗi chương có tiểu kết.
b3). Phần kết luận
Tổng kết lại những nội dung chính đã trình bày, các luận điểm lý thuyết, giải
pháp cụ thể, các ý nghĩa, những đóng góp.
Ngoài phần chính văn, trong luận văn và luận án còn trình bày:
b4). Phần phụ lục (nếu có): gồm biểu bảng, tư liệu ghi chép, sơ đồ, bản đồ,
biểu đồ, tranh ảnh, hình vẽ... để minh họa, dùng cho việc tham khảo; cần ghi số thứ tự
nếu có nhiều phụ lục khác nhau hoặc có nhiều phần khác nhau trong một phụ lục.
b5). Phần thư mục tài liệu tham khảo, trích dẫn:
 Đối với luận văn, luận án: Bắt buộc phải tuân thủ Quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo:
1. Tài liệu tham khảo bao gồm những sách, ấn phẩm, tạp chí... đã đọc và
được trích dẫn hoặc sử dụng về ý tưởng vào luận án và phải được chỉ rõ việc sử dụng
đó trong luận án.
2. Các tài liệu tham khảo phải được sắp xếp riêng theo từng khối tiếng
(Việt, Nga, Anh, Pháp, Đức...). Tài liệu đã đọc, tham khảo, trích dẫn, sử dụng trong
luận án bằng thứ tiếng nào thì xếp vào khối tiếng đó. Giữ nguyên văn không dịch,
không phiên âm các tài liệu bằng tiếng nước ngoài, kể cả các tài liệu bằng tiếng Trung,
Nhật, Lào...
3. Trình tự sắp xếp các danh mục tài liệu tham khảo trong từng khối tiếng
theo nguyên tắc thứ tự ABC của họ tên tác giả:
- Tác giả là người nước ngoài: xếp thứ tự theo họ tác giả (kể cả các tài liệu
dịch ra tiếng Việt và xếp ở khối tiếng Việt).

114
- Tác giả là người Việt Nam: xếp thứ tự ABC theo tên tác giả mà không đảo
lộn trật tự họ tên tác giả.
- Tài liệu không có tên tác giả thì xếp thứ tự ABC theo từ đầu tiên của tên tài
liệu. Ví dụ:
4. Các tài liệu tham khảo khi liệt kê vào danh mục phải đầy đủ các thông
tin cần thiết và theo trình tự sau:
Tài liệu tham khảo là sách, luận án, báo cáo phải ghi đầy đủ các thông tin sau:
- tên tác giả hoặc cơ quan ban hành (không có dấu ngăn cách)
- (năm xuất bản), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn)
- tên sách, luận án, hoặc báo cáo, (in nghiêng, dấu phẩy cuối tên)
- nhà xuất bản, (dấu phẩy cuối tên nhà xuất bản)
- nơi xuất bản, (dấu chấm kết thúc tài liệu tham khảo)
Tài liệu tham khảo là bài báo trong tạp chí, bài trong một cuốn sách... ghi đầy
đủ các thông tin sau:
- tên các tác giả (không có dấu ngăn cách)
- (năm công bố), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn)
- “tên bài báo”, (đặt trong ngoặc kép, không in nghiêng, dấu phẩy cuối tên)
- tập (không có dấu ngăn cách)
- (số), (đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn)
- các số trang. (gạch ngang giữa hai chữ số, dấu chấm kết thúc)

Dưới đây là ví dụ về trình bày tài liệu tham khảo


Tiếng Việt
1. Quách Ngọc Ân (1992), “Nhìn lại hai năm phát triển lúa lai”, Di truyền học
ứng dụng, 98(1), tr. 10-16.
2. Bộ Nông nghiệp $ PTNT (1996), Báo cáo tổng kết 5 năm (1992-1996) phát
triển lúa lai, Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Đống, Đào Thanh Bằng, Lâm Quang Dụ, Phan Đức Trực
(1997), Đột biến- Cơ sở lý luận và ứng dụng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Gấm (1996), Phát hiện và đánh giá một số dòng bất dục dực
cảm ứng nhiệt độ, Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật
Nông nghiệp Việt Nam , Hà Nội.

115
............
23. Võ Thị Kim Huệ (2000), Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị bệnh...., Luận
án Tiến sĩ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
Tiếng Anh
28. Anderson J. E. (1985), The Relative Inefficiency of Quota, The Cheese
Case, American Economic Revew, 75(1), pp. 178-90.
29. Boulding K.E. (1995), Economic Analysis, Hamish Haminton, London.
30. Burton G.W. (1988), “Cytoplasmic male – sterility in pearl millet (penm
setum glaucum L.)”, Agronomic Journal 50, pp. 230-231.

5. Trích dẫn vào luận án: tài liệu tham khảo, trích dẫn trong luận án cần được
trích dẫn theo số thứ tự của tài liệu tham khảo ở danh mục tài liệu tham khảo này của
luận án và số thứ tự đó được cài đặt trong ngoặc vuông...
(Theo Hướng dẫn tổ chức đánh giá luận án tiến sĩ - Văn bản của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, ban hành ngày 27/6/1996).
 Đối với các sách, báo, tài liệu... nghiên cứu khoa học không phải là luận
văn, luận án thì trong phần chính văn (phần nội dung), khi dẫn ý kiến nhận định... của
một tác giả nào đó, chỉ cần chú thích tên tác giả, năm công bố tác phẩm, số thứ tự của
trang trích dẫn. Ví dụ: Vấn đề này, chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng “câu thuộc
một bình diện khác hẳn với bình diện của các đơn vị của ngôn ngữ ”. [Cao Xuân Hạo,
1991, tr.15].
Chú thích này cho biết: có thể tìm xuất xứ của trích dẫn trên đây trong mục
Cao Xuân Hạo ở thư mục tham khảo (được xếp ở cuối sách hay chuyên luận). Tại đó,
ta sẽ tìm thấy các thông tin đầy đủ hơn như sau: Cao Xuân Hạo, 1991. Tiếng Việt - Sơ
thảo ngữ pháp chức năng, quyển 1. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Tp.Hồ Chí Minh.

116
ii. thuật lại nội dung văn bản
Là công việc thường làm khi tiếp nhận một hoặc nhiều VB cùng liên quan đến
một đề tài, vấn đề, lĩnh vực nào đó, nhằm lưu trữ, cung cấp, phổ biến thông tin với
dung lượng, cách thức khác nhau vì những mục đích nhất định (tổng hợp, giải quyết
công việc hàng ngày, nhất là để tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo trước soạn thảo...).
Công việc này giúp hệ thống hóa kiến thức, rèn luyện tư duy phân tích, tổng hợp, khái
quát... Trong khuôn khổ học phần Thực hành văn bản tiếng Việt, cần tìm hiểu cách
thuật lại nội dung tài liệu khoa học, gồm: tóm tắt, lập dàn ý cho VB, tổng thuật riêng
phần trình bày lịch sử vấn đề.
1. Tóm tắt văn bản
Là những thao tác lựa chọn để dồn nén những thông tin cơ bản trong VB gốc
vào một số câu hữu hạn cho phép. Nguyên tắc quan trọng nhất là phản ánh trung thành
và đầy đủ tư tưởng, luận điểm, các nội dung chính có trong VB gốc.
Có thể chọn một trong ba cách làm với những bước đi như sau:
1.1. Tóm tắt thành đề cương chi tiết
- Ghi lại tên VB (tên bài báo, công trình, tác phẩm...) và nguồn gốc, xuất xứ
của VB (các thông tin về tác giả hoặc cơ quan xuất bản, nhà xuất bản, năm và nơi xuất
bản, số trang).
- Ghi lại đối tượng, tình hình, phạm vi và nội dung nghiên cứu... đã được thể hiện
trong phần Mở đầu của VB gốc; muốn vậy, phải rất chú ý đến câu luận đề .
Trong phần Giải quyết vấn đề (khai triển): ghi lại hệ thống đề mục (nếu có) của
VB gốc; thông thường, đó cũng chính là tên luận điểm, tên ý chính. Với nhiều loại
VB không trình bày các đề mục và không có những dấu hiệu hình thức (chữ số La Mã,
Arập, chữ cái; co chữ lớn, nhỏ, đậm, mảnh, dấu +, dấu -, v.v...) thì có thể (hoặc vẫn
phải) thống kê các ĐV và tìm câu chủ đề (“ẩn”, “hiện”, ở các vị trí khác nhau trong
mỗi ĐV), diễn đạt lại một cách ngắn gọn nội dung cơ bản của câu chủ đề. Khi tóm tắt,
thường phải tạo ra những ngữ hoặc kết cấu có nội dung khái quát để chứa đựng ý
chính của ĐV.
Có thể chép lại (nếu VB có sẵn) hoặc tự tạo (nếu trong VB không ghi) các ý
chính, các luận điểm. Trình tự, quan hệ, cấu trúc tầng bậc, sự bao hàm hoặc đẳng lập...
đều thể hiện vị trí và quan hệ, tầm quan trọng, giá trị của các luận điểm, các ý chính
(tức là thành tố nội dung).

117
Trong phần Kết thúc vấn đề (kết luận), cần chú ý câu chủ đề hoặc tóm lược ý
chính (các nhận xét, kết luận, đánh giá, thông tin vắn tắt, tóm lược về kết quả nghiên
cứu, những đề nghị ứng dụng, triển khai...). Đây là “khu vực”, “phạm vi” mà người tóm
tắt rất cần chú ý khi trích dẫn (thường gặp là trích dẫn nguyên văn).
1.2. Tóm tắt thành văn bản hoàn chỉnh
- Phải làm từng bước như tóm tắt thành đề cương chi tiết, lập dàn ý.
- “Xoá” hết các dấu hiệu, kí hiệu hình thức (chữ số, chữ cái)...
- Tạo ra các từ ngữ, đặc biệt là các kết từ, kết ngữ, kết cấu chuyển đoạn và tìm
cách diễn đạt thích hợp để liên kết các câu văn, diễn giải lại trình tự các ý chính để tạo
thành ĐV hoàn chỉnh.
1.3. Tóm tắt thành một câu: cách này đòi hỏi chúng ta phải nắm được đề tài và
chủ đề của văn bản (dựa vào câu chủ đề trong các đoạn văn) rồi tự tóm tắt văn bản
thành một câu.
Những điều cần lưu ý:
- Chỉ khi đã đọc kĩ và hiểu, “làm chủ”, “bao quát” được VB gốc thì mới làm tóm
tắt. Có thể tóm tắt theo ý riêng của mình, bằng lời lẽ của mình mà không cần (và cũng
cần tránh) nhắc lại nguyên xi các câu, đoạn ở VB gốc.
- Phải để trong dấu ngoặc kép phần trích dẫn nguyên văn khi cần thiết (thường
rút từ cuối các ĐV và trong phần Kết luận, đều thuộc về phần chính văn của VB gốc).
Với các tài liệu khoa học thì cần dùng đúng (nguyên văn) các thuật ngữ chuyên
ngành mà tác giả đã sử dụng ở VB gốc.
Trong cách diễn đạt những điều mình đã hiểu và thấy cần đưa ra, cần chú ý:
- Ưu tiên dùng câu đơn kết hợp với câu ghép để tăng cường tối đa lượng thông
tin.
- Tránh dùng câu đặc biệt vì ngữ cảnh đã bị dồn nén, thu hẹp; có thể dùng câu
tỉnh lược (thường là tỉnh lược chủ ngữ) khi ngữ cảnh cho phép xác định quy chiếu và
lôgích (không gây hiểu lầm sang đối tượng, sự vật, nội dung, vấn đề khác).
- Phần mở đầu và Phần kết thúc có thể được tóm tắt bằng cách đưa câu chủ đề
có trong phần mở đầu và phần kết thúc của văn bản gốc vào bản tóm tắt.
- Phần khai triển có thể được tóm tắt lần lượt bằng cách bám theo các luận điểm
được trình bày trong văn bản gốc.

118
Mẫu tóm tắt văn bản
1. Tóm tắt một báo cáo khoa học thành đề cương
Lịch sử văn học korea nhìn nhận trên cơ sở mối quan hệ văn học - so sánh với
lịch sử văn học Việt Nam
đặng thanh lê
(Đại học Sư phạm - Đại học quốc gia Hà Nội)
I. Những tiền đề khoa học:
1. Tham luận xuất phát từ quan điểm nhìn nhận mối quan hệ giữa các nền văn học
dân tộc trong phạm vi không gian vĩ mô như một quy luật phát triển của các nền
văn học dân tộc.
2. Mối quan hệ văn học giữa các dân tộc có một quá trình phát triển qua trường kỳ
lịch sử.
3. Hai dân tộc Korea và Việt Nam có nhiều yếu tố tương đồng nổi bật trong “số
phận lịch sử” và từ đó có những yếu tố tương đồng trong quá trình phát triển
của lịch sử văn học.
II. Những nội dung chủ yếu:
1. Về mối quan hệ lịch sử của Korea và Việt Nam đối với nước ngoài từ truyền
thống đến hiện đại.
2. Về mối quan hệ khu vực của văn học Korea và văn học Việt Nam dưới thời kỳ
trung đại.
3. Về mối quan hệ thế giới của văn học Korea và văn học Việt Nam trên quá trình
hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
III. Những kết luận sơ bộ:
1. Hình thành và phát triển từ vi mô đến vĩ mô trong thời gian và không gian: từ mối
quan hệ văn học khu vực đến mối quan hệ văn học toàn cầu.
2. Những vấn đề đặt ra trong phương hướng toàn cầu hoá hai nền văn học Korea và
Việt Nam hiện nay.

119
2. Tóm tắt báo cáo khoa học thành một văn bản hoàn chỉnh
Tóm tắt báo cáo khoa học “Các chức năng của ngôn ngữ” của Vương Hữu Lễ -
ĐH Huế:
“Báo cáo trình bày 6 chức năng của ngôn ngữ theo quan điểm của Roman
Jakobson (xuất phát từ lý thuyết thông tin): chức năng biểu cảm (emtive or expenssive
function ), chức năng thỉnh cầu (conative or incitative function), chức năng qui chiếu
(re-ferential or denotative or cognitive function), chức năng tiếp xúc (platic function),
chức năng siêu ngôn ngữ (metalingua function) và chức năng thẩm mĩ
(poeticfunction). Sau đó, tác giả liên hệ sơ đồ này với việc phân tích văn chương; ảnh
hưởng lớn về quan điểm này của R. Jakobson đối với các nhà phong cách học và thi
pháp; khả năng vận dụng quan điểm chức năng ngôn ngữ để nghiên cứu và đánh giá
khách quan hơn đối với các tác phẩm văn chương”.
2. tổng thuật văn bản
2.1). Tổng thuật là nghiên cứu và trình bày những thông tin cơ bản đã được lấy
ra từ một số VB gốc có cùng chủ đề hoặc cùng mối quan hệ nào đó với chủ đề; là công
việc sẽ làm sau khi tóm tắt từng VB, sau đó hệ thống, xâu chuỗi những bản tóm tắt.
Tổng thuật giúp ta phác thảo diện mạo, cảnh quan, tình hình nghiên cứu... về một lĩnh
vực để chỉ dẫn vắn tắt nhưng khái quát, và cũng như tóm tắt, tổng thuật giúp người sử
dụng thông tin, tài liệu... tiết kiệm thời gian mà vẫn nắm bắt nhanh gọn vấn đề.
2.2). Các bước tiến hành
a). Xác định, nêu bối cảnh ra đời của tài liệu, công trình, tác phẩm... đã được
tập hợp theo mục đích định trước. Các VB đem ra tổng thuật có thể của một hoặc
nhiều tác giả, , có thể được hoàn thành, xuất hiện, công bố vào nhiều thời điểm khác
nhau (ngay cả đối với trường hợp của một người), có tính chất, hình thức khác nhau;
có khi chỉ liên quan với nhau về một vấn đề, chủ đề, phương diện, khía cạnh, chi tiết...
trong mối quan hệ với đề tài, chủ đề chung của toàn bộ các VB được tổng thuật.
b). Sau khi nắm được các luận điểm, các ý chính, cơ bản (hiển ngôn và ngầm
ẩn) thì “thoát” ra khỏi chi tiết, khái quát hóa để viết ra những nội dung chính yếu,
chọn và trích dẫn những điều thể hiện nội dung chính, nếu cần thiết.
c). Tập hợp, phân loại và đối sánh các nội dung chính yếu này theo từng vấn
đề hoặc cụm vấn đề; tìm những điểm tương đồng và sự khác biệt của các tác giả trong
nhìn nhận vấn đề... Công việc này tuỳ thuộc mục đích, ý đồ của người tổng thuật.

120
d). Vạch dàn ý tóm tắt cho bản tổng thuật.
đ). Viết tổng thuật, diễn đạt theo lời lẽ của mình; có thể đưa thông tin kết hợp
ý kiến chủ quan của người tổng thuật (nhận xét, lưu ý, giới thiệu thêm về tác giả, bối
cảnh ra đời... của VB).
Cần đảm bảo tính trung thực trong khi trình bày, chú ý giữ lại ở mức độ nhất
định hệ thuật ngữ, không làm thay đổi nội dung chính của VB gốc. Khi tổng thuật và
sử dụng VB tổng thuật, cần chú thích xuất xứ, nguồn gốc của thông tin, tài liệu, v.v...
Sau đây là ví dụ về văn bản tổng thuật từ hội thảo:
Việt Nam trong thế kỷ XX, do Giáo sư Hà Minh Đức tổng thuật:
thế kỷ xx với sự phát triển và giao lưu văn hóa
Hội thảo quốc tế Việt Nam trong thế kỷ XX đã luận bàn nhiều lĩnh vực quan
trọng như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Văn hoá là vấn đề lớn và trên bình diện
nào cũng có thể trao đổi luận bàn. Văn hoá truyền thống, văn hoá hiện đại, giao lưu
văn hoá trong cộng đồng và quốc tế. Có thể chia làm ba khu vực:
- Những bài đi sâu nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của văn hoá Việt Nam và
yêu cầu cấp thiết của giao lưu văn hoá, toàn cầu hoá, yêu cầu hội nhập văn hoá và việc
giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hoá.
- Những bài nghiên cứu về thành tựu của các ngành hoạt động văn hoá ở thế kỷ
XX như thế kỷ XX với báo chí âm nhạc, văn học, ngôn ngữ, kịch nói... Phần ba gồm
những bài viết về nhiều chủ đề khác như minh triết và khoan dung Hồ Chí Minh về
văn hoá gia đình, văn hoá trong kinh tế thị trường...
- Các tham luận đều lấy đơn vị của quốc gia để nghiên cứu trừ một hai bài về
các tỉnh như Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Về thời gian đa số đều dựa vào quá
trình hình thành và phát triển của văn hoá Việt Nam trong suốt các chặng đường lịch
sử để nghiên cứu và phần quan trọng là thế kỷ XX, một thế kỷ có nhiều thành tựu về
văn hoá và cũng đặt ra nhiều vấn đề quan trọng về phát triển văn hoá.
I - Đường lối của Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng của văn hoá trong sự
phát triển xã hội “Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt
Nam làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” (Văn kiện Hội nghị V Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII, tr.40), “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” (Văn kiện, tr.110).

121
Về bản sắc và giao lưu văn hoá gồm nhiều chủ đề đa dạng và linh hoạt với các
bài viết phong phú. Mở đầu bà Rosamaria Durand đại diện UNESCO tại Việt Nam ca
ngợi bản sắc dân tộc sâu đậm của văn hoá Việt Nam trong truyền thống và vị thế của
nó hôm nay. Giáo sư Đinh Gia Khánh qua báo cáo Bản sắc dân tộc và giao lưu văn
hóa cho rằng ở Việt Nam không bao giờ có sự kỳ thị sắc tộc, tôn giáo trong lịch sử và
thời kỳ hiện đại lại có sự cởi mở khoan dung, và khả năng đồng hoá với thành tựu
ngoại nhập. Hiện đại hoá không phải là Tây phương hoá. Giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc là điều kiện giao lưu để không hoà tan, đánh mất mình.
Giáo sư Trần Văn Khê qua bài Phát triển và trao đổi văn hoá nhấn mạnh
phương châm thứ nhất “không mất bản sắc dân tộc”. Phương châm thứ hai là “Nên phát
triển từ bên trong trước khi vay mượn từ bên ngoài”.
Phương châm thứ ba là hiểu ta hiểu người để “tránh đại kỵ mà cần phù hợp”. Nên tổ
chức phát triển và giao lưu văn hoá rộng rãi. Tiến sĩ Khlot Thyda (Campuchia) phân
tích về đặc điểm của văn hoá Việt Nam qua bài Vài nét về văn hoá Việt Nam hiện nay.
Tiến sĩ Petra Mullerova (Tiệp) đi sâu vào tìm hiểu Tranh khắc ở Bắc Bộ cuối thế kỷ
XX và đề xuất nhiều vấn đề về văn hoá Việt Nam. Tiến sĩ Frank Proschan (Mỹ) trong
bài Tăng cường văn hoá truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá có ý sâu
sắc khi cho rằng “Bản thân văn hoá truyền thống không hề đứng yên và bất biết trái lại
vẫn năng động và tiến triển và trong thực tế sống động của nó tuỳ thuộc vào sự tái sinh
và sáng tạo liên tục”. Yêu cầu chuẩn bị sức mạnh cho văn hoá truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hoá là quan trọng. Tránh làm suy yếu, khuyến khích sự đồng nhất hơn
sự đa dạng, giảm thiểu sự lựa chọn. Tiến sĩ Chhay Yiheang luận bàn nhiều về toàn cầu
hoá “Thực chất chúng ta không thể sống đơn độc. Nếu chúng ta đóng cửa chúng ta sẽ
chết, chúng ta phải mở cửa từ mọi hướng” và biết ngăn chặn cái xấu.
Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn trong báo cáo Toàn cầu hoá với vấn đề bảo vệ và
phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam đã đi vào xác định bản chất của khái niệm toàn
cầu hoá và tìm hiểu từ trong lịch sử phát triển văn hoá Việt Nam quá trình giao lưu văn
hoá và chúng ta đang ở vào thời đại thuận lợi nhất cho sự phát triển văn hoá. PGS.
Nguyễn Văn Huyên xem hội nhập là phương thức phát triển của nền văn hoá Việt
Nam tiến tiến, hiện đại. Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn cũng khai thác sâu vào vấn đề
văn hoá và toàn cầu hoá “Giao văn hoá trong điều kiện toàn cầu hoá và sự phát triển
đất nước”. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cát và Thạc sĩ Ngô Kim Anh qua bài Thời cơ và thách

122
thức của văn hoá Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá lưu ý nhà nước chú ý hoạt động
thực tiễn : chú trọng vai trò văn hoá, quan tâm phát triển khoa học công nghiệp và giáo
dục đào tạo, nâng cao vai trò văn nghệ, đổi mới hoạt động báo chí, giao lưu văn hoá
với nước ngoài, xây dựng thể chế văn hoá cho khoa học và tiên tiến, chú ý đến những
thách thức của việc hội nhập, hoà mà không tan, chống nguy cơ diễn biến hoà bình,
chống hiện tượng phản văn hoá.
PGS. TS Đỗ Long cũng xem giao lưu văn hoá là nhân tố trọng yếu cho sự phát
triển văn hoá, đặc biệt là sự phát triển của con người. Lịch sử đã chứng minh mọi sự
định kiến đều dẫn đến tù túng, bế tắc, suy giảm. Đi vào chứng minh bằng những mối
quan hệ giao lưu văn hoá cụ thể, Tiến sĩ Chhay Yiheang chỉ ra đặc điểm và yêu cầu
của toàn cầu hoá trong giao lưu văn hoá và quá trình giao lưu văn hoá với Việt Nam ở
các thời kỳ trước 1975 và sau 1975. Ông có ý tưởng sâu sắc “Chúng ta sẽ chết nếu
chúng ta đóng cửa hay nếu chúng ta mở cửa mà không suy nghĩ”.
II- Khu vực nghiên cứu về thành tựu văn hoá văn nghệ phát triển trong thế
kỷ XX
Thế kỷ XX là thế kỷ hưng thịnh và phát triển đặc biệt của văn hoá, văn nghệ.
Nhiều báo cáo đã tập trung khai thác xoay quanh chủ đề này: Văn học Việt Nam thế kỷ
XX trong bối cảnh các mối giao lưu Đông Tây của GS. Phong Lê. Nguyên Chủ tịch
Hội nhà báo Phan Quang đã tổng kết sâu sắc những cống hiến của báo chí ở thế kỷ
XX: Vai trò và những cống hiến của báo chí trong lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam
thế kỷ XX. Giáo sư Hà Văn Tấn với bài Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, Giáo sư -
Viện sĩ Phạm Minh Hạc với Hệ thống giáo dục quốc dân một thành tựu nổi bật trong
thế kỷ XX. Tiến sĩ Vũ Tự Lân với Một trăm năm âm nhạc ở Việt Nam. Giáo sư Đỗ Huy
với báo cáo Những thành quả xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở Việt Nam
trong thế kỷ XX. Tiến sĩ khoa học Lý Toàn Thắng tổng kết một thế kỷ tiếng Việt giao
lưu và phát triển Tiếng Việt trong thế kỷ XX giao lưu và phát triển. Tiến sĩ Trịnh Khắc
Mạnh với Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX. Và đặc biệt về sự phát triển của kịch nói
có các bài Nghệ thuật kịch nói Việt Nam ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX
của Tiến sĩ Phạm Thị Thành và Yếu tố phương Tây trong sự hình thành nghệ thuật
kịch ở Việt Nam và các nước phương Đông những năm đầu thế kỷ XX của tiến sĩ Phan
Trọng Thưởng. Thế kỷ XX là thế kỷ có sự phát triển vượt bậc của văn hoá nghệ thuật.
Giáo sư Hà Minh Đức ghi nhận những chuyển động lớn của văn hoá văn nghệ thế kỷ

123
qua bài Thế kỷ không ngừng đổi mới của văn hoá văn nghệ. Có thể tìm và giải thích
với nhiều nguyên nhân. Thời kỳ trước 1945 những thành tựu của văn hoá văn nghệ có
sự đột khởi trong bối cảnh chuyển biến từ thời cận đại sang hiện đại. Động lực giải
phóng cá nhân khỏi sự kìm hãm của hệ tư tưởng phong kiến, đạo đức và lễ giáo bảo
thủ và lạc hậu của phong kiến tạo sức mạnh tinh thần cho nhiều tác phẩm văn hoá văn
nghệ xuất hiện.
Giai cấp vô sản lãnh đạo Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ thắng lợi đã tạo nên bao điều kỳ diệu cho sự phát triển văn hoá văn
nghệ mà động lực là chủ nghĩa yêu nước.
Động lực thứ ba tạo nên sức mạnh lớn cho sức sáng tạo là sự đổi mới của đất nước và
đổi mới trong sự phát triển văn hoá. Đổi mới là động lực bền vững và có hiệu quả
trong những thập kỷ gần đây trong đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc.
III . Khu vực nghiên cứu những chủ đề khác của sự phát triển văn hoá
Trong các loại bài nghiên cứu theo nhiều chủ đề khác nhau nhóm bài viết về Hồ
Chí Minh là quan trọng. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh cho rằng Minh triết Hồ Chí Minh là
sự đóng góp vào lịch sử tư tưởng thế kỷ XX. Theo GS. Vũ Ngọc Khánh minh triết Hồ
Chí Minh là một lý thuyết ở trong phạm trù đạo đức học. Những nguyên lý quan trọng
là dân tộc, dân chủ, nhân đạo, với những phương châm Cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư... Minh triết Hồ Chí Minh là một hệ tư tưởng, hệ chuẩn mực đạo đức. Giáo sư
Huỳnh Khái Vinh nói về Văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh. Tác giả nhấn mạnh việc
đề cao lương tâm cá nhân, lương tri dân tộc thời đại và sự khoan dung nhân bản. Tất
cả tạo nên sự liên kết cộng đồng, nâng cao đạo đức, đạo lý xã hội. Giáo sư Thành Duy
với chủ đề: Việt Nam Hồ Chí Minh nơi giao lưu hội tụ và phát triển văn hoá Đông Tây
của thế kỷ XX. Từ một dân tộc có nhiều thành tựu lớn và từ một cá nhân với những
phẩm chất cao đẹp tác giả tìm hiểu những mối quy tụ về văn hoá, đạo lý của thế kỷ.
Ngôn ngữ là lĩnh vực được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Giáo sư Nguyễn
Văn Hoàn với bài Chữ quốc ngữ và văn hoá Việt Nam trong thế kỷ XX. Giáo sư Ivo
Vasiliép với Tiếng nói Hội An (Quảng Nam) và tiếng Việt thế kỷ XXI. Giáo sư Phạm
Đức Dương nêu lên vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận vừa thực tiễn Mối quan hệ giữa
ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ các dân tộc ít người ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp.
Tiến sĩ Lý Toàn Thắng với đề tài Tiếng Việt trong thế kỷ XX. Giao lưu và phát triển.
Cụm bài về ngôn ngữ thể hiện sự nghiên cứu nghiêm túc, có chiều sâu về học thuật và

124
cũng gợi mở vấn đề. Một đề tài cũng được một số nhà nghiên cứu quan tâm khảo sát,
đó là những giá trị văn hoá trong khu vực tôn giáo ở thế kỷ XX như các bài Các tôn
giáo truyền thống và văn học Việt Nam thế kỷ XX của tiến sĩ N.I.Niculin và Sự biến đổi
những giá trị văn hoá và tôn giáo của PGS. Đỗ Quang Hưng.
Một số báo cáo chú ý đến văn hoá trên bình diện vi mô, với đơn vị nghiên cứu
là gia đình. Văn hoá gia đình Việt Nam của Giáo sư Phan Ngọc đề cập đến đặc điểm
của gia đình Việt Nam và tác động của nó đến mỗi con người, đến xã hội với tư cách
là một đơn vị quan trọng. Tác giả có những ý đáng chú ý:
- Gia đình Việt Nam là môi trường văn hoá quan trọng nhất đối với người Việt
Nam. Trong gia đình Việt Nam vai trò người mẹ quan trọng hơn người cha. Trong gia
đình giáo dục chủ yếu bằng tình thương và nêu gương. Gia đình Việt Nam tạo thành
gia phong bền vững.
Trong bài Vài nét về văn hoá Việt Nam hiện nay Tiến sĩ Khlot Thyda dành một
phần quan trọng để nói về “Vai trò của gia đình trong hình thành và phát triển nhân
cách”. Ông chú ý đến gia đình “một thiết chế xã hội vừa là một nhóm tâm lý xã hội đặc
biệt góp phần quyết định sự hình thành nhân cách cá nhân và gia đình Việt Nam đang
đổi mới”. Vấn đề gia đình là đề tài quen thuộc nhưng thực sự vẫn mang ý nghĩa thời sự
vì hơn bao giờ hết gia đình Việt Nam ở thế kỷ XX có nhiều biến động, đổi thay. Một
số báo cáo công phu có tính chuyên ngành như Văn hoá tinh thần trong kinh tế thị
trường của GS. Cao Xuân Phổ, Tiếp xúc văn hoá Đông Tây ở Việt Nam. Văn hoá dân
tộc Chàm của Tiến sĩ Phú Văn Hẳn, Cổ nhân học của Việt Nam trong thế kỷ XX của
Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường. Bộ môn lịch sử tư tưởng tà Cách mạng tháng 8-1945 đến
nay của PGS. Nguyễn Tài Thư.
Nhìn chung trên 50 báo cáo khoa học về văn hoá vừa có khuynh hướng chụm
về đề tài, nội dung ý tưởng vừa có khuynh hướng mở ra trên nhiều bình diện của hoạt
động văn hoá. Có thể tìm thấy nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học về Việt Nam, về văn
hoá trong thế kỷ XX.
(Báo Tin tức, số 480, ngày 22 - 9 - 2000).

125
Phụ lục 1: 62 từ mang dấu ngã thường dùng nhất.
Theo Phan ngọc, trong 2000 từ thường dùng nhất, có 62 từ mang dấu ngã sau
đây:
Bão (bùng), bãi (biển), bãi (bỏ), bữa (ăn), cãi (cọ), chỗ (ở), cỗ (bàn), cỡ (nhỏ),
cũ (càng), cũng (vậy), dã (man), dũng (cảm), dữ (tợn), đã (rồi), đẫm (ướt), đĩa (hát),
đũa (tre), giữ (gìn), gỗ (tạp), hãy (làm), hễ (còn), hỗn (hợp), hữu (ích), (bạn) hữu, kĩ
(thuật), kĩ (càng), lãnh (thổ), lão (nông), (lí) lẽ, (lời) lỗ, lũ (lượt), lũ (lụt), luỹ (thành),
(cái) lưỡi, mãi (mãi), mãnh (liệt), mẫu (giáo), mĩ (thuật), mỗi (người), mỡ (màng), mũ
(áo), (mặt) mũi, ngã (ngửa), nghĩ (ngợi), ngõ (ngách), ngũ (cốc), nhã (nhặn), những
(người), nỗi (niềm), (học) nữa, rõ (ràng), sẽ (đến), sĩ (quan), trĩu (nặng), vẫn (còn), vẽ
(vời), vĩ (đại), võng (lọng), (tan) vỡ, vũ (lực), vũng (nước), xã (hội).
Có thể vận dụng 3 mẹo luật sau đây để viết đúng những từ này:
a). 14 từ theo luật bổng - trầm: bão bùng, cãi cọ, cũ càng, dữ dằn, giữ gìn, kĩ càng, lũ
lượt, mỡ màng, nghĩ ngợi, nhã nhặn, nỗi niềm, rõ ràng, trĩu trịt, vẽ vời.
b). 10 từ theo mẹo từ Hán - Việt “Mình nên nhớ viết là dấu ngã”:
dã tâm, dũng cảm, lãnh thổ, lão nông, luỹ thành, mẫu giáo, mĩ thuật, ngũ cốc, vĩ đại,
vũ khí.
c). 4 từ theo luật biến thanh bổng - trầm: cũng (cùng), đã (đà), mãnh lực (sức
mạnh), ướt đẫm (đầm).
Còn 34 chữ phải nhớ: bãi bỏ, bãi biển, bữa ăn, chỗ ở, cỗ bàn, cỡ nhỏ, đĩa bát,
đũa tre, gỗ tạp, hãy làm, hễ còn, hỗn hợp, hữu ích, hữu nghị, kĩ thuật, lí lẽ, lời lỗ, lũ
lụt, cái lưỡi, mãi mãi, mỗi người, mũ áo, mặt mũi, ngã ngửa, ngõ ngách, những người,
học nữa, sẽ đến, sĩ quan, vẫn còn, võng lọng, vỡ tan, vũng nước, xã hội.
(Theo Phan Ngọc, Chữa lỗi chính tả cho học sinh, Hà Nội, Nxb Giáo dục, 1982,
tr.96.0)

126
Phụ lục 2
các từ có thể viết nhiều cách
Bặm môi - bậm môi Dan nắng - dang nắng
Bóng bảy - bóng bẩy Dạt vào - giạt vào
Bù chì - bù trì Dờu phảy - dấu phẩy
Cây quít - cây quýt Dẹp lép - giẹp lép
Bêu diếu - bêu rếu Dông tố - giông tố
Bộc phát - bột phát Dở ẹc - dở ẹt
Cá diếc - cá giếc Đày tớ - đầy tớ
Chặn lại - chận lại Đèn bin - đèn pin
Chặp nữa - chập nữa Gai góc - gai gốc
Chếnh choáng- chuếnh choáng Giãy nảy - giẫy nẩy
Chí mạng - trí mạng Hàu bao - hầu bao
Chỏng gọng - chổng gọng Hắt hủi - hất hủi
Chua lét- chua loét Khoái chá - khoái trá
Cúi gằm - cúi gầm Láng diềng - láng giềng
Cứng cáp - cứng cát Màu nhiệm - mầu nhiệm
Ngẩng đầu - ngửng đầu Cưỡi ngựa - cỡi ngựa
Núm cau - nuốm cau Dãn nở - giãn nở
Chập chùng - trập trùng Dẫm đạp - giẫm -giẵm
Chệnh choạng- chuệch choạng Dậu thưa - giậu thưa
Chỉ chỏ - chỉ trỏ Diềm cửa - riềm cửa
Chổi sể - chổi xể Dở dói - giở giói
Cổi áo - cởi áo Dùilỗ-giùilỗ
Cúng quải - cúng quảy

Đầy giẫy - đầy rẫy Hà rằm - hà rầm


Eo sèo - eo xèo Kếch sù - kếch xù
Già dặn - già giặn Kiêu sa - kiêu xa
Lỏng bỏng - lõng bõng Nhắp rượu - nhấp rượu
Ngảnh mặt - ngoảnh mặt Rau dền - giền - rền

127
Rãy vợ - rẫy vợ Sây sát - xây xát
Rỉ sét - gỉ sét Sù sì - xù xì
Sáp nhập - sát nhập Suýt té - xuýt té
Tản mác - tản mát Thếp vàng - thiếp vàng
Tằn tiện - tần tiện Thuỷ mạc - thuỷ mặc
Thật thà - thiệt thà - thực thà ướt đẫm - ướt đẵm
Rên siết - rên xiết Sỉ vả - xỉ vả
Rốt cục - rốt cuộc Sum sê - sum suê - xum xuê
Sệ xuống - xệ xuống Tán loạn - toán loạn
Tày trời - tầy trời Theo dõi - theo rõi
Thấm thoát - thấm thoắt Thủa nào - thuở nào
Thứ nhất - thứ nhứt Xum xoe - xun xoe

(Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, 2000)

128
Hệ thống bài tập thực hành văn bản
a. nhóm bài tập về phân tích văn bản
1). Văn bản dưới đây vốn có đầu đề nhưng đã bị xóa. Hãy thử đặt lại đầu đề
đó (vào vị trí dấu ...) bằng cách tóm tắt và khái quát nội dung; cho biết vai trò, tác
dụng của những chữ in nghiêng.
.................... .........
Con người, dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dù thuộc những bộ tộc lạc hậu nhất
hay thuộc những dân tộc tiên tiến nhất, đều phải dùng ngôn ngữ để nói chuyện với
nhau. Qủa vậy, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Thực ra, để giao tiếp với nhau, con người có thể dùng những phương tiện khác,
như cử chỉ, điệu bộ; như kí hiệu toán học, đèn hiệu giao thông, tín hiệu hàng hải; như
âm nhạc, hội họa... Những loại phương tiện này có vai trò nhất định của nó, nhưng
nhìn một cách tổng quát thì ngôn ngữ vẫn là công cụ giao tiếp quan trọng hơn cả.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp có nhiều khả năng rất to lớn và quan trọng.
Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể diễn đạt trọn vẹn và sáng tỏ các sự kiện
cũng như tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng của mình, làm cho người khác thấu hiểu
tất cả những gì hàm chứa trong sự diễn đạt ấy. Bằng ngôn ngữ, con người thế hệ trước
có thể lưu truyền vốn tri thức và kinh nghiệm quý báu của mình cho con cháu; con
người những thế hệ sau có thể hiểu được cha ông. Như vậy, là công cụ giao tiếp quan
trọng nhất, ngôn ngữ phát huy vai trò đoàn kết, tập hợp con người trong sinh hoạt cộng
đồng, trong lao động sản xuất, trong đấu tranh phát triển xã hội, duy trì tính liên tục
của lịch sử dân tộc, của xã hội.
Là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người, ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ
với tư duy, cùng với tư duy hợp thành một thể thống nhất.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong những hoạt động đa dạng của tư duy. Tư
duy - sự suy nghĩ diễn ra trong óc con người, chính là hoạt động “mình nói với mình”
bằng những từ, những câu, bằng cái gọi là “tiếng nói bên trong”. Rõ ràng con người tư
duy bằng ngôn ngữ. Từ giác độ đó, người ta nói ngôn ngữ là công cụ của tư duy.
Mặt khác, tư duy có vai trò lớn lao trong hoạt động ngôn ngữ. Điều tiên quyết
cho một văn bản hình thành là nó phải có nội dung; mà nội dung ấy chính là kết quả
của tư duy - tư duy trừu tượng, tư duy hình tượng... Từ giác độ này, người ta nói ngôn
ngữ là công cụ diễn đạt tư tưởng - kết quả, thành tựu của tư duy. (Hồng Dân và...
1995, tr.18-19).

129
2). Dưới đây là phần văn bản có đầu đề, gồm 4 đoạn văn đều có đề mục,
nhưng tất cả đã bị xóa. Căn cứ vào nội dung chính của từng đoạn văn, hãy đặt lại
tên gọi của mỗi đoạn (ở vị trí a, b, c, d); căn cứ vào nội dung của cả 4 đoạn văn, hãy
đặt lại đầu đề của phần văn bản này.
Đầu đề: . . . . . . . . . . . . . . . . . .
a). . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Văn bản luôn luôn chứa đựng một nội dung, đó là sự kiện, hiện thực hay tri
thức mà người nói (người viết) muốn truyền đạt, thông báo tới người nghe (người
đọc). Người nghe (người đọc) tiếp nhận văn bản chính là tiếp nhận nội dung ấy. Nội
dung của văn bản càng có tính chất mới mẻ thì hiệu quả và tác động của văn bản về
nhận thức đối với người nghe (người đọc) càng lớn, vốn hiểu biết của họ nhờ vậy được
nâng cao, phong phú hơn.
b). . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Khi tạo ra văn bản, có nhiều trường hợp người nói (người viết) hướng tới người
nghe (người đọc) để bày tỏ một yêu cầu, một ý chí, một nguyện vọng. Người nghe
(người đọc) tiếp nhận văn bản, đồng thời cũng tiếp nhận yêu cầu, ý chí hay nguyện
vọng đó, và sẽ có những ứng đáp cần thiết. Những ứng đáp ấychính là hành động mà
văn bản có khả năng gây ra ở phía người nghe (người đọc).
c). . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Trong nhiều trường hợp, thông qua văn bản, người nói (người viết) tự bộc lộ
những cảm xúc của chính mình, làm cho văn bản mang một sắc thái biểu cảm nhất
định. Cái sắc thái biểu cảm của văn bản khiến cho người nghe (người đọc) nhận biết
được những cảm xúc của người nói (người viết), và có thể góp phần tạo ra ở người
nghe (người đọc) những cảm xúc tương tự.
d). . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Văn bản có cấu trúc của nó. Nếu người nói (người viết) dành sự quan tâm thích
đáng cho chính cấu trúc của văn bản, chú ý trau chuốt, gọt dũa văn bản, thì về mặt này,
văn bản mang những giá trị thẩm mĩ nhất định. Hơn nữa, về mặt nội dung, nhiều khi
văn bản chuyển tải những thông tin thẩm mĩ. Những giá trị thẩm mĩ nội tại của cấu
trúc văn bản, những thông tin thẩm mĩ ấy, khi được tiếp nhận, chắc chắn sẽ phát huy
những hiệu quả và tác động đáng kể ở người nghe (người đọc).

130
Muốn cho văn bản đạt được những hiệu quả và tác động về nhận thức, về hành
động, về tình cảm và về thẩm mĩ, như vừa nêu trên, người nói (người viết) cần hết sức
chú ý đến việc tổ chức văn bản, trau dồi văn bản, làm cho nó vừa có tính chính xác,
vừa có tính nghệ thuật. Đó là những yêu cầu đặt ra cho mọi người trong việc sử dụng
tiếng Việt. (Hồng Dân và... 1994, 13-14).
3). Với mỗi chủ đề dưới đây, hãy xác định các chủ đề bộ phận và viết câu
luận đề chứa các chủ đề bộ phận đó:
1). Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh với phong trào xanh - sạch - đẹp.
2). Phụ nữ với phong trào kế hoạch hoá gia đình.
3). Chống tệ nạn ma tuý là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
4). Việt Nam trong tiến trình đổi mới.
5). Bảo vệ di tích lịch sử - văn hoá là nhiệm vụ của mỗi người.
6). Giao thông ở Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
7). Đổi mới hệ thống và phương pháp giáo dục là cần thiết.
8). Tiếng Việt thực hành - bộ môn góp phần rèn luyện tư duy khoa học và góp
phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
4). Căn cứ vào mỗi câu luận đề (phần in nghiêng đậm) trong mỗi đoạn mở
đầu dưới đây, hãy xác định chủ đề chung và các chủ đề bộ phận của văn bản:
1). Soạn thảo và xử lý văn bản là một công việc quan trọng diễn ra hằng ngày
trong tất cả các cơ quan hành chính nhà nước thuộc các ngành, các cấp ở trung ương
và địa phương. Công việc này có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng lao
động quản lý. (Nguyễn Văn Thâm - Soạn thảo và xử lý văn bản).
2). Trong báo cáo khoa học này, chúng tôi muốn khảo sát ảnh hưởng của
Trung Quốc đối với Việt Nam trên hai lĩnh vực văn hoá và ngôn ngữ.
3). Chúng ta đang sống trong một thời đại mà loài người đang xích lại gần nhau
và sự giao lưu văn hóa đang diễn ra trên toàn thế giới. Không một sức mạnh nào có thể
cản trở được chiều hướng này. Không một dân tộc nào có thể tồn tại và phát triển nếu
không đặt mình trong sự tiến bộ chung, nếu không tiếp thu những thành tựu trí tuệ của
nhân loại. Trên lĩnh vực văn hóa, sự tiếp nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa Đông và
Tây lại trở thành một vấn đề cấp thiết. Trong bối cảnh đó, việc đánh giá lại vai trò
của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng và ảnh hưởng của nó trong xã hội ngày nay

131
đang có một ý nghĩa đặc biệt. (Vũ Khiêu - Mấy vấn đề nghiên cứu Nho giáo ở Việt
Nam).
4). Tìm hiểu quá trình hình thành nhận thức về đối tượng của folklore học,
có thể nhận thấy có hai xu hướng trái ngược nhau: xu hướng miệt thị, lên án, và xu
hướng khẳng định ca ngợi văn hóa dân gian. (Chu Xuân Diên - Hai xu hướng nhận
thức về văn hoá dân gian).
5). Có thể gạch chân câu chủ đề trong mỗi đoạn văn dưới đây không ? Các
câu chủ đề đó là gì, vì sao có thể xác định được như vậy ?
Đoạn văn 1. Tài hoa, nhan sắc, tình nghĩa, nhân phẩm, công lí đều không có
nghĩa gì trước thế lực của đồng tiền. Tài tình hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ là một món
hàng, không hơn không kém. Ngay Kiều nữa, cái việc dại dột nhất, tội lỗi nhất trong
suốt đời nàng, cái việc nghe lời Hồ Tôn Hiến khuyên Từ Hải ra hàng, một phần cũng
bởi xiêu lòng vì ngọc vàng của Hồ Tôn Hiến.
Đoạn văn 2. Ca dao là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ (hát ru). Ca dao là
hình thức trò chuyện tâm tình của những chàng trai, cô gái (hát ví, hát xoan, hát ghẹo).
Ca dao là tiếng nói biết ơn về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã
khuất (bài ca lễ hội). Ca dao là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hoặc lòng hân hoan của
những người sản xuất (hò, lí).
6). Dưới đây là đoạn văn có nhiều chủ đề bộ phận đã bị đảo thứ tự. Hãy xếp
lại cho hợp lý.
Giai đoạn 1 của quy trình phân tích đề
(các bước tiến hành)
a). Xác định trọng tâm của đề. Dựa vào kết quả phân tích các dữ kiện với việc
nắm bắt các yêu cầu, phát hiện ra trong đề bài. Đâu là ý chính, ý phụ, đâu là cốt lõi,
đâu là khía cạnh, v.v... Tổng hợp lại ta sẽ hình dung được cái nội dung cơ bản chứa
đựng trong đầu bài, tức là xác định và nắm chắc trọng tâm của đề.
b). Nhận diện đề: từ bước nhận hiểu có tính trực giác, cảm tính tiến lên kiểm
nghiệm và nhận thức lại đề bằng phân tích khoa học để nắm được bao quát tinh thần
chung của bài trong tính chủ thể của nó.
c). Tìm hiểu từ ngữ, ngữ pháp và quan hệ lôgic. Tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của
những từ ngữ quan trọng, vai trò của các vế, các câu, phân tích quan hệ ngữ pháp và

132
quan hệ lôgic giữa chúng để khám phá cho được những điều còn ẩn kín trong các bộ
phận của đề tài.
d). Đọc đề bài. Đọc một cách chăm chú để hình thành một ý niệm đại thể, một
nhận thức sơ bộ về vấn đề đặt ra.
7). Với mỗi câu dưới đây, hãy lập dàn ý chi tiết cho bài viết của mình:
1). Tục ngữ phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan của con người.
2). Tục ngữ phản ánh lịch sử, văn hóa không chỉ ở một vùng mà có khi ở cả một
quốc gia.
3). Tục ngữ thể hiện tri thức về văn hóa, lối sống của người xưa.
4). Tục ngữ phản ánh tinh thần đấu tranh chống áp bức, chống hủ tục, các tệ
nạn xã hội và các thói hư, tật xấu.
5). Tục ngữ phản ánh tri thức, kinh nghiệm về khí tượng, thời tiết.
6). Sống ở làng, sang ở nước.
7). Siêng làm thì có, siêng học thì hay.
8). Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ.
9). Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
8). Tóm tắt đoạn văn dưới đây trong 3 câu:
Mối liên quan giữa ngôn ngữ học và các ngành khoa học khác
Khó lòng tìm được một ngành khoa học nào lại có mối liên hệ nhiều mặt như
ngôn ngữ học với các ngành khoa học xã hội - nhân văn cũng như các khoa học tự
nhiên - kỹ thuật.
Ngôn ngữ trước hết là một hiện tượng xã hội, do xã hội tạo nên, phục vụ cho
các thành viên của xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp căn bản và là một trong
những điều kiện cần thiết để tồn tại của xã hội. Vì vậy ngôn ngữ nằm trong khu vực
của các ngành khoa học nhân văn và gắn liền với triết học và sử học, dân tộc học... là
những ngành khoa học nhân văn khác cũng nghiên cứu sinh hoạt xã hội về các phạm
trù và lĩnh vực tương ứng với từng ngành.
Ngôn ngữ là một hiện tượng có tính chất đặc trưng của loài người, nó vừa là sản
phẩm tư duy của con người, đồng thời vừa là hình thái vật chất của tư duy . Mặt biểu
hiện cơ bản của ngôn ngữ là âm thanh - một dạng vật chất vốn là đối tượng gắn liền
không chỉ với sinh lý học, vật lý học mà còn với nhiều lĩnh vực khoa học khác nghiên
cứu thế giới vật chất, giới tự nhiên. Có thể nói ngôn ngữ con người biểu hiện trong

133
những tư tưởng và tình cảm của mình qua hoạt động của một dạng vật chất trong giới
tự nhiên... (Bùi Khánh Thế 1995, 29).

134
9). Dưới đây là văn bản đã được tác giả luận án tóm tắt. Hãy tiếp tục tóm tắt
trong 10 câu và trong 5 câu.
ảnh hưởng của cái hài trong truyện cười dân gian
trong một số tác phẩm văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám
Tính kế thừa, trong văn học nghệ thuật là hiện tượng thường xuyên đối với các
nền văn học kế tiếp nhau, cùng có giá trị tương đương và trùng nhau trên nhiều
phương diện. Nền văn học dân gian (trong đó có truyện cười) là nền văn học của dân,
do dân, có nhiều mục tiêu chân chính như công bằng, tự do, khát vọng về một xã hội
tốt đẹp... Do vậy, nó trở thành suối nguồn cho những nền văn học về sau.
So với văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám (1945), mặc dù truyện cười dân
gian có những điểm khác và chưa có, nhưng cái hài dân gian vẫn được tiếp nhận và
được phát triển.
Văn học giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám bao gồm ba dòng, nhưng dòng
văn học hiện thực phê phán có nhiều thuận lợi nhất trong việc biểu hiện cái hài.
Tìm hiểu cái hài trong văn xuôi hiện đại, ta không ngỡ ngàng mà có cảm giác
gặp lại “người lạ quen biết”. Đọc truyện ngắn “Đồng hào có ma” của Nguyễn Công
Hoan, ta thấy Huyện Hinh có phần giống viên quan trong truyện cười “Quan huyện
thanh liêm”. ở một số tác phẩm khác trong văn xuôi hiện đại, ta bắt gặp những nhân
vật như địa chủ, cường hào, quan ông, quan bà,... cũng xấu xa, độc ác giống như bản
chất của chúng được phản ánh trong truyện cười dân gian.
Chẳng những kế thừa cái hài dân gian, một số nhà văn hiện đại còn thể hiện cái
hài hiện đại với nhiều cái mới. Chỉ xét riêng ba tác giả Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, chúng ta thấy tiếng cười trong tác phẩm của các nhà văn chủ yếu
chĩa mũi nhọn vào phong kiến bán nước, bọn thực dân cướp nước và phơi bày nhân
tình thế thái của xã hội đương thời. ở một khía cạnh khác, cái hài của văn xuôi hiện đại
được cảm nhận như một trạng thái nhân thế, cái hài biểu hiện sự suy đồi phong hoá
của xã hội những năm đất nước chìm đắm dưới chế độ thực dân phong kiến.
Mặt khác, xét về thi pháp, các sáng tác văn xuôi hiện đại mang đậm nét cá tính
sáng tạo của từng nghệ sĩ. Cùng trong một thời kỳ lịch sử, cùng phản ánh hiện thực
phũ phàng và đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, cùng sử dụng cái hài như
một vũ khí..., nhưng ở mỗi tác giả, cái hài có những nét độc đáo riêngbiệt.

135
(Nguyễn An Tiêm - Cái hài trong truyện cười dân gian. Tóm tắt luận án phó tiến sĩ
khoa học Văn học dân gian, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1996).
10). Dưới đây là bài giới thiệu sách, cũng có thể xem là một văn bản lược
thuật. Hãy: 1). Xác định đâu là lời của người lược thuật, đâu là thông tin về nội
dung chính (tóm tắt) của văn bản được đem ra lược thuật. 2). Tóm tắt bài lược thuật
này trong 20 câu.
đọc giáo trình tiếng việt thực hành
Có hình thức chung ở các trường đại học nước ta là nhiều sinh viên viết không
tốt, không trong sáng, thậm chí văn bất thành cú. Nhiều sinh viên viết hàng trang giấy
mà không chấm câu. Đáng lẽ lên đại học rồi, sinh viên phải chú tâm vào học chuyên
môn, không cần phải đọc viết, học ngữ pháp tiếng Việt nữa. Nhưng trường đại học lại
phải đặt ra một chương trình dạy tiếng Việt thực hành. Mỗi thầy đảm nhiệm môn này
theo cách của mình.
Có người cho sinh viên làm bài theo đề tài nhất định rồi chấm bài và trên cơ sở
những sai sót về ngữ pháp, về từ ngữ, về văn phong, chữa cho sinh viên rút kinh
nghiệm, để họ dần dần viết tiếng Việt tốt hơn. Nhưng đây chẳng qua cũng là cách chữa
cháy mà thôi.
Có thầy viết một giáo trình ngữ pháp thực hành cho sinh viên học lại những
điều đã học ở phổ thông tập viết như ở lớp dưới. Nhưng lại khó có thể lấy việc học
một giáo trình thay cho cả một quá trình tập viết hàng chục năm, rèn luyện từ bậc tiểu
học cho đến hết bậc trung học. Nhiều giáo trình tiếng Việt đã được soạn ra, viết ra và
in thành sách giáo khoa nhưng kết quả cụ thể là sinh viên viết văn bản bằng tiếng Việt
chỉ khá hơn một chút ít, chưa đáp ứng yêu cầu đối với một cán bộ khoa học tương lai.
ấy là chưa kể đến một số giáo trình “Tiếng Việt thực hành” lại thiên về trình bày những
mảng lý thuyết đại cương, không mấy liên quan đến việc rèn luyện các hoạt động lời
nói (trước hết là đọc và viết) cho sinh viên.
Tất cả các việc làm nói trên chỉ lấp được phần nào chỗ trống ở nền học phổ
thông chứ không phải là nhiệm vụ của nền giáo dục đại học.
Theo tôi, nhiệm vụ của giáo dục phổ thông trong lĩnh vực tiếng Việt là làm cho
học viết thạo văn bản tiếng Việt, tức là không có lỗi dùng từ và lỗi ngữ pháp nữa (tuy
có thể hành văn của họ chưa hay, chưa phù hợp với tu từ học). Nhiệm vụ của môn

136
tiếng Việt ở đại học là giúp học sinh tập viết một tiểu luận khoa học, một luận văn tốt
nghiệp đại học, rồi tới viết một luận án thạc sĩ, luận án tiến sĩ hay chuyên luận khoa
học. Nói một cách khác, mục đích của việc lập chuyên luận này là dạy cho sinh viên
cách dùng tiếng Việt để đọc và viết các tài liệu khoa học, để chiếm lĩnh các tri thức
chuyên môn trong trường đại học, nhất là về các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Nghĩ hưu đã lâu, không có điều kiện tham gia công việc của trường đại học,
nhưng tôi vẫn mong có một giáo trình tiếng Việt thể hiện được mục đích đó.
Ngày 20 / 2 / 1997, tôi được tặng cuốn Tiếng Việt thực hành của các tác giả: GS
Nguyễn Minh Thuyết và PTS Nguyễn Văn Hiệp, do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
xuất bản năm 1996. Tôi thấy đây đúng là cuốn giáo trình tiếng Việt mình mong đợi, vì
hai tác giả đã xác định đúng hướng dạy thực hành tiếng Việt ở bậc đại học là dạy cách
đọc và cách viết tài liệu khoa học.
Nội dung cơ bản của cuốn sách gồm hai chương: chương I - “Tạo lập và tiếp
nhận văn bản”, chương II - “Rèn luyện kỹ năng đặt câu và dùng từ”.
Trong chương I, các tác giả đã trình bày tuần tự 3 vấn đề:
Vấn đề thứ nhất là cách tạo lập văn bản. Trong phần này, hai tác giả trình bày
phương pháp viết văn bản một cách tỉ mỉ và khoa học, từ phương pháp xác lập chủ đề
chung và các chủ đề bộ phận của văn bản, xây dựng lập luận phục vụ chủ đề văn bản.
Để làm mẫu cho sinh viên học hỏi và thực hành, hai tác giả đã dẫn ra nhiều văn bản
khoa học và phổ biến khoa học có cách diễn đạt trong sáng và lập luận chặt chẽ như
các bài: “Điều trị chứng lo sợ” của Đình Trực, “Bảo vệ môi trường” của Đào Xuân
Cường, Vũ Đình Hoạt, “Nguồn năng lượng điện thuỷ triều và năng lượng sóng” của
Đào xuân Cường, “Hội thổi cơm thi ở Đồng Văn” của Trần Minh Nhương... Sau khi
phân tích kĩ cách tạo các văn bản này, các tác giả đã cho nhiều bài tập để sinh viên
nghiên cứu cách viết bài tương tự và tập viết các văn bản theo những đề tài có liên
quan đến chương trình học của họ. Nếu sinh viên học tập nghiên cứu giáo trình này
chắc họ sẽ viết được các văn bản chuyên môn tốt.
Cũng với cách làm việc như trên, trong phần 2 của chương I, các tác giả giáo
trình Tiếng Việt thực hành đã nêu ra những chỉ dẫn rất thiết thực, những văn bản mẫu
tiêu biểu và 15 bài tập rèn luyện cho sinh viên các kĩ năng không thể thiếu đối với cán
bộ khoa học là tóm tắt và tổng thuật các tài liệu khoa học.

137
Phần thứ 3 của chương I - Viết tiểu luận, Luận văn khoa học - có thể coi như phần ứng
dụng tổng hợp kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên qua hai phần trên. Sinh viên
được giới thiệu cách lập đề cương nghiên cứu, cách trình bày lịch sử vấn đề, cách cấu
tạo và diễn đạt trong một luận văn khoa học. Để giúp sinh viên nhanh chóng chiếm
lĩnh được các kiến thức này, hai tác giả đã dẫn ra nhiều luận án về khoa học tự nhiên
cũng như về khoa học xã hội và phân tích tỉ mỉ dụng công của người viết luận án cũng
như các quy định chung về bố cục luận án, cách trình bày bìa, trình bày mục lục, trình
bày thư mục tham khảo... Số lượng bài tập trong bài này là 18 bài, nội dung rất đa
dạng. Nếu các sinh viên làm tốt các bài tập đã nêu ra trong sách thì chắc chắn họ sẽ
hoàn thiện nhiệm vụ làm tiểu luận, luận văn khoa học của họ trong những năm học
cuối ở trường đại học.
Chương II của giáo trình được dành cho việc rèn luyện kĩ năng đặt câu và dùng
từ trong văn bản. Điểm đáng chú ý ở giáo trình này so với các tài liệu khác về rèn
luyện kĩ năng đặt câu, dùng từ là: các tác giả, nhất quán với cách làm ở chương I,
không sa vào trình bày kiến thức chung như các giáo trình lý thuyết (chẳng hạn: câu là
gì, từ là gì, các thành phần câu, các kiểu câu chia theo cấu tạo, các kiểu câu chia theo
mục đích nói năng, các kiểu cấu tạo từ...) mà đi thẳng vào những vấn đề có tác dụng
thiết thực chỉ đạo việc đặt câu, dùng từ, như: chữa các lỗi thông thường về đặt câu,
chữa các lỗi thông thường về dùng từ, biến đổi câu... theo mạch của chương trình là “đi
từ đơn vị giao tiếp tự nhiên và hoàn chỉnh nhất là văn bản đến những đơn vị bộ phận
của nó” (tr.4), các nội dung rèn luyện về câu và từ đều được đặt dưới góc độ chúng là
các đơn vị nằm trong một văn bản, văn cảnh nhất định. Kiến thức cũng như các bài tập
phong phú trong chương này có tác dụng giúp sinh viên phát triển các kĩ năng lời nói
của mình, từ chỗ đặt câu, dùng từ đúng đến chỗ đặt câu, dùng từ hay.
Ngoài hai chương với nội dung như tôi đã tóm tắt và nhận xét ở trên, sách còn
có phần phụ lục trình bày quy tắc viết hoa và quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài, cách
chữa các lỗi thông thường về chính tả, cách viết một số văn bản hành chính - công vụ,
như: đơn từ, biên bản, báo cáo, hợp đồng.
Nhìn chung, với cách trình bày, cách đặt vấn đề, cách giải quyết vấn đề, các bài tập,
các văn bản mẫu nêu ra..., cuốn sách này đã đặt trúng vấn đề; phương pháp trình bày
cùng hệ thống bài tập trong sách, theo tôi, đã đảm bảo cho người học nắm chắc cách
đọc, cách viết tài liệu khoa học.

138
Tuy nhiên, đọc kĩ cuốn sách, tôi suy nghĩ nhiều về gánh nặng mà chương trình
ở trường đại học phải đảm nhận. Tôi nghĩ rằng nếu Nghị quyết Trung ương 2 về giáo
dục được thực hiện tốt thì nhiệm vụ rèn luyện thực hành tiếng Việt phải được hoàn tất
ở bậc học phổ thông, nhất là phổ thông trung học. Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung
học phải viết tốt bằng tiếng Việt, không có lỗi đặt câu, dùng từ nữa và đã bước đầu
viết được một bài văn nghị luận khá. Lên đại học, họ chỉ phải tập trung vào học tập
nghiệp vụ chuyên môn cho tốt để trở thành những cán bộ khoa học giỏi, góp phần
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá nước nhà. Ước gì các trường đại
học không phải làm thay, làm lại những công việc của nhà trường phổ thông 12 năm.
(Nguyễn Văn Tu, TC.Ngôn ngữ và đời sống, số 11 (25), 1997, tr.27 và 13).
11). Dưới đây là một đoạn trong bản Tóm tắt luận án khoa học chuyên
ngành Văn học dân gian. Hãy nhận xét về cách trình bày “Lịch sử vấn đề” của tác
giả luận án.
ii. lịch sử vấn đề
Truyện cười dân gian xuất hiện từ rất sớm. Trước Cách mạng tháng Tám, việc
xuất bản truyện cười không phải là không có, nhưng công việc này được tiến hành
chậm chạp và hết sức ít ỏi. Về phương diện nghiên cứu, bài viết của Đặng Thai Mai “ý
nghĩa nhân sinh trong truyện cười nước ta ngày xưa” đăng trên tạp chí Tri Tân năm
1943 là một thí dụ khó tìm.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đặc biệt sau năm 1954, trên miền Bắc được
giải phóng, văn học dân gian đã được sưu tầm, biên soạn và công bố ngày càng nhiều.
Tuy nhiên so với các thể loại khác, số sách về truyện cười được xuất bản còn chiếm
phần khiêm tốn hơn. Chỉ từ năm 1986 trở lại đây, tình hình xuất bản truyện cười mới
nhộn nhịp, phong phú và đa dạng hơn trước. Theo kết quả thống kê của Lê Lệ Thanh,
chưa kể truyện cười thế giới, chỉ tính truyện cười Việt Nam (mà chủ yếu là truyện cười
dân gian cổ truyền), từ năm 1986 đến năm 1994 đã có bốn mươi sáu cuốn được xuất
bản.
Việc nghiên cứu truyện cười, trong đó có vấn đề nghiên cứu nghệ thuật truyện
cười, đã được một số nhà khoa học quan tâm. Nếu tính từ Đặng Thai Mai (1943), tới
Nguyễn Hồng Phong (1957), qua Đinh Gia Khánh (1962, 1973), đến Lê Chí Quế,
Hoàng Tiến Tựu (1990), chúng ta thấy truyện cười dân gian ngày càng được khẳng
định với tư cách là một thể loại của folklore ngôn từ.

139
Khi phân tích truyện cười, hầu hết các tác giả đi trước, ở những mức độ khác
nhau, đều đã bàn đến các biện pháp nghệ thuật: Khai thác và phản ánh mâu thuẫn, xây
dựng cốt truyện ( với những thủ pháp như giơ cao hạ thấp, sử dụng yếu tố bất ngờ, gói
kín, mở nhanh, v.v...), sử dụng yếu tố phóng đại, sử dụng yếu tố tục, vận dụng ngôn
ngữ, xây dựng lời nói đáng cười, cử chỉ đáng cười, hoàn cảnh đáng cười, xây dựng
nhân vật, đưa một số yếu tố của văn phong bác học vào truyện dân gian,... Điều rất dễ
nhận thấy là phần lớn các tác giả (Nguyễn Hồng Phong, Tú Mỡ, Đinh Gia Khánh) đã
nhận thức vai trò quan trọng của biện pháp nghệ thuật khai thác và phản ánh mâu
thuẫn. Đinh Gia Khánh và Trương Chính đều viết rằng loại mâu thuẫn gây cười được
thể hiện ở ba cấp độ: lời nói đáng cười, cử chỉ đáng cười và hoàn cảnh đáng cười. Biện
pháp sử dụng yếu tố tục cũng đã thu hút sự chú ý đáng kể của Nguyễn Hồng Phong,
Đinh Gia Khánh, Lê Chí Quế. Một mặt thừa nhận những biện pháp nghệ thuật nêu
trên, mặt khác Hoàng Tiến Tựu cho rằng các biện pháp ấy đều phải “phụ thuộc và phục
vụ cho hai yếu tố cơ bản vừa độc lập, vừa có quan hệ mật thiết với nhau trong truyện
cười dân gian là cốt truyện và nhân vật”.
Những tìm tòi của những người đi trước là rất đáng trân trọng và giúp ích chúng
tôi rất nhiều trong khi thực hiện và hoàn chỉnh thành đề tài nghiên cứu.
Hầu hết các tác giả đi trước đã chưa chú ý đến mối quan hệ giữa các biện pháp nghệ
thuật. Trừ Đinh Gia Khánh, các tác giả nêu trên cũng chưa chú ý thích đáng đến mối
quan hệ giữa cái hài và tiếng cười. Sự chú ý chưa thích đáng này nhiều khi không phải
là do trình độ và nhận thức của người viết, mà do nhiệm vụ và mục đích của các công
trình quy định. Thí dụ, trong khuôn khổ hơn 300 trang sách Văn học dân gian Việt
Nam (1990) của các tác giả Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), phải giới thiệu
dưới dạng tinh giản toàn bộ văn học dân gian của người Việt và một số thể loại văn
học dân gian tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, truyện cười chỉ là một bài trong một
chương sách, phần viết về nghệ thuật truyện cười được dành đúng một trang. Với số
trang quá ít như vậy, làm sao người viết có thể phản ánh hết được kết quả nghiên cứu
của mình ?
Vấn đề truyện cười dân gian, mối quan hệ giữa cái hài và tiếng cười, thi pháp
thể hiện cái hài... xứng đáng được khảo sát và phân tích trong một công trình riêng.
Bản luận án của chúng tôi được tiến hành với mục đích và quy mô như vậy. (Nguyễn
An Tiêm ).

140
12). Gạch chân câu chủ đề trong mỗi đoạn văn dưới đây. Cho biết kết cấu
của mỗi đoạn, thử viết lại theo một kết cấu khác.
Đoạn văn 1. “Nhật ký trong tù” canh cánh một tấm lòng nhớ nước. Chân bước
đi trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn cảnh lầm than,
có lẽ nhớ cả tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt Nam qua tiếng khóc của một em bé
Trung Quốc, nhớ người đồng chí đưa tiễn đến sông, nhớ lá cờ nghĩa đang tung bay
phấp phới. Nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ. (Hoài Thanh) .
Đoạn văn 2. Nhân dân Nam Kỳ anh dũng không bao giờ quên cố quốc. Sau
những ngày phong trào Cần Vương đã thất bại, khắp trong lục tỉnh, người ta vẫn ấp ủ
cái ý chí phục thù. Tên tuổi những người đã chết vì đất nước, các nhà yêu nước chống
Pháp không hề phai nhạt trong trí nhớ của người dân thường từ thành thị đến thôn quê.
Người ta ngâm nga cùng nhau những câu lục bát của Đồ Chiểu mà trong đó mọi người
muốn nhìn thấy cả một tâm hồn khảng khái:
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ !...
(Đặng Thai Mai)
Đoạn văn 3. Ngôn ngữ tạo hình của từng tượng mồ cũng trở nên sinh động và
hiện thực hơn. Hầu hết các tượng tuy vẫn bị hạn chế trong phạm vi một thân gỗ, đã
được mô tả trong những tư thế khác nhau: người ngồi trầm tư, người đang nhún nhảy
đánh trống, người đang xoay thân mình trong động tác múa, người đang đứng trang
nghiêm... Các khối điêu khắc mất dần những đường nét hình học, chuyển thành các
khối cong sống động để diễn tả các hình, các khối cho thực. Mặc dù tỷ lệ các hình
người không được đúng: đầu quá to, thân quá nhỏ... nhưng rõ ràng tính hiện thực đã
toát lên ở ngôn ngữ nghệ thuật. Thế nhưng, không ít tượng mồ lớp thứ hai đã kết hợp
được vào mình cả tính hiện thực của khối hình với những đường nét hình học đầy sức
ma thuật của những truyền thống cổ để hiện lên như những tác phẩm điêu khắc tuyệt
vời. ở những tượng mồ đẹp, những mảng khối vừa khái quát về cái thực, vừa sống
động mà cũng vừa bí ẩn như một sức mạnh ma thuật. (Ngô Văn Doanh - Độc đáo
tượng mồ Tây Nguyên).
13). Xác định câu chủ đề trong mỗi đoạn văn dưới đây. Phân tích kết cấu của
mỗi đoạn rồi viết lại thành một đoạn văn có kết cấu khác.

141
Đoạn văn 1. Nền kinh tế Mỹ và các nước phát triển có tốc độ tăng trưởng
tương đối nhanh so với trước đây, bội chi tài chính cũng đã giảm. Từ cuối năm 1995,
đồng đôla Mỹ đã đứng được ở vị trí tương đối ổn định. So với các đồng tiền chủ yếu
của Nhật Bản và phương Tây như đồng Yên, đồng D-Mác, đồng Frăng Thuỵ Sĩ, v.v...
thì đồng đôla Mỹ đều có nhích lên ở mức độ khác nhau. Các dự báo cho thấy, năm
1997, tỉ giá hối đoái giữa đồng đôla Mỹ với các đồng tiền chính của phương Tây sẽ
không có biến động lớn như cuối năm 1995. (Kiến thức gia đình, số 60, 1997).
Đoạn văn 2. Hương ước phản ánh tâm lý của làng, phản ánh một phương diện
quan trọng của văn hoá làng. Đó là các quan niệm về điều phải và điều trái, điều đúng,
điều sai, điều đáng trọng và điều đáng khinh. Luật pháp của Nhà nước khó mà phản
ánh một cách sinh động các quan niệm trên đây của dân từng làng như trong hương
ước. (Đinh Gia Khánh).
Đoạn văn 3. Thơ Nhật ký trong tù có bài hồn hậu, trong trẻo như thơ dân gian.
Lại có bài trang trọng, bát ngát như thơ Đường, thơ Tống. Giữ cốt cách á Đông mà hơi
thở vẫn rất hiện đại. Giản dị, phong phú mà vẫn có phong cách riêng. Nhật ký trong tù
là một tập thơ có nghệ thuật đặc sắc.
14). Hãy coi mỗi câu dưới đây là câu chủ đề đặt ở đầu đoạn văn và viết tiếp
20 câu để triển khai.
a). Cờ bạc là bác thằng bần....................
b). Việt Nam đã và đang đổi mới............
c). “Thống nhất trong sự đa dạng” là thành ngữ của người Inđônêxia,
nhưng rất hay gặp trong các công trình nghiên cứu về Đông Nam á............
15). Sau đây là các câu được rút ra từ một đoạn văn hoàn chỉnh nhưng đã bị
đảo lộn thứ tự. Hãy xếp lại cho hợp lý.
a). Trong kinh doanh, mặc dù lợi nhuận là một tiêu chí đạt tới, nhưng đồng tiền
phải lấy mục đích là phục vụ con người, vì con người tốt đẹp và lương thiện.
b). Mười từ trên đây không chỉ là mục tiêu của đất nước, của dân tộc, mà đó còn
là động lực rèn chí, lập thân, lập nghiệp của mỗi chúng ta.
c). Tiếc thay, không phải lúc nào và bao giờ hai phạm trù đồng tiền và văn hoá
cũng phát triển thuận chiều và tác động tương hỗ vì sự hình thành và hoàn thiện của
một con người mới.
d). Dân gian ta có câu “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

142
đ). Điều đáng lo ngại sâu sắc nhất chính là chỗ đó.
e). Trong thời kỳ mới cần phấn đấu cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”. (Báo Nhân Dân, 23.11.1996, tr.3).
16). Tìm câu chủ đề của đoạn văn dưới đây. Lập luận trong đoạn văn này
được trình bày theo phương pháp quy nạp hay diễn dịch ?
Trong việc tìm hiểu văn hóa Hà Nội nói chung, văn hoá dân gian Hà Nội nói
riêng, có không ít tác giả miêu tả được nhiều sự kiện phong phú, nhiều chi tiết sinh
động. Truyện Hà Ô Lôi (Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XIV), trong khi kể lại sự tích một
nghệ nhân dân gian có tài đời Trần, đã phản ánh được sinh hoạt văn hoá dân gian ở
Thăng Long trong thời ấy. Bài khảo cứu về “Cách uống chè” (Vũ Trung tuỳ bút - đầu
thế kỷ XIX) đã phản ánh sinh hoạt và thời thượng của dân Thăng Long hồi cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đặc biệt là Lê Quý Đôn trong Thượng kinh phong vật chí thì
đã miêu tả mọi mặt sinh hoạt vật chất và tinh thần của Thăng Long, trong đó có những
nét rất cụ thể về lối sống và phong tục, tập quán của dân Thăng Long thế kỷ XVIII”
(TC.Văn nghệ dân gian, số 2, 1996, tr.3-12).
17). Mỗi đoạn văn dưới đây được trình bày theo phương pháp nào ? So sánh,
nhân quả, diễn dịch hay quy nạp ?
Đoạn văn 1. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn
tăng gia sản xuất tốt thì phải có kỹ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải có
văn hoá. Vậy việc bổ túc văn hóa là cực kỳ cần thiết. (Hồ Chí Minh).
Đoạn văn 2. Tất cả những đau thương ấy là vì đâu ? Thuý Kiều nói là vì số
mệnh. Nhưng số mệnh ở đây lại hiện ra dưới hình thức những con người. Bọn người
ấy khá đông. Đày đọa Kiều không phải chỉ có một người như trường hợp Thạch Sanh
hay Ngọc Hoa, Phạm Tải. Đày đoạ Kiều là cả một xã hội. (Hoài Thanh).
Đoạn văn 3. ở Việt Nam, hai tiếng cha mẹ được gọi khác nhau tuỳ theo địa
phương. ở miền Bắc, người ta gọi cha mẹ là bố mẹ; có nơi gọi là thầy u. ở miền Nam,
người ta gọi cha là tía, mẹ là má. Sau này, ảnh hưởng của Pháp, đặc biệt là thành phố,
người ta gọi cha mẹ là ba mẹ. Một số gia đình, vì hiếm muộn và vì kiêng kị, cho con
gọi cha mẹ là anh chị hoặc cậu mợ. (Phan Văn Giưỡng).
18). Xác định phương pháp lập luận và cách triển khai vấn đề trong mỗi
đoạn văn dưới đây:

143
Đoạn văn 1. Cũng như cây có cội, nước có nguồn, văn hóa có nguồn gốc và
ngôn ngữ có cội rễ của mình. Trong giới tự nhiên, cây cối và đất, nước không thể tách
rời nhau, trong xã hội, ngôn ngữ và văn hoá liên quan mật thiết với nhau. Ngôn ngữ
vừa là một biểu tượng của toàn bộ văn hoá, vừa là một công cụ để giới thiệu văn hoá,
vừa là chất liệu để tạo nên một dạng văn hoá đặc biệt là văn chương. Đó cũng là quan
hệ khăng khít giữa ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam. (Bùi Khánh Thế 1995).

144
Đoạn văn 2. Viết rồi thì phải đọc đi đọc lại. Thấy cái gì thừa, chữ nào thừa thì
bỏ đi. Đọc đi đọc lại 4, 5 lần đã đủ chưa ? Chưa đủ. Đọc đi, đọc lại, sửa đi, sửa lại.
Cách viết truyền đơn cũng thế, viết báo cũng thế, viết báo cáo, viết gì cũng thế. (Hồ
Chí Minh).
Đoạn văn 3. Dấu hiệu ngôn ngữ (như từ) cũng luôn ở trong tư thế chuyển thành
tín hiệu, vì nó được tạo ra là để sử dụng vào việc nói và viết. Tất cả các dấu hiệu xuất
hiện trong lời, trong ngôn bản / văn bản đều đã trở thành tín hiệu. Nó chỉ là dấu hiệu
thuần tuý khi còn nằm trong bộ nhớ của não hoặc trong những mục từ của từ điển mà
thôi. (Hồ Lê 1994).
Đoạn văn 4. Hằng năm, cứ đến ngày 20 - 11, trường em lại tổ chức cho học
sinh làm báo tường. Tất cả các tờ báo tường năm nay, tờ nào cũng đẹp về hình thức,
hay về nội dung. Tuy tờ báo nào cũng hay về nội dung, đẹp về hình thức, nhưng em
vẫn thích tờ báo của lớp em. Đây là một công trình của tập thể lớp. Ngoài việc mỗi lần
phải viết báo ở nhà, chúng em còn tranh thủ những giờ rỗi để trang trí cho tờ báo.
(Hồng Dân và... 1995).
Đoạn văn 5. Gần đây, rất nhiều người nước ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt.
Họ không chỉ đến thẳng Hà Nội mà còn đến TP.HCM, cả Huế và Đà Nẵng nữa.
Nhưng không ít người cho rằng học tiếng Việt thì học ở Hà Nội mới hay. Họ thường
nói như vậy là vì giọng Hà Nội mới phân biệt 6 thanh điệu, đúng chính tả. (Hiroki
Tahara. Trong Tiếng Việt như một ngoại ngữ, 166).
19). Dưới đây là các đoạn trích dẫn trong các bản tóm tắt luận án phó tiến sĩ
chuyên ngành khoa học Ngữ văn và chuyên ngành Văn học dân gian, nhưng đề
mục và số thứ tự của đề mục đã bị xoá.
1). Căn cứ vào nội dung chính của đoạn văn, căn cứ vào những quy định về nội
dung, kỹ thuật và trình tự thể hiện đối với một luận án và luận văn, thử đặt đề mục cho
mỗi đoạn.
2). Phân tích cách trình bày, lập luận, cách viết câu, dùng từ của tác giả khi giới
thiệu tóm tắt luận án.
Đoạn văn 1. Những kết quả nghiên cứu thu được của luận án sẽ góp phần để
giải quyết một số vấn đề đang có tính thời sự trong ngôn ngữ học tâm lí như tính tương
quan giữa hành vi ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ của người Việt và người Nga còn
rất đáng quan tâm xét từ góc độ một số vấn đề có tính nguyên lý chung hơn của tâm lý

145
học tư duy, chẳng hạn, vấn đề vai trò của các nhân tố sinh vật học và văn hóa xã hội
trong việc quy định các thao tác tư duy ngôn ngữ. Các thủ tục và phương pháp nghiên
cứu trong luận án còn có thể được áp dụng để nghiên cứu trên các trường từ vựng -
ngữ nghĩa khác.
Ngoài ý nghĩa lý luận như đã nêu, việc giải quyết những vấn đề được xem xét
trong luận án còn có giá trị thực tiễn quan trọng. Những quan sát và kết luận trong luận
án có thể được sử dụng trong các giáo trình lý thuyết của ngôn ngữ học đại cương,
trong việc dạy tiếng Việt và tiếng Nga như một ngoại ngữ, hoặc phiên dịch từ Việt
sang Nga và ngược lại, trong việc biên soạn từ điển giải thích hoặc từ điển đối chiếu
giữa tiếng Việt và tiếng Nga, cũng như trong các sách giáo khoa. Điều đó sẽ góp phần
quan trọng vào quá trình tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
[Nguyễn Thị Thuý Khanh - Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi động vật
(trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga. Tóm tắt luận án phó tiến sĩ chuyên
ngành khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, 1996)].
Đoạn văn 2. Phát ngôn đơn phần đã được giới nghiên cứu chú ý từ lâu, tuy mỗi
tác giả gọi chúng bằng những thuật ngữ riêng và nội dung các thuật ngữ ấy cũng
không hoàn toàn thống nhất với nhau. Nhìn chung, từ nhiều góc độ quan sát, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những ý kiến đáng chú ý. Nhưng có thể thấy:
Về quy mô nghiên cứu, cho đến nay chưa có được một chuyên luận nào dành
riêng cho các phát ngôn đơn phần, mà chỉ có một số bài có tính chất giới thiệu hoặc
bàn đến nó nhân nói về câu (phát ngôn) nói chung.
Về kết quả nghiên cứu, còn nhiều ý kiến chưa thống nhất trong việc xác định
khái niệm, phạm vi và phân loại phát ngôn đơn phần tiếng Việt. Các bài viết mới chỉ
đề cập đến một số mặt cơ bản, chưa chú ý thoả đáng mặt nội dung biểu hiện, đặc điểm
hoạt động và các hoàn cảnh sử dụng của phát ngôn đơn phần với tư cách là một đơn vị
giao tiếp như các đơn vị khác.
Vì vậy nghiên cứu phát ngôn đơn phần là một vấn đề cấp thiết cả về phương
diện lý luận lẫn ứng dụng thực tiễn.
Đoạn văn 3. ở cả ba chương, chúng tôi sử dụng hai phương pháp phân tích và
tổng hợp. Trên cơ sở một lượng tư liệu đủ đến mức cần thiết sau khi được giám định,
chúng tôi sẽ phân tích kỹ để sau đó tổng hợp những nhận xét về từng vấn đề.

146
Trong chương ba, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh khi chỉ ra những ảnh
hưởng của tiếng cười của truyện dân gian đã in dấu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Phương pháp so sánh cũng sẽ được vận dụng ở chương hai khi chúng tôi bàn đến sự
khác nhau giữa thi pháp của cái hài trong truyện cười dân gian với thi pháp của cái hài
trong một số thể loại khác.
(Nguyễn An Tiêm - Cái hài trong truyện cười dân gian. Tóm tắt luận án phó tiến sĩ
khoa học chuyên ngành Văn học dân gian, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996).
Đoạn văn 4. Luận án nghiên cứu mặt ngữ nghĩa của tính từ
Đoạn văn 4a. Cung cấp một bức tranh tương đối đầy đủ về ngữ nghĩa của tính
từ tiếng Việt từ góc độ chức năng. Thông qua miêu tả ngữ nghĩa tính từ, tìm hiểu chức
năng của từng bộ phận cấu thành nghĩa từ, từ đó góp phần lý giải hoặc làm rõ hơn một
số vấn đề cơ bản về nghĩa của tính từ như đánh giá, so sánh, thang độ, trái nghĩa.
Đoạn văn 4b. Các tính từ đơn âm tiếng Việt. Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn
lập, âm tiết tính, phần lớn âm tiết vừa là từ, vừa là hình vị. Chọn các tính từ đơn âm
tiết để làm đối tượng nghiên cứu là đã đi vào nghiên cứu lớp từ cơ bản nhất của vốn từ
vựng. Trong quá trình tiếp xúc, vay mượn, các từ đơn âm tiết thường là lớp từ nằm ở
tầng sâu nhất, ít chịu tác động từ bên ngoài; do vậy, nó có thể đại diện cho vốn từ vựng
nói chung.
(Chu Bích Thu - Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại. Tóm tắt
luận án phó tiến sĩ chuyên ngành khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, 1996).
Đoạn văn 5. Có thể nói đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam tiến hành nghiên
cứu, đối chiếu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống đặc điểm của các quá trình
định danh động vật, cũng như đặc điểm của ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ động vật, cấu
trúc ngữ nghĩa chung của toàn trường, những đặc điểm của quá trình chuyển nghĩa và
ý nghĩa biểu trưng trong tiếng Việt và tiếng Nga.
Bằng con đường thực nghiệm, luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm đặc điểm liên
tưởng và so sánh trong giao tiếp của người Việt với người Nga đã được các tác giả đi
trước chỉ ra.
Cái mới của luận án còn ở chỗ mở rộng phạm vi sử dụng các công thức trong
ngôn ngữ học thống kê vào việc nghiên cứu độ phong phú, độ tập trung và độ phân tán
của ý nghĩa chuyển, của đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh động vật và của sự

147
liên tưởng. Từ đó có thể nêu lên một cách khá chính xác hệ số tương quan về từng
phương diện giữa hai ngôn ngữ. (Nguyễn Thị Thuý Khanh - tlđd).

148
Đoạn văn 6. Luận án có 177 trang. Ngoài phần mở đầu giới thiệu đặc điểm
chung của luận án, phần kết luận tổng kết các luận điểm cũng như kết quả nghiên cứu,
phần các danh mục tài liệu trích dẫn và tham khảo, nội dung chính của luận án gồm 4
chương. Chương 1: Khái niệm phát ngôn đơn phần. Chương 2: Phát ngôn biệt lập.
Chương 3: Phát ngôn tỉnh lược. Chương 4: Phát ngôn tách biệt. Có hai bản tổng kết
các kiểu phát ngôn biệt lập và tách biệt. (Phan Mậu Cảnh ).
Đoạn văn 7.
1 - Lần đầu tiên thể loại truyện cười dân gian được tập trung khảo sát trong một
công trình riêng; các khía cạnh nội dung, các biện pháp nghệ thuật, ảnh hưởng của các
biện pháp nghệ thuật ấy với những tác phẩm văn học khác đã được phân tích chi tiết.
2 - Lần đầu tiên, truyện cười dân gian được tiếp cận từ cả hai góc độ của khoa
nghiên cứu văn học và ngành mĩ học.
3 - Lần đầu tiên các biện pháp nghệ thuật tạo nên tiếng cười của cái hài được
khảo sát kĩ lưỡng không chỉ đối với từng biện pháp, mà cả mối quan hệ giữa các biện
pháp ấy cũng được phân tích thoả đáng. (Nguyễn An Tiêm - tlđd).
Đoạn văn 8. Một mặt, luận án dựa vào phương pháp miêu tả cấu trúc, mặt
khác, áp dụng phương pháp nghiên cứu ngữ pháp chức năng để tìm ra ý nghĩa và hoàn
cảnh sử dụng phát ngôn đơn phần trong thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận án sử dụng cả phương pháp quy nạp lẫn phương
pháp diễn dịch, dùng các thủ pháp, hình thức cải biến, thay thế... (Phan Mậu Cảnh).
20). Với mỗi đề tài cho dưới đây, hãy viết đoạn văn khoảng 20 dòng có câu
chủ đề đặt ở cuối đoạn để triển khai:
a). Những điệu hát lời ca về người mẹ.
b). Phong trào thể dục thể thao những năm gần đây.
c). ở hiền gặp lành. (thành ngữ).
d). Văn xuôi với đề tài người chiến sĩ áo trắng.
21). Xác định chủ đề chung và các chủ đề bộ phận trong văn bản dưới đây.
Tìm lỗi về liên kết nội dung, liên kết câu và liên kết đoạn văn.
Nhiều người phàn nàn: “Năm Tý con chuột đã qua rồi, sang đến năm Sửu con
Trâu mà chuột vẫn cứ phá ngày càng dữ !”. Những năm trước đã nhiều nạn chuột hại
lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, năm nay lại thêm nạn chuột ở đồng bằng sông Hồng
và nhiều tỉnh phía Bắc.

149
Thực ra năm nào con chuột cũng ăn hại mùa màng, hoặc nhiều hoặc ít, chẳng
phải chỉ ở nước ta, mà khắp cả thế giới. Về hiện tượng này, tôi đã hỏi ý kiến nhiều
chuyên gia của Viện Bảo vệ thực vật, Viện Sinh thái tài nguyên ở Hà Nội, Viện Khoa
học nông nghiệp miền Nam ở TP.Hồ Chí Minh. Hỏi để biết thêm ngọn nguồn tình
trạng chuột phá phách. Chuột đồng phá ngoài đồng, chuột nhà phá trong nhà. Trong
nhà, tôi sợ nhất cái nạn chuột nhắt làm tổ trong tủ sách, chúng len lén, lặng lẽ gặm nát
vụn sách báo tài liệu, rồi đẻ ra hàng chục chuột con đỏ hỏn. Chúng không hề có sự hạn
chế sinh đẻ. Chuột đồng lại còn ghê gớm hơn nữa, chúng sinh sản ra hàng lũ, tranh ăn
với loài người.
Trên thế giới có khoảng 6.000 loài gặm nhấm, chỉ tính riêng giống chuột đã có
tới 600 loài. Chuột hàng năm phá hoại lương thực đủ nuôi sống hàng trăm triệu người
trên Trái đất, lại còn đe doạ gây dịch bệnh nguy hiểm cho người và súc vật. Khoảng
đầu thập niên 1990, tại một vùng ở úc, chuột sinh sản tràn lan cắn hại cả gia súc, gia
cầm. Một nhà khoa học phân loại động vật đã nói với tôi rằng tại vùng núi phía Bắc
Việt Nam có loại chuột đất (còn gọi là chuột lớn) nặng đến 0,6kg một con, cắn hại cây
cối dữ tợn. Năm 1987, tại Indonesia, chuột hại 17% sản lượng lúa trị giá khoảng 1 tỉ
đôla Mỹ. Năm 1989, tại Thái Lan, chuột hại lúa mất 420 triệu đôla. Các nước quanh ta
như Lào, Campuchia, Phillipines, Malaysia cứ mỗi năm chuột hại mùa màng có thể
đến vài chục triệu đôla.
Trước giải phóng 1975, tại đồng bằng sông Cửu Long, chuột hại hằng năm ước
tính 5% sản lượng. Từ 1991 trở lại đây, chuột có xu thế ngày càng phát triển. Vụ đông
xuân 1991 - 1992, diện tích bị hại trên 10 ngàn hecta ở Long An, Đồng Tháp, Tiền
Giang. Vụ đông xuân 1992 - 1993, diện tích này lên đến 44 ngàn hecta ở 10 tỉnh. Đông
xuân 1995 - 1996, diện tích bị hại 38 ngàn hecta. Đông xuân 1996 - 1997, chuột tiếp
tục hại phía Nam, đồng thời cả phía Bắc (chưa thống kê được đầy đủ diện tích).
Trong thiên nhiên, cuộc cạnh tranh giữa các loài sinh vật diễn ra hằng ngày
hằng giờ, loài nào có thế mạnh sẽ sinh sôi nảy nở. Thời tiết thuận lợi, thức ăn phong
phú cho loài nào đó, số lượng thiên địch lại giảm, loài ấy tất sẽ sinh sản nhanh chóng.
Chuột phát triển mạnh do nhiều nguyên nhân: tăng vụ gieo trồng, trên cánh đồng cây
lúa, cây màu liên tục thay nhau, chuột đồng có nguồn thực phẩm quanh năm. Chuột đẻ
6 con, có thể đến 12 con mỗi tháng. Chuột tìm nơi cư trú thuận lợi ở những bờ ruộng
đắp rộng lại nhiều cỏ, trên cánh đồng có nhiều gò đống, bụi cây rậm, nước ruộng

150
thường xuyên không ngập bờ... Số lượng thiên địch săn bắt chuột ít đi, vắng bóng
những con rắn, con trăn, chồn, cáo, chim cú, chim cắt, diều hâu. Mèo, chó nuôi trong
nhà bắt chuột nhà và cũng bắt chuột đồng. Nhiều loài thiên địch của chuột trên cánh
đồng từ lâu đã trở thành các món đặc sản. Những con chó nhanh nhẹn bị biến thành
thịt cầy. Đến lượt những con mèo dũng mãnh săn chuột cũng trở thành món đặc sản
“tiểu hổ” tại các quán hàng. Nạn bắt trộm chó, mèo có ở khắp nơi. Môi trường sinh thái
bị phá hoại, không còn sự cân bằng sinh thái như xưa. Bọn chuột sẵn có nguồn thức ăn
no đủ, lại không còn thiên địch, thừa cơ phát triển thành bọn giặc nguy hiểm. Giặc
chuột phá hại mùa màng, cần tích cực phòng trừ chúng.
Có nhiều biện pháp cần làm ngay: vệ sinh đồng ruộng, làm bẫy, đào bắt chúng
tận hang ổ, sử dụng hoá chất (nhưng hạn chế hoá chất độc)... Biện pháp lâu dài: khôi
phục lại môi trường sinh thái để các loài thiên địch của chuột được sinh sản, tồn tại
như trước, đấy là các loài rắn, loài chim, phát động nuôi mèo, chó... Theo kinh nghiệm
Malaysia, hiện nay ở phía Nam đã bắt đầu sử dụng bẫy (bẫy hom) có thể bắt được
hàng trăm con chuột trên một diện tích không lớn, không gây ô nhiễm môi trường.
Cách làm như sau: trên mỗi cánh đồng chừng 50 - 70 hecta trồng 4 - 5 ruộng lúa thơm,
mỗi ruộng khoảng 1.000m2, trồng sớm hơn lúa đại trà chừng 3 tuần lễ. Làm hàng rào
nylon bao quanh ruộng và đặt 4 - 8 lồng hom bằng lưới thép để bắt chuột. Lúa thơm
trồng sớm dẫn dụ chuột chui vào bẫy. Giặc chuột dù tinh quái đến đâu, nhưng bản chất
tham ăn, đánh hơi thấy mùi lúa thơm, chúng sẽ lần lượt chui qua hom vào bẫy để con
người bắt gọn. (Trong Thế giới mới, số 233, tr.51-51).
b . nhóm bài tập về liên kết trong văn bản
22). Gạch dấu x vào a hoặc b, c, v.v... để xác định quan hệ ý nghĩa giữa các
câu dưới đây:
1). Chặng đường đi lên của HTX (hợp tác xã - NKT) Bình Thành được ghi lại
bằng những con số mang tính thuyết phục. Năm 1990 năng suất lúa là 8,5 tấn/ha; năm
1994 lên 10,5 tấn/ha; năm 1995 là 15 tấn/ha. (Báo Sài Gòn giải phóng, 24.1.1996).
a). bằng chứng b). dẫn chứng c). ví dụ d). khai triển
2). Pháp luật bảo vệ quyền thừa kế. Thừa kế là sự chuyển dịch di sản của người
đã chết cho người còn sống.
a). định nghĩa b). khai triển c). dẫn chứng d). suy luận

151
3). Nước sông này không uống được. Bản xét nghiệm cho biết nước đã bị ô
nhiễm.
a). kết quả b). dẫn chứng c). bằng chứng d). ví dụ
4). Từ tiếng Việt không biến đổi hình thái. Chẳng hạn từ “ăn” có thể được dùng
cho số ít, số nhiều, cho quá khứ, hiện tại hoặc tương lai.
a). ví dụ b). khai triển c). dẫn chứng d). kết quả
5). Có nhiều người có bệnh “dùng chữ Hán”, những tiếng ta sẵn có không dùng
mà dùng chữ Hán cho bằng được. Thí dụ: ba tháng không nói mà nói tam cá nguyệt
(X.Y.Z).
a). dẫn chứng b). ví dụ c). khai triển
6). Từ tiếng Việt đơn âm mà đa thanh. Vì vậy, nghe người Việt nói, người
ngoại quốc có cảm tưởng như nghe chúng ta hát.
a). suy luận b). song hành c). kết quả d). khái quát
7). Lan giỏi ngoại ngữ và vi tính. Chắc bạn ấy tìm được việc làm dễ dàng.
a). kết quả b). song hành c). khai triển d). suy luận
8). Đồng dùng làm dây dẫn điện, bạc để mạ các đồ dùng, vàng dùng làm đồ
trang sức. Kim loại thật có ích.
a). kết quả b). suy luận c). khái quát d). song hành
9). Trần Bình Trọng vì yêu nước quên mình. Phạm Hồng Thái hy sinh nơi đất
khách.
a). song hành b). tương đồng c). khai triển
10). Luật lao động điều chỉnh quan hệ pháp luật về giải quyết tranh chấp lao
động. Tranh chấp lao động là các bất đồng ý kiến giữa các chủ thể của quan hệ lao
động (giữa người sử dụng, quản lý người lao động và người lao động). (Tìm hiểu các
quy định Bộ luật lao động, Nxb.TP.HCM, 1995).
a). khai triển b). tương đồng c). định nghĩa d). dẫn chứng
11). Văn học thời chiến tranh không tránh khỏi tinh thần khắc khổ. Người cầm
bút không thể nói nhiều đến yêu cầu hưởng thụ, đến hạnh phúc cá nhân. (Văn 12).
a). khai triển b).suy luận c). kết quả d). định nghĩa
12). Hà sống rất hồn nhiên. Ngoài việc cơ quan ra, nó say mê vẽ. Trên tường
đầy tranh. (Triệu Huấn).
a). ví dụ b). dẫn chứng c). kết quả d).nguyên nhân

152
đ). khai triển e). song hành

153
13). Văn bản nhất quán là văn bản làm cho người đọc thấy rằng giữa các ý có
sự quy định lẫn nhau, không thể bỏ một ý nào trong chúng, đọc ý trước tất yếu phải
kéo theo ý sau, từ ý sau có thể suy ra ý trước. Muốn vậy, người viết cần xác định một
hướng đi nhất định trong văn bản, có chủ kiến nhất định và giữ vững chúng trong suốt
cả văn bản... (Đỗ Hữu Châu và... 1995).
a). suy luận c). tương phản đ).nguyên nhân
b). khai triển d). kết quả e). tương đồng
14). Hơn lúc nào hết, nước ta cần kịp thời sửa đổi, rút kinh nghiệm về đào tạo,
bồi dưỡng và sử dụng lao động chất xám hợp lý và có hiệu quả trong cuộc đọ sức đua
tài với nhiều quốc gia trong thế giới mới. Chúng ta đã có quá nhiều bài học về “phi trí
bất hưng”. (Báo Nhân Dân).
a). kết quả b).nguyên nhân c). khái quát d). suy luận
15). Văn bản rõ ràng, rành mạch là văn bản có các câu, đoạn, ý rõ ràng, rành
mạch, các ý phải tương đối hoàn chỉnh, tách bạch nhau và được sắp xếp theo một trình
tự hợp lý. Muốn vậy, phải viết hết ý này rồi mới chuyển sang ý khác, không nên viết
lằng nhằng, ý này chưa dứt đã viết sang ý khác. (Đỗ Hữu Châu và... 1995).
a). kết quả c). khai triển đ).nguyên nhân ê). tương đồng
b). suy luận d). song hành e). khái quát g). tương phản
16). Dân tộc Văn Lang là một dân tộc định canh, định cư, hoàn toàn không phải
là một “nước trên lưng ngựa” như các dân tộc ở miền Tây Bắc của Bắc phương. Định
canh, định cư thì đất nước có điều kiện phát triển rực rỡ, dân tộc có điều kiện thuận lợi
để xây dựng văn hoá. (Trần Văn Giàu).
a). nguyên nhân b). khái quát c). tương phản d). kết quả
17). Đối với người nghe (người đọc), thì yêu cầu đặt ra là phải rèn luyện năng
lực lĩnh hội tốt các loại văn bản, biết phân tích, lý giải, bình luận các giá trị chân,
thiện, mĩ của văn bản. Muốn vậy, người nghe (người đọc) cũng phải có năng lực sản
sinh tốt các loại văn bản, tương tự như người nói (người viết), phải nắm vững những
thao tác giải văn bản. Sự rèn luyện này đòi hỏi rất công phu, rất nhiều cố gắng. (Hồng
Dân và... 1995, Tiếng Việt 11, tr.18).
a). suy luận c). tương phản đ).nguyên nhân ê). khai triển
b). khái quát d). định nghĩa e). song hành g). kết quả

154
18). Chữ quốc ngữ được đặt ra từ thế kỷ thứ XVII, và suốt mấy trăm năm tiếp
theo nó chỉ được dùng trong phạm vi rất hạn chế. Từ đầu thế kỷ thứ XX, cùng với các
phong trào đấu tranh yêu nước, chữ quốc ngữ bắt đầu được truyền bá rộng rãi. (Hồng
Dân và... 1994).
a). bằng chứng c). ví dụ đ). song hành ê). tương phản
b). dẫn chứng d). khai triển e). kết quả
19). Giao lưu văn hoá cũng là bảo vệ văn hoá. Xưa nay, bảo vệ văn hoá dân tộc
gắn liền mật thiết với bảo vệ độc lập dân tộc. (Trần Văn Giàu).
a). khai triển c). kết quả đ). dẫn chứng
b). suy luận d). khái quát e). song hành
20). ở giai đoạn trước, tiếng Việt văn học được dùng chủ yếu trong thơ, phú. Từ
đầu thế kỷ thứ XX về sau, tiếng Việt dần dần được dùng trong mọi thể loại văn học ,
mọi địa hạt văn hóa, khoa học, kỹ thuật. (HD và... 1994).
a). khai triển c). bằng chứng đ). tương phản
b). song hành d). khái quát e). tương đồng

23). Xác định phương thức liên kết và quan hệ ý nghĩa giữa các câu dưới
đây:
1). Mãi đến 10 giờ đêm, anh mới trở về, lăn vào giữa khẩu đội ngủ. Một lát, tôi
đã nghe anh ngáy đều đều. (Nguyễn Trọng Oánh).
2). Trong họ Nam á, các nhà nghiên cứu tìm thấy nhiều dấu tích về mối quan hệ
họ hàng gần gũi giữa tiếng Việt và tiếng Mường, và mối quan hệ tương đối xa hơn
giữa nhóm tiếng Việt và nhóm tiếng Môn - Khơme. Trong tiếng Việt có từ “tay” thì
tương đương trong tiếng Mường là “thay”, trong tiếng Bana, tiếng Mơnông là “ti”,
trong tiếng Khơme là “đay”, trong tiếng Môn là “tai”.
a). ví dụ b). dẫn chứng c). bằng chứng d). khai triển
3). Chúng ta có chính nghĩa. Chúng ta có chí khí kiên cường, quyết chiến, quyết
thắng. Chúng ta có sức mạnh vô địch của toàn dân đoàn kết. (Hồ Chí Minh).
4). Sinh viên Việt Nam, dù theo học ngành nghề gì, đều phải dành thì giờ học
tập, rèn luyện để nói, viết thành thạo tiếng Việt và Việt văn. Bởi lẽ, đối với những
người dân nặng tình yêu nước, Tổ quốc không chỉ là lãnh thổ, chính quyền mà Tổ
quốc còn là tiếng nói và chữ viết. (Hà Thúc Hoan 1997).

155
5). Chiều hôm qua chúng tôi về làng. Từ xa đã nhìn thấy luỹ tre vừa bị giặc đốt
cháy. (Hồ Phương).
24). Quan hệ liên kết giữa các câu dưới đây là quan hệ gì?
1). Từ năm 1931 đến năm 1933, thực dan Pháp khủng bố tợn. Cán bộ bị bắt và
hy sinh rất nhiều. (Hồ Chí Minh).
2). Nhờ hư từ mà tổ hợp “mẹ và con” khác với các tổ hợp “mẹ của con”, “mẹ vì
con”. Cùng với trật tự từ, hư từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu có một nội dung
thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái ngữ nghĩa bổ sung. (Hà Thúc
Hoan 1997).
3). Trong nghề viết văn, cách đặt câu là việc khá quan trọng. Tôi thường cố
gắng sao cho câu của tôi được gọn, gãy và rõ. Cho nên tôi chỉ đặt những câu ngắn.
(Nguyễn Công Hoan).
4). Tiếng reo mỗi lúc một xa. Đám rước đã đến ngã ba. (Chu Văn).
5). Keng yêu vợ, muốn cho vợ nhàn. Lạt thương chồng, nhất định không nghe.
(Nguyễn Kiên).
6). Trong vòng ba năm, chúng ta đã hàn gắn xong những vết thương chiến
tranh. Trong thời gian ấy, chúng ta đã hoàn thành cải cách ruộng đất. (Hồ Chí Minh).
25). Chọn câu trả lời đúng nhất về quan hệ ý nghĩa của các câu:
1). Các nhà tạo mẫu bao bì luôn được coi là những nhà thuyết khách bằng công
việc dẫn dụ người tiêu thụ mua sản phẩm. Thiết kế là một công đoạn quan trọng tạo
nên sự thành bại cho một nhãn hiệu hàng hoá.
a). dẫn chứng b). suy luận c). khai triển d). kết quả
2). Trong những ngày lễ hội, với cô gái Bắc, chiếc nón là vật trang sức như
trong câu hát “... tay em cầm chiếc nón quai thao...”. Chiếc nón bài thơ của cô gái Huế
còn là một nỗi niềm, một vật trao gởi: “Anh gửi cho em chiếc nón bài thơ”.
a). suy luận b). khai triển c). song hành d). kết quả
3). Ba nhà khoa học Đan Mạch cho rằng sự nóng lên của trái đất bắt nguồn từ
hiện tượng vệt đen trên Mặt trời (Sunspot). Theo họ, nhiệt độ Trái đất phụ thuộc vào từ
trường của Mặt trời.
a). suy luận b). nguyên nhân c). khai triển d). kết quả
4). Yersin đã gởi mimosa và các loài hoa khác vào các trạm khảo cứu nông lâm
để tiện ươm trồng. Từ đó, mimosa dần dần xuất hiện trên thành phố Đà Lạt.

156
a). khai triển b). nguyên nhân c). suy luận d). kết quả
5). Người quân tử Pháp chỉ yêu những chiến tích... suýt lập. Kịch bản đẹp nhất
cho Mondial 1998 đã bày sẵn: đội Pháp sẽ vào chung kết, nhưng sẽ thua Braxin (0 - 1)
vì một lỗi lầm của trọng tài.
a). kết quả b). khai triển c). suy luận d). dẫn chứng
6). Mồ hôi mà đổ xuống đồng
Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.
a). dẫn chứng b). kết quả c). khai triển d). suy luận
7). Người Pháp đổ máu đã nhiều. Dân ta hy sinh cũng không ít.
a). dẫn chứng b). tương phản c). tương đồng d). suy luận
8). Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
a). dẫn chứng b). tương đồng c). tương phản d). suy luận
9). Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi cho Tổ quốc, cho đồng
bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù.
a). dẫn chứng b). suy luận c). định nghĩa d). khai triển
26). Xác định phép liên kết giữa các câu dưới đây (gạch dấu x vào a hoặc b,
c, v.v... ):
1). Thực vậy, khoa học đã thành công trong việc mở rộng ảnh hưởng của con
người ra các hướng bên ngoài, và cho phép con người nắm bắt được một số quy luật
của thế giới tự nhiên. Thế nhưng, bản thân con người vẫn cảm thấy nội tâm không
được thanh thản, và xã hội cảm thấy rất phức tạp, đầy rẫy vấn đề, luôn luôn mắc sai
lầm, với bao hậu quả bất hạnh. (Nguyễn Hoàng Phương).
a). đối trái nghĩa d). nối kết ngữ ê). cả d và c đều đúng
b). đối phủ định đ). cả b và c đều đúng
c). nối kết từ e). cả b, c và d đều đúng
2). Biết người, biết mình trăm trận đánh, trăm trận thắng. Ta không biết địch,
nhưng ta biết ta thì thắng và bại ngang nhau. Ta không biết địch mà cũng không biết ta
thì đánh trận nào thua trận ấy. (Tôn Tử).
a). đối trái nghĩa b). đối phủ định c). cả a và b đều đúng
3). Hạnh phúc xuất phát từ tình thương. Nhưng không phải tình thương chung
chung. (Hà Huy Giáp).

157
a). nối kết từ b). nối kết ngữ c). cả a và b đều đúng
4). Kế hoạch Taylơ đã tiêu tan. Kế hoạch Mắc Namara cũng phá sản. (Hồ Chí
Minh).
a). Lặp từ ngữ b). lặp cấu trúc c). cả a và b đều đúng
5). Giao thông tốt thì các việc đều dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trễ.
(Hồ Chí Minh).
a). lặp cấu trúc b). lặp từ ngữ c). cả a và b đều đúng
6). Thương người là giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành sự nghiệp chung, nhằm
nâng cao năng lực người ta lên ngang tầm với nhiệm vụ họ được giao phó, chứ không
hạ thấp người ta xuống, làm giùm cho người ta. Nói một cách khác, phải biết đặt trách
nhiệm tối đa cho người ta, hợp với sự cố gắng của người ta, trên cơ sở đó mà tôn trọng
người ta. (Hà Huy Giáp).
a). nối kết từ b). nối kết ngữ c). nối tuyến tính
7). Tagorơ ghét nhà trường như vậy, cho nên chẳng nhớ gì ngoài những hình
phạt và bộ mặt cau có của các ông giáo. Những thu hoạch về đời sống của ông chủ yếu
là ở trong gia đình và ngoài xã hội. (Cao Huy Đỉnh).
a). thế đại từ c). thế đồng nghĩa lâm thời
b). thế đồng nghĩa từ điển
8). Cái gia đình ấy đã tan nát. Chồng biệt tăm, biệt tích, vợ về quê, con cái thì tù
tội.
a). liên tưởng bộ phận - tổng thể c). liên tưởng tổng thể - bộ phận
b). liên tưởng đồng loại
27). Xác định phép liên kết giữa các câu:
1). Đã nghe nước chảy lên non Đã nghe hồn thời đại bay cao.
Đã nghe đất chuyển thành con sông dài. (Tố Hữu)
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
2). Nói xong, anh ta vùng đứng lên, giơ tay chào mọi người rồi đi ra cửa. Mọi
người nhìn theo anh ta. Im lặng. (Nguyễn Thị Ngọc Tú).
3). Hùng về nước được vài tuần. Bây giờ nó là kĩ sư ở Sở Công nghiệp.
4). Thực dân Pháp hoặc bỏ chạy, hoặc đầu hàng. Thế là trong năm năm qua,
chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. (Hồ Chí Minh).

158
5). Lễ kén chồng kéo dài nhiều đợt. Nhưng nàng vẫn không ưng ý một người
nào.

159
28). Xác định phép liên kết, quan hệ ý nghĩa giữa các câu:
1). Nhìn chung, tiếng Việt hiện nay có khả năng đầy đủ để diễn tả đời sống tư
tưởng và tình cảm đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam; có khả năng to lớn truyền đạt các tri
thức văn hoá, khoa học kỹ thuật; có khả năng dịch các tiếng nước ngoài sang tiếng
Việt. Bởi vậy, tiếng Việt ngày nay có địa vị ngang hàng với các ngôn ngữ phát triển
trên thế giới. (Nguyễn Hữu Quỳnh 1994).
2). Hắn (tức Chí Phèo - NKT) lắc đầu: - Không được ! Ai cho tao lương thiện ?
Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là
người lương thiện được nữa. Biết không ? (Nam Cao).
3). Cô gái bị giật dây chuyền. Tên cướp đã chạy thoát. (Nguyễn Đức Dân 1997).
29). Xác định phép liên kết trong các đoạn văn dưới đây (gạch dấu x vào a
hoặc b, v.v...):
1). Dẫu sao thì tôi vẫn mắc nợ anh ấy một chút lòng tử tế. Gặp lúc cần đến tôi,
tôi phải lấy sự tử tế mà đối lại. Không lẽ tôi ghẻ lạnh ? Tôi đành xếp tập giấy đang viết
dở lại, đi theo anh ấy vậy... (Nam Cao).
a). phép lặp c). phép đối đ). cả a và c đều đúng.
b). phép thế d). phép đối tuyến tính
2). Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì
không có ai dẫn đường. (Hồ Chí Minh).
a). lặp từ ngữ b). lặp cú pháp
3). Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt. (Hồ Chí Minh).
a). lặp từ ngữ b). lặp cú pháp
30). Chọn câu trả lời đúng nhất về phương thức liên kết của các câu sau:
1). Một sự thực cần thừa nhận là: Virus máy tính đang tồn tại và đang phá hoại.
Nhưng chúng hoàn toàn có thể bị ngăn chặn và tiêu diệt vì chúng hoàn toàn là những
chương trình máy tính do con người lập ra.
a). thế đại từ c). nối kết từ
b). thế đồng nghĩa d). đối trái nghĩa
2). Nước đang quý hơn vàng. Nông dân Tây Nguyên nói: “Chưa chắc có vàng
đã mua được nước đâu”.
a). lặp từ ngữ c). thế đại từ
b). nối tuyến tính d). lặp cấu trúc

160
3). Trong vũ trụ mênh mông có rất nhiều thiên thạch. Chúng bay vơ vẩn khắp
nơi trong thiên hà.
a). thế đại từ c). thế đồng nghĩa
b). nối tuyến tính d). liên tưởng đồng loại
4). Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
a). lặp cấu trúc c). đối trái nghĩa
b). nối tuyến tính d). liên tưởng đồng loại
5). Cách phòng chống virus tốt nhất là chủ động diệt chúng. Cũng như trên
chiến trường, càng hiểu biết về kẻ thù bao nhiêu thì càng dễ tiêu diệt chúng bấy nhiêu.
a). thế đại từ c) nối liên ngữ
b). nối tuyến tính d). lặp từ ngữ
6). Hiện nay các nhà khoa học đã nghĩ tới giải pháp để chống lại thảm họa do
thiên thạch rơi vào trái đất. Giải pháp đơn giản được nhiều người nghĩ tới là bắn hạ
thiên thạch này.
a). lặp cấu trúc c). nối tuyến tính
b). lặp từ ngữ d). thế đồng nghĩa
7). Nguyễn Du căm ghét sự “đổi trắng thay đen” của đồng tiền. Tác giả Truyện
Kiều lên án cả một xã hội phong kiến thối nát chạy theo ma lực của đồng tiền.
a). thế đại từ c). thế đồng nghĩa
b). lặp từ ngữ d). liên tưởng đồng loại
8). Trong hầm tối đen như mực. Ngoài trời địch bắn pháo sáng rực.
a). lặp từ ngữ c). nối tuyến tính
b). phép đối d). liên tưởng đồng loại
9). Hay nói ầm ĩ là con vịt bầu
Hay sủa gâu gâu là con chó vện...
a). phép đối c). nối tuyến tính đ). không liên kết
b). lặp cấu trúc d). liên tưởng đồng loại
10). Cái quạt cây này rất tốt. Cánh nó quay êm và lượng gió rất nhiều.
a). phép đối c). liên tưởng bộ phận
b). nối tuyến tính d). liên tưởng đồng loại

161
31). Xác định phép liên tưởng trong các câu dưới đây:
1). Cánh cửa mở toang ra. Cùng với khí lạnh của đêm mùa xuân trên núi cao,
bỗng toả vào nhà một thứ hương hoa tím nhạt. (Nguyên Ngọc).
2). Ban đầu, lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men, cái gì cũng thiếu thốn.
Bộ đội thường phải nhịn đói, nhưng vẫn hăng hái tươi cười. (Hồ Chí Minh).
3). Bộ đội xung phong. Du kích nhào theo. (Nguyễn Thi).
4). Mưa vẫn ồ ạt như vỡ đập. ánh chớp loé lên soi rõ khuôn mặt anh trong một
giây. (Nguyễn Kiên).
5). Hai đứa trẻ cũng có bộ mặt giống như mẹ. Cả ba mẹ con không ai cười.
(Trần Mai Nam).
32). Xác định phép liên kết giữa các câu dưới đây:
1). Điền rất yêu trăng. Cái ấy cũng là thường, bởi óc Điền đẫm thơ văn. (Nam
Cao).
2). Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú mà ông đã cần cù tích
luỹ (...). Vốn từ vựng ấy, trước Cách mạng tháng Tám, ông thường dùng để chơi
ngông với đời. (Nguyễn Đăng Mạnh).
3). Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên thành đồng Tổ quốc
! Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre. (Thép Mới).
33). Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các câu dưới đây (gạch dấu x vào a hoặc
b, c, v.v...):
1). Trong tất cả các tiểu thuyết Đông Tây có hai quyển mà tôi mê nhất là Tam
quốc và Đông Chu liệt quốc. Về cái môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất. (Nam Cao).
a). suy luận b). khai triển c). khái quát d). kết quả
2). Trên mặt trận đấu tranh, hơn bao giờ hết, Đảng xem trọng tác dụng tích cực
của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng nước nhà. Đảng luôn luôn cổ lệ mọi khả năng
đóng góp của văn nghệ vào công cuộc xây dựng miền Bắc. (Đặng Thai Mai, tlđd, tr.
31).
a). song hành b). suy luận c). tương đồng d). khai triển
3). Muốn dựng đoạn văn theo kiểu diễn dịch, ta đặt câu chủ đề ở đầu đoạn và
tiếp sau đó là những câu triển khai cụ thể ý của câu chủ đề như giải thích, chứng minh
và phân tích. Đoạn diễn dịch là kiểu đoạn phổ biến nhất trong văn bản khoa học. (Đỗ
Hữu Châu và... 1995, 44).

162
a). suy luận c). song hành đ). định nghĩa
b). khai triển d). tương đồng e). khái quát
4). Thi đua là yêu nước. Yêu nước phải thi đua.
a). tương phản c). khai triển đ). song hành
b). tương đồng d). suy luận e). nguyên nhân
5). Muốn thực hiện thống nhất nước nhà, nhiệm vụ của toàn dân miền Bắc là phải xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên con đường kiến thiết, còn chồng chất ngổn ngang
bao nhiêu khó khăn, chướng ngại. (Đặng Thai Mai, tlđd, tr. 31).
a). tương phản c). khai triển đ). song hành
b). tương đồng d). nguyên nhân e). suy luận
6). Muốn dựng đoạn văn không có câu chủ đề, ta lần lượt viết các câu nêu rõ các thuộc
tính khác nhau của cùng một đối tượng hoặc các đối tượng đồng loại có mối quan hệ
với nhau. Điều đặc biệt cần lưu ý là người viết cần biết sắp xếp thứ tự các câu theo
một trình tự hợp lý, trên cơ sở một tiêu chuẩn nào đấy... (Đỗ Hứu Châu và... 1995, 45).
a). nguyên nhân d). kết quả ê). khai triển
b). suy luận đ). tương phản g). song hành
c). định nghĩa e). tương đồng
7). Đứng một ngày đất lạ hoá thành quen
Đứng một đời em đất quen thành lạ.
(Vũ Quần Phương)
a). tương phản b). tương đồng c). song hành d). khai triển
8). Mỗi ngành khoa học nhằm góp phần khám phá, phát hiện ra bản chất, các
quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên hoặc xã hội. Ví dụ, ngành hoá học là môn
khoa học tự nhiên nghiên cứu các chất và sự chuyển hoá của chúng. Để hoàn thành
được nhiệm vụ của mình, ngành hoá học phải xây dựng cho mình một hệ thống khái
niệm riêng như: chất, nguyên tử, phân tử, nguyên tố, phản ứng... (Đỗ Hữu Châu và...
1995).
a). bằng chứng b). dẫn chứng c). ví dụ d). khai triển
9). Lớp thanh niên trí thức cách mạng đầu thế kỷ có thể tự hào với tinh thần, với
hành động của họ. Lời nói của họ là lời của những con người bất khuất trước uy võ
của quân thù, là lời của những người tin tưởng vào tiền đồ của Tổ quốc, vào thắng lợi
cuối cùng của chính nghĩa... (Đặng Thai Mai, tlđd, tr.570).

163
a). song hành d). kết quả ê). định nghĩa
b). khai triển đ). nguyên nhân g). dẫn chứng
c). khái quát e). suy luận
10). Toàn bộ văn bản phải tập trung làm nổi rõ một chủ đề thống nhất. Các ý
được dắt dẫn hợp lý, khiến người đọc có cảm tưởng mình bị lôi cuốn thật sự vào mạch
văn của tác giả. (Đỗ Hữu Châu và... 1995, 7).
a). suy luận d). song hành ê). kết quả
b). khai triển đ). nguyên nhân g). tương đồng
c). định nghĩa e). dẫn chứng
11). Chú chuồn chuồn mới đẹp làm sao ! Màu vàng trên lưng chú lấp lánh. Bốn
cái cánh mỏng như giấy bóng. (Nguyễn Thế Hội).
a). khai triển c). song hành đ). dẫn chứng
b). tương đồng d). kết quả e). bằng chứng

164
34). Cho biết sự khác nhau trong liên kết câu giữa các đoạn văn:
1). Màu trắng sữa liếm dần bóng tối của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng
trên mặt biển, ùn ùn đâu đến - dân chài bảo từ Thuỷ phủ đùn lên - một đám sương mù
dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. (Bùi Hiển).
2). Còng số tám USA cái nào cũng hệt như nhau. Nhưng hai bàn tay thuộc hai
thế hệ khác nhau.
3). Bọn địch luôn luôn bi quan. Còn chúng ta không chán nản bao giờ.
4). Nó cười rúc rích, rồi trở mình một cái, ngáy khò khò luôn. Ông Sần không
ngủ, nằm cân nhắc một lúc nữa. (Phan Tứ).
35). Xác định phép liên tưởng dùng để liên kết câu dưới đây:
1). Tôi nhìn vào phòng. Trần rất cao. (Nguyễn Đức Dân 1997).
2). Mặt biển mở rộng dần và nối liền lại. Sóng gợn man mác, cái màu trắng
buồn tẻ bao quanh càng man mác hơn.
3). Đồng nước tràn ngập tiếng sóng vỗ rì rào xao động. Gió vi vu thổi ngang
qua xuồng. (Đinh Quang Nhã).
4). Họ tưởng Soan ngủ, càng trêu tợn. Nhưng Soan không ngủ, nước mắt chảy
ướt cả chiếu. (Tô Hoài).
36). Cho biết sự khác nhau trong liên kết bằng phép nối giữa các câu của các
đoạn văn dưới đây:
1). Không có ngôn ngữ mẹ đẻ, con người sẽ mất mối liên hệ phong phú, đa
dạng, sâu sắc với mọi người ruột thịt, với người chung quanh, sẽ mất mối quan hệ tích
cực với lịch sử. Bởi vậy, tình cảm tự nhiên của con người - nếu người đó còn tự trọng
dân tộc - là yêu quý tiếng dân tộc của mình, thấy nó hay, nó đẹp, và gìn giữ nó như gìn
giữ một vật quý, vật thiêng. (Bùi Khánh Thế 1992, 107).
2). Tôi rất ngạc nhiên thấy Dế Trũi đứng sừng sững trên đài sắp đấu với anh Bọ
Muỗm. Thì ra chú Trũi nhà tôi bấy lâu nay vẫn còn căm giận Bọ Muỗm. (Tô Hoài).
3). Ông Tham thấy cậu làm đùng đùng sôi nổi, biết là cậu giận lắm, nên cứ ngồi
yên như phỗng. Bà Tham thì lạy van hoài. Nhưng vẫn không ăn thua gì... (Nguyễn
Công Hoan).

165
37). Gạch chân từ, ngữ làm phương tiện liên kết. Cho biết tên gọi phép liên
kết, quan hệ ý nghĩa giữa các câu:
1). Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. (Nam
Cao).
2). Rõ ràng là bằng mắt phải, anh vẫn thấy hiện lên một cánh chim én chao đi
chao lại. Mùa xuân đã đến rồi. (Nguyễn Trung Thành).
3). Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông. (Nguyễn Quang Sáng).
4). Phụ nữ lại càng cần phải học. Đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam
giới. (Hồ Chí Minh).
5). Một quả bom nữa lại hất Viễn ngã xuống. Viễn lại đứng dậy. (Trần Ngọc
Thêm 1985).
38). Gạch dấu x vào a hoặc b, c, v.v... để xác định phép liên kết và quan hệ ý
nghĩa giữa các câu dưới đây:
1). Cái áo này may xấu. Cổ nó bị trễ.
a). liên tưởng bộ phận - tổng thể
b). liên tưởng tổng thể - bộ phận
2). Tài sản quý nhất của đất nước là con người. Cái quý nhất của con người là
trí tuệ. (Trong một đề thi môn Tiếng Việt thực hành).
a). lặp cấu trúc c). cả a và b đều đúng
b). lặp từ ngữ
3). Người anh thật siêng năng. Nhưng người em thì lười biếng. (đề thi).
a). đối trái nghĩa c). nối kết từ
b). tương phản d). cả a, b và c đều đúng
4). Mỗi chữ là một con mắt. Người không có chữ là người mù giữa thế gian. (đề thi).
a). đối phủ định c). đối trái nghĩa đ). cả a, c và d
b). tương phản d). lặp từ ngữ đều đúng
5). Có 4 yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia. Đó là tài nguyên thiên
nhiên, nguồn vốn, công nghệ và chất xám. (đề thi).
a). liên tưởng bộ phận - tổng thể b). liên tưởng tổng thể - bộ phận
6). Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang liên tiếp mọc lên ở Hà Nội, Hải Phòng, ở
Đồng Nai, Sông Bé, TP.Hồ Chí Minh. Cả nước ta đang bước vào giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

166
a). liên tưởng tổng thể - bộ phận b). liên tưởng bộ phận - tổng thể
7). Mùa xuân phượng ra lá. Lá phượng xanh như lá me non. (đề thi).
a). liên tưởng đồng loại b). lặp từ ngữ c). khai triển
8). Hơn mười ngày nay chỉ có mưa, không mưa thì trời cũng xám xịt thế kia, mà trâu
thì chơi, đợi nắng lên xếp ải được thì mạ quá lứa. Lịch cấy thì lại gấp rút quá lắm rồi,
chỉ từ nay đến hai mươi tám tháng Chạp ta phải cấy xong. Đấy tình hình như thế, liệu
cứ khư khư với kế hoạch cũ không ? (Vũ Thị Thường).
a). thế đồng nghĩa từ điển b). thế đồng nghĩa lâm thời c). thế đại từ
9). Bên trái là đỉnh Ba Vì vời vợi. Bên phải là dãy Tam Đảo như bức tường đá sừng
sững.
a). liên tưởng bộ phận - tổng thể
b). liên tưởng đồng loại
c). đối trái nghĩa
d). song hành

167
10). Một hồi còi khàn khàn vang lên. Tiếp theo là những tiếng bước chân bình bịch,
những tiếng guốc khua rộn rã: phu nhà máy rượu bia chạy vào làm. (Nam Cao).
a). nối kết ngữ b). nối kết từ c). cả a và b đều đúng

39). Phân loại cách liên kết câu theo phép lặp; gạch chân các từ, ngữ làm phương
tiện liên kết các câu trong mỗi đoạn văn:
1). Trong các nền kinh tế được quản lý tốt, Chính phủ thường phải giải quyết sự mất
cân đối bằng biện pháp điều chỉnh chính sách. Trong các nền kinh tế được quản lý
kém, Chính phủ thường vung tiền ra để bù đắp vào sự mất cân đối. (Hà Thúc Hoan
1997).
2). Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Nhà thơ đã có lần ca ngợi: Bóng tre
trùm mát rượi. (Thép Mới).
3). Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn. Nhưng lực
lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi. (Hồ Chí Minh).
4). Trung ương Đảng đã nhất trí về đường lối, chính sách, chủ trương, biện pháp.
Chúng ta phải biến sự nhất trí ấy thành quyết tâm. (Hồ Chí Minh).
41). Tìm hiểu cách lập luận, xác định phép liên kết và quan hệ ý nghĩa giữa
các câu dưới đây:
1). Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay
thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng
đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. (Hồ Chí Minh).
2). Để ghi tiếng Việt, chữ Nôm ra đời, và thơ văn “quốc âm” “quốc ngữ” bắt đầu
xuất hiện trong thời gian từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ XV. Đáng chú ý hơn cả là
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, một thành công lớn đầu tiên trong nền văn học
viết bằng tiếng Việt. (Hà Thúc Hoan 1997).
42). Gạch chân các từ ngữ làm phương tiện liên kết xác định phép liên kết
trong các câu dưới đây:
1). Tin chiến thắng của quân bạn làm cho anh em nức lòng phấn khởi. Cái hào
hứng của những người đã góp cả sinh mệnh vào chiến thắng. (Vũ Tuấn Nhã).
2). Người Pháp đổ máu đã nhiều. Dân ta hy sinh cũng không ít. (Hồ Chí Minh).
3). Ông lão há miệng ra như bị bọ cạp chích. Ông biết thừa là bọn chúng chẳng
lạ gì gia đình ông, nhưng ông vẫn cứ phải ngạc nhiên như vậy. (Nguyễn Đình Thi).

168
4). Một số phường săn đến thăm dò để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con
ác thú tinh lắm, đặt mồi to và ngon đến đâu cũng không lừa nổi nó. (Truyện cổ tích).
43). Xác định từ, ngữ làm phương tiện liên kết, tên gọi phép liên kết và quan
hệ ý nghĩa giữa các câu:
1). Con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập
phố phường. (Nam Cao).
2). Về mặt ngữ âm, tiếng Việt thời ấy có nhiều biến đổi trong hệ thống âm đầu
và âm cuối, hệ thống thanh điệu xuất hiện. Về mặt từ vựng, tiếng Việt càng giàu có
hơn nhờ tiếp nhận và Việt hoá một bộ phận khá lớn từ gốc Hán. (Hà Thúc Hoan 1997,
114).
3). Dần đi ở. Nó ở cho nhà bà chánh Liễu. Nhà bà chánh dệt chín mười khung
cửi. Bà thuê Dần, với hai con bé nữa, để chúng dọn vặt và trông nom ông suốt. Năm
đầu, ông cả năm có một đồng, với một cái áo cánh vải to, một cái quần sồng, một cái
thắt lưng. Nhưng nếu chịu khó thì bà sẽ cho hơn... (Nam Cao).
4). Anh lại tiếp tục viết. Chiều nay anh phải nộp báo cáo này rồi. (Nguyễn Đức
Dân 1997, 197).
5). Cùng một động từ “đi” mà ta có thể dùng cho số ít, số nhiều, cho quá khứ,
hiện tại hoặc tương lai. Từ tiếng Việt không biến đổi hình thái. (Hà Thúc Hoan 1997,
115).
6). Khẩu súng là vũ khí có thể giết người. Trái tim là khái niệm gợi lên những
tình cảm tốt đẹp. (Lưu Quý Kỳ).
7). Hôm qua tôi gặp hai sinh viên đi pichnich. Cô gái kể với tôi nhiều chuyện
mắc cười. (Nguyễn Đức Dân 1997, 205).
44). Gạch chân các từ, ngữ, kết cấu làm phương tiện liên kết, cho biết tên gọi
phép liên kết và quan hệ ý nghĩa trong các câu dưới đây:
1). Trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Trước sập và hai bên bày bàn ghế. (Lê
Hữu Trác).
2). Sự tinh tế về ngữ nghĩa trong tiếng Việt có những biểu hiện khác nhau. Một
trong những biểu hiện đó là tính hàm súc. (Hà Thúc Hoan 1997).
3). ấm nước reo rồi ấm nước sôi sùng sục. Bà đồ dập bớt lửa rồi chạy ra sân.
(Nam Cao).
4). Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười. (Nam Cao).

169
5). Buổi sáng, bé dậy sớm ngồi học bài. Dậy sớm học bài là một thói quen tốt.
Nhưng phải cố gắng lắm mới có được thói quen ấy. Rét ghê. Thế mà bé vùng dậy, chui
ra được khỏi cái chăn ấm. Bé ngồi học bài.
c. nhóm bài tập về ngôn ngữ trong văn bản
45). Sửa lại câu sai.
a). Cô ấy tuy xấu, mặt rỗ, mắt hiếng, mũi tẹt, dáng đi thô kệch.
b). Lòng biết ơn của tác giả với bà mẹ nuôi xưa. (Nguyễn Đức Dân 1997).
c). Tuy chị út Tịch thương yêu chồng con, đồng bào, đồng chí rất sâu sắc,
nhưng chị rất căm thù bọn giặc cướp nước và bán nước. (Nguyễn Minh Thuyết và...
1996).
d). Bác đã nêu tấm gương vĩ đại với tinh thần “Trung với nước, hiếu với dân”.
(Nguyễn Đức Dân 1997).
đ). Đó là những thành quả nổi bật nhất của cuộc “cách mạng xanh” không
những ở Mêhicô mà nhất là ở ấn Độ, Pakixtan.
46). Những câu dưới đây bị coi là sai vì: (gạch dấu x vào a hoặc b, c, v.v...):
1). Bằng tất cả tinh thần và nghị lực, sức mạnh và của cải làm cho quân thù phải cuốn
gói.
a). thiếu vị ngữ b). thiếu chủ ngữ c).thiếu chủ ngữ và vị ngữ

2). Tôi gặp một “công tử” Bùi Văn N, 30 tuổi, con một gia đình giàu có ở thị xã Cao
Lãnh, đang trong trại cải tạo lao động. (Nguyễn Đức Dân 1997, 49).
a). thừa dấu ngoặc kép b). thừa từ “một” c). cả a và b đều đúng

3). Với bài “Anh chủ nhiệm” của nhà thơ Hoàng Trung Thông đã toát lên hình ảnh con
người mới.
a). thiếu vị ngữ b). thiếu chủ ngữ c). thừa “với”

4). Quân đội ta từ khi còn là những toán quân du kích chiến đấu trên địa thế hiểm trở
của rừng núi. (Hà Thúc Hoan 1997, 74).
a). thiếu vị ngữ b). thiếu chủ ngữ c). mới có trạng ngữ

170
47). Gạch dấu x vào a hoặc b, c để xác định lỗi trong câu:
1). Họ úp cái nón lên mặt, nằm xuống ngủ một giấc cho đến chiều. (Nguyễn Đức Dân
1997).
a). sai lôgích b). sai quy chiếu c). cả a và b đều đúng
2). Chú tôi bị thương hai lần, một lần ở đùi, một lần ở Khe Sanh. (nt, 44).
a). sai quy chiếu b). sai lôgích c). cả a và b đều đúng
3). Bước vào phòng họp mà không chào hỏi ai, các khách mời sẽ nghĩ rằng anh xem
thường mọi người. (Hà Thúc Hoan 1997, 85).
a). sai vì thiếu chủ ngữ b). sai vì lẫn lộn chủ ngữ c). cả a và b đều đúng
4). Công dân, tổ chức có quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm
thông qua Nhà xuất bản. (Điều 5, Luật Xuất bản).
a). sai lôgích b). không chặt chẽ
5). Thần đêm thả tấm màn đen trùm lên mọi vật, chỉ còn nàng trăng mười sáu vằng vặc
giữa trời. (Hà Thúc Hoan 1997, 87).
a). sai lôgích b). sai quy chiếu
48). Gạch dấu x vào a hoặc b, c, v.v... để xác định lỗi trong các câu:
1). Qua Minh Mệnh, ông vua thịnh nhất của triều Nguyễn giúp chúng ta đánh giá
khách quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. (Tri thức trẻ, số 17, tr. 51).
a). sai vì thiếu chủ ngữ c). sai vì thiếu chủ ngữ, vị ngữ
d). sai vì thừa từ “giúp” b). sai vì thiếu vị ngữ
đ). cả c và d đều đúng
2). Là học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa và dưới chế độ tốt đẹp.
a). sai vì thiếu chủ ngữ c). sai vì thiếu vị ngữ
b). sai vì thiếu chủ ngữ và vị ngữ
49). Tìm chỗ sai và sửa lại:
a). Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm cho mỗi người chúng ta có
một tinh thần tự giác.
b). Qua tác phẩm đã nói lên sức mạnh của nhân dân Việt Nam trong cuộc
Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
c). Trong thời gian bị bệnh nằm ở nhà, bạn tôi thường xuyên đến thăm tôi.
d). Qua lời dạy của Bác đã khẳng định cho thanh niên, rường cột của nước nhà,
trách nhiệm đối với đất nước.

171
đ). Bạn Nam trong học tập với tất cả nhiệt tình và tinh thần tự giác của mình.
e). Vừa vào đến cổng nhà, cháu bé đã mừng rỡ chạy ra đón tôi.
ê). Bằng hình tượng Từ Hải đã nói lên phong trào nông dân khởi nghĩa.
g). Muốn chiến thắng đòi hỏi ta phải chủ động tiến công.
h). Qua hoạt động thực tiễn đã cho ta những kinh nghiệm quý báu.
i). Được tham quan danh lam thắng cảnh làm cho chúng ta thêm yêu quê hương
đất nước.
k). Với những hình ảnh sinh động ấy đã có tác dụng quyết định giá trị nghệ
thuật của bài thơ.
50). Câu dưới đây sai vì: (gạch dấu x vào a hoặc b, c, d)
1). Ngoài sự áp bức của vua chúa, nạn đói khổ, phu phen tạp dịch đè nặng lên đầu
nông dân, ca dao trào phúng còn làm nhiệm vụ phản phong mãnh liệt. (Nguyễn Minh
Thuyết và... 1997, 187).
a). thiếu vị ngữ b). thiếu chủ ngữ c). lẫn lộn chủ ngữ d). sai quy chiếu
2). Cách đây 3 năm, đứa con trai độc nhất của chị lại lên học trường cấp 3 ở huyện,
còn lại một người mẹ ở 3 gian nhà gạch trống trải hiu quạnh. (Nguyễn Đức Dân 1997).
a). sai lôgích b). sai quy chiếu c). không rõ ràng về quy chiếu
3). Tất cả các loại xà phòng đều làm khô da của bạn. Riêng LUX làm cho da của bạn
trắng trẻo mịn màng.
a). sai lôgích b). sai quy chiếu
4). Tay nó cầm cuốn sách, bước vội ra sân.
a). dư thừa b). sai quy chiếu
b). sai lôgích c). cả a và b đều đúng
5). Nguyễn Thành Luỹ 19 tuổi, là tên trộm trẻ nhất trong bọn. Từ năm 1975 đến nay,
Luỹ chỉ thực sự ở ngoài đời có 6 tháng.
a). sai lôgích b). sai quy chiếu
51). Gạch dấu x vào a hoặc b, c để xác định lỗi sai trong các câu dưới đây:
1). Em tôi nó chẳng nói gì với tôi.
a). sai vì thiếu vị ngữ b). sai vì thừa chủ ngữ
2). Nếu không chăm sóc kịp thời, lúa sẽ giảm năng suất.
a). sai quy chiếu b). sai phong cách c). sai lôgích
3). Viện cớ bạn đã đau khổ nhiều để giấu khuyết điểm của bạn là không thương bạn.
a). thiếu dấu phẩy sau “của bạn” b). thiếu chủ ngữ c). thừa chủ ngữ

172
4). Ngày nay, khi khoa học và kỹ thuật đã phát triển.
a). sai vì thiếu chủ ngữ b). sai vì thiếu chủ ngữ và vị ngữ c). sai vì thiếu vị ngữ

52). Mỗi câu dưới đây có mấy cách hiểu, vì sao?


1). Hai người mua ba cuốn sách.
2). Ba có thể đi được không anh ?
3). Thời gian học đại học tôi mới dám viết thư về xin chị lấy chồng.
4). Hai giờ chiều nay nó phải có mặt ở Đà Lạt rồi.
5). Những em bé đang múa hát rất hay.
6). Chúng tôi chỉ trích lược ý của tác giả bài báo.
7). Tôi đã gửi cho nó cuốn sách.
8). Máy nổ tắt đột ngột.
9). Đã nhiều lần tôi thấy người ta kính phục người chính trực như vậy.
10). Thức đêm nhiều người sọm đi trông thấy.
11). Cảm nghĩ nhân chuyến đi thăm Đông Nam á của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng.
12). Các tổ trưởng nộp ngay các tài liệu đã phát trong ngày hôm nay.
13). Các đồng chí mải mê nghe Hảo nói quên cả giờ nghĩ.
14). Ba nhìn nó trong gương.
15). Chuyến tàu chở ô tô mới chữa xong.
16). Khốn nạn thân nó, đêm nay nó ở bên ấy, ngoài một con chó cái và bốn
con, không còn ai là bạn quen.
17). Ba sẽ ca vọng cổ hoặc Năm ngâm thơ và Sáu hát.
18). Hắn không uống và gắp liên tiếp.
19). Anh Ba không đến như Năm đã nói.
20). Ba tặng thầy giáo chủ nhiệm lớp 7 quyển sách mới mua hôm qua.
21). Anh cho phép em đi với chị Hà nhé !
53). Phân tích nguyên nhân gây sai hoặc mơ hồ:
a). Chúng tôi tham dự hội nghị thượng đỉnh các nước sử dụng tiếng Pháp tại Hà
Nội. (Nguyễn Minh Thuyết và... 1996).
b). Trả lời phỏng vấn của Thủ tướng Võ văn Kiệt nhân chuyến thăm Đông Nam
á. (Tên một bài báo).

173
c). Sau 15 ngày gây án, công an bắt được Trần Châu.
d). Ănggôla thực hiện chính sách không liên kết và hợp tác với các nước xã hội
chủ nghĩa. (Báo Quân đội Nhân dân).
đ). Mới vào bộ đội, chúng ta thường nghe cán bộ phổ biến: chiến sĩ trai phải cắt
tóc ngắn; chiến sĩ gái thì cuộn, tết tóc lên cao, râu phải cạo nhẵn.
54). Phân loại nguyên nhân gây mơ hồ trong các câu dưới đây:
a). Con có ăn chiếc bánh mẹ mua sáng nay không ?
b). Tôi không còn nhớ cha tôi lắm.
c). Cô ta phải lấy một tên khác, tên Phrăngxoa.
d). Bruno học với các cha cố.
đ). Nó về thì em cũng về.
e). Thầy giáo sắp sửa chữa lỗi ngữ pháp.
ê). Anh ấy có người bạn học rất tốt.
g). Như hiểu ra sự bận tâm về chỗ ngủ của tôi.
h). Cái nhà và cái sân rộng.
i). Anh khuyên hay tôi khuyên thì nó đi.
k). Năm không làm điều đó như Sáu đã dự đoán.
l). Chị em đến rồi chứ ?
m). Trong bức tranh này Mai lớn hơn Thuỷ.
55). Xác định lỗi của các câu sau đây và sửa lại:
1). Qua triển lãm “Cả thế giới đang khát” làm chúng ta có ý thức hơn về việc sử dụng
nước.
a). thiếu chủ ngữ b). sai về lôgích c). sai về kết hợp từ
2).Hình ảnh những cô gái “Ngã ba Đồng Lộc” sửa đường dưới mưa bom.
a). thiếu chủ ngữ b). thiếu vị ngữ c). thiếu từ “của”
3). Bằng hai câu thơ của Nguyễn Du đã vẽ nên cảnh đẹp của mùa xuân.
a). thiếu chủ ngữ c). thừa từ “của” (mùa xuân)
b). thiếu vị ngữ d). thừa từ “của” Nguyễn Du
4). Những nữ sinh mặc áo dài trắng.
a). câu đúng b). thiếu vị ngữ c). thừa từ “những”
5). Đây là Milu, một chó Nhật được cả nhà yêu mến.
a). câu đúng b). sai về dấu câu c). thừa “Đây là”

174
6). Muốn đạt kế hoạch nhà nước đòi hỏi Tổng công ty dệt - may phải phấn đấu nhiều
trong quý IV năm nay.
a). thiếu chủ ngữ c). thiếu dấu câu
d). thừa “đòi hỏi” b). thiếu vị ngữ
7). Một người bạn cho tôi chai rượu ngoại. Là người lao động, chai rượu đó tương
đương 1/3 tháng lương của anh.
a). sai về lôgích b). thiếu chủ ngữ
c). sai về quy chiếu d). sai về dùng từ
8). Trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã thể hiện nhiều
tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước.
a). thiếu chủ ngữ b). thiếu vị ngữ c). sai về kết hợp từ.
9). Những người xem thật cảm động khi hai người chia tay nhau.
a). sai về lôgích b). thừa “những” c). sai về kết hợp từ
10). Truyện “Vợ chồng A Phủ” do em đọc năm cuối của phổ thông trung học là một tác
phẩm rất hay của Tô Hoài.
a). thừa “của Tô Hoài” b). sai về quy chiếu c). sai về cách dùng từ.
56). Cách viết nào đúng (từ 1 đến 4), có khác nhau không (từ 5 đến 9)?
1a). Cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
1b). Cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2a). Ra sức phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp.
2b). Ra sức phát triển các ngành tiểu thủ, công nghiệp.
3a). Nghiên cứu tâm sinh lý của trẻ là điều cần thiết.
3b). Nghiên cứu tâm, sinh lý của trẻ là điều cần thiết
4a). Vùng này có nhiều danh lam thắng cảnh.
4b). Vùng này có nhiều danh lam, thắng cảnh.
5a). Trong bữa tiệc, hắn cấm tôi uống và gắp liên tiếp.
5b). Trong bữa tiệc, hắn cấm tôi uống, và gắp liên tiếp.
6a). Ông ấy nói với tôi cấm trẻ hút thuốc và uống rượu.
6b). Ông ấy nói với tôi cấm trẻ hút thuốc, và uống rượu.
7a). Chúng tôi được mời ăn khoai tây chiên với bơ, và bánh mì.
7b). Chúng tôi được mời ăn khoai tây chiên với bơ và bánh mì.
8a). Đừng chờ anh !

175
8b). Đừng, chờ anh !
9a). Bộ đội đánh đồn giặc chết như rạ.
9b). Bộ đội đánh đồn, giặc chết như rạ.
57). Tại sao phải dùng dấu ngoặc kép trong các trường hợp dưới đây:
a). Ông mất năm nao ngày độc lập
Buồm cao đỏ sóng bóng cờ sao
Bà “về ” năm đói, làng treo lưới
Biển động! Hòn Mê, giặc bắn vào. (Tố Hữu - Mẹ Tơm).
b). Hoa nói “cô ấy là người bất hạnh”.
c). [Lời kể của một cô gái bán ở quán bia ôm]: Mâu thuẫn của chúng tôi
ngày càng gay gắt vì tôi quan hệ rộng rãi do “nghề nghiệp” !
d). Thanh bảo với tôi “nó là người may mắn”.
đ). “Ván bài lật ngửa” là một phim hay.
58). Mỗi câu dưới đây có mấy cách hiểu, vì sao ? Hãy dùng dấu phẩy đặt ở
các vị trí khác nhau để tạo những nghĩa khác nhau:
a). Đâu cần thanh niên có !

b). Tôi có người bạn học ở Đà Lạt

c). Uống thuốc này không được uống thuốc khác.

d). Chị đến gần tôi hỏi.

đ). Khi uống bia không được cho đường.

59). Giải thích cách dùng dấu chấm phẩy trong đoạn văn dưới đây:

Văn hoá, văn minh, văn hiến, văn vật là những khái niệm gần gũi nhưng không
đồng nhất. Văn hoá khác văn minh về: a). tính giá trị (văn hoá là một khái niệm bao
trùm, chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần; còn văn minh thiên về các giá trị vật
chất - kỹ thuật); b). tính lịch sử (văn hoá luôn luôn có bề dày quá khứ; còn văn minh
chỉ là lát cắt đồng đại, chỉ cho biết trình độ phát triển của văn hóa , luôn luôn là một
đặc trưng của một thời đại; một dân tộc có trình độ văn minh cao vẫn có thể có một
nền văn hóa rất nghèo nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền
văn hoá phong phú); c). phạm vi (văn hoá mang tính dân tộc vì có giá trị tinh thần và
tính lịch sử; còn văn minh chỉ có tính quốc tế); d). nguồn gốc (văn hoá gắn liền hơn
với phương Đông nông nghiệp; còn văn minh gắn nhiều hơn với phương Tây đô thị).

176
Như vậy, văn minh (văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm có nguồn gốc từ
phương Tây đô thị, chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện vật
chất và mang tính quốc tế. (Theo Trần Ngọc Thêm 1997, 21 - 29).
60). Tìm lỗi dùng từ trong các câu dưới đây:
a). Từ đồng bằng hoang dã đã mọc lên những xóm làng mới.
b). Chúng dùng văn học để ám muội chúng ta.
c). Tư sản đã ăn uống biết bao mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta.
d). Biền thả niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.
đ). Em sẵn sàng khuất phục khó khăn.
e). Mỗi thầy giáo đã gieo vào lòng học sinh những vùng hứng thú.
61). Chọn từ đúng và thích hợp với mỗi ý bằng cách gạch dấu x vào a hoặc b,
c, d:
1). Giỏi nghề, lành nghề:
a). thiện chiến b).thiện nghệ c). thiện xạ
2). ý định tốt, muốn đi đến kết quả tốt:
a). thiện ý c). thiện tâm
b). thiện chí d). thiện cảm
3). Có tình cảm ưa thích đối với ai:
a). thiện tâm c). thiện căn
b). thiện cảm d). thiện chí
4). Người đàn bà được phong phẩm tước do chồng là vương hầu hoặc làm quan
to thời phong kiến:
a). chinh phu c). quả phụ
b). mệnh phụ d). sản phụ
5). Gánh vác một công việc gì đó:
a). chính phụ c). phụ trách
b). đảm phụ d). phụ trợ
6). Chế độ gia đình thời thị tộc nguyên thuỷ, trong đó quyền thừa kế của cải và
tên họ thuộc dòng của người cha:
a). phụ hệ b). phụ mẫu c). phụ tử
7). Giúp học sinh hiểu thêm bài, ngoài giờ lên lớp:
a). phụ giảng b). phụ trợ c). phụ đạo

177
8). Người ngoài biên chế của một cơ quan, làm những việc nhất thời:
a). phụ cận b). phụ bạc c). phụ động
9). Giúp thêm vào cái chính:
a). phụ hoạ b). phụ phí c). phụ trợ
10). Tài liệu in kèm thêm của một tờ báo hoặc tạp chí:
a). phụ trương b). phụ bản c). phụ chú
62). Tìm những kết hợp sai, gạch dấu x vào a hoặc b, c, d, v.v.:
a). mặt mũi đỏ loè e). hoa chuối đỏ gay
b). thằng bé đỏ ửng ê). môi son đỏ loét
c). bông hoa đỏ tía g). lá cờ đỏ chói
d). mặt trời đỏ ối h). máu chảy đỏ lòm
đ). hoa phượng đỏ hỏn i). cục đồng đỏ au

63). Gạch dấu x vào a hoặc b để xác định những kết hợp bị coi là sai hoặc
chưa hay:
1a). sa mạc hoang vắng 6a). lưu danh muôn vàn
1b). sa mạc hoang vu 6b). lưu danh muôn thũa
2a). nước da trắng tinh 7a). khó khăn muôn một
2b). nước da trắng trẻo 7b). khó khăn muôn vàn
3a). hạt gạo trắng ngần 8a). chăm sóc niềm nở
3b). hạt gạo trắng nõn 8b). chăm sóc ân cần
4a). miệng lưỡi độc ác 9a). tác phẩm bất hủ
4b). miệng lưỡi độc địa 9b). tác phẩm bất tử
5a). mưu mô độc đoán 10a). hành động đơn lẻ
5b). đầu óc độc đoán 10b). hành động lẻ loi
64). Những kết hợp nào bị xem là sai hoặc dư thừa?(gạch dấu x vào a hoặc b, c):
1a). anh trai 2a). còn nhiều tồn tại
1b). anh con trai 2b). còn nhiều vấn đề tồn tại
1c). người con trai 3a). thắng cảnh đẹp
3b). cảnh đẹp 4b). đề cập vấn đề
3c). thắng cảnh 5a). công bố
4a). đề cập đến vấn đề 5b). công bố công khai

178
6a). tác phẩm tuyệt tác
6b). tuyệt tác 8b). trận thu phong
7a). kiên trì giữ vững lập trường 9a). tự bức tử mình
7b). giữ vững lập trường 9b).tự tử
8a). trận gió thu phong 9c). tự bức tử
65). Phân biệt nghĩa và cách dùng các từ (trong các phong cách khác nhau):
1a). cơ cấu 3a). khinh
1b). cơ cầu 3b). khinh rẻ
1c). cơ chế 3c). khinh bỉ
1d). cơ ngơi 3d). khinh miệt
1đ). cơ nghiệp 3đ). miệt thị
2a). khen 3e). rẻ rúng
2b). khen ngợi 4a). khoe khoang
2c). ngợi khen 4b). khoe mẽ
2d). ca tụng 4c). khoa trương
2đ). ca ngợi 4d). phô trương
2e). ngợi ca 4đ). huyênh hoang
2g). biểu dương 4e). khoe khoé
66). Chọn từ đúng, gạch dấu x vào a hoặc b, c, d:
1). Chỉ có một mình, tách khỏi mọi liên hệ với xung quanh:
a). cô quạnh c). trơ trọi
b). cô độc d). cô quả
2). Hành động một mình:
a). cô đơn c). thui thủi
b). đơn độc d). đơn phương độc mã
3). Làm ra vẻ như thế nào đó nhằm làm cho người khác tưởng là thật:
a). giả bộ c). giả mạo đ). giả cách
b). giả dạng d). giả vờ e) giả tảng
4). Vẻ sáng của tác phẩm bộc lộ ra bên ngoài:
a). văn chương c). văn hoá
b). văn học d). văn minh

179
5). Trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện vật chất và mang
tính quốc tế:
a). văn minh c). văn hiến
b). văn vật d). văn hoá
6). Không nghĩ đến ân nghĩa hoặc không đền bù xứng đáng với công lao:
a). bạc c). bạc đãi đ). bạc tình
b). bạc bẽo d). bội bạc e). tệ bạc
7). Làm cầm chừng, đối phó, để đạt mục tiêu đấu tranh:
a). bãi công b). đình công c). lãn công
8). Việc bất thường, không may xảy ra trong quá trình lao động:
a). biến cố b). biến đổi c). sự cố
9). Hình phạt làm tội nhân đau đớn về mặt thể xác, đã bị cấm:
a). cực hình b). nhục hình

180
67). Chọn từ trong ngoặc và điền vào chỗ trỗng trong câu:
a). Tiếng hô ........ của họ làm bọn giặc hoảng hốt bỏ chạy. (bất chợt, bất ngờ,
bất thình lình, đột nhiên).
b). ........ ông cụ nhớ ra hôm nay nhà có khách. (chợt, thoắt, bỗng).
c). Nghe xong câu chuyện, anh Phát không nói gì thêm nhưng nét mặt anh lộ vẻ
....... (buồn, rầu, sầu, buồn rầu, ủ rũ, ủ dột, buồn phiền, ảm đạm, bùi ngùi, đăm chiêu).
d). Từ điển ngôn ngữ là loại từ điển ....... (cắt nghĩa, giải thích, giảng nghĩa,
giải nghĩa).
đ). Phương châm hành động: nhanh nhưng không........, dù là việc ...... (vội, vội
vã, vội vàng; cấp, cấp bách; gấp, gấp rút; khẩn, khẩn cấp).
e). Phần ....... việc khách, phần ....... việc mình. (cần cù, cần mẫn, chăm, chuyên
cần, chăm chỉ, siêng, siêng năng).
ê). Cứ xem họ ........ chúng tôi, đủ biết họ đã có cảm tình với cách mạng thế nào.
( Nam Cao) ( chăm chút, , chăm lo, chăm nom, chăm sóc, săn sóc, trông nom).
g). Những lời ........ ấy thật quá đáng, khi mà chúng tôi vẫn lao động hết mình.
(chửi, chửi bới, chửi rủa, lăng mạ, mạt sát).
h). Trong quyền hạn được giao, Uỷ ban Nhân dân xã có thể ....... bản sao giấy
khai sinh, hộ khẩu và một số giấy tờ khác. (thị thực, nhận thực, chứng nhận, công
chứng).
i). Mỹ thua đã rõ ràng. Chính quyền Oasinhtơn đã phải ........ như vậy, còn bạn
bè của Việt Nam thì đã ....... từ lâu. (công nhận, chứng nhận, thừa nhận).
68). Vì sao không thể thay thế từ Hán - Việt bằng từ thuần Việt đồng nghĩa
trong những trường hợp dưới đây:
a). Trong trận đấu giữa đội tuyển nước Anh và đội tuyển Hà Lan, hàng trăm
khán giả đánh nhau.
b). Hoạ sĩ đẹp vẽ xấu; hoạ sĩ xấu vẽ đẹp.
69). Chọn từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mang những đặc điểm cơ bản: tính
Đảng, tính dân tộc, và tính ....... (công chúng, quần chúng, đại chúng).
b). ...... thảo luận của hội nghị lần này là ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, cứu nước.
(tiêu đề, nhan đề, đầu đề, chủ đề).
c). ...... về kinh tế sẽ ....... về chính trị. (tuỳ thuộc, lệ thuộc, phụ thuộc).

181
d). Mấy tuần nay, bà ấy nghĩ việc vì con bà đang trong ...... sinh nở. (giai đoạn,
thời kỳ).
đ). Người mẹ, người chị ấy đã chịu nhiều đau khổ, nhục hờn nhưng vẫn luôn
luôn chung thuỷ, bảo vệ ...... (trinh trắng, trinh tiết, trinh bạch).
e). Bọn trẻ trong làng gọi bãi cát ấy là “sa mạc” vì ....... ở ven sông nhưng bãi
không hề đọng một giọt nước. (tuy, tuy nhiên, tuy thế, tuy vậy).
ê). Do đó, người sản xuất hàng hoá không thể ...... muốn sản xuất ra giá trị sử
dụng như thế nào cũng được, mà giá trị sử dụng phải phù hợp với nhu cầu của xã hội.
(tuỳ, tuỳ tiện, tuỳ ý).
g). Giàu trí ...... thì tốt và rất cần trong cuộc sống, trong nghiên cứu, nhưng giàu
trí ...... thì không hay. (tưởng tượng, tưởng bở).
h). Thái độ của anh ta đầy bất nhã và ......, sự coi thường của anh ta với mọi
người là quá rõ. (tự đắc, tự phụ, tự mãn, tự cao tự đại, tự kiêu).
i). Ăn ở, cư xử với hàng xóm sao cho ...... nghĩa tình. (hoàn hảo, hoàn chỉnh,
hoàn toàn, trọn vẹn).
70). Nhận xét về cách dùng các từ in nghiêng trong đoạn văn dưới đây:
Cũng vì vậy nên nét bút Nguyễn Du là những nét bút có thần và bước vào thế
giới Nguyễn Du là bước vào một thế giới sinh động và vô cùng phong phú. ở đây có
đủ buồn chán, giận hờn, đau đớn, chờ mong, thương nhớ, phấn khởi, hả hê, có cái
khoan khoái trong một cảnh chơi xuân, có cái ghê rợn một đêm khuya vượt tường đi
trốn, cái e lệ của tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ, cái trắng trợn của một con trùm đĩ,
cái tàn bạo của quan lại, cái thô bỉ của sai nha, cái khí thế ngang tàng của một tay anh
hùng hảo hán. (Hoài Thanh)
71). Chọn các từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Dụng cụ lao động thì ......., đầu óc quản lý của những người lãnh đạo hợp tác
xã thì ......., phương pháp lao động lại ......., cho nên, sản xuất trì trệ là điều dễ hiểu.
(cổ, cổ hủ, cổ lỗ; cũ, cũ kĩ, cũ rích, lỗi thời).
b). Thoạt nghe tin anh đến, lòng cô ........, nói năng ........, chân tay ........ (bối
rối, cuống, cuống cuồng, cuống quýt, rối rít).

182
c). Đối với toàn nhân loại, khái niệm “nước”, “đất”, v.v... giống nhau nhưng
được ...... bằng những ngôn ngữ khác nhau. Mỗi dân tộc có thể ........ tư tưởng, tình
cảm của riêng mình bằng những tiếng nói nhất định. (bày tỏ, biểu đạt, biểu thị , diễn
đạt, diễn tả, trình bày).
d). Việc làm tiêu cực của cô ấy có ....... gì đến tôi ? Tôi và cô ấy chẳng có ....... với
nhau. Từ lâu, tôi đã không ........ vào công việc của cô ta, không phải vì tôi sợ ........
(can dự, dính dáng, dính dấp, dính líu, liên can, liên đới, liên lụy, liên quan).
đ). Đoạn đường này thường bị ........ giao thông, nhiều khi xe cộ ........ dài hàng
cây số. (dồn, đọng, nghẹn, nghẽn, tắc nghẽn, ứ đọng, ùn tắc).
e). Kẻ ....... có thể có những hành động ........, đôi khi ........ (côn đồ, du côn, du
đãng).
ê). Hãng này làm ăn có ......... (tín nhiệm, uy tín).
g). Căn cứ vào ......... 11, ........ 2, Nghị định ......... của Hội đồng Chính phủ
quyết định bổ nhiệm ông X giữ chức vụ giám đốc Công ty Y. (điều, khoản).
h). Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện ........ quan trọng nhất của xã hội. (giao
dịch, giao thiệp, giao tiếp, giao lưu, tiếp kiến).
i). Dạy trẻ thì phải ........, chớ có gò ép. (dễ chịu, khoan khoái, khoan thai, nhẹ
nhàng, nhẹ nhõm, thoải mái).
k). Kết hôn quan trọng ai ơi
Li hôn chẳng phải việc chơi ....... (hàm hồ, hồ đồ).
l). Đó là nhà lãnh đạo có ........ nên được dân chúng ........ bầu vào Quốc hội. (uy
tín, tín nhiệm).
72). Có mấy cách hiểu, vì sao ?
a). Giải thích qua loa.
b). Đây là vị thuốc độc nhất mà tôi kiếm được.
c). Đêm hôm qua cầu gãy.
d). Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa.
đ). Cả nhà hát vang vang.
e). 16 tỉnh mới được chia.
ê). Chả ngon lắm.

183
73). Trong các câu thơ, đoạn văn dưới đây, có các yếu tố giống nhau về
nghĩa. Hãy gạch chân các yếu tố đó chỉ rõ cách dùng trong từng loại phong cách.
a). Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. (Nguyễn Khuyến ).
b). Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời
Ai chẳng biết chán đời là phải
Sao vội vàng đã mải lên tiên... (Nguyễn Khuyến).
74). Phân tích cách sử dụng các từ, ngữ in nghiêng trong mỗi đoạn văn dưới
đây. Tại sao không thể (và không nên) thay thế bằng những từ, ngữ đồng nghĩa với
các từ, ngữ đó:
a). Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
(Hồ Chí Minh).
b). Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần,
đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta
đã ngoài 70 xuân thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì
lạ. (Hồ Chí Minh).
c). Đoàn kết, hoà hợp dân tộc không chỉ là đường lối, chính sách mà còn là một
truyền thống được hun đúc trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. (Võ
Văn Kiệt - Kỉ yếu hội nghị Việt kiều xuân Quý Dậu).
d). Điều 1: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có nhu cầu xin xuất nhập
cảnh Việt Nam được xem xét thuận lợi, nhanh chóng. Việc tạm trú, đi lại tại Việt Nam
được thực hiện dễ dàng trên cơ sở pháp luật Việt Nam.
Điều 2: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam phải tuân theo
pháp luật Việt Nam. (Trích Thông tư liên bộ Ngoại giao - Nội vụ - Ban Việt kiều
Trung ương).
đ). Điều 2: Hội ngôn ngữ học Việt Nam là tổ chức tự nguyện của người Việt
Nam làm công tác ngôn ngữ học trong và ngoài nước.
Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết những người Việt Nam làm công tác
ngôn ngữ học trong và ngoài nước, nhằm giúp đỡ nhau trong công tác khoa học, nâng
cao tính tổ chức và tính hiệu quả của công tác ngôn ngữ học và khoa học và vì lợi ích
của đất nước ... (Trích Điều lệ Hội Ngôn ngữ học Việt Nam).

184
75). Phân biệt nghĩa và đặt một câu với mỗi từ trong các cặp từ dưới đây:
1a). rù rì 3a). rã đám 5a). líu ríu
1b). dù dì 3b). giã đám 5b). líu díu
2a). ra công 4a). ruột già
2b). gia công 4b). ruột rà

76). Chọn các từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Bé Ngọc làm đồ chơi, gấp hình theo mẫu sau khi......... đôi tờ giấy theo chiều
............ (rọc, dọc).
b). Chiếc xe vừa ....... máy thì con chó nhà bên ........ ra sủa ầm ĩ. (rồ, dồ).
c). Kết quả điều tra cho biết: chính tên đeo kính ........ đã tổ chức hiếp ........
(dâm, râm).
d). Mụ chẳng nói chẳng .........., .......... lấy cái túi. (rằng, giằng).
đ). Cái thùng hoen...... nên nước đã rò ........ hết cả.(gỉ, rỉ, dỉ, rò rỉ, dò dỉ, rò dỉ).
e). Ông cụ ....... rẫm bước đi mấy ....... liền. (giờ, rờ).
ê). Thế ...... nó là con nhà ........ thế. (gia, ra).
g). Tổ dân phố đang ........ soát lại danh sách các cụ ......... (già, rà).
h). Hãy .......... hết sức ......... chúng một đòn trời .......... (giáng, ráng).
i). Ném bom ............ thảm sau lại ........ thảm lối đi. (giải, rải).
k). Anh ấy đã ............ được ......... ba một cách ......... trong kỳ thi ...... trường.
(giật, dật; giải, dải, ra, da; dễ, rễ; dàng, làng, ràng)
77). Chọn từ đúng chính tả, gách dấu x vào a hoặc b, c, d:
1a). dày dép 4a). giai sức 8a). dày xéo
1b). dày giép 4b). dai sức 8b). giày xéo
1c). giày dép 5a). dao du 9a). ẩn dật
1d). giầy dép 5b). giao du 9b). ẩn giật
2a). gièm pha 6a). dòng chảy 10a). tranh dành
2b). dèm pha 6b). giòng chảy 10b). tranh giành
3a). dao động 7a). cơn dông 11a). dí giỏm
3b). giao động 7b). cơn giông 11b). dí dỏm

185
78). Điền D hoặc GI vào chố trống trong câu:
a). Văn học ......ân ......an có nhiều tác phẩm xuất sắc.
b). Dần .... à anh trở về ... à.
c). Lọ hồ ..... án đã bị ...... án nhấm hết cả.
d). Sống như kẻ nô lệ, chẳng bao giờ ...... ám trái lệnh ........ ám đốc dù biết là
lệnh sai.
đ). Thầy giáo thức ..... ậy, tập thể dục rồi đi .....ạy.
e). Đó là ... à đình chuyên nghề thuốc .... a.
ê).Chó ...ữ thì .... ữ nhà tốt, nhưng cũng không lợi.
g). .... ả sử đó là chuyện .... ã sử.
h). Trước khi đi ăn.... ỗ, mẹ đã ... ỗ em ngủ.
80). Chọn từ đúng chính tả, gạch dấu x vào a hoặc b:
1a). dải lụa 4a). dằn mặt 7a). dãi dầu
1b). giải lụa 4b). giằn mặt 7b). giãi dầu
2a). dòng giống 5a). ống dang 8a). chiếc dỏ
2b). giòng giống 5b). ống giang 8b). chiếc giỏ
3a). dóng trống 6a). nước giải 9a). dường như
3b). gióng trống 6b). nước dải 9b). giường như.
81). Chọn các từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Việc ......... nó cũng chậm ...... (rì, gì, rì rì).
b). Con bò ....... kêu ........ lên. ( rống, giống).
c). Ra ........ vợ nó sẽ ăn ở ....... (riêng, giêng).
d). Thằng bé .... ội ....... ội vài gàu nước cho mát rồi đi.(dội, giội, vội).
đ). Chiếc ......... đã bị bung....... nên đành bỏ. ( vành, giành, dành).
e). Dần ........ theo năm tháng, tôi và anh đã trở về ......., ngồi ..... soát lại những
việc làm khi xưa, mới ...... năm mà thấy thật ......., gặp bao chuyện rầy ..... nhưng cũng
nhiều chuyện vui. (dà, rà, già, vài, dài).
ê). bé ngã ....... mặt xuống đất, bị...... cả môi. (dập, giập, rập, vập).
g). Thấy mặt nó ....... lên thật dữ ......, tôi chẳng dám hỏi. (vằn, dằn, rằn, giằn).
h). Đi đường ........, chỉ có ......... cô mặc áo ...... (vài, dài, giài).
i). Nó thì ....... mũi chưa sạch nên bị ....... mũi là phải. (dắt, vắt, giắt).

186
82). Chọn các từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Cả nhà ........ nhau ầm ĩ khi chia của ...... (cãi, cải).
b). Nó đam mê cờ bạc, thường đánh chẵn ....., chả .... anh làm ngơ. (lẽ, lẻ).
c). Bà ...... bước đi ........ đảo ....... (lảo, lão).
d). Cả vợ ....... chồng đều ........ tránh mọi người. (lẩn, lẫn).
đ). Thằng cha đó chỉ được cái khôn ....... (lỏi, lõi).
e). Người hay .... thì đầu óc chẳng được .... bao giờ. (nghỉ ngơi, nghĩ ngợi).
ê). Nó ..... tiếp tục nói vớ ....., có thể đã ngớ ngẩn. (vẩn, vẫn).
g). Suy nghĩ đến ....... nhức cả đầu mà không giải quyết ......, nông..... này biết tỏ
cùng ai? (nổi, nỗi).
h). Ông cụ ngồi ...... mấy bắp ngô ..... và ngô nếp. (tẻ, toẻ, tẽ, toẽ).
i). Khi đến ..... ba, họ chia tay nhau, mỗi người mỗi ..... (ngả, ngã).
83). Chọn các từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Chưa chi ông đã đánh ....... đầu nó một cách ...... phàng. (phũ, phủ).
b). Cảnh nhà ...... bách, đôi khi lại tính ...... (quẫn, quẩn).
c). Chưa hiểu ra ngô, ra khoai ...... vội ...... kích ...... (đả, đã).
d). ........ công làm mà thu lợi ít, thật chẳng .......... công. (bỏ, bõ).
đ). ......... này năm ngoái là mùa thi ........ (cử, cữ).
e). Ông giám đốc này rất ngạo mạn, coi ai cũng chẳng ra gì, thường ..... môi tỏ
thái độ dè ...... chê bai tất cả. (bỉu, bĩu).
ê). Cợt ...... trước mặt mọi người là thái độ bất ..... (nhã, nhả).
g). ....... xong những chuyện quái ....... chắc còn mệt. (gở, gỡ).
h). Mắc ....... vì nghe lời xúi ...... (bẩy, bẫy).
i). Vì chúng ...... chơi nên mẹ gọi ..... mà chẳng chịu về. (mải, mãi).
84). Chọn các từ trong ngoặc và điền vào chỗ trống trong câu:
a). Hắn đến đó và ....... hỏi mấy câu ....... (vẩn vơ, vờ vẫn).
b). Bà ấy đang đói ....... vì chỉ uống nước ....... (lả, lã).
c). Trên đường làng, ....... khủ lù khù một ....... vô công rồi nghề, trong lúc mọi
người đang phải làm việc để ....... đảm giao thông liên lạc khi có ....... (lũ, lủ; bảo,
bão).
d). Té ra, hắn trốn về tỉnh ....... với bà vợ ....... (lẽ, lẻ).
đ). Tôi nghe ...... bõm câu được câu chăng (lõm, lỏm).

187
e). Biết tin họ vừa li dị, mọi người ...... sốt nhìn nhau ....... sờ (sửng, sững).
ê). Bọn chúng lấy làm hoan ........ vì được bà chủ hậu đãi hậu ....... (hỉ, hĩ).
g). Ông cụ hóm ........ phê phán kẻ hợm ........ (hĩnh, hỉnh).
85. Từ nào đúng chính tả ? (gạch dấu x vào a hoặc b, c, d):
1a). niềm nở 4a). ngả nghiêng 7a). đi ngả này
1b). niềm nỡ 4b). ngã nghiêng 7b). đi ngã này
2a). lãng đãng 5a). tỉnh dưỡng 8a). lãng mạn
2b). lảng đãng 5b). tĩnh dưỡng 8b). lảng mạn
2c). lảng đảng 5c). tĩnh dưỡng 9a). bên kia
2d). lãng đảng 5d). tỉnh dưởng 9b). bển kia
3a). mồ mả 6a). ngả ba 10a). vớ vẩn
3b). mồ mã 6b). ngã ba 10b). vớ vẫn
86). Từ nào đúng chính tả? (gạch dấu x vào a hoặc b, c):
1a). hắc hiu 4b). bạt mệnh 8a). tháo vát
1b). hắt hiu 5a). phiêu bạt 8b). tháo vác
2a). hiu hắt 5b). phiêu bạc 9a). chỉn chu
2b). hiu hắc 6a). bạt mạng 9b). chỉnh chu
3a). bạt ngàn 6b). bạc mạng 10a). mằng cả
3b). bạc ngàn 7a). trói buộc 10b). mặc cả
4a). bạc mệnh 7b). trói buột

87). Chọn từ đúng chính tả, gạch dấu x vào a hoặc b, c :


1a). Mai - hắc - đế 4b). hai bà Trưng
1b). Mai Hắc Đế 4c). Hai Bà Trưng
1c). Mai hắc đế 5a). An cựu Đông
2a). Trần Thánh Tôn 5b). An Cựu Đông
2b). Trần Thánh tông 5c). An Cựu đông
2c). Trần Thánh Tông 6a). tiểu á
3a). Thủ khoa Huân 6b). Tiểu á
3b). Thủ Khoa Huân 6c). Tiểu á
3c). thủ khoa Huân 7a). Bắc bộ
4a). Hai bà Trưng 7b). Bắc Bộ

188
8a). Trường Sơn Đông
8b). Trường Sơn đông
8c). Trường sơn đông
9a). Bộ y tế
9b). Bộ Y Tế
9c). Bộ Y tế
10a). Mậu thân
10b). Mậu Thân
11a). Phục hưng (thời kỳ)
11b). Phục Hưng (thời kỳ)

189
12a). Thiên chúa 14a). Luật tổ chức Quốc
hội
12b). Thiên Chúa và Hội đồng Nhà
nước
13a). Nhà giáo Nhân dân 14b). Luật tổ chức
Quốc hội
13b). Nhà Giáo Nhân dân và Hội đồng nhà
nước
13c). Nhà giáo nhân dân

88). Cách viết nào được xem là hợp lý ? (gạch dấu x vào a hoặc b):
1a). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
1b). Trong hai cuộc Kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
2a). Cuộc Kháng chiến chống Mỹ.
2b). Cuộc kháng chiến chống Mỹ.
3a). Cách mạng tháng tám năm 1945.
3b). Cách mạng tháng Tám năm 1945.
4a). Chúng tôi tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945.
4b). Chúng tôi tham gia cách mạng Tháng Tám năm 1945.

190
Tài liệu tham khảo
I.Tài liệu tiếng Việt thực hành.
1. Lê A (1998), Tiếng Việt thực hành, Đại học Huế.
2. Nguyễn Đức Dân (1995), Tiếng Việt (thực hành), Trường Đại học Tổng
hợp TP. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Đức Dân (1997), Tiếng Việt (dùng cho Đại học đại cương), Nxb
Giáo dục.
4. Hữu Đạt (1995), Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục.
5. Nguyễn Công Đức (1995), Bài giảng tiếng Việt và thực hành tiếng Việt,
không ghi nơi xuất bản.
6. Hà Thúc Hoan (1998), Tiếng Việt thực hành, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
7. Vương Hữu Lễ - Đinh Xuân Quỳnh (1998), Tiếng Việt thực hành, Nxb
Giáo dục.
8. Đặng Ngọc Lệ (chủ biên)- Nguyễn Kiên Trường (1998), Tiếng Việt thực
hành, Nxb Giáo dục.
9. Nguyễn Quang Ninh (2003), Giáo trình tiếng Việt thực hành A (Dùng
cho sinh viên khối khoa học Xã hội và Nhân văn), Nxb Giáo dụ - Đại
Học Huế.
10. Trịnh Sâm-Nguyễn Ngọc Thanh (1997), Tiếng Việt thực hành và
phương pháp soạn thảo văn bản, Trường Đại học Dân lập Kỹ thuật -
Công nghệ TP.Hồ Chí Minh.
11. Bùi Minh Toán-Lê A- Đỗ Việt Hùng (1997), Tiếng Việt thực hành, Nxb
Giáo dục.
12. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên)- Nguyễn Văn Hiệp (1997), Tiếng Việt
thực hành, Nxb Giáo dục.

191
II.Tài liệu nghiên cứu ngôn ngữ.
13. Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1
và tập 2, Nxb Giáo dục.
14. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb
Khoa học Xã hội.
15. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng-từ ghép-đoản ngữ),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
17. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục.
18. Đỗ Hữu Châu-Bùi Minh Toán(2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1,
Nxb Giáo dục.
19. Đỗ Hữu Châu(2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học,
Nxb Giáo dục.
20. Trương Chính(1998), Giải thích các từ gần âm, gần nghĩa dễ nhầm lẫn,
Nxb Giáo dục.
21. Mai Ngọc Chừ-Vũ Đức Nghiệu-Hoàng Trọng Phiến(2002), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
22. Nguyễn Đức Dân (1992), Tiền giả định- tiêu điểm và câu mơ hồ trong
các truyện cười, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 1, tr.7-9.
23. Nguyễn Đức Dân - Trần Thị Ngọc Lang (1992), Câu sai và câu mơ hồ,
Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Đức Dân (1996), Lôgich và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
25. Nguyễn Đức Dân (2001), Ngữ dụng học (tập 1), Nxb Giáo dục.
26. Nguyễn Đức Dân(2002), Nỗi oan thì- là- mà, Nxb Trẻ.
27. Nguyễn Đức Dương(2003), Tìm về linh hồn tiếng Việt, Nxb Trẻ.
28. Hữu Đạt-Trần Trí Dõi-Thanh Lan (2000), Cơ sở tiếng Việt, Nxb Văn
hoá Thông tin.
29. Dương Kỳ Đức - Nguyễn Văn Dựng - Vũ Quang Hào (1999), Từ điển
trái nghĩa tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.

192
30. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
31. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật-Nguyễn Minh Thuyết
(1994), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
33. Nguyễn Thiện Giáp (2002), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
34. Cao Xuân Hạo (1991), Mấy tiền đề cho việc phân tích cú pháp tiếng
Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr.1-9.
35. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ nghĩa,
ngữ pháp, Nxb Giáo dục.
36. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt - văn Việt- người Việt, Nxb Trẻ.
37. Cao Xuân Hạo (chủ biên)(1999), Hoàng Xuân Tâm-Nguyễn Văn Bằng-
Bùi Tất Tươm, Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Q.1: Câu trong tiếng
Việt, Nxb Giáo dục.
38. Cao Xuân Hạo (1991), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Q.1, Nxb Khoa
học Xã hội.
39. Cao Xuân Hạo-Lý Tùng Hiếu-Nguyễn Kiên Trường-Võ Xuân Trang-
Trần Thị Tuyết Mai(2003), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, Nxb Khoa
học Xã hội.
40. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1998), Hà Quang Năng - Nguyễn Văn
Khang, Từ tiếng Việt: hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại,
Nxb Khoa học Xã hội.
41. Lê Trung Hoa (2003), Lỗi chính tả và cách khắc phục, Nxb Khoa học
Xã hội.
42. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục.
43. Lưu Văn Lâng (2001), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội.

193
44. Hồ Lê (1994), Dẫn luận ngôn ngữ học, Trường Đại học Mở- Bán công
TP.Hồ Chí Minh.
45. Hồ Lê-Lê Trung Hoa (2002), Sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt (Thú chơi
chữ), Nxb Khoa học Xã hội.
46. Hồ Lê-Trần Thị Ngọc Lang-Tô Đình Nghĩa (2003), Lỗi từ vựng và cách
khắc phục, Nxb Khoa học Xã hội.
47. Nguyễn Hiến Lê (1995), Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng, Nxb
Trẻ.
48. Đỗ Thị Kim Liên(1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
49. Đỗ Thị Kim Liên(2003), Bài tập ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
50. Đái Xuân Ninh-Nguyễn Đức Dân-Nguyễn Quang-Vương Toàn (1986),
Ngôn ngữ học: khuynh hướng-lĩnh vực-khái niệm, Nxb Khoa học Xã hội.
51. Phan Ngọc (1984), Chữa lỗi chính tả cho học sinh, Nxb Giáo dục.
52. Phan Ngọc (2000), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả,
Nxb Thanh Niên.
53. Hoàng Phê (1989), Lôgic ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã hội.
54. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung
tâm từ điển học.
55. Hoàng Phê (2003), Chính tả tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ
điển học.
56. Hoàng Phê (1995), Từ điển chính tả, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển
học.
57. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt-câu, Nxb ĐH và
THCN.
58. Nguyễn Thị Quy (2002), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (vị từ hành
động), Nxb Khoa học Xã hội.
59. Nguyễn Hữu Quỳnh (1994), Tiếng Việt hiện đại (ngữ âm, ngữ pháp,
phong cách), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam.
60. Trịnh Sâm (2002), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ.

194
61. Trịnh Sâm (1998), Tiêu đề văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
62. Bùi Minh Toán(1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
63. Vương Toàn-Nguyễn Trọng Báu-Nguyễn Xuân Thơm(2003), Từ điển
thuật ngữ ngôn ngữ học Việt-Anh-Pháp-Nga, Nxb Từ điển Bách khoa.
64. Nguyễn Đức Tồn (2001), Mấy vấn đề dạy và học tiếng Việt trong nhà
Trường, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH và
THCN.
66. Nguyễn Văn Tu (1999), Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
67. Đào Thản (2002), Một sợi rơm vàng, Nxb Trẻ.
68. Nguyễn Kim Thản (1981), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb TP.Hồ Chí
Minh.
69. Nguyễn Kim Thản-Nguyễn Trọng Báu-Nguyễn Văn Tu (1982), Tiếng
Việt trên đường phát triển, Nxb Khoa học Xã hội.
70. Lý Toàn Thắng (1997), Loại từ và các tiểu loại danh từ trong tiếng Việt,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr.1-13.
71. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại
cương, Nxb Khoa học Xã hội.
72. Bùi Khánh Thế (1995), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
73. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb
Khoa học Xã hội.
74. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP.Hồ
Chí Minh.
75. Phan Thiều (2001), Rèn luyện ngôn ngữ, Tập 1 và tập 2, Nxb Giáo dục.
76. Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN.
77. Nguyễn Minh Thuyết - Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu tiếng
Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

195
78. Uỷ Ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb
Khoa học Xã hội, HN.
79. Viện ngôn ngữ học (1981), Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt
từ ngữ, tập i và tập II, Nxb Khoa học Xã hội.
80. Nguyễn Như ý (chủ biên), Hà Quang Năng - Đỗ Việt Hùng - Đặng Ngọc
Lệ (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.

196

You might also like