You are on page 1of 16

A.

PHÂN TÍCH PHẠM TRÙ Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG


GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.

I. QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ Ý THỨC


1. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC

Để có thể lý giải cội nguồn của ý thức, các nhà triết học đã lý thuyết ý thức là
nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn , là nguyên nhân cấu tạo thành, chi phối sự tồn
tại, thay biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.

Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm tự ý thức, tri thức,
tình cảm, ý chí. Trong đó tri thức nắm trong mình chìa khóa quan trọng nhất, là
phương thức tồn tại của ý thức. Yếu tố quan trọng nhất là tự ý thức.Vì tự ý thức không
chỉ của bản thân mà còn là tự ý thức của một giai cấp, một tập đoàn xã hội Chủ nghĩa
duy vật cho rằng ý thức là thực tại bậc nhất, song tự ý thức là , tự nó mặc định có
trong mỗi cá nhân, biểu hiện hướng về bản thân mình, tự khẳng định cái tôi riêng biệt
tách rời quan hệ xã hội. Với chủ nghĩa duy tâm được chia ra làm hai khuynh hướng:
chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan với những
đại biểu như Platon, G. Hêghen đã tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, khẳng định ý niệm
là một bản thể, sinh ra toàn bộ thế giới hiện thực. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan với
những đại biểu như G. Beccoli, E. Makher lại tuyệt đối hoá vai trò cảm giác, coi cảm
giác là tồn tại duy nhất, sản sinh ra thế giới vật chất.

Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong
sự liên hệ tác động qua lại nhưng cơ bản, ý thức có nội dung của tri thức và luôn
hướng tới tri thức

1.1. Nguồn gốc tự nhiên

Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, ý thức là một thuộc tính của vật chất sống
có tổ chức cao hơn được gọi là bộ óc loài người. Dùng để phản ánh thế giới khách
quan vào bộ óc người.
Sự tiến hoá của bộ óc của con người và cách hoạt động của bộ óc đó có cùng mối
quan hệ với con người trong thế giới khách quan Trong đó, thế giới khách quan ảnh
hưởng và tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo, lao động.

Chi tiết hơn, mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan là mối quan hệ thế tất
ngay từ khi có sự xuất hiện của loài người. Ở mối quan hệ này, thế giới khách quan,
qua các hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc con người, hình thành quá
trình phản ánh.

Ngoài ra, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là tính chất của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là công năng của bộ óc, là kết quả hoạt
động của chức năng sinh lí trong bộ óc. Độ hoàn thiện của bộ óc càng cao, hoạt động
sinh lí của hệ thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng thêm phong phú,
sâu sắc hơn.

1.2. Nguồn gốc xã hội

Nhưng sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do nguồn
gốc xã hội. Nguồn gốc xã hội nói đến ở đây chính là lao động và ngôn ngữ. Không
như các loài vật chỉ sống dựa vào các sản phẩm có sẵn của tự nhiên thì con người
buộc phải tạo ra những vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua phương
thức lao động. Lao động là việc con người sử dụng các công cụ tác động vào vật chất
của thế giới khách quan nhằm làm biến đổi vật chất cho phù hợp với nhu cầu của bản
thân. Nhờ vậy con người từng bước nhận thức được thế giới và ý thức được hình
thành Cũng chính sự chủ động tác động của con người đến thế giới quan đã tạo ra
những sự thay đổi về cấu trúc cơ thể, các giác quan của con người cũng phát triển hơn.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Trải qua quá trình lao động lâu
dài, tức là lặp lại cùng một hoạt động trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau với
nhiều loại đối tượng khác nhau mà khả năng tư duy của con người được cải thiện. Từ
đó mong muốn cải thiện được năng suốt mà suy nghĩ ra nhiều ý tưởng thậm chí là các
phát minh khoa học có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Nhờ vào lượng kiến thức mới về thế giới mà con người hiện thực hóa, cho ra đời
nhiều vật phẩm chưa có trong tự nhiên. Đó là “giới tự nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn
của bàn tay và khối óc con người.

Lao động trong thời gian dài làm con người nảy sinh nhu cầu giao tiếp, chia sẻ kinh
nghiệm giữa con người với nhau. Từ nhu cầu đó, ngôn ngữ được hình thành và hoàn
thiện dần. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện
trở thành vỏ vật chất của tư duy; là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. . Nhờ ngôn ngữ
con người có thể biểu hiện, khái quát hóa những tư tưởng riêng thành hiện thực trực
tiếp. Từ đó con người có thể giao tiếp trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri
thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội đã tích lũy được qua các thế hệ, thời kỳ lịch
sử trước. Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được.

Như vậy, , ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch
sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử của con người.
Trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ
để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Nếu chỉ xem xét một bên thì đều dẫn đến
những quan niệm sai lầm, phiến diện về ý thức nói chung và ý thức nói riêng . Nghiên
cứu nguồn gốc của ý thức cũng là một cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý thức,
khẳng định bản chất xã hội của ý thức.

2. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC

2.1. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan

Hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện
nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua
lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác thì ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được
di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó.

Nghĩa là, nội dung và hình thức của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng
hình ảnh của nó lại mang tính chủ quan, đã có ý kiến cá nhân bao hàm trong đó, là
hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật
quan niệm.

Một ví dụ đơn giản mà gần gũi nhất với tất cả chúng ta là câu chuyện “Thầy bói xem
voi”. Bởi vì những người đó bị mù, không thể quan sát toàn bộ sự vật một cách khách
quan, nên ý kiến chủ quan của họ là toàn bộ những gì họ có thể đánh giá, rõ ràng ở
đây, ý thức về con voi đã bị lệch lạc theo hình ảnh chủ quan mà mỗi người có được.

Tóm lại, ý thức luôn mang tính chủ quan vì mỗi cá nhân trong chúng ta sẽ có cái nhìn
và cả góc nhìn khác nhau về ý thức, bởi lẽ, tư duy, trình độ và suy nghĩ của chúng ta là
không như nhau.

2.2. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội

Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không
chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp
xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý
thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

Tức là, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy, mà ý thức chính là sản
phẩm của lịch sử phát triển xã hội, ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản
ánh những quan hệ xã hội khách quan.

2.3. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức

Được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm - sinh lý của con người trong việc định
hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và
trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý
nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý
thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết,
huyền thoại, ... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật
khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con
người.
Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ
phản ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên,
đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có
định hướng, có mục đích rõ rệt.

Thực tế tại trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, mỗi năm có rất
nhiều cuộc thi nghiên cứu khoa học được tổ chức, theo đó, có rất nhiều đề tài nghiên
cứu khoa học được hoàn thành, tức là, cả nhà trường và người học đều đang đề cao sự
năng động, sáng tạo trong Giáo dục, và người học thì luôn biết cách xử lý, chọn lọc và
tiếp nhận thông tin để đưa ra những đề tài hay và có giá trị học thuật cao.

Nói cách khác, phản ánh ý thức là sáng tạo vì điều này bao giờ cũng do nhu cầu thực
tiễn quy định, nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu cái được phản ánh. Trên
cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh tinh thần đó ngày càng
phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng
tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.

Bên cạnh đó, sự sáng tạo còn thể hiện ở việc con người có thể sáng tạo ra những tri
thức mới dựa trên nhưng tri thức đã biết về đối tượng hoặc là trên cơ sở nhận thức về
đối tượng con người có thể sáng tạo ra đối tượng mới. Ví dụ thực tiễn mà quen thuộc
nhất là sinh viên trường đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tại mỗi bài tiểu luận,
nghiên cứu khoa học, hoặc là ở khóa luận tốt nghiệp, dựa vào kiến thức đã học được
từ thầy cô giáo, bạn bè, mạng internet cùng với sự nhạy bén, sáng tạo của bản thân để
hoàn thành mà không bị đánh lỗi đạo văn.

Vậy nên, từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy, ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở
thực tiễn xã hội - lịch sử. Ý thức không phải là cái không thể nhận thức được như chủ
nghĩa duy tâm quan niệm, nhưng cũng không phải là cái tầm thường như người theo
chủ nghĩa duy vật gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một
dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có co người mới có ý thức.

3. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC


Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm nhiều yếu tố
có quan hệ mật thiết với nhau. Ta có thể nghiên cứu ý thức theo hai hướng: theo các
yếu tố hợp thành và theo chiều sâu nội tâm.

3.1. Theo các yếu tố hợp thành

Xét theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm nhiều mặt cấu thành như: tri thức, tình
cảm, niềm tin, ý chí, ... trong đó tri thức được coi là yếu tố cốt lõi.

3.1.1. Tri thức

Tri thức là tất cả những sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh, là kết quả
của quá trình nhận thức, là sự tái hiện lại hình ảnh của đối tượng nhận được dưới dạng
ngôn ngữ hoặc các ký hiệu. Căn cứ vào lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành
ba loại: tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người. Căn cứ vào trình
độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia ra thành hai nhóm là tri thức thông
thường và tri thức khoa học. Từ tri thức khoa học người ta còn có thể chia ra tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận

Tri thức thông thường và tri thức khoa học: Tri thức thông thường được hình thành do
hoạt động hằng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính và rời rạc. Trong khi
đó, tri thức khoa học lại phức tạp hơn tri thức thông thường. Nó được xây dựng dựa
trên những căn cứ xác đáng và phản ánh hiểu biết sâu sắc của con người đối với sự
vật, sự việc.

Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận: Tri thức kinh nghiệm thường thu được từ
những trải nghiệm thực tế, từ những quan sát hằng ngày. Thông qua quá trình nghiên
cứu chuyên tâm, tỉ mỉ, tri thức kinh nghiệm hình thành nên tri thức lý luận. Do đó, tri
thức lý luận phản ánh đối tượng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn tri
thức kinh nghiệm.

Sở dĩ tri thức được coi là yếu tố cốt lõi bởi nó xuất hiện ở mọi ngành nghề, lĩnh vực:
từ giáo dục cho tới lao động sản xuất, y tế, chính trị,... Nhờ có tri thức mà cuộc sống
của con người ngày càng phát triển hơn, khi con người biết ứng dụng tri thức vào
những phát minh khoa học kỹ thuật thì những nhu cầu về vật chất và tinh thần của con
người sẽ được đáp ứng một cách nhanh chóng và toàn diện hơn. Bên cạnh đó, tri thức
còn là kim chỉ nam giúp cho những nước đang phát triển rút ngắn khoảng cách với các
nước phát triển để không trở nên yếu thế, tụt hậu.

3.1.2. Tình cảm

Tình cảm là cảm xúc ổn định của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung
quanh và đối với bản thân mình. Nó nảy sinh qua quá trình giao tiếp, tiếp xúc giữa
người với người, hoặc cũng có thể là người với vật nên có thể nói tình cảm là một
hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại Có thể phân chia tình cảm làm 2 loại là:
tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp cao. Tình cảm cấp thấp liên quan đến sự thỏa mãn
hay không thỏa mãn nhu cầu của cơ thể. Tình cảm cấp cao liên quan đến sự thỏa mãn
nhu cầu về mặt tinh thần. Tình cảm cấp cao gồm: tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ,
tình cảm thẩm mỹ,…

Tình cảm nảy sinh, phát triển và biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống và giữ vai
trò thiết yếu trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Tình cảm có thể mang
tính chất chủ độnghoặc bị động, mang sắc thái tích cực hoặc tiêu cực.Tình cảm được
xem là nguồn động lực mạnh mẽ đối với nhận thức, nó nhằm mục đích kích thích con
người tìm tòi đối với kết quả của nhận thức. Đồng thời những tình cảm tích cực cũng
thúc đẩy con người hành động, giúp con người vượt qua những khó khăn gặp phải
trong quá trình hoạt động.

3.1.3. Niềm tin

Niềm tin là một hiện tượng tinh thần, là cảm giác chắc chắn về một điều gì đó. Biểu lộ
khuynh hướng thúc đẩy chủ thể hành động phù hợp với những định hướng, giá trị đã
xác định. Đồng thời, niềm tin là sự hòa quyện giữa nhận thức, tình cảm, ý chí của con
người

Căn cứ vào quá trình hình thành niềm tin trong đời sống tâm lý con người ta phân
niềm tin thành 3 loại. Loại 1 là “Niềm tin trao đổi”, hình thành trên cơ sở “ngang
bằng" về trao đổi thông tin giữa 2 đối tượng. Loại 2 là “Niềm tin lý tưởng”, không có
sự ngang bằng. Chủ yếu tìm thấy ở đối tượng những gương mẫu về đạo đức, tài năng,
những thuyết phục, những hấp dẫn… Loại 3 là “Niềm tin tâm thức”, niềm tin thiêng
liêng, hòa quyện cả tình cảm, lý trí dẫn đến sự say đắm, tự nguyện hành động theo
niềm tin ấy.

Mặt khác, căn cứ vào biểu hiện niềm tin trong đời sống xã hội thông qua mối quan hệ
giữa con người, ta cũng chia niềm tin thành 3 loại. Tuy nhiên, loại 1 là “Niềm tin
thông thường”, có tính hiển nhiên, diễn ra trong đời sống thường nhật, phản ánh
những vấn đề thông thường. Trong khi loại 2 là “Niềm tin khoa học”, những tri thức
khoa học phản ánh các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục… Còn
loại 3 là “Niềm tin tôn giáo” là niềm tin của một bộ phận quần chúng tin vào thần
thánh, ma quỷ và vào các phép màu, tin vào sự may rủi của số phận vào cuộc sống
hạnh phúc “hư ảo” trên thiên đường sau khi chết… Niềm tin vào các thế lực siêu
nhiên, vô hình mang tính chất thiêng liêng có nguồn gốc từ sự bất lực của nhận thức.

3.1.4. Ý chí

Ý chí là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con
người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi khó khăn, đạt được mục đích đề ra.

Ý chí còn được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực
tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.

Ý chí là quyền lực của con người; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người
hướng đến mục đích một cách tự giác; cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ
bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.

Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà
chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Giống như
LêNin đã từng khẳng định: “Ý chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách
mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng
mình, giải phóng nhân loại”.
Tình cảm và ý chí có quan hệ mật thiết, ý chí là mặt hoạt động của tình cảm. Trong
đời sống hàng ngày, hoạt động của con người, tình cảm thực hiện vai trò kích thích
hành động. Đồng thời những rung động có thể là phương tiện kìm hãm hành động.
Nhưng bản thân tình cảm cũng chịu sự kiểm soát của ý chí, vì thực tế có khi con
người ta hành động trái ngược với tình cảm; Chẳng hạn con người ta đấu tranh với
những mất mát, với sự tức giận, với niềm vui, nỗi khổ v.v… làm được điều đó là nhờ
ý chí.

Nhận thức của con người hướng vào lĩnh hội, phân tích, trừu tượng hóa và khái quát
hóa các tri thức tiếp thu từ môi trường xung quanh, những kiến thức này được củng cố
trong trí nhớ và chế biến trong tư duy. Nghĩa là nội dung của ý chí nằm trong các khái
niệm, các biểu tượng do tư duy và tưởng tượng mang lại.

Như vậy, nhận thức làm cho ý chí có nội dung. Đồng thời, ý chí là cơ chế khởi động
và ức chế, ý chí còn điều chỉnh hành vi, nghĩa là hướng một cách có ý thức vào các nỗ
lực của bản thân nhằm đạt mục đích cần thiết.

3.2. Theo chiều sâu nội tâm

Theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm: tự ý thức, vô thức,
tiềm thức.

3.2.1. Tự ý thức

Khi nhận thức về thế giới xung quanh, con người cũng tự nhận thức về bản thân
mình, đó gọi là sự tự ý thức. Tự ý thức là cấp độ cao hơn của ý thức, nó bao gồm:
năng lực nhận thức và đánh giá bản thân, năng lực tự điều khiển, điều chỉnh hành vi,
thái độ cũng như toàn bộ sự phát triển nhân cách. Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của
cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau (một tập thể, một giai
cấp, một dân tộc, thậm chí cả xã hội) về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức
về thế giới bên ngoài.

Việc tự ý thức sẽ giúp con người xây dựng được hình ảnh tốt đẹp của bản thân trong
mắt mọi người xung quanh thông qua việc định hướng cảm xúc, suy nghĩ, hành động
theo chiều hướng đúng đắn. Bên cạnh đó, tự ý thức còn giúp con người phát huy điểm
mạnh và khắc phục điểm yếu để từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hành động của
bản thân.

3.2.2. Tiềm thức

Là những tri thức mà chủ thể có được từ trước (trực hoặc gián tiếp nắm bắt), gần như
trở thành bản năng, kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, ý thức dưới dạng
tiềm tàng.

Có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con người, cả trong tư
duy khoa học. Tiềm thức chủ yếu gắn liền với tư duy chính xác, góp phần giảm sự quá
tải của đầu óc trong việc xử lý một khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện với các hoạt
động thường lặp đi, lặp lại nhiều lần v.v...

3.2.3. Vô thức

Là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng
xử của con người mà chưa có sự tham gia của lý trí. Biểu hiện nhiều hiện tượng như
bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác
v.v…

Hiện tượng vô thức có khả năng giải tỏa các ức chế thần kinh, góp phần quan trọng
lập lại tính cân bằng trong hoạt động tinh thần để ngăn chặn hoặc giảm đi những ham
muốn bản năng của con người không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc
của đời sống cộng đồng.

II. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC


1. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

1.1. Biện chứng là gì

Biện chứng ( còn được gọi là phương pháp biện chứng và phép biện chứng) là một
phương pháp luận, ở cả hai nền triết học phương Đông và phương Tây trong thời cổ
đại đều tồn tại phương pháp này.
Biện chứng là một phạm trù dùng để chỉ sự vận động phát triển theo quy luật và
những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượngtrong tự nhiên xã
hội và tư duy.

Hai loại hình biện chứng bao gồm : biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Trong đó, biện chứng khách quan là phép biện chứng phản ánh mối liên hệ trên Trái
Đất, sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, hay nói một cách dễ
hiểu là tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Còn biện chứng chủ quan
là phép biện chứng phản ánh mối liên hệ trên Trái Đất, sự phát triển của các sự vật
và hiện tượng vào đầu óc con người, là tư duy biện chứng. Biện chứng của quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người.

1.2. Quan hệ biện chứng là gì?

Quan hệ trong triết học được hiểu là mối quan hệ, sự tác động, phụ thuộc qua lại giữa
hai ( hay nhiều hơn hai) đối tượng hoặc hai ( hay nhiều hơn hai) nhóm đối tượng trong
một hệ thống xác định có liên quan với nhau theo nghĩa chung nhất. Trong biện
chứng, quan hệ được dùng để chỉ: sự tác động, quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trên
thế giới.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong đó thì vật chất
là cái có trước còn ý thức cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết định ý
thức nhưng ý thức cũng có thể tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực
tiễn của con người.

2. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ
Ý THỨC

2.1. Định nghĩa vật chất

Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau về vật chất
đứng trên các góc độ nhìn nhận khác nhau. Nhưng theo Lênin định nghĩa: “Vật chất là
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan tác động đến cảm giác của con
người, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”.

Lênin đã nêu rõ quan điểm của mình rằng để định nghĩa vật chất, không thể làm theo
cách thông thường là từ một khái niệm cần định nghĩa triển khai thành một khái niệm
khác rộng hơn vì khái niệm của vật chất là một khái niệm rộng nhất. Mà để định
nghĩa vật chất, Lênin đã lấy vật chất và ý thức là hai thứ đối lập nhau, hiểu vật chất là
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, vật chất tồn tại độc
lập hoàn toàn đối với cảm giác, với ý thức; còn cảm giác, ý thức thì lại phụ thuộc vào
vật chất và phản ánh vật chất. Từ đó có thể thấy sự tồn tại của vật chất là điều tất yếu
trong cuộc sống dù con người có cần đến nó hay không.

2.2. Đặc điểm của vật chất

Vật chất tồn tại bằng vận động có nghĩa là vật chất thông qua vận động biểu hiện sự
tồn tại của bản thân mình.Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất
không có vận động.

Vật chất vận động trong không gian và thời gian.

Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất và gắn liền
với vật chất cụ thể và là hình thức tồn tại của vật chất.

Vì vậy, vật chất tồn tại khách quan mà không gian và thời gian lại có liên hệ chặt chẽ
với vật chất nên cũng tồn tại khách quan.

2.3. Đặc điểm của ý thức

Ý thức là kết quả của một dạng vật chất có tổ chức cao, là bộ óc của người nên chỉ
khi có con người thì mới có ý thức. Mà con người lại là kết quả của quá trình phát
triển lâu dài thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất tạo ra.

Ý thức ra đời và tồn tại được là nhờ các yếu tố vật chất đóng vai trò nguồn gốc tự
nhiên - bộ óc người, là sự phản ánh của thế giới khách quan tác động đến bộ óc người,
có sự cải biên và sáng tạo; và nguồn gốc xã hội được thể hiện ở vai trò của lao động
và ngôn ngữ đối với sự hình thành và phát triển ý thức.

Ý thức bị vật chất quy định về nội dung vì ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là
hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất. Ý thức bị vật chất quy định không chỉ về hình
thức biểu hiện mà còn là tất cả sự biến đổi của ý thức vì sự vận động và phát triển của
ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, quy luật xã hội và môi
trường sống mang tính vật chất quyết định.

3. Ý THỨC CÓ THỂ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI VẬT CHẤT THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG THỰC TIỄN CỦA CON NGƯỜI

Ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của
con người. Bản thân ý thức không có khả năng trực tiếp thay đổi bất kì điều gì trong
hiện thực. Để có thể thay đổi hiện thực theo ý chí của bản thân, con người bắt buộc
phải tiến hành những hoạt động vật chất cụ thể. Thực tế đã chứng minh rằng: mọi
hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, do đó vai trò của ý thức không phải
trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất, mà nó trang bị cho con người tri thức về
thực tại khách quan, chỉ đạo các hoạt động của con người, giúp con người đưa ra các
quyết định đúng hay sai, thành công hay thất bại,... Trên cơ sở ấy con người xác định
mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp,
công cụ, phương tiện, ... để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự
tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng tích cực và tiêu
cực. Nếu con người nhận thức đúng, ý thức con người phản ánh đúng hiện thực khách
quan thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, cải tạo, phát
triển được thế giới. Ngược lại, nếu con người có những nhận thức sai lệch, chủ quan,
duy ý chí thì hành động ấy sẽ có tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, hiện
thực khách quan.

Tóm lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý
thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở
lại vật chất, tuy nhiên, sự tác động trở lại vật chất không phải do ý thức tự tác động
mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự
tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý
thức đối với con người, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện , hoàn
cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

4. VÍ DỤ VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

Ví dụ 1: Mỗi ngày, hoạt động ý thức của con người diễn ra bình thường dựa trên cơ
sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não con người. Nhưng một khi bộ não con
người bị tổn thương do các tác động từ bên ngoài hoặc bên trong, ví dụ như cho chấn
thương, thì hoạt động ý thức cũng bị ảnh hưởng.

Ví dụ 2: Tại Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba ở nông thôn
về công nghệ thông tin còn rất hạn chế trong khi đó trẻ em ở các thành phố lớn thì
thành thạo hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do thiếu , cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng
dạy cũng như thiếu đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm ở các khu vực vùng sâu vùng
xa, vùng kinh tế kém phát triển. Để giải quyết được vấn đề trên, cần phải tìm cách cải
tạo, trang bị các thiết bị cho việc giảng dạy, ví dụ như máy tính, xây phòng để giảng
dạy bộ môn tin học,... nhờ thế trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba
cũng sẽ tốt hơn rất nhiều (trẻ em thành phố sử dụng các thiết bị ấy thành thạo
hơn).Nhờ vậy, có thể thấy rất rõ vai trò tác động mạnh mẽ của điều kiện vật chất đối
với ý thức.

5. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN

Nguyên tắc phương pháp luận rút ra là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn,
phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan; đồng thời, phải phát huy
tính năng động chủ quan. Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là
xuất phát từ sự khách quan của vật chất, hiện thực, đồng thời phải có thái độ tôn trọng
đối với hiện thực khách quan mà căn bản nhất chính là hoạt động tuân theo các quy
luật khách quan, tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng
vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của
xã hội. Chính bởi vậy mà con người cần có quan điểm khách quan trong các hoạt động
thực tế, không nên phán xét hay nhìn nhận bất kỳ sự vật, sự việc nào từ một phía.

Mọi hành động của con người phải luôn xuất phát và dựa trên hiện thực khách quan
trong mọi hoạt động. Con người sẽ có được tri thức thông qua quá trình học tập,
nghiên cứu từ các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và
buộc những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.

Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào
hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng, biện pháp, kế hoạch
và thực hiện theo những gì mà mình đã đề ra thì mới có thể thành công. Bên cạnh đó,
cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên
cứu đánh giá tình hình, đối tượng vật chất.

Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ
động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Con người tuyệt
đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào lười suy
nghĩ, lười lao động. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng,
nâng cao năng lực, tích cực, năng động, sáng tạo cũng như không bỏ cuộc giữa
chừng. Để có thể thực hiện được những nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy
tinh thần tự giác, tự ý thức, chúng ta cần phải phòng, chống thậm chí là loại trừ và
khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm.

B. VẬN DỤNG TRONG VIỆC VƯỢT QUA NHỮNG KHÓ KHĂN, TRỞ NGẠI
TRONG CUỘC SỐNG

I. NHỮNG KHÓ KHĂN, TRỞ NGẠI TRONG CUỘC SỐNG SINH VIÊN
THƯỜNG GẶP

Giáo dục tại Việt Nam chưa phát triển đồng đều giữa các vùng kinh tế, phần lớn các
bạn học sinh ở các tỉnh lẻ, ở các vùng kinh tế khó khăn phải tập trung về các thành
phố trực thuộc trung ương để tiếp cận Giáo dục Đại học, đồng nghĩa với việc các bạn
phải sống xa vòng tay cha mẹ, bắt đầu cuộc sống tự lập với nhiều cám dỗ.
Học sinh, sinh viên tại Việt Nam chưa đề cao sự sáng tạo và chủ động trong học tập.
Theo TS Trần Nam Dũng, phó hiệu trưởng trường Phổ thông năng khiếu, đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, đặc điểm của học sinh Việt Nam là ngại trao đổi, ít
đặt câu hỏi và tranh luận.

Chương trình học thay đổi đột ngột giữa các cấp học, hầu hết những sinh viên năm
nhất thường bị áp lực học tập khá lớn vì không kịp thích nghi với môi trường mới.
Điều đó gây nên sự mất cân bằng giữa cuộc sống đời thường và học tập của sinh viên.

II. VẬN DỤNG VAI TRÒ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI VẬT CHẤT CỦA Ý THỨC
ĐỂ VƯỢT QUA KHÓ KHĂN, TRỞ NGẠI

Vì vật chất quyết định ý thức, nên bản thân mỗi người phải tự xác định được các hành
động ảnh hưởng đến quá trình học tập và rèn luyện của chính mình, từ đó cá nhân hóa
thời gian biểu, mục đích cuối cùng là để tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Ví dụ, trong quá trình học tập tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh, mỗi bạn sinh viên cần phải biết và hiểu về nội quy trường học cũng như yêu
cầu của Giảng viên để tuân theo và hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian quy định.

Bản chất của ý thức đã nêu rõ: “sáng tạo là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ
phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh tâm lý động vật”, vậy nên, mỗi sinh viên
phải có ý thức phát huy năng lực sáng tạo, “nghĩ khác biệt, tạo cách biệt”, để chủ động
trau dồi các kiến thức học thuật cũng như xã hội của bản thân, nghĩa là, ý thức đã tác
động trở lại vật chất.

“Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” nhưng không có nghĩa là ý
kiến cá nhân luôn đúng, cho nên, cá nhân mỗi người cần phải tiếp thu có chọn lọc, chủ
động nhưng không bảo thủ, không “trông mặt mà bắt hình dong”. Vận dụng vào mỗi
bài tập nhóm, mỗi thành viên phải tôn trọng và cân nhắc ý kiến của nhau, lắng nghe và
tiếp thu góp ý từ các thành viên còn lại.

You might also like